hoi_ls
Thượng tá

Bài viết: 4377
|
 |
« Trả lời #22 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2020, 10:18:19 am » |
|
5. Thành lập Tổng cục Cung cấp. Quân y phục vụ chiến dịch Biên giới. Bài học lịch sử của công tác bảo đảm quân y trong chiến dịch Biên giới.
Từ giữa năm 1950, địch chiếm đóng lan rộng ra đồng bằng và trung du Bắc Bộ, lập hành lang “Đông Tây” củng cố khu tứ giác Lạng Sơn, Móng Cái, Hải Phòng, Hà Nội, cắt đứt đường giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu 3-4. Chúng ra sức khóa chặt biên giới Việt Trung, nhằm phong tỏa cô lập căn cứ địa Việt Bắc, gây cho ta nhiều khó khăn về kinh tế, ảnh hưởng đến việc xây dựng lực lượng và tác chiến của ta. Để tăng cường bộ máy quân sự chỉ đạo chiến tranh trong giai đoạn mới, Trung ương Đảng quyết định chấn chỉnh cơ quan Bộ Quốc phòng Tổng Tư lệnh, tổ chức lại thành ba bộ phận: Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp. Tổng cục Cung cấp được thành lập ngày 10 tháng bảy 1950 do đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng làm chủ nhiệm.
Tháng sáu năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch đánh vào địch ở khu Biên giới nhằm mục đích: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông quốc tế với phe dân chủ, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.
Lực lượng ta sử dụng trong chiến dịch Biên giới có : 2 đại đoàn và 2 trung đoàn chủ lực, 4 tiểu đoàn và 2 đại đội bộ đội địa phương, 4 đại đội sơn pháo 73 ly, 5 đại đội công binh và một lưc lượng dân công khá lớn.
Những đặc điểm của chiến dịch có ảnh hưởng đến công tác quân y :
Là chiến dịch tấn công quy mô lớn nhất từ đầu kháng chiến đến 1950. Lần đầu ta tập trung nhiều đơn vị, nhiều binh chủng, quân số lên tới 3 vạn người. Thời gian tác chiến dài và liên tục, thương vong có thể cao, tiêu thụ vât chất sẽ lớn (kế hoạch dự kiến thu dung cứu chữa, 2.000 - 2.500 thương binh). Công tác bảo đảm quân y cho chiến dịch còn là một việc làm mới mẻ ít kinh nghiệm.
Chiến dịch diễn ra ở Cao Bằng, Lạng Sơn là hai tỉnh rừng núi, kinh tế nghèo, dân cư thưa, khả năng huy động nhân lực, vật lực có thể ít, nhưng lại là những căn cứ cũ của cách mạng nên nhân dân có trình độ giác ngộ chính trị cao.
Dưới sự lãnh đạo của Tồng cục Cung cấp, lần đầu tiên Cục quân y tham gia trưc tiếp các công tác tổ chức bảo đảm quân y chiến dịch. Trước đây, khi chiến dịch còn ở quy mô nhỏ, việc bảo đảm quân y đều do quân y vụ các khu phụ trách. Việc chuẩn bị chiến trường được bắt đầu từ tháng bảy năm 1950.
Đồng chí Cục trưởng Cục quân y cùng một số cán bộ chủ chốt tại cơ quan Cục quân y đã đi phục vụ chiến dịch. Tổ chức cơ quan quân y chiến dịch lúc này còn đơn giản, có đủ các bộ phận nghiệp vụ để chỉ đạo từng mặt công tác.
Lần đầu đã hình thành trong chiến dịch bộ phận công tác chính trị để chỉ đạo chấp hành các chính sách thương binh, bệnh binh, chính sách dân công.
Trước đây tổ chức và nhiệm vụ các tuyến đã được sơ bộ quy định, nhưng chưa cụ thể và thống nhất, còn tùy thuộc vào khả năng cán bộ và hoàn cảnh tác chiến.
Trong chiến dịch đã quy định kế hoạch vận chuyển thương binh qua từng tuyến : bộ đội đảm nhiệm từ hỏa tuyến về trạm sơ cứu đại đội và tiểu đoàn, dân công tải thương đảm nhiệm từ tuyến đại đội, tiểu đoàn về các trạm phẫu thuận hay bệnh viện mặt trận. Đồng thời đã củng cố các đội phẫu thuật trung đoàn. Để khắc phục việc vận chuyển xa, đã tổ chức thêm những trạm trung tuyến, các đội phẫu thuật tiếp sức cũng nhằm kịp thời chi viện cho các đội phẫu thuật trung đoàn khi cần đến.
Căn cứ vào phương án tác chiến tiến công Cao Bằng trước, ban quân y chiến dịch đã tổ chức một bệnh viện thu dung bệnh binh ở Mạn Đà, bố trí 4 bệnh viện mặt trận có khả năng thu dung được 1.000 thương binh ở cách thị xã Cao Bằng khoảng 20km: Quang Đẩu phía Đông bắc, Đại Lai phía Tây bắc, Kế Chỉ phía Tây, Phai Xiên ở phía Nam. Các đội phẫu thuật trung đoàn chuẩn bị để triển khai ở Nà Cốc, An Lai, Lam Sơn cách Cao Bằng khoảng 8km. Kho thuốc, cơ sở sản xuất bông băng, bột bó đặt tại Quảng Uyên. Để phục vụ cho trận đánh Lạng Sơn và Đông Khê đã bố trí 2 bệnh viện tại Pò Mã và Văn Mịch có khả năng thu dung 200 thương binh, bệnh binh cho mỗi bệnh viện.
Đề đảm bảo các tổ chức trên, Cục quân y đã huy động một số lớn lực lượng ở hậu phương ra phục vụ chiến dịch.
Ngày 21 tháng tám năm 1950, Đảng ủy chiến dịch thay đổi quyết tâm tác chiến, chủ trương “đánh điểm diệt viện”, đầu tiên tiêu diệt địch ở Đông Khê và chung quanh, sẵn sàng đánh quân tiếp viện trên đường Cao Bằng - Đông Khê.
Do thay đổi quyết tâm tác chiến nên kế hoạch bảo đảm hậu cần và quân y cũng thay đổi theo. Trước đây, tuyến vận chuyển chính là đường Pò Peo, Trùng Khánh, Quảng Uyên, nay phải chuyển sang đường Thủy Khẩu. Các cơ sở quân y cũng phải bố trí lại. Hai bệnh viện Đại Lai, Mạn Đà vẫn ở chỗ cũ để thu dung bệnh binh của các đơn vị trước khi bước vào chiến đấu, còn các bệnh viện mặt trận chuyển đến Tiên Giao và Thủy Khẩu. Thủy Khẩu là bệnh viện chính để tiếp nhận hầu hết thương binh, bệnh binh của chiến dịch. Các đội phẫu thuật trung đoàn bố trí cách Đông Khê 8 - 10km đường núi, một đơn vị ở Pắc Xiêng, ba đội ở Bó Bạch, một đội ở Khuổi Bốc. Phần lớn các đội phẫu thuật đều đưa vào các hang đá để đảm bảo an toàn. Nói chung, việc bố trí bệnh viện, kho dược là hợp lý nhưng còn xa hỏa tuyến.
Để chuyển thương binh về trạm phẫu thuật trung đoàn, mỗi tiểu đoàn được phân phối 40 dân công tải thương ngoài số dân công vận chuyển, nhưng trước khi chiến đấu chưa có thương binh, các đơn vị sử dụng dân công tải thương vào các việc khác, nên khi cần chuyển thương binh thì không có tải thương hoặc tải thương đã bị mệt. Dân công tải thương phục vụ rất dũng cảm và rất tận tụy, nhưng chưa được huấn luyện những điều thường thức về tải thương, đường vận chuyển lại xa và khó đi nên việc chuyển thương còn chậm... chỉ có 6,2% thương binh được chuyển về trước 6 giờ, còn tới 43% sau 12 giờ mới tới trạm trung đoàn.
Việc phẫu thuật vẫn lấy quân y trung đoàn làm cơ sở. Trong phục vụ cán bộ quân y mới chú ý nhiều đến phẫu thuật chưa chú trọng đúng mức các công tác hộ lý, tải thương. Việc chỉ đạo cứu hộ hỏa tuyến chưa được đề cập đầy đủ, chưa huấn luyện được tốt cho bộ đội về 4 kỹ thuật cấp cứu. Trong công tác phẫu thuật tuy đã có chú ý đến việc phẫu thuật bảo tồn cơ năng chi thể, nhưng chưa thật tích cực đặt vấn đề bảo tồn tổ chức.
Khi bộ đội đánh vận động phía tây đường số 4, tổ chức quân y cũng kịp thời chuyển từ đảm bảo cho đánh công kiên sang đánh vận động. Trung đoàn 174 chuyển xuống hoạt động Nam Thất Khê, trạm phẫu thuật trung đoàn đã chuyển xuống bố trí tại Nà Hưu và Cốc Phục. Trạm phẫu thuật trung đoàn 209 chuyển lên Pắc Nậm, trạm phẫu thuật trung đoàn 36 tăng cường thêm cán bộ chuyên môn cho quân y tiểu đoàn tổ chức một trạm nhỏ ở Là Tá phía tây đường số 4, còn các trạm phẫu thuật thuộc các trung đoàn khác đều bố trí tại chỗ cũ. Tuy có chuyển vị trí, nói chung các trạm phẫu thuật vẫn còn xa hỏa tuyến, việc chuyển thương binh về các trạm phẫu thuật vẫn không đạt yêu cầu về thời gian, do đó trong đánh vận động trên đường số 4 mới có 12,6% thương binh về trạm phẫu thuật 6 giờ và gần 70% sau hơn 12 giờ mới về tới trạm phẫu thuật.
Sau khi được cấp cứu ở các trạm phẫu thuật, các thương binh được chuyển về bệnh viện mặt trận, lúc đó chủ yếu là bệnh viện Thủy Khẩu, được điều trị cho đến khi khỏi hẳn.
Trong công tác thương binh, nói chung cán bộ quân y đã hết sức tận tụy phục vụ, dân công hộ lý cũng rất tận tình. Nhưng công tác phục vụ còn nhiều thiếu sót nguyên nhân chính là do quan điểm thương binh,bệnh binh còn kém. Cán bộ quân y còn nặng tư tưởng chuyên môn đơn thuần, nặng về kỹ thuật, nhẹ về tổ chức chỉ đạo công tác cứu hộ hỏa tuyến và tải thương (tỷ lệ tử vong hỏa tuyến lên tới 30%, ngày nằm trung bình của thương binh còn dài : 45 ngày); chưa quan tâm đầy đủ đến việc tổ chức ăn ở, săn sóc đời sống cho thương binh. Trong cán bộ quân chính cũng còn lo nhiều đến việc tác chiến, chưa quan tâm đúng mức đến việc chấp hành chính sách thương binh.
Công tác bảo vệ sức khỏe cho bộ đội có được đặt ra ngay từ đầu chiến dịch nhưng so với yêu cầu thì còn thấp, quân y mới làm được việc phổ biến cho bộ đội những thường thức về phòng bệnh và tổ chức cho bộ đội uống thuốc phòng sốt rét, việc chỉ đạo vận động bộ đội chấp hành kỷ luật vệ sinh làm còn yếu.
Trong số tù binh địch, có một số lớn là thương binh, bộ chỉ huy chiến dịch có chủ trương trao trả cho địch. Quân y đã cùng các ngành bảo đảm cứu chữa, săn sóc, tiến hành công tác chính trị cần thiết, nên khi trao trả tù binh đã gây được ảnh hưởng tốt về mặt chính trị. Sau hơn một tháng chiến đấu, chiến dịch Biên giới đã kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng được nhiều đất đai, mở rộng được giao thông liên lạc giữa Việt Bắc và Liên khu 3-4, củng cố được căn cứ địa Việt Bắc thành hậu phương vững chắc của kháng chiến nối liền với phe xã hội chủ nghĩa và thu được thắng lợi cả về quân sự, chính trị và kinh tế.
Qua chiến dịch Biên giới, quân đội ta đã trưởng thành một bước lớn, chiến dịch Biên giới cũng là một thử thách lớn đối với ngành quân y. Trong quá trình phục vụ đã bộc lộ đầy đủ ưu điểm, khuyết điểm về mọi mặt chính trị tư tưởng, tổ chức và kỹ thuật.
Tháng mười một năm 1950, theo chỉ thị của Tổng cục Cung cấp, Ban quân y chiến dịch đã mở Hội nghị tổng kết công tác bảo đảm quân y với một tinh thần phê bình và tự phê bình cao.
Trong thư gửi hội nghị tổng kết quân y, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “Tôi khen ngợi toàn thể các chiến sĩ quân y đã tích cực hoạt động trong việc cấp cứu, điều trị các thương binh. Nhiều đội phẫu thuật đã làm những nhiệm vụ quá mức như các đội phẫu thuật ở Là Tá, các đội phẫu thuật đơn vị 73, Đ3 ở Bố Bạch”, đồng thời đồng chí cũng chỉ rõ: “... so với các chiến dịch trước có tiến bộ nhiều, nhưng cũng hãy còn nhiều khuyết điểm vê phương diện tổ chức, kỹ thuật và lãnh đạo. Tôi mong hội nghị sẽ cố gắng học tập và rút kinh nghiệm quý báu trong chiến dịch vừa qua để làm sao cho tổ chức quân y được thích hợp hơn với vận động chiến, cho kỹ thuật quân y bảo đảm hơn việc cứu thương trên trận địa cũng như việc điều trị trong các đội phẫu thuật và các bệnh viện. Về mặt tư tưởng cần thực hiện tinh thần lương y kiêm từ mẫu mà Hồ Chủ tịch đã đề ra cho ngành quân y”.
Trong thư gửi Hội nghị, đồng chí Trần Đăng Ninh sau khi biểu dương các cố gắng của chị em quân y, cũng đã nhấn mạnh đến các khuyết điểm, nhất là những khuyết điểm về tổ chức và tải thương.
Hội nghị tổng kết đã khẳng định những thành tích đã đạt được là do bản thân anh chị em quân y có cố gắng, được nhân dân và quân đội hết lòng ủng hộ và giúp đỡ, được sự giáo dục lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và đặc biệt là sự quan tâm săn sóc của Hồ Chủ tịch. Trong chiến dịch, Hồ Chủ tịch đã ra tận trận địa xem xét việc cứu chữa và chăm sóc thương binh, chỉ dẫn cụ thể các công việc phải làm để chấp hành tốt chính sách thương binh của Đảng.
Hội nghị đã nghe và thào luận các báo cáo : Công tác bảo đảm quân y của đại đội trong đánh vận động và đánh công kiên 1, công tác bảo đảm quân y của tiểu đoàn trong đánh vận động và đánh công kiên 2, báo cáo của đội phẫu thuật trung đoàn 3, báo cáo công tác phòng bệnh của trung đoàn, báo cáo công tác tải thương 4, nhận xét của một bệnh viện mặt trận đối với các cấp cứu, điều trị tại các tuyến trước 5. Đồng thời, Hội nghị đã thảo luận về các vấn đề quan trọng và tăng cường công tác tải thương mặt trận, nhiệm vụ các tuyến quân y khi tác chiến, vấn đề đào tạo và giáo dục cán bộ quân y, các vấn đề về chấn chỉnh lề lối làm việc.
Bài học quân y trong chiến dịch Biêu giới là một bài học toàn diện, nghiêm túc, có tinh thần tự phê bình, phê bình cao. Thu hoạch của quân y trong kết quả phục vụ chiến dịch Biên giới, thu hoạch của hội nghị tổng kết quân y là những thu hoạch có ý nghĩa tích cực, có tính chất lịch sử của ngành.
Qua chiến dịch Biên giới, cùng với quân đội, ngành quân y đã trưởng thành một bước quan trọng.
------------------------------------------------------------------- 1. Do y tá Tạ Văn Hậu báo cáo. 2. Do y tá Đinh Công Quyết báo cáo. 3. Do y sĩ Nguyễn Xuân Ty báo cáo 4. Do y sĩ Trần Lưu Khôi báo cáo. 5. Do y sĩ Trần Văn Bảo báo cáo.
|