Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:04:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler  (Đọc 7387 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 23 Tháng Chín, 2020, 11:34:11 pm »

  
        - Tên sách : Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler

        - Tác giả : James McGovern
                        Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên dịch

        - Sông kiên ẩn hành lần thứ nhất

        - Năm xuất bản : 1973

Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Mười, 2020, 12:05:39 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2020, 11:14:25 pm »

       
LỜI NÓI ĐẦU

        Đây là câu chuyện về cuộc săn tìm các vũ khí bí mật của Hitler thời Đệ nhị thế chiến, đã đặt ba đại cường Anh – Mỹ - Nga vào cái thế tương tranh, để sở hữu các hỏa tiễn V của người Đức, đặc biệt là hỏa tiễn thời danh V2; và nhất là để tìm ra được các nhà khoa học đã khai sanh ra chúng. Phải đợi đến 20 năm sau cuộc chiến, quyển sách này mới phát giác ra được 2, trong số các kế hoạch mật quan trọng nhất trong thời thế chiến thứ II: “ Crossbow” và “ Overcast”.

        “ Crossbow” là chiến dịch do người Anh đề xướng cùng sự hợp tác của người Mỹ, cốt để tìm cách truy tầm tung tích các vũ khí bí mật của Đức như  Phi cơ không người lái( tức bom bay V1), phi đạn xuyên lục địa( tức hỏa tiễn V2) và phi đạn phòng không vô tuyến điều khiển Wasserfall(tức hỏa tiễn V2 cải biến), vv… hầu đối phó và hủy diệt tiềm năng các loại vũ khí này, đặc biệt nhất là loại V2, để mong tránh mối đe dọa cho thành phố Luân Đôn đông dân cư thoát khỏi tầm sát hại của các loại vũ khí V.

        “ Overcast” là chiến dịch do người Mỹ chủ trương để tìm cách chiếm hữu các nhà bác học hàng đầu Von Braun cùng với hàng trăm chuyên viên thông thái nhất của Đức, đã khai sáng ra hỏa tiễn có tầm hoạt động xa(V2) mà nguyên tắc của nó lại là bước mở đầu hay căn nguyên của việc khai sáng ra nền khoa học không gian hiện nay, và còn đang khai triển mãi trong tương lai…

        Ngoài ra cuốn sách này còn giải thích tại sao, người Mỹ đã thành công trong chiến dịch Overcast nói trên, mà người Nga lại là những người đầu tiên phóng  chiếc “ SPOUTNICK và NGƯỜI” lên ngoại tầng không khí và làm thế nào họ lại vượt bước trong cuộc chinh phục không gian.

        J.Mc Gover là nhân viên tình báo Mỹ, hoạt động ở Đức trong thời kì hậu chiến, đã sử dụng các tài liệu chưa được công bố và còn giữ bí mật cho đến lúc bấy giờ, cũng như các văn từ và hình ảnh riêng tư, được truyền đạt với các nhân vật mà tác giả đã xếp đặt các cuộc giao tiếp với họ.

        Là tài liệu mật đầu tiên được viết ra, vừa bi hài vừa quyến rũ, sẽ tạo nên cho quyển sách này một giá trị ngoại hạng.

Ghì chú của Von Braiin về lý thuyết hòa tiễn, năm 1929

« Sửa lần cuối: 04 Tháng Mười, 2020, 02:12:00 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2020, 11:22:02 pm »

    
PHẦN I

KẾ HOẠCH “CROSSBOW”


1 - SỨ MẠNG CỦA DUCAN -  SMITH

        Đêm xuống. Bóng tối và sự yên lặng bao trùm làng Dornten nhỏ bé không mấy ai biết đến. Đó là một làng của bọn phu hầm mỏ, nằm trên triền đồi phía bắc của quần sơn Harz, đang vươn mình sừng sững giữa cánh đồng miền Trung nước Đức.

        Vào ngày 4 tháng 4 năm 1945 thì các toán quân Mỹ ở cách đó 45 cây số. Họ đang tiếp tục tiến quân một cách vô cùng vất vả. Tuy nhiên Dornten vẫn nằm trong tay người Đức và mỗi khi có báo động tất cả đèn đóm đều phải tắt. Tình trạng giới nghiêm ở đây thật khắt khe: không được thắp đèn, không được mở cửa sổ, không được ra đường.

        Trời vừa sụp tối thì một chiếc xe vận tải, nặng nề tiến vào làng này, tiếng bánh xe gập ghềnh dằn lền sụp xuống trên mặt đường lồi lõm phá tan sự yên lặng của đêm trường. Tắt đèn hiệu, xe từ từ lăn bánh về khu hầm mỏ hoang vu nằm tiếp giáp chân đồi.

        Nếu có ai trông thấy cảnh ấy, họ không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: tại sao lại có một chiếc xe chạy đến đây? Cái mỏ này không biểu hiện được một lợi ích chiến lược nào cả. Thật vậy, khu mỏ này đã bị bỏ hoang từ 5 năm trước đây với lý do phẩm chất của mỏ rất kém.  Ngoài đôi vợ chồng già người gac dan, không còn ai sống ở vùng này nữa. Tuy nhiên, bây giờ những người trên xe đang hoạt động một cách vội vã. Hình như họ có một công tác khẩn cấp phải hoàn thành, một công tác không thể nào chậm chễ được.

        Người lái xe thắng lại trước một con đường hầm, trước miệng hầm có đặt một đường ray sắt đưa sâu vào sườn đồi. Bảy người lính Đức và hai kỹ sư dân sự tên là Bernhard Tessmann và Dieter Huzel vội vàng nhảy xuống đất. Họ bắt tay vào việc liền: họ đang cố gắng cất giấu những tài liệu quý báu nhất của Đức Quốc Xã đang lâm vào cảnh đường cùng mạt vận.

        Họ tải xuống xe những thùng cây có đánh số cẩn thận, bên trong chữa toàn những tài liệu (sẽ có hai chiếc xe khác, cũng chở những thùng cây như vậy, đến nữa vào lúc giữa khuya). Tất cả là 14 tấn tài liệu. Họ chất các thùng ấy lên những toa xe nhỏ và một đầu máy sẽ kéo đến một đường hầm nhánh khác. Rồi tại đó chín người lại hùng hục vận chuyển chúng đến một kho tồn trữ chất nổ cũ kỹ. Kho này là một căn phòng nhỏ nhưng thật khô ráo được đặt ở cuối hầm .

        Hôm sau, vào 11h sáng, lúc mà các oanh tạc cơ của Mỹ đang gầm gừ trên không phận làng Dornten thì những thùng tài liệu cuối cùng cũng được cất giấu xong. Bây giờ họ đóng cánh cửa bọc sắt của gian phòng lại. Rồi họ chôn những cốt mìn được ngụy trang dưới đống gạch vụn, chặn đường từ hành lang dẫn tới gian phòng.

        Tessmann, Huzel và 7 người lính tùy tùng ra về. Họ có vẻ tự mãn lắm vì cho rằng không đời nào địch quân tìm ra được chỗ này. Tuy nhiên trong 9 người, chỉ có 2 viên kỹ sư biết đích xác chỗ cất và tính chất của tài liệu thuộc loại gì. Tối hôm trước khi gần đến làng Dornten thì chính hai người kỹ sư này đã thay phiên nhau tự lái lấy xe, sau khi đã giữ 7 tên lính trong thùng xe bịt bùng phía sau. Họ cũng làm như vậy trong bận về, để không cho những người lính biết chỗ. Bởi vậy 7 người lính này dẫu có muốn biết cũng không tài nào phát giác tọa độ của khu hầm mỏ. Phần người gác cửa, tuy chính ông ta đã cung cấp nón và đèn của thợ mỏ cho nhóm người này và cũng dẫn đường cho họ, nhưng họ cũng chỉ nói với ông ta vỏn vẹn mấy tiếng: “ đây là tài liệu mật quân sự”.

        Thật vậy, những “ tài liệu mật quân sự” kia là cả một kho tàng khoa học vô tiền khoáng hậu mà phe Đồng Minh đang nỗ lực truy tìm. Những tài liệu trong thùng cây chính là những chương trình và những kỹ thuật chế tạo đặc biệt về “ khí giới bí mật của Hitler”. Đó là những hỏa tiễn đầu tiên có tầm sát hại rộng lớn hiện có trên thế giới: hỏa tiễn V2. Nếu trước kia vị Quốc trưởng nước Đức đã tin tưởng nơi sự phát triển của khí giới này, thì có lẽ kết quả cuộc chiến đã đổi khác. Sau này, hơn 1000 quả V2 đã được phóng qua Anh Quốc nhưng cũng không cứu được nước Đức đã đứng trên bờ thảm bại. Tuy nhiên, đối với một toán kỹ thuật gia người Đức thì hỏa tiễn V2 không hẳn là một sự thất bại hoàn toàn. Nó đã thay đổi cả chiến lược cổ truyền và gợi ra một hình ảnh kinh hoàng của cuộc chiến sắp tới.

        Chỉ trong một tháng nữa thì Đức Quốc Xã sẽ hết tồn tại. Nhưng bây giờ các cơ quan tình báo của Nga, Mỹ, Anh đều bắt đầu hoạt động ráo riết. Ai cũng muốn chiếm được về quốc gia mình những tài liệu về hỏa tiễn V2 và bắt cho được những chuyên viên Đức, cha đẻ của thứ khí giới khủng khiếp đó. Kết quả còn nằm trong vòng bí mật. Ai chiếm đoạt được sẽ mang về cho quốc gia mình hai sự tiến bộ hiển nhiên. Đó là sự tiến bộ về khí giới xạ thuật liên lục địa và những hỏa tiễn vĩ đại có thể đưa con người vào quỹ đạo vòng quanh trái đất. Sau đó hỏa tiễn này có thể đưa con người lên đến cung trăng, rồi đến cả những hành tinh xa xôi hơn nữa.

        Cuộc tranh giành âm thầm đó đã mở ra ba trận tuyến mà kết quả tự nhiên sẽ ảnh hưởng lớn đến số phận của thế hệ mai sau. Vào tháng 5 năm 1954, người Anh đã đạt được thắng lợi rõ ràng đối với các Đồng minh của họ. Mặc dù lúc ấy lực lượng của Mỹ đã tiến đến núi Harz, nơi cất giấu tài liệu về V2 và cũng là nơi tập trung phần đông các chuyên viên về hỏa tiễn của Đức. Sở tình báo Anh đã biết từ lâu Nga và Mỹ đang cạnh tranh để tìm tài liệu về vũ khí V2 và tìm những người đã thực hiện hỏa tiễn duy nhất có tầm hoạt động xa, hiện đang có trên thế giới.

        Huzel, Tessmann và 7 người lính đã giúp họ đang rời làng Dornten. Họ đang vượt qua một nước Đức hỗn độn và nguy khốn như đang ở trên bờ vực thẳm. Tuy nhiên 2 năm trước đây tình thế hoàn toàn khác hẳn. Trong lúc chính phủ Anh tin chắc chắn thắng lợi đã nằm trong tay mình thì đùng một cái quân Đồng Minh thất trận một cách đau thương. Tất nhiên chính phủ Anh phải lập tức điều tra cho ra lý do cuộc thất bại này. Vì quyền lợi của nước Anh, nói riêng và quyền lợi của phe Đồng Minh nói chung, chính phủ Anh nỗ lực tìm cho được những tin tức liên quan đến những việc bắt giữ những chuyên viên V2 và việc khám phá nơi chôn giấu tài liệu ở Dornten. Chính Ducan Sandys được ủy thác nhiệm vụ này
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 11:04:16 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2020, 11:27:21 pm »

         
*

*       *

        Đó là một người cao lớn, nở nang, tóc nâu dợn song. Vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười đầy thiện cảm. Tuy nhiên chân lại đi cà thọt một cách rõ ràng. Anh ta là một người trẻ tuổi thuộc nhóm bảo thủ mà tương lai đang lên như diều gặp gió. Anh ta là chồng của Diana, ái nữ của Tổng thống Winston Churchill.

        Đó là vào khoảng tháng 4 năm 1943, mới 34 tuổi Sandys đã được đề cử một loạt công tác đòi hỏi nhiều tế nhị. Chính những công tác này, về sau đã đưa Sandys giữ những chức vụ cao cấp trong chính quyền ( Sandys lần lượt giữ chức Bộ trưởng Không quân, Bộ trưởng Quốc phòng, tháng 6 năm 1964, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và Liên hiệp Anh).

        Các vị chỉ huy tham mưu Anh quốc điên đầu về những báo cáo tới tấp nói về những thí nghiệm về vũ khí bí mật của người Đức. Họ yêu cầu thủ tướng Churchill giao cho Sandys cứu xét vấn đề này. Sau một tháng vùi đầu trong việc nghiên cứu, Sandys đang sửa soạn đệ trình bản báo cáo đầu tiên lên văn phòng Bộ Chiến tranh.

        Cuộc nghiên cứu này không mấy gì hào hứng. Tuy nhiên anh ta hy vọng rằng văn phòng Bộ sẽ chia sẻ với anh ta những điều cấp báo để cho hành động có hiệu quả. Các vị chỉ huy phe Đồng Minh không phải là những người chỉ biết lạc quan, nhưng họ tin chắc rằng chiến thắng sắp về tay họ. Quân Đức đã mất Bắc phi, thua trận Stalingrad, không kiểm soát được không phận. Tiếp đó phe Đồng Minh lại đổ bộ lên đảo Cicile ( thuộc Ý). Sau cuộc điều tra vất vả này, Sandys đã đi đến những kết luận lạ kỳ, khó tin. Những kết luận này ly kỳ đến nỗi chúng có thể làm đề tài cho tiểu thuyết trinh thám. Cuộc điều tra đã xác minh được rằng ở nước Đức đã thực hiện được những vũ khí có khả năng đảo ngược tình thế và nghiêng thắng lợi hiển nhiên về phía địch.

        Khi bắt tay vào việc điều tra, trước tiên Sandys chú ý đến các “bức thư từ Oslo” do Sở tình báo nhận được từ tháng 11 năm 1939. Những bức thư nặc danh này chắc chắn do một nhân vật cao cấp người Đức thuộc nhóm chống lại bọn Quốc Xã. Chúng cho biết từng chi tiết rõ ràng về từng giai đoạn của loại khí giới mới đang nghiên cứu tại Đức. Trong đó có cả việc thử hỏa tiễn có tầm hoạt động xa đang thực hiện tại một hoang đảo trên biển Baltique.  Các “bức thư từ Oslo” có sắc thái mơ màng như văn của Jules Verne, nên người ta xếp chúng lại và không để ý đến nữa.

        Tiếp đến, Sandys quan sát những bức hình do D. W. Stevenson chụp ngày 15 tháng 5 năm 1942. Vị Trung úy này có nhiệm vụ chụp hình những chiếc khu trục hạm Đức đang nằm trên vịnh Swinemunde từ trên cao độ, từ chiếc phóng pháo cơ của ông ta. Sau khi hoàn tất công việc, ông ta lại bay quần trên một làng nhỏ cạnh Peenemunde, nằm trên phía Bắc đảo Usedom. Ở đó, tình cờ ông ta khám phá ra một phi trường mới của người Đức. Vì trong máy ông ta còn vài phim ảnh nên ông ta bấm nốt cho xong. Không ngờ khi quan sát những bức hình đó, người ta lại phát giác ra một vùng đất được bao bọc bởi những cái băng nhỏ hình tròn và những dãy nhà kiến trúc kì lạ. Tuy nhiên, sau rốt thì những bức ảnh cũng không hơn số phận của “ bức thư từ Oslo”. Họ cũng dẹp chúng qua một bên và không thèm nhớ đến nữa. Nhưng Sandys lại muốn có những bức hình chi tiết về đảo Usedom.

        Rồi Sandys lại nghiên cứu đến những báo cáo từ Đan Mạch, Thụy Điển, Nauy và Ba Lan gửi sang trong sáu tháng qua, kèm theo nỗi lo sợ thường xuyên. Những phúc trình này thường mơ hồ, phần nhiều chỉ nói đến những lời đồn đãi của dân chúng, rồi chúng lại thình lình đứt quãng nên rất khó hiểu. Thí dụ như những tin tức do cơ quan tình báo Đan Mạch gửi sang. Họ cho biết những ngư phủ đã trông thấy ngoài khơi đảo Bornholm những vật lạ xẹt lên trời với một vệt lửa sáng. Những vật này dường như xuất phát từ Peenemunde, một địa phương thuộc một hòn đảo gần bên đảo Usedom. Cụ thể hơn hết là các bằng cớ do cơ quan đặc biệt của lực lượng bí mật Ba Lan gửi đến. Họ quả quyết rằng người Đức đã thiết lập một cơ sở nghiên cứu ở Peenemunde. Những người tù Ba Lan đã bị đày ra đây. Người ta giam họ ở Trassenheide, đây là trại tập trung tất cả những người lao động ngoại quốc ở Usedom. Trời đã xui khiến nên hai tội đồ Ba Lan vốn là quân kháng chiến có kiến thức kỹ thuật đã tìm ra được nơi bí mật của người Đức. Một hôm, nhân khi làm công tác tạp dịch nhà vệ sinh, họ đã len lỏi vào được một nơi có thể gọi là vùng cấm địa: Xưởng chế tạo bí mật của người Đức. Khi đi ngang qua một nhà kho, thấy cửa kho hé mở, một trong hai người đã nhìn vào trong. Y phát giác được trong kho có một loại vũ khí hình dáng giống như một chiếc thủy lôi không có cánh. Nó tương tự như một chiếc máy bay thu nhỏ lại, nhưng máy bay này lại không có chỗ ngồi cho phi công, cũng không có cả buồng lái. Người Ba Lan này thông báo từng chi tiết tỉ mỉ về Luân Đôn. Y lại gửi kèm theo cả một bản đồ nguệch ngoạc về căn cứ ở Peenemunde.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 10:08:07 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2020, 11:30:54 pm »

   
        Sandys nghĩ rằng: tất cả tin tức nhận được đều quy về một điểm: Peenemunde có liên quan đặc biệt đến loại vũ khí mới bí mật của người Đức. Đây là một thị trấn nhỏ, hẻo lánh, hay đúng hơn là một làng chài lưới tầm thường, ít thông thương với những bãi tắm thanh lịch của miền duyên hải Baltique. Muốn tìm hiểu được điều bí mật ở đây thì phải làm sao tìm cách cho một vài nhân viên am tường khoa học len lỏi đến tận nơi được. Vấn đề này thật khó mà thực hiện nổi, mặc dù cơ quan tình báo đã sử dụng cả một hệ thống gián điệp bủa giăng khắp Âu châu.Khi cuộc chiến có vẻ bất lực cho Đức, thì cơ quan cảnh sát của họ đã lo tăng cường  biện pháp phòng thủ an ninh và thiết lập một vành đai bất khả xâm nhập xung quanh Peenemunde. Sự phòng thủ nghiêm ngặt này chính nó lại là sự tố cáo. Thật không có gì vô lý cho bằng người Đức nỗ lực canh phòng một cơ sở nghiên cứu tầm thường như bao nhiêu cơ sở nghiên cứu khác.

        Sandys tin chắc rằng Peenemunde phải là nơi hoạt động đặc biệt lắm. Nhưng hoạt động thuộc loại gì thì không thể biết chính xác được. Bây giờ ông ta lại áp dụng biện pháp nghe ngóng qua đài phát thanh Đức. Đài này càng ngày càng nói nhiều về một loại vũ khí mới, một “ khí giới thần diệu” sẽ đem về chiến thắng cho “ Đế quốc Đức”. Nhưng người ta không đưa ra một bằng cớ đích xác nào về “khí giới thần diệu” này. Có lẽ đây chỉ là một sự tuyên truyền bịa đặt thông thường nhằm mục đích phấn khởi tinh thần dân chúng Đức, sau trận thảm bại ở Starlingrad, sau những cuộc oanh tạc rùng rợn của không lực Đồng Minh. Nhưng đối với Sandys, điều này cũng đúng một phần nào nhưng không phải là tất cả những điều mà ông ta muốn biết.  

        Giả sử như thứ vũ khí mới này có thật thì nó ra thế nào? Đó là những khẩu đại bác có tầm xa? Nếu vậy, có phải chăng đây là thành quả mà lý thuyết gia Grosse Bertha đã đưa ra trong cuộc chiến năm 1914. Hay đó là những phi cơ không người lái? Người Mỹ đã thí nghiệm và thành công về loại này trong trận chiến tranh trước.

        Hoặc những hỏa tiễn có tầm sát hại lớn? giả thuyết sau cùng này có vẻ kì dị , nhưng với Sandys thì hữu lý hơn cả.

        Thật là không dễ dàng mà đánh lửa Sandys! Ông ta đúng là người thích hợp với loại công tác này. Ông nhạc của ông ta, Thủ tướng Churchill cũng hài lòng khi thấy ông ta được đề nghị sứ mạng ấy. Hơn nữa rể của ông cũng không phải dốt về loại hỏa tiễn. Tháng 11 năm 1940, là sĩ quan pháo binh, Sandys được chỉ định chỉ huy pháo đội Z, đơn vị về hỏa tiễn đầu tiên của quân lực Anh. Mặc dù do đơn vị này chỉ sử dụng những súng cao xạ phòng không, nhưng Sandys cũng rất thích và để ý đến khả năng có thể đạt đến những vũ khí to lớn hơn nữa.Tất cả những gì liên quan tới vũ khí này đều được Sandys tìm hiểu một cách thấu đáo. Nhưng sự nghiệp binh bị của ông ta thình lình bị gãy đổ một cách phũ phàng. Một đêm nọ trên chuyến xe mở hết tốc lực hướng về Cardiff, tên tài xế của ông ta đã ngủ gục và lao đầu vào một bức tường nhẹp nạt. Ông ta bị thương ở hai chân và phải chịu tàn tật. Và giờ đây, với chức vụ Thứ trưởng Bộ Tiếp vận, ông ta lại nghiên cứu đến vấn đề hỏa tiễn. Nhưng lần này, không phải với tấm lòng thích thú nữa.

        Theo hiểu biết của ông ta, hỏa tiễn thật ra không phải là loại vũ khí mới mẻ gì. Vào năm 1323, người Trung Hoa đã đã dùng những “ phi hỏa tiễn” tức là những mũi tên lửa để đánh đuổi giặc Mông Cổ. Năm 1807, William Congreve đã san bằng một phần lớn thủ đô Copenhague của Đan Mạch với những hỏa tiễn dùng nguyên liệu đặc. Người ta còn tìm thấy trong bài quốc ca của Mỹ những lời bóng bẩy nói về “ ánh hồng của hỏa tiễn” . Một giáo viên người Nga tên Tsiolkopsky đã xuất bản năm 1903 một quyển sách nhắc người ta nhớ đến việc có thể nhờ “ hỏa tiễn” đưa người ta đi du lịch trong không gian. Năm 1926, lần đầu tiên trong lịch sử một người Mỹ tên Robert Goddard đã phóng hỏa tiễn bằng nhiên liệu lỏng và đã thành công.

        Còn người Đức, có thật họ đã thành công, họ đã vượt qua những bước đầu chập chững rồi chăng? Họ đã tiến tới một giai đoạn đủ để đe dọa người khác rồi chăng? Năm 1923, có một giáo sư tên là Hermann Oberth đã xuất bản một cuốn sách nhan đề “ Hỏa tiễn liên hành tinh trong không gian”. Tuy chỉ là quyển sách nhỏ nhưng rất đáng chú ý. Trong sách đó tác giả đưa ra những căn bản kỹ thuật rất quan hệ cho những cuộc nghiên cứu sau này. Những điều nghi ngờ của Sandys khiến cho ông ta thêm cương quyết hơn nữa. Ông ta nhờ Cơ quan tình báo điều tra những nhà bác học Đức và nghiên cứu tỉ mỉ những tác phẩm quân sự xưa cũng như về thương mãi của người Đức. Công tác này đã đem về cho ông ta một vài tin tức nhưng không có điều gì thật sự khác thường cả. khoảng 30 năm trước đây, có một toán người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết đã thành lập một hội “ du lịch không gian” . Họ đã phóng những hỏa tiễn còn thô lậu ở Raketenfluplatz, một bãi đất trống ở Bá Linh. Danh tính của những người này cũng không giúp được gì cho các cố vấn khoa học của Sandys. Những chuyên viên này đã am tường từng chi tiết lý lịch của tất cả các nhà khoa học Đức có khả năng đẩy mạnh cuộc nghiên cứu vũ khí mới. Nhưng không có người nào có vẻ chú trọng đặc biệt về hỏa tiễn.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 10:08:30 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2020, 08:35:01 am »

    
        Tuy nhiên trong lúc ấy có một vị tướng người Đức bị bắt và khi bị điều tra, như trăm ngàn tù binh khác đã thừa nhận có trông thấy những hỏa tiễn thật to lớn. Lúc ấy, ông ta không để ý gì đến chúng cả, nhưng có nghe nói là chung dùng để đem chiến thắng về cho nước Đức. Một vị tướng khác, cũng là tù binh xác nhận điều trên rất đúng. Cả 2 người đều không cho biết những chi tiết cần thiết, nên Sandys lại cầu cứu đến cả Sở tình báo. Sở này trả lời một cách vô hy vọng: không thể nào cho người đột nhập vào Peenemunde được, dù là hoạt động gì đi nữa vẫn hoàn toàn nằm trong vòng bí mật. Chỉ có những người đang hoạt động tại đó và vài người có chức tước thuộc cơ quan đầu não của Đức Quốc xã mới biết.

        Sandys lại quay về hỏi ý kiến những cố vấn khoa học của ông. Họ xác nhận với ông rằng nay cả người Mỹ và người Nga cũng chỉ chế tạo được những hỏa tiễn có tầm tác xạ ngắn mà thôi. Rồi dường như sợ rằng mình đã đánh giá quá thấp khả năng kỹ thuật của người Đức, những chuyên viên Anh lại nói rằng: người Đức có cố gắng hết sức để thực hiện một hỏa tiễn có tầm sát hại rộng lớn đi nữa thì họ cũng không thể nào sản xuất hàng loạt đủ sức để đe dọa chúng ta trong một thời gian ngắn gần đây. Nhưng đối với Sandys, ngay cả việc người Đức sắp sửa hoàn tất được một loại vũ khí mới cũng là một điều nguy hiểm không nên khinh thường.

        Còn nếu vũ khí bí mật này lại chính là những hỏa tiễn khổng lồ thì tình thế thật là trầm trọng. Nhưng đối phó với vấn đề này không phải là sứ mạng mà người ta đã ủy thác cho ông. Ông còn một vấn đề nữa, vấn đề này đã làm các vị chỉ huy Đồng Minh phải lo lắng vô cùng nhưng dân chúng thì hoàn toàn không hay biết gì cả. Từ mùa hè năm 1942, tại Hoa Kỳ người ta nỗ lực nghiên cứu một dự án về bom nguyên tử. Nhưng từ tháng chạp năm 1938, 2 người Đức là Otto Hahn và Fritz Strassmann đã tìm ra nguyên lý phân thể của chất Uranium, chất căn bản để chế tạo vũ khí hạch tâm. Không biết người Đức đã dùng nguyên lý này để thực hiện những gì? Điều này không ai biết, nhưng có điều chắc chắn: họ đã nghiên cứu về nguyên tử năng. Nghĩ đến việc Hitler có thể sử dụng một hỏa tiễn tầm xa hay một phi cơ không người lái, người ta thấy lạnh cả xương sống. Đối với Sandys thật không có gì rùng rợn hơn nếu những vũ khí này được trang bị thêm bằng một lực lượng nguyên tử.

        Sau khi xem xét lại những tài liệu li ti, rời rạc, hỗn độn có khi khủng khiếp nữa mà ông ta đã thu thập được, Sandys bắt đầu thảo phúc trình. Các nhân viên của văn phòng Bộ Chiến tranh đã trích ra một đoạn khá quan trọng:

        “ Dường như từ lâu rồi, người Đức đã tìm cách thực hiện một hỏa tiễn khổng lồ có khả năng phóng tới một vị trí thật xa. Công việc này được thực hiện song song với việc phát triển phản lực cơ và hỏa tiễn phi lôi. Hiện chúng ta có rất ít tài liệu để biết thực trạng những cuộc nghiên cứu này. Tuy nhiên, một vài sự kiện hiếm hoi đang có, khiến chúng ta có thể nghĩ rằng, các cuộc nghiên cứu trên rất tiến bộ. Vì nằm trong tầm tác xạ, nên Luân Đôn có thể là mục tiêu được nhắm đến”.

        Đúng vậy, theo các điều xác nhận trên thì các hỏa tiễn và phi lôi tiễn đầu tiên sẽ không có hiệu lực gì đối với những mục tiêu quân sự đặc biệt. Họ chỉ phóng liều chúng xuống những thành phố đông dân mà thôi. Văn phòng Bộ Chiến tranh đồng ý với Sandys là Luân Đôn đang bị đe dọa nặng nề, nhưng biện pháp phòng thủ thì chưa ai đồng ý với ai cả. Vào tháng 2 năm 1943, nhóm đặc công đã làm nổ tung một cơ xưởng ở Nauy sau khi phát giác ra việc nó cung cấp nhiên liệu cho người Đức. Nhưng người Anh không thể áp dụng biện pháp này ở Peenemunde, vị trí này được canh phòng cẩn mật và lại nằm trong lãnh thổ nước Đức.

        Người ta lại thảo luận về đề nghị của Sