Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:21:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler  (Đọc 7375 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2020, 10:59:26 pm »


        Thiếu ta Bromley, bạn đồng khóa của Staver, lo chuyên trách về các tiểu tiết kỹ thuật của toán công tác đặc biệt về V2. Ông có người phụ tá là một kỹ sư điện của M.I.T. được sử dụng với tư cách cố vấn đặc biệt của Ban phối hợp Tình báo kỹ thuật, tên là Louis Woodruff. Việc xếp đặt công tác do Hamill đảm nhận, ông đặt cơ sở tại Fulda, cách Nordhausen 90 cây số.

        Bromley, Woodruff và Hamill đã viếng Mittelwerke khi hiệp định đầu hàng của Đức được chính thức ký tại Reims ngày 7 tháng 5 năm 1945. Các vấn đề đặt ra cho cuộc di tản V2 trước khi Hồng quân đến đây, thật đáng e ngại. Người ta không được biết đích xác ngày nào quân Mỹ sẽ rút đi, nhưng nghe đâu có thể sẽ là ngày 1 tháng 6 năm 1945.

        Cái trở ngại đầu tiên là không có sẵn hỏa tiễn được ráp hoàn toàn để chuyển đi Anvers. Người ta lại phải xếp loại các đường hầm của cơ xưởng ngầm. Đều đáng ngại là không có bảng liệt kê rõ ràng của các bộ phận ấy. Các tài liệu kỹ thuật lại chưa tìm ra được, và trong khu vực Nordhausen, người ta cũng chưa tìm thấy một kỹ thuật gia tài giỏi, có khả năng làm sáng tỏ được vấn đề cho người Mỹ.

        Tiếp đó là phần nhiều các cây cầu và đường sắt quanh vùng đều bị bom phá hủy - chỉ còn có một trạm hỏa xa, nhưng lại không có xe vận ngầm tải để đưa các dụng cụ từ cơ xưởng đến nơi này. Vả chăng, dù cho có thật dồi dào về nhân lực, cũng rất ít người có thể dùng được cho sự cố gắng này, vì nó không đòi hỏi một cách giản dị về sự hào hứng và sức lực, mà lại cần những người ít nhất cũng có kinh nghiệm nghề nghiệp của một người thợ máy giỏi. Thiếu tá Bromley yêu cầu cho gởi ngay đến Nordhausen một đơn vị của Đại đội 144 sửa chữa cơ khí, đóng ở Cherbourg.

        Từ Nordhausen đến Cherbourg xa khoảng 1.200 cây số. Trong khi chờ đợi, Bromley cho gọi một phân đội của Trung đoàn 47, Sư đoàn 5 Thiết giáp, có nhiệm vụ thiết lập một hàng rào phòng thủ bất khả xâm nhập vào Mittehverke. Trước đó, các cơ sở đều bỏ ngỏ, điều này không phải là không có những tai hại trầm trọng - Các tù nhân của trại tập trung Nordhausen và Dora đã phá hủy các bộ phận không giá trị mấy và các dụng cụ cơ khí, trong các cuộc trút mối hận thù rất dữ dội, và trong sự cuồng nhiệt của tự do vừa tìm lại được. Dân chúng ở Nordhausen đã đập phá cơ xưởng, lấy cả các bóng đèn cũng như dây cáp điện, làm cho các hỏa tiễn trở nên vô dụng. Các điều tra viên người Anh và ít nhất bằng mọi cách, các đại diện của cơ quan Tinh báo Sô Viết - đã rong chơi một cách tự do trong các đường hầm. Giờ đây, chỉ các người có giấy thông hành đặc biệt, mới có thể vào được trong cơ xưởng ngầm.

        Dr. Woodruff bây giờ có thể âm thầm làm việc. Ông kiểm điểm các phúc trình mật, và có một ý niệm khá rõ ràng về các phần tử cốt yếu, cấu tạo nên V2. Các cơ phận này được đặt trong kho ở Mittelwerke, nhưng hệ thống kiểm soát tinh vi lại không được chế tạo ở Nordhausen. Trước kia, khi rút khỏi Peenemunde, các chuyên gia được đưa về các phòng thí nghiệm tạm thời và tùy ứng, lập ra ở quanh vùng và người Mỹ sắp đến, nên họ đã giấu các vật liệu mỗi nơi một ít - ở trong các vựa chứa, nơi trường học, hay tại hãng rượu bia - phải lục soát nơi thôn trang trong một đường kính 100 cây số, để tìm lại các cơ phận cần thiết đó.

        Đại đội 144 M.V.A. dưới sự điều khiển của Đại úy Mandeville, đến nơi ngày 18 tháng 5. Người ta luôn nghĩ rằng Hồng quân sẽ đến đây ngày 1 tháng 6. Nếu toán công tác đặc biệt về V2 không chu toàn nhiệm vụ trước ngày ấy, thì hiển nhiên là nước Mỹ không còn đề cập đến V2 được nữa.

        Người ta lo dọn trống khoảng một cây số rưỡi, một trong hai đường hầm chính, để các toa chở đất có thể di chuyển được. Có 150 cựu tù nhân tình nguyện làm công tác chuyển vận. Đại đội 144 M.V.A phối hợp với tiểu đoàn 319 Quân cụ và các người của hai đơn vị này phát hiện được ngay các bộ phận kỳ lạ của V2. Người ta thừa hiểu rằng các công tác đóng kiện và cất hàng phải được liên tục 24 giờ trên 24, nhưng lối vào của một trong hai đường hầm đã bị cấm vì lý do an ninh. Hơn nữa, hệ thống thông hơi đã bị hỏng, lúc các toán quân Mỹ đến chiếm cơ xưởng. Thế nên, ngày làm việc chỉ còn không quá 8 giờ. Tuy nhiên, người ta đã nhanh chóng thu góp đầy đủ các bộ phận để tạo nên một số chừng 100 V2 mà các xe vận tải sẽ chở đến sân ga.

        Một vấn đề gay go bây giờ lại được đặt ra cho Thiếu tá Hamill. - Người ta tính là cần phải có khoảng từ 300 đến 350 toa xe. Nhưng "Ban vận tải quân nhu" lại không nhận được chỉ thị liên quan đến dự trù không chính thức này. Và dù cho thế nào, người ta cũng không thể xếp đặt cho các đầu máy xe lửa, cũng không cả vật dụng chuyên chở cần thiết cho một cuộc di chuyển khá quan trọng này. Theo vẻ bề ngoài, thì công tác vừa gấp rút vừa quyền biến được thực hiện kia chỉ đưa tới việc tránh cho người Nga khỏi phải nhọc công, chiếm lấy các hỏa tiễn đang được sẵn sàng để chở đi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2020, 11:00:11 pm »


        Trong khi sự phá hủy các chiếc cầu đã gây nhiều lo lắng cho Hamill, thình lình chính sự phá hủy lại xuất hiện như tặng vật trời cho: hàng trăm toa xe bị nằm ụ lại Nordhausen, hầu hết còn thật tốt. Hamill cho là đã tìm được giải đáp. Nhưng Ban chuyển vận quân nhu lại đòi trưng dụng tất cả các vật liệu chuyên chở này và đem chúng qua vùng chiếm đóng ở Mỹ bằng cách mượn ngỏ cây cầu duy nhất còn sót lại. Đành vậy, Thiếu tá Hamill không có giấy tờ chi cho phép ông được quyền ưu tiên sử dụng các toa xe này.

        Tuy nhiên, ngày 20 tháng 5, Ban vận tải quân nhu khám phá ra chiếc cầu còn lại đã bị tung mìn nốt trong đêm. Các sĩ quan tình báo nghi ngờ là các toán nghĩa quân Đức can dự vào vụ phá hoại này. Nhưng có những sự việc không bao giờ được phơi ra ánh sáng. Có đúng là chính người Đức đã phá sập cây cầu? Hay là viên phụ tá của Thiếu tá Hamill, Bob Payne là người hoàn toàn có khả năng dùng đến các thủ đoạn trái phép, để ngăn chặn các toa xe quý giá này không bị chiếm đi. Đến lượt Hamill xác nhận ông hoàn toàn không hay biết gì về sự phá hoại bằng mìn, và cũng không có chứng cớ nào có thể nhắm vào Payne. Dầu sao, thì các toa xe không thể đi được và thời hạn này đã giúp Hamill có thì giờ để tiếp xúc với Ban chuyển vận và ban công binh ở Nordhausen. Ông có thể thuyết phục với các Ban này về tính cách quan trọng trong vai trò của ông, và đoạt được sự toàn quyền sử dụng các toa xe. Đại đội 1186 Công binh đã sửa chữa lại chiếc cầu và xây cất chiếc cầu khác nôi liền cơ xưởng ngầm đến sân ga.

        Bromley và Hamill hứa giúp đỡ cho các cựu nhân viên hỏa xa Đức tìm được công việc làm nên họ tươi tỉnh để cộng tác chặt chẽ với người Mỹ. Ngày 22 tháng 5 năm 1945, chuyến xe đầu tiên đã chuyển bánh.

        Mỗi ngày và suốt trong khoảng thời gian 9 ngày đáo hạn, đoàn xe hỗn tạp, gồm trung bình 40 toa lên đường trực chỉ đến Anvers. Chuyến cuối cùng rời Nordhausen vào lúc 21 giờ 30 ngày 31 tháng 5 năm 1945: công tác đã hoàn tất. Ba trăm bốn mươi mốt xe tượng trưng cho một tổng số gần 450 tấn đã được đưa về nước Bỉ.

        Tuy nhiên, các lo âu của Thiếu tá Hamill chưa phải đã hết. Vì không có giấy tờ gì liên quan đến các cuộc di tản này, nên vị sĩ quan chịu trách nhiệm hải cảng đã phản đối Hamill: "Hãy dọn tất cả hàng của ông ra khỏi các bến cho tôi, nếu không, bắt buộc tôi phải hành động".

        May thay! Hamill có trong túi một văn kiện do Eisenhower ký, cho phép ông gởi ra ngoài các vật liệu thu được của Đức và ông còn được quyền sử dụng 16 tàu "Liberty ships". Các phu bến tàu người Bỉ lo xuống hàng các toa xe. Nhân viên của đại đội 144 M.V.A bị triệu khẩn cấp từ Nordhausen về đây, lo việc đóng thùng lại các kiện hàng, các cánh nhỏ tra vào hỏa tiễn, các phòng đốt, các dụng cụ quan trọng, các bình chứa, các thân của hỏa tiễn, và các hệ thống điều khiển, nhằm sắp đặt cho cuộc vượt biển.

        Tuy nhiên, việc thỏa thuận theo khẩu ước giữa Anh và Mỹ đòi hỏi phân nửa vật chiếm được phải nhường lại cho người Anh. Đại tá Toftoy không phải là không biết điều đó, nhưng lần này, ông quyết định không dành cho người Anh một cái gì cả. Ông tránh né thông báo với họ về việc di tản các V2 và thuyết phục thượng cấp ông, cho tải tất cả hàng chở trên tàu, về Mỹ.

        Ở Anvers, chỉ có các nhân viên của Sở Tình báo Anh. Việc có mặt của các tàu "Liberty ships" không thoát khỏi cặp mắt nhà nghề của họ, cả các thùng chực sẵn đem lên tàu cũng thế. Bắt được việc âm mưu này, họ cho Luân Đôn biết và người Anh đã cố gắng ngăn cản Mỹ cho rời biến các chiếc tàu. Các đại diện Anh bên cạnh tướng Eisenhower - đã cực lực phản kháng; nhưng không đợi các lời phản đối có hiệu quả, Đại tá Holmes, trưởng phân đội kỹ thuật của ngành Quân cụ ở Ba Lê, đã hành động trước. Ông biết rõ khẩu ước giữa Anh-Mỹ về việc chia phần các chiến lợi phẩm, ông cũng biết các chuyên viên Anh rất quan tâm đến các V2 và đặc biệt theo sát hơn cả người Mỹ và người Nga và ông khâm phục các công tác thu hoạch được của Sở Tình báo Anh trong thời còn chiến tranh. Và ngay chính họ cần gây chậm trễ hay hủy bỏ việc tải đi các hỏa tiễn Đức về Mỹ.

        Holmes về sau đã nói: "Có thể là tôi đã lầm, nhưng tôi có cảm giác rằng người ta sẽ nhận được một số lớn ý kiến là thà chở tất cả về Mỹ còn hơn là chia lại phân nửa cho Anh". Ông ra lệnh cho cất hàng xuống các tàu Liberty ships Và khi các đại diện Anh ở Bộ tham mưu tối cao, được quyết định cho lệnh cấm xuất, thì các V2 đã vượt ra vùng hải phận tự do. Đại tá Holmes, đã phải bị khiển trách nặng nề với thượng cấp: "Người ta đòi hỏi tôi phải giải thích, nhưng việc này đối với tôi không có gì trầm trọng cho lắm".

        Nhờ có Holmes, nước Mỹ bây giờ chiếm hữu được khoảng 100 chiếc V2. Song song với công tác đặc biệt về V2, một công tác khác đang được tiến hành, nhằm thu hồi các tài liệu kỹ thuật liên quan đến hỏa tiễn cho đặc quyền độc chiếm của Mỹ. Nhưng trái với V2, đã tìm được ở Nordhausen, các tài liệu luôn được cất giữ trong đáy sâu của một đường hầm nơi khu hầm mỏ hoang phế ở làng Domten.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2020, 11:04:10 pm »


13 - CUỘC CHIẾM GIỮ KHO TÀNG

        Sáng sớm chủ nhật ngày 2 tháng 5 năm 1945 trên một chiếc xe Ford nhỏ, hai người dân sự Đức rời Nordhausen để đi về các vùng núi trên quần sơn Harz. Chiếc xe len lỏi dài theo các con lộ hoang vu qua các làng hầm mỏ. Sự xuất hiện này thật cũng lạ. Một nhân chứng dù kém nhận xét đến đâu cũng tự hỏi làm thế nào hai người dân chính này lại có được một chiếc xe vừa ở trong tình trạng sử dụng được, vừa lại có xăng cần thiết để đi. Họ như rong chơi không có chủ đích gì. Cũng như các du khách thường thấy, họ dừng lại ở mỗi làng hay thị trấn nhỏ để chỉ hỏi mỗi một câu - một câu hỏi cũng kỳ lạ: Thưa, có biết trong vùng này, có khu mỏ nào bỏ hoang?

        Hai du khách đó tên là Eberhard Rees và Karl Otto Fleischer. Tiến sĩ Rees từ 1940, phụ trách về các thiết trí cơ sở ở Peenemunde. Và từ khi các cơ sở này được đưa về Nordhausen thì Fleischer là giám đốc thương vụ của cơ sở điện cơ E.W. (Elektromechanische Werke), và cũng là người duy nhất ở Nordhausen biết đại khái trong vùng nào được cất giấu các tài liệu V2: Huzel và Tessmann có cho ông biết trước khi họ lên đường về Alpes.

        Fleischer và Rees chạy đi suốt cả ngày. Cho đến chiều, họ mới gặp được một người thợ mỏ già Andreasberg cho biết là trước kia, ông có làm việc trong khu mỏ giống như nơi họ vừa mô tả - mỏ này ở bên làng Dornten.

        Chiếc Ford lại lên đường, xa khoảng 50 cây số, họ tới khu mỏ hoang. Sau cuộc tiếp xúc với ông già gác dan, công việc của họ kể như đã có kết quả: họ đã tìm được nơi cất giấu kho tàng.

        Đây là do sự sắp xếp của Thiếu tá Staver. Ông này đã khởi sự công tác từ ba tuần lễ trước, khi ông ta đến vùng Nordhausen bị tàn phá này.

        Đến được Nordhausen cũng là cả một vấn đề cho Thiếu tá Staver. Cuối tháng 4, hai tuần lễ sau khi bị chiếm giữ bởi sư đoàn 3 Thiết giáp, thành phố này vẫn còn bị liệt vào khu giao tranh và các điều tra kỹ thuật không được phép vào nơi các khu chiến. Thất vọng vì lý do trên, Staver cầu viện đến Đại tá Toftoy, là người hiểu rõ vai trò quan trọng mà Trichel đã giao phó. Biện pháp duy nhất cho phép Staver đến Nordhausen là bổ dụng ông vào một đơn vị đã ở tại nơi đó: đấy cũng là trường hợp của toán thám báo số 1 của sở quân cụ tăng phái bên cạnh đội quân thứ nhất của Mỹ.

        Đại tá Toftoy là vị sĩ quan xuất thân từ trường Võ bị West Point, một sĩ quan nhà nghề và cũng là người nhiều thủ đoạn biết quyền biến khi tình thế bắt buộc. Khi đứng trước một trái thủy lôi ngầm thuộc loại mới mẻ của Đức, mà ông phải tháo ngòi và khảo sát để tạo an toàn nhanh chóng cho hải cảng Cherbourg, ông chỉ giản dị ra lệnh cho mọi người tránh xa ra rồi tự mình tháo lấy vũ khí lạ kia. Lần này, ông cấp cho Staver một công tác lệnh hơi cắc cớ là chỉ định ông này được sung dụng vào toán thám báo số 1 và như vậy Staver được quyền đến Nordhausen.

        Mưu chước trên đã thành tựu mỹ mãn. Staver đến Nordhausen ngày 3 tháng 4, cùng đi chung với ông còn có viên kỹ sư của chương trình Hermès là Ed. Hull. Hai người viếng Mittelvverke và hàng chực cơ xưởng, phòng thí nghiệm ẩn khuất trong lòng quần sơn Harz. Tuy nhiên cho đến ngày 12 tháng 5, họ chưa qui tụ được người vào thuộc thành phần của cơ sở "Elektromechanische Werke". Hiển nhiên, các chuyên viên Đức chưa biết W. Von Braun đã tự ý qui thuận người Mỹ ngày 2, vì với những người dân chính, không có máy thu thanh, điện thoại, cũng không cả phương tiện liên lạc với Garmisch. Các người của E.W. đã phân tán khắp nơi. Bọn họ đã ẩn náu sâu trong các làng quanh vùng. Và trái hẳn với Von Braun, không ai trong bọn họ có sáng kiến qui thuận. Giờ đây, vào chiều ngày 12 tháng 5, nhờ một tin tức nhận được từ toán công tác đặc biệt, Thiếu tá Staver truy ra được dấu vết của Karl Otto Fleischer. Vì chiến tranh đã dứt, Fleischer sẵn sàng hợp tác với người Mỹ, nhưng ông lảng tránh việc nói với họ rằng ông là người duy nhất ở Nordhausen đã biết chỗ chôn giấu các tài liệu V2. Tuy nhiên, ông giới thiệu Staver với tiến sĩ Eberhard Rees. Tới phiên ông này chứng tỏ thiện chí và cho người sĩ quan Mỹ biết có một số lớn các chuyên viên quan trọng về hỏa tiễn hiện có mặt quanh vùng Nordhausen.

        Ngày 14 tháng 5, Staver hay tin có một thành phần quan trọng của nhóm Peenemunde đang bị cầm tù ở Saalfeld, cách Nordhausen 90 cây số: Đó là Walther Riedel, trưởng ban cơ giới ngành hỏa tiễn. Riedel bị bắt là do một sự hiểu lầm của một nhân viên phản gián Mỹ, người này cho rằng ông đã phụ trách về hơi độc và bom vi trùng. Nhưng Thiếu tá Staver này đã can thiệp kịp thời với cấp sĩ quan cầm quyền quân sự, để được thả người tù nhân này và đưa ông về Nordhausen.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 11:23:44 am »


        Riedel chỉ còn việc hợp tác và đem lợi cho người đối thoại của ông. Ông kê lập một bảng đầy đủ về các nghiên cứu của Đức trong địa hạt hỏa tiễn. Nhưng cũng đồng quan niệm với Von Braun (hiện giờ ông này cũng đang bị Dr. Porter gạn hỏi ở Garmisch) là các áp dụng quân sự của V2 đối với Riedel chỉ là một khía cạnh. Và Riedel quả quyết điều khích động thật sự mối quan tâm của nhóm Peenemunde (Staver chuyển các sự việc này về Ba Lê để được truyền đạt về Ngũ Giác Đài) chính là: "các hỏa tiễn vận tải, các trạm vệ tinh bay vòng quanh trái đất, các đài gương đặt trong không gian có khả năng dùng cho việc lợi ích cũng như điều nguy hại, các cuộc du hành ngắn hạn trên mặt trăng, và các cuộc thám hiểm vũ trụ rất là táo bạo".

        Walther Riedel cũng cho Staver hiểu là việc đưa về Mỹ một số, ít nhất là những con người cốt cán của Peenemunde, khoảng 40 người, là một việc làm rất sáng suốt cho riêng người Mỹ. Nhóm người này sẽ thừa khả năng để tiếp tục công trình của họ ở Mỹ quốc - Nếu người Mỹ không nắm lấy sáng kiến này, thì người Nga sẽ có thể trọn hưởng được bọn họ. Riedel còn thêm, có vài tin đồn cho là Hồng quân Nga sẽ vào Nordhausen ngày 1-6-1945 để thay chân các lực lượng Mỹ.

        Staver biết rõ việc ấy còn hơn cả việc đồn đãi thông thường kia và người Nga hiện cũng đã lên đường đi tiếp nhận. Ông gởi một bức thư về Ban tham mưu của ngành Quân cụ ở Ba Lê, thuyết phục họ cho gởi về Mỹ khoảng 100 kỹ thuật gia của Peenemunde, hiện giờ là các tù nhân. Các người này phải cho đi trong thời hạn 30 ngày. Staver nói rõ rằng họ có thể được dùng vào việc thực hiện loại hỏa tiễn phòng không cải biến Wasserfall, có thể áp dụng cho chiến trận ở Thái Bình Dương trong trường hợp cuộc chiến với Nhật còn kéo dài lâu hơn điều ước định. Ông nghĩ rằng các luận cứ trên có thể khiến được Ngũ Giác Đài phải suy nghĩ. Thật ra, ý hướng của ông là sau cuộc đầu hàng của Nhật, các nhà bác học Đức dủ nhập vào Hoa Kỳ sẽ có thể tiếp tục lại ở đây, các công trình của họ về các vũ khí vô tuyến điều khiển xuyên lục địa.

        Nhưng các cuộc thẩm vấn Riedel, Rees và các người khác nữa, đã không đem lại cho Staver tin tức gì về một điểm cốt yếu: tài liệu V2 đã cất giấu ở đâu? Ông có tham dự vào các cuộc tiếp thu những bộ phận của hỏa tiễn trong khuôn khổ của công tác đặc biệt về V2, nhưng ông biết rằng việc ráp lại và thí nghiệm ở White Sands, 100 hỏa tiễn được chuyển về Mỹ sẽ gần như không thể nào thực hiện được nếu người ta không phối trí được các bức vẽ và các đồ án của V2. Cho đến giờ nay cũng chưa có người nào mà ông đã hỏi qua, biết được - hoặc nhận có biết - chỗ cất giấu tài liệu. Ngày 18 tháng 5, hai điều tra viên dân sự của Tổng hành dinh Eisenhower, Frankel và Robertson đến Brunswick bằng phi cơ, trong ý định gom về Garmisch, các ông Riedel, Rees và tất cả các chuyên viên nòng cốt của Peenemunde mà Staver đã giữ trong tay. Nhưng Staver đã quyết liệt từ chối: vì việc đem đi các ông này sẽ làm hỏng cả chương trình truy vấn của ông, đang đem lại nhiều kết quả tốt trong việc phăng tìm manh mối chỗ cất giấu. Mặt khác, họ còn đang giúp hoàn thành một công tác quan trọng bằng cách tìm các dụng cụ còn giấu ở Nordhausen - một thứ dụng cụ không có ở Bavière. Sau nữa, người ta còn hy vọng thuyết phục được người Đức tiết lộ nơi cất giấu tài liệu và cứ theo như sự khẩn bách về người Nga sắp đến đây, người ta không được phép chậm trễ một phút nào nữa.

        Robertson cảm thấy lý luận trên rất hữu lý. Ông rút trong túi ra cuốn sổ tay và ông lật từng tờ rồi đọc ghi chú như sau: "Theo Von Ploetz, tướng Dornberger có nói với tướng Rossman là các tài liệu liên quan đến vũ khí V được cất giấu trong khu hầm muối ở Bleicherode. Von Ploetz là sĩ quan tình báo của Kammler. Robertson thêm ý kiến là Rees và Fleischer có thể chỉ cho Staver tọa độ hầm muối kia. Đấy là tin duy nhất mà ông có được.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 11:26:32 am »


        Staver đã bỏ hết buổi chiều để tra hỏi khéo Riedel với ý định duy nhất trong đầu: rút phần đúng nhất của đường dây mỏng manh vừa được Robertson tiết lộ. Dĩ nhiên, các tài liệu quan trọng về V2 không nằm trong hầm muối ở Bleicherode, mà hầm này chỉ tang trữ các tài liệu có giá trị phụ thuộc thôi. Đến 18 giờ, cùng với Riedel ra khỏi văn phòng của nhà đương cuộc quân sự, Staver gặp Fleischer đang chờ ông. Sau khi chào Fliecher, người Mỹ giả bộ lạnh lùng và đến lượt ông ta rút trong túi, quyển sổ tay và đọc như sau: "Von Braun, Steinhoff và tất cả những người quy thuận ở phía Nam, hiện đang bị câu lưu ở Garmisch. Các sĩ quan tình báo của ta có nói đến tên Ploetz, tướng Dornberger, tướng Rossman và tướng Kammler. Theo các câu chuyện với những người này thì một số lớn các họa đồ và tài liệu quan trọng đã chôn trong khu hầm mỏ, tại một vài nơi quanh vùng và Riedel hoặc ông, Fleischer có thể giúp tìm được các tài liệu đó". Tất nhiên đó chỉ là một mánh khóe cốt làm cho Fleischer và Riedel lầm tưởng rằng các vị chỉ huy của họ cho họ toàn quyền khai báo. Staver lý luận như sau: Nếu các người Đức biết chỗ giấu, thì họ sẽ nghĩ rằng họ hiện đang đứng trước một sự lựa chọn, hoặc là tiết lộ hoặc là chịu bị cầm tù để bảo mật các tài liệu, trong khi ấy thì các vị chỉ huy của họ lại đang muốn để người Mỹ toàn quyền sử dụng. Đấy là một đòn đánh lận con đen. Riedel không nhúc nhích. Nhưng Staver chú ý thấy Fleischer nhíu mày và mắt giương to. Tuy nhiên ông này vẫn giữ yên lặng. Để tránh cho các người này có cẩm tưởng rằng ông đang nóng lòng, Staver khuyên họ nên nghĩ kỹ và hẹn gặp lại họ lúc 11 giờ ngày hôm sau tại Bleicherode.

        Staver đã đến trễ hơn giờ hẹn một cách cố ý vào lúc giữa trưa. Riedel đã y hẹn nhưng không có mặt Fleischer, điều này làm cho viên thiếu tá Mỹ lo âu. Nhưng Riedel cho Staver biết là bạn của ông có "các tin rất quan trọng" và hiện đang đợi ở Haynrode, một làng kế cận đấy. Hai người Mỹ và Đức này liền đến đấy. Riedel, một gã con trai to lớn, tóc vàng, được xem như là người trẻ nhất trong nhóm chuyên viên kỹ thuật ở Penemunde, chưa quá 35 tuổi. Ông ta bước vào quán" Ba đóa hoa Tilleuls" và hỏi vị chủ nhân có tin gì cho ông không?

        - Có một.

        Biết được vậy, ông ra hiệu cho Staver theo ông và hai người lần theo một con đường nhỏ hẹp dẫn đến ngôi nhà mục sư. Vị mục sư rất thạo tiếng Anh, nói với họ rằng Fleischer hiện ở đây và ông sẽ đi gọi.

        Fleicher xuống lầu. Ông có vẻ hốc hác của một người thức trắng đêm. Lễ phép ông xin vị giáo sĩ để một mình ông ở lại với khách và dưới cội cây táo tây đầy bông, với một giọng nói gần như thiểu não, khó nghe, ông ngại ngùng tỏ thật với Staver rằng ông đã thiếu sự thẳng thắn với ông này: ông có một khái niệm phỏng chừng về nơi cất giấu tài liệu. Nhưng ông không có trách nhiệm phải tiết lộ nơi giấu kia, nay nếu thượng cấp của ông muốn ông làm công việc trên, thì ông không còn lý do để giữ im lặng lâu hơn nữa. Staver bảo đảm với ông đây là trường hợp đúng thật như vậy.

        Với một giọng chắc chắn hơn, Fleicher quả quyết với Staver rằng các tài liệu không nằm trong hầm muối ở Bleicherode, ở đấy chỉ chứa các giấy tờ không quan trọng lắm; chỗ chôn giấu chính yếu là một khu mỏ bỏ hoang, nằm cách đây ít nhất cũng khoảng 50 cây số và ông mô tả được nơi đó. Nơi chôn giấu có thể nằm gần làng Doren (ở đây muốn nói là làng Dornten: không có làng nào tên Doren và chính sự lầm lộn nhỏ về danh từ đã tạo ra trọn một ngày rong chơi vô ích). Fleischer yêu cầu người Mỹ này, ngày hôm sau, cho ông được đi với Rees để tìm khu mỏ đang đề cập đến – ông nói rõ ràng nếu không có một sĩ quan Mỹ đi theo họ thì cái may mắn để tìm ra nơi giấu sẽ nhiều hơn.

        Vấn đề phải được trả lời ngay, và Staver phải liều để tin tưởng hai người Đức này – ông cung cấp cho họ nhiên liệu và giấy thông hành cho phép đi sau giới nghiêm, vì các người dân chính Đức bị bó buộc như vậy. Hôm sau, ngày 20 tháng 5, Staver đến Lehesten với Riedel để xem xét các bàn thử cho động cơ hỏa tiễn, đồng thời tự hỏi không biết sẽ gặp Fleischer và Rees ngày nào đó không! Ngày 21, ông trở lại Bleicherode dưới cơn mưa dữ dội. Vào 13g30, bất chợt ông đến nhà Fleischer. Người Đức này mỏi mệt ngã mình trên chiếc ghế dài, với giọng uể oải, Fleischer cho Staver biết là Rees và ông đã tìm được nơi chôn giấu kho tài liệu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 11:30:11 am »


        Việc tìm này cũng không phải là chuyện dễ khi vào giờ chót, thì hai người vẫn tìm được vị trí khu mỏ vậy, nhưng lúc ban đầu, người gác dan già Nubelung đã thề với thiên địa rằng không có tài liệu nào cất giấu nơi đây. Nhưng sau một giờ bàn luận – Fleischer quả quyết rằng ông là một trong các người chịu trách nhiệm trong chương trình hỏa tiễn của Đức và hành động theo lệnh của các tướng phụ trách chương trình này – ông già, gác dan có vẻ xiêu lòng, và sau rốt công nhận là vào đầu tháng 4 có ba xe vận tải chở các tấn thùng, được gởi vào kho, trong một gian phòng nhỏ ở sâu trong một đường hầm. Sau đó, kho hầm này đã cho nổ mìn để lấp lại, đêm trước nữa, Nebelung cũng đã cho tung một gói chất nổ để án ngữ lối vào kho chôn giấu.

        Fleischer đã thuyết phục người gác dan cho khởi sự ngay việc tháo mở kho hầm và bảo đảm với ông sẽ không có gì phải e ngại nếu được ông hợp tác. Fleischer cho tuyển một toán thợ mỏ thất nghiệp để thực hiện công tác thu dọn. Họ chia làm tám toán mỗi toán ba người, nhưng đường hầm quá chật hẹp nên các toán rút lại còn mỗi toán 2 người. Trước khi trở về, Fleischer báo cho Nebelung biết rằng các sĩ quan Mỹ sắp đến Dorsten để điều khiển công tác và thu lấy các thùng tài liệu.

        Mục đích của Staver là cốt sao chiếm được số tài liệu quan trọng nhất của Đức, nay công tác sắp hoàn thành không còn nghi ngờ gì nữa. Song ông chưa phải đã hết khó khăn – Đến nay là ngày 21 tháng 5 rồi và ông biết vì lý do các sửa đổi có tính cách địa lý của các khu chiếm đóng, người Anh sẽ phải vào Dornten ngày 27 tháng 5 để thay người Mỹ ở nơi đây. Vậy ông chỉ còn có 6 ngày để thực hiện công tác thu hồi các tài liệu. Vệc này đòi hỏi các phương tiện chuyên chở khá quan trọng – Nếu thất bại việc này, tất cả tài liệu sẽ lọt vào tay người Anh ngay.

        Để Fleischer và Rees ở lại, ông tìm đến Trung úy Hochmuth và toán Tình báo số 1, đoạn chỉ thị cho viên sĩ quan này ngay ngày hôm sau đến Dornten để trông chừng công tác. Vì không có liên lạc điện thoại hay vô tuyến giữa Nordhausen và Bale, Staver quyết định đến tổng hành dinh ngành quân cụ bằng phi cơ để xin nhân công và xe cộ cần thiết cho việc chở các tài liệu về khu vực chiếm đóng của Mỹ. Ngày 22, lúc 3 giờ sáng, ông đánh thức bạn già là Thiếu tá Bromley, để mượn chiếc xe Jeep và người tài xế hầu kịp đến phi trường gần nhất ở Kassel cách khoảng 60 cây số.

        Đến nơi, Staver được biết không có phi vụ chính thức nào được ấn định trước khi đi Ba lê ngày hôm nay. Tuy nhiên có một chiếc P.47 đang sửa soạn cất cánh. Vị thiếu tá không có công tác lệnh,khẩn thiết yêu cầu viên phi công cho ông cùng đi. Viên phi công không thấy có chút gì trở ngại để giúp đỡ người đồng chủng này, nhưng ngặt nỗi phi cơ của ông ta là chiếc phóng pháo một chỗ ngồi. Staver đến quan sát thấy có một góc nhỏ sau chỗ ngồi duy nhất, ông giải thích rằng ông có việc đến Ba lê rất khẩn cấp nên ông xin nhận chịu một chuyến du ngoạn ngồi co ro phía sau. Viên phi công ái ngại nhưng rồi ông ta chấm dứt bằng câu nói, chiến tranh đã chấm dứt. Vậy thì…

        Chiêc P.47 đáp xuống phi trường Orly vào lúc 10 giờ sáng. Staver ra hiệu cho ngừng xe và chiếc xe Jeep thả ông xuống chỗ tổng hành dinh Quân cụ ở tại Champs-Eslysees. Ông được vị trưởng ban kỹ thuật là Đại tá Holmes tiếp kiến. Ông này trước kia là huấn luyện viên của ông ở trường đào tạo của bộ tại Stanford. Staver báo cho ông này biết là bọn ông đã tìm được các tài liệu mật về V2 của Đức. Theo ước định thì cần phải có hai chiếc bán móc hậu loại 10 tấn để sử dụng ở Nordhausen.

        Nhưng Staver lại còn một ý kiến khác trong đầu. Nhắc lại các khoản trong phúc trình của ông trước kia, ông nhấn mạnh điều ích lợi của việc cho gởi ít nhất một số nhân viên của Peenemunde về Mỹ. Để xác định lại vai trò khá hấp dẫn nhằm khai thác cấp bách về quân sự, ông giải thích sự trợ lực của hỏa tiễn phòng không Wasserfall có thể đem lại trong cuộc chiến với Nhật.

        - Vâng, - Holmes nói – thật hơi lạ nhưng tôi thấy ý kiến này rất sáng suốt. Hãy thảo công điện. Tôi sẽ ký cho.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 11:32:31 am »


        Trong cùng ngày, một bức điện mang dấu "Mật" được chuyển về Ngũ giác đài cho Đại tá Trichel với văn bản như sau:

        " Chúng tôi đang cầm giữ hơn 400 nhân viên trụ cột Peenemunde. Đã hoàn thành loại V2.Đã sản xuất vừa rồi loại hỏa tiễn phòng không Wasserffal nặng 3 tấn…Tưởng rằng phát minh này có thể rất hữu dụng cho cuộc chiến Thái Bình Dương. Các vị quản đốc nghiên cứu nghĩ rằng nếu nhóm họ được gởi về Mỹ, sau một tháng tổ chức lại, và ba tháng tích cực làm việc, họ có thể tái thực hiện trọn vẹn các đồ án Wasserfall. Hầu hết nhóm họ cũng như tất cả nhân viên cho rằng không thể tiếp tục chương trình hỏa tiễn tại lãnh thổ Đức. Phần đông họ dưới 35 tuổi và không biết nghề nào khác. Họ ước muốn được tiếp tục nghiên cứu tại nước nào cho phép thực hiện được, như nước Mỹ thì thích hợp nhất, kế là ở Anh, hoặc nước thứ ba nữa là ở Pháp…Các vị quản đốc khoa học của nhóm này tin tưởng đã có 25 năm đi trước người Mỹ…Đang khởi thực hiện chương trình hỏa tiễn A10, mà sức đẩy của nó sẽ thuộc vào hàng mạnh đến 110 tấn. Công dụng sau này của hỏa tiễn A10 cho phép nối liền Âu châu – Mỹ quốc, tức hỏa tiễn liên lục địa.

        Chúng tôi yêu cầu cho 100 chuyên viên ưu tú nhất của nhóm nghiên cứu này được gởi ngay về Mỹ hầu tái lập lại trọn vẹn các dự án về Wasserfall. Chúng tôi cũng yêu cầu cho chyển tất cả vật liệu hình vẽ và tài liệu cho nhóm này, để dễ dàng công việc của họ tại Mỹ.

        Chúng tôi yêu cầu hành động gấp để ngăn các đối thủ khác đang lăm le muốn bắt giữ tất cả hoặc từng phần nhóm người này…Xin phúc đáp khẩn cấp".

        Ngày 23-5, Thiếu ta Staver trở lại Đức. Tại Brunswick, ông tiếp xúc với Đại tá Warner của sở quân cụ. Ông này đi với ông bằng xe đến khu mỏ Dornten và quanh đây có sư đoàn 83 phụ trách canh chừng 24 giờ trên 24. Đường hầm cũng chưa được khai thông và người Anh sẽ đến đây trong 4 ngày nữa. Trung úy Hochmuth giải thích lý do sự chậm trễ này: 2 ngày trước đây, một toán lính Anh có sĩ quan hướng dẫn, đã đến các nơi này, họ đi tìm các vật liệu chiến tranh cất giấu. Hochmuth, đã phối hợp làm việc ở đây với Fleischer, cả 2 người này đều cho rằng đó là các nhà địa chất học. Các thợ mỏ được lệnh làm như là đang xem xét các mẫu quặng. Cuối ngày, các người Anh trở lại quả quyết rằng không có vũ khí trong khu vực này. Tuy vậy, việc đó cũng đã làm mất đi một ngày.

        Lo lắng, Staver yêu cầu công việc khai thông phải được nhanh hơn. Đến thứ bẩy ngày 26 tháng 5, người Anh đã chực đợi 6 giờ ngày hôm sau đường hầm được tháo mở và các thùng tài liệu được chất lên các toa xe chở đất trước lối vào. Cho đến giờ này Staver cũng chưa thấy đến Nordhausen các xe vận tải 10 tấn mà Ba lê dành cho ông sử dụng. Ông điện thoại cho Trung tá Wood, phụ tá củaWarner. Ông này ra lệnh cho tiểu đoàn 71 quân cụ đóng ở Nordhausen gởi đến Dornten 6 xe vận tải 2 tấn rưỡi. Đoàn xe chuyển bánh ngày 26 lúc 6 giờ sáng; dưới sự giám sát của Staver và Bromley, các thùng tài liệu được gấp rút mang lên xe và đoàn vận tải rời khỏi nơi đây. Họ đến vùng chiếm đóng của Mỹ cùng lúc với người Anh khởi thiết lập các rào cản trên các lộ giới.

        14 tấn tài liệu còn nằm lại 5 ngày tại Nordhausen. Cuối cùng hai chiếc xe bán móc hậu mười tấn đến nơi. Tài liệu được chuyển về Ba lê dưới sự hộ tống của quân đội, và đến Trung tâm lượng giá tài liệu hải ngoại của trung tâm thí nghiệm Aberdeen thuộc tiểu bang Maryland. Thêm lần này nữa, người Anh đã rất quan tâm theo sát hơn cả Mỹ và Nga về loại V2 ngay từ lúc đầu, lại đã phải thua cuộc: người Mỹ bây giờ đã chiếm hữu được 100 hoả tiển và tất cả các tài liệu mấu chốt. Tuy nhiên, họ cũng còn thiếu một cái gì: chính các kỹ thuật gia Đức vậy - Họ chưa soạn thảo kế hoạch để đem các chuyên gia Đức và gia đình họ về Mỹ, và bao nhiêu người của Peenemunde nữa hãy còn ở lại trên lãnh thổ Đức. Sở Tình báo Anh đã kiên nhẫn đeo đuổi các cố gắng của họ để kết nạp các chuyên gia Đức về làm việc cho hoàng gia Anh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 01:34:16 pm »


14 - CUỘC DI TẢN

        Hôm 26 tháng 5 năm 1945, đêm trước của cuộc chiếm thu tài liệu quan trọng ở Dornten và 5 ngày trước cuộc khởi hành của chuyến xe chót chở V2 đến nơi nhận ở Anvers (Bỉ), có một toán sĩ quan tiền phong Nga đã đến Nordhausen.

        Quân Mỹ không thể từ chối, cấp cho họ các giấy thông hành cần thiết để qua các vòng đai an ninh thiết lập do sư đoàn kỵ binh, bao quanh cơ xưởng ngầm. Vả lại, quân Nga cũng là bạn Đồng minh, họ đã cho phép ủy ban hỗn hợp Anh - Mỹ Crossbow đến viếng trung tâm thí nghiệm ở Blizna, vị trí đã lọt vào tay Hồng quân Nga Sô vào tháng 9 năm 1944. Vả chăng, Nordhausen lại là phần chia thuộc khu vực đóng quân của Nga sau này.

        Việc toán đầu tiên Nga đến đây càng làm tăng thêm mối nghi ngờ cho thiếu tá Staver. Đã từ lâu ông tin rằng Nga Sô cũng rất quan tâm đến V2 - mối quan tâm còn nhằm cả đến các chuyên gia hỏa tiễn Đức. Ông biết đài phát thanh Nga luôn nhắc nhở đến các người đã công tác ở Peenemunde, cổ vũ họ đến thành phố Dresde để tìm lại tiến sĩ Pinsky. Ông này đang thành lập một toán các chuyên viên, nhằm tiếp tục các công việc nghiên cứu ngay tại nước Đức. Điều kiện làm việc và lương bổng đưa ra thật hấp dẫn đối với một quốc gia đang bại trận. Nơi đây, nạn thất nghiệp, đói kém và cuộc sống lay lắt bây giờ thành những vấn đề thiết yếu thường ngày. Khi cho lục soát cánh đồng để tìm nơi cất giấu các thành phần hỏa tiễn, Staver đã ngạc nhiên nghe tiếng loa phóng thanh Nga Sô đặt bên kia bờ đối diện của sông Elbe, kêu gọi các chuyên viên Đức qua khu vực Nga, sẽ tìm được chỗ xứng đáng. Có cả giải thưởng đặt ra 50.000 Đức kim được dành cho W.Von Braun và E. Steinhoff.

        Hai ông này tất nhiên còn ở lại Garmisch với Dornberger và một số cộng sự viên của họ. Bọn họ lo lắng cho gia đình hiện đang còn ở miền Trung nước Đức, mặc dù người Mỹ đã luôn đến đó, lo đem các thân quyến của họ đi. Hơn nữa, còn rất nhiều chuyên viên không hẳn kém, chẳng hạn như Walther Riedel và Eberhaurd Rees đã không có tên trong nhóm được tuyển chọn ở Alpes. Staver lo nghĩ nếu người Mỹ không hành động mau lẹ thì những Riedel, những Rees, những Fleischer, những 4.000 chuyên gia ở vùng Nordhausen và gia đình của 500 chuyên viên được Kammler chọn gửi đến vùng Baviere (Alpes) sẽ bị người Nga thu phục. Như vậy việc thuyết phục toán Garmisch nhận làm việc ở Mỹ sẽ gần như vô ích nếu điệp viên Nga quản chế vợ con họ, chỉ một mình Staver, không có quyền xếp đặt một cuộc di tản rầm rộ các người Đức qua khu vực chiếm đóng của Mỹ.

        Vào buổi chiều ngày 27 tháng 5, sau khi ở làng Dornten trở về, ông nhận được một công điện từ Ba lê, đến Fulda đã 48 giờ rồi. Công điện này được Toftoy tiếp truyền từ Hoa thịnh Đốn, nói như sau:" Ba lê và Hoa thịnh Đốn cùng nghiên cứu vấn đề di tản các kỹ thuật gia Đức và gia đình họ. Cùng lúc này, yêu cầu Thiếu tá đưa các kỹ thuật gia Đức và gia đình họ sang vùng kiểm soát của Mỹ".

        Staver cho là chỉ thị này được xem như một chấp thuận gián tiếp về mật văn của ông yêu cầu cho gửi 100 chuyên viên Peenemunde về Mỹ. Mật văn này đã được chuyển về Ngũ giác đài xin cứu xét qua sự hỗ trợ của Đại tá Holmes. Thật ra thì ở Bộ Chiến tranh, người ta đã bàn nhiều về số phận của các nhà bác học Đức. Có những cuộc tranh luận bí mật được diễn ra ở hàng cao cấp được thu gọn lại một kế hoạch duy nhất là kế hoạch "Overcast"vậy. Vả lại, kế hoạch này không những chỉ quan tâm đến các chuyên viên hỏa tiễn mà còn để ý đến hàng ngàn nhà khoa học thuộc vô số các ngành khác nữa. Tuy nhiên đến ngày 27 tháng 5, kế hoạch Overcast đã bị hạn chế lại. Vì có rất nhiều chi tiết cần được điều chỉnh, nhưng việc này không cấm cản Bộ Chiến tranh muốn cho một số các nhà khoa học Đức, từ nay phải được đưa về khu đồn trú của Mỹ.

        Việc di tản này là một biện pháp giản dị và hợp lý, theo quan niệm của Hoa thịnh Đốn, nhưng theo Staver, việc thi hành đặt ra các vấn đề thật rắc rối. Thật vậy, một số kỹ sư được ông gạn hỏi,đã tỏ ra muốn tiếp tục công việc của họ ở Mỹ, nhưng Staver không chắc chắn được rằng đa số các người này từ đây về sau, sẽ chịu di cư cùng với gia đình, nếu không có một bảo đảm đứng đắn cho tương lai họ. Công việc trước hết là quy tụ họ lại, kế đến là di tản 4 ngàn người và tài sản của họ trước ngày 1 tháng 6. Quân Nga sẽ đến đấy không đầy một tuần nữa, đấy là một cố gắng cho thấy khó thực hiện được. Staver nhủ thầm rằn ông sẽ may mắn nếu trước ngày hạn định oái oăm kia, đem được qua vùng Mỹ kiểm soát chừng vài mươi bộ óc nặng ký.Tuy nhiên ông còn phải đặt lại vấn đề về toán người quá ít ỏi của ông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 01:36:58 pm »


        Hầu hết các sĩ quan mà Staver đã cộng tác không xem việc di tản người Đức như là một vấn đề hệ trọng, ngay một số quan chức cũng không tìm thấy việc này đáng khuyến khích! Đến một vị sĩ quan cao cấp của ngành Quân cụ, đã giúp đỡ ông rất nhiều trên vấn đề quản trị và hành chính, đã thẳng thắn tuyên bố với ông như sau: "Tôi thấy đâu có gì phải cuống cuồng việc người Nga nắm giữ cái người Đức ấy. Càng tốt chứ có sao đâu!"

        Tuy nhiên, cuộc chuẩn bị di tản đang tiến hành thì một may mắn không ngờ, là Hồng quân Nga chưa vào Thuringe ngày 1 tháng 6, y như điều người ta mong ước. Nhưng sự đình hoãn này chỉ ngắn hạn thôi: người Nga chính thức đến đây vào ngày 21 tháng 6, việc phân chia nước Đức - "cái quyết định tai hại" theo ngôn từ của Churchill – đã được định đoạt vào tháng 2 năm 1945, trong cuộc hội nghị tại Yalta. Churchill, Roosevelt và Staline đã tán đồng hoạch định các vùng chiếm đóng riêng biệt cho họ, nhưng khi Đức Quốc xã đầu hàng thì vị trí chiếm cứ của Đồng minh không còn tương ứng với các vùng quy định trên. Quân Mỹ đã đến sông Elbe và họ chiếm cả một vùng rộng lớn ở Saxe và Thuringe dành cho người Nga – Churchhill không muốn quân Mỹ quá hấp tấp rút khỏi vùng trung tâm nước Đức: Ông mong rằng họ vẫn còn đồn trú tại đó, trước khi hội nghị Potsdam được họp vào tháng 7 để giải quyết một số vấn đề còn đối chọi giữa Tây phương và Nga Sô. Nhưng Tổng thống Truman, người kế vị Roosevelt, đã không có mặt trong cuộc phân chia ở hội nghị Yalta, đã bác bỏ ý kiến của Churchill. Các cố vấn của ông lưu ý rằng: chờ đợi hội nghị Posdam chỉ tạo cho ông mối lo ngại với Staline. Thế nên, Truman cho vị nguyên thủ Nga Sô biết rằng tất cả các đoàn quân Mỹ sẽ rút khỏi các vị trí chiếm đóng thuộc Nga sau này đúng vào ngày 21 tháng 6.

        Về câu chuyện trên, Churchill về sau có viết:" Tôi tưởng như nghe hồi chuông cáo biệt trong lòng tôi". Nếu Staver và các sĩ quan Mỹ phụ trách về cuộc tổ chức di tản, không dùng danh từ của Churchill để biểu lộ cảm tưởng của họ, thì họ cũng biểu lộ một phản ứng tương tự thôi.

        Biện pháp đầu tiên của Staver là đòi hỏi Von Braun và các vị trưởng ban của Peenemunde phải đến Nordhausen bằng phi cơ. Ernst Steinhoff và Martin Schilling đến đó ngày 8 tháng 6. Staver yêu cầu họ cũng như Rees và Riedel, nói cho ông biết chừng bao nhiêu người cần thiết cho cuộc nghiên cứu trong tương lai. Các ước lượng thay đổi từ 350 đến 750 người.

        Bây giờ Staver yêu cầu các người Đức giúp các vị phụ tá của ông tìm dấu vết các chuyên viên trọng yếu còn trốn lánh trong vùng Thuringe. Vào thời kỳ đó, chưa có vấn đề đưa đề nghị làm giao kèo với họ. Tất cả cái mà Staver có thể hứa được là cho di tản họ ra khỏi vùng chiếm đóng của Nga và cung cấp cho họ sự sống và sự bảo bọc trong khu vực người Mỹ.

        Một trong các cộng sự viên của Staver là Trung úy Gross, có công tác liên hệ với Ernst Steinhoff, sau này có ghi:" Điều làm tôi bực mình nhất là vấn đề cứ nhắc đi nhắc lại liền miệng của các nhà bác học và kỹ sư Đức: chúng tôi có thể mong đợi ở người Mỹ cách đối xử như thế nào để đổi lại sự cộng tác của chúng tôi, so với các đề nghị mà người Nga dành cho chúng tôi?...Các kỹ sư Đức nói: Người Nga đã dẫn dụ trước mắt chúng tôi nào là nhà cửa, đồ trang bị, nào là lời hứa chấp nhận một sự lưu tâm đặc biệt đến các công tác mà chúng tôi sắp làm trong việc thực hiện các phi đạn của họ.Nhưng chúng ta không có các thứ dẫn dụ như vậy…sự trợ giúp to tát nhất của chúng ta phải đến từ các nhà khoa học Đức, cảm thấy gần gũi với người Mỹ…"

        Von Braun, trong lúc này, nghĩ rằng người Mỹ sẽ nhìn dưới con mắt tán đồng, chương trình đeo đuổi các công việc của ông tại Mỹ. Ông đã góp phần quyết định trong việc quy tụ các nhà chuyên môn về hỏa tiễn ở Thuringe và thuyết phục họ đến khu vực của người Mỹ.

        Ngày 19 tháng 6 – hai ngày trước cái ngày vận hạng kia, Staver và Trung tá Williams, người vừa mới được Bộ chỉ huy ngành Quân cụ phái đến để điều tra về hỏa tiễn, đến đưa tiến sĩ Porter, Von Braun và các vị trưởng ban nghiên cứu hiện còn ở Garmisch qua Munich bằng đường bộ để từ đó đáp phi cơ về Nordhausen.

        Đại tá Trichel yêu cầu Porter tham dự vào việc tuyển chọn các chuyên gia về V2 để đưa về Mỹ. Việc lựa chọn phải khởi từ Nordhausen, dưới sự điều khiển của Staver và qua sự cố vấn của Von Braun và các cộng sự viên của ông này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2020, 01:40:31 pm »


        Bây giờ lại thêm khó khăn nữa: vấn đề chuyên chở. Porter, dù là dân chính, đã chỉ huy tất cả các sĩ quan Quân cụ, yêu cầu họ huy động cho ông bất cứ cái gì có thể lăn bánh, xe Jeep, xe bán thiết giáp, xe vận tải…và có chừng 300 xe đã được quy tụ và bắt đầu cho lượn quanh vùng.Porter có ghi:"Trên mỗi chiếc xe, có một người Đức biết một cách riêng tư, các người "tiếp xúc" để giải thích với họ mọi sự tình và yêu cầu họ hãy đến hợp tác. Việc này chỉ kéo dài trong 24 giờ và một gia đình chỉ có một khắc đồng hồ để tự quyết định; và chuẩn bị hành trang. Phần đông mừng rỡ chấp nhận" Lần này, các kỹ thuật gia và gia đình họ được quy tụ nơi một căn trại chuyển vận gần "ga" Nordhausen, các người cuối cùng đến đó vào giữa trưa ngày 20 tháng 6, bữa trước ngày ấn định việc người Nga đến thay.Trung úy Gross thấy nhiều toa xe nằm trong kho chứa dành chỗ cho toa xe đậu, nhưng không nhận được một đầu máy xe lửa nào: "Các người Đức lo lắng, còn tôi đang ở mức độ tuyệt vọng, thẫn thờ tản bộ trước sân ga. Cứ mỗi lần người Đức kêu tiếng "Rusky" là tôi giật mình nhảy chừng 3 thước".

        Đang lúc Gross muốn bỏ nơi đây để chuẩn bị ứng phó một cuộc di tản bằng đường bộ thì chiếc đầu máy xe lửa đến nơi. Hơn 1.000 người gấp rút lo chen vào trong 50 toa, và chuyến xe băng mình về hướng Witsenhausen, một thành phố nhỏ nằm trên vùng chiếm đóng của Mỹ cách Nordhausen khoảng 60 cây số.

        Ở đây không cần phải có lính canh, vì tất cả mọi sự canh giữ đều vô ích. Điều lo lắng duy nhất tại ga Nordhausen, là sự có mặt của một đám đông chen chúc những" người tứ cố vô thân", họ không liên hệ gì đến hỏa tiễn và tìm mọi cách chen vào trong các toa xe chật ních người. Người ta đã phải gọi đến các toán quân để trục họ đi.

        Nhưng Porter và Staver chưa phải đã hết vất vả vì tất cả tài liệu của Peenemunde chưa tìm ra được. Trước khi đến Alpes, tướng Dornberger có giấu số tài liệu riêng của ông ở nơi nào đó quanh Bad-Sachsa. Đấy là một chiến lợi phẩm không thể bỏ lại cho người Nga.

        Porter lập ngay một toán để thu hồi các tài liệu ấy, nhưng 12 giờ trước sự tiến vào của quân Nga, người ta vẫn chưa tìm thấy được gì cả, vì các điều tra viên thiếu bản đồ có tỷ lệ lớn. Thất vọng vì lý do này, Porter và Staver đến Kassel, nơi đóng Bộ chỉ huy của Liên đoàn 332 Công binh – Thêm một thất bại lớn: Công binh cũng không có bản đồ thích hợp, tuy nhiên vị Đại tá của Liên đoàn chấp thuận cho hai ông được sử dụng một toán gồm 1 trung sĩ và 3 người lính.

        Toán này chất lên một chiếc xe vận tải nhẹ, nào là cuốc xẻng và máy dò mìn. Trung sĩ Schwartz được may mắn tìm thấy tấm bản đồ có tỷ lệ lớn trong văn phòng của sở Thủy Lâm Đức: sự kiện này cho phép hắn ta xác định được rõ ràng vị trí nơi chôn giấu tài liệu của Dornberger. Số tài liệu này chứa trong 5 thùng cây, nhưng các niền sắt của nó không tránh khỏi được máy dò mìn. Bốn người lính lo khai quật được các thùng, chất lên xe các tài liệu ấy – nặng chừng 125 ki lô – và trên đường về Kassel.

        Vậy thì, người Mỹ xem như đã thắng các đối thủ của họ khi chiếm được gần hết các chiến lợi phẩm về V2 và tự bảo đảm cho mình một sự tiến bước rất trọng đại trước người Anh và người Nga, về hỏa tiễn cá tầm xa trong tương lai. Họ đã có tất cả các nguyên bản của tài liệu của Peenemunde, rồi 100 V2 và các chuyên gia trọng yếu của người Đức đang ở trong tay người Mỹ. Tuy nhiên, cơ quan tình báo Sô viết chưa biểu lộ các lời sau chót của họ.

        Do cuộc triệt thoái của các toán quân Mỹ ra khỏi vùng chiếm đóng của họ, người Nga thụ hưởng được cơ sở Mittelwerke, trung tâm thí nghiệm về cơ khí hỏa tiễn ở Lehesten, các phòng thí nghiệm to lớn và các cơ sở ở Bleichrode, ở Sondershausen và Klein-Bodungen. Người Mỹ di tản được các chuyên gia tài giỏi của Nordhausen nhưng họ đã không đủ thời giờ cũng khôn g có phương tiện để di cư trọn vẹn nhân viên của Peenemunde. Họ đã phải để lại hàng 3 ngàn kỹ thuật gia và gia đình của đám người này. Tất nhiên là các chuyên gia này không có những khả năng sáng tạo của một Von-Braun nhưng họ rất am tường các phương tiện hiện có.

        Ngày 26 tháng 4 năm 1945, các vị Tham mưu Trưởng Liên minh (Joint chiefs of Order 1067) có yêu cầu Eisenhower cho tránh mọi sự phá hủy và dưới sự kiểm soát của ông này, cho chiếm các văn khố, đồ án, sách vở, tài liệu, hồ sơ và tất cả mọi vật liệu thuộc loại kỹ nghệ hoặc khoa học của các cơ quan Đức dùng trong việc nghiên cứu quân sự. Và ngày 5 tháng 6 năm 1945, cũng chính Eisenhower đã ký ở Bá Linh một sắc lệnh của Ủy ban cố vấn cho châu Âu, quy định rằng các cơ sở nghiên cứu về quân sự của Đức " Phải được gìn giữ nguyên vẹn và ở tình trạng thuận lợi cho việc sắp đặt của các đại diện Liên minh…"

        Trước khi rời Nordhausen, Dr.Porter nhìn lần cuối các cơ sở mà người Mỹ, vì tôn trọng J.C.S.O.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM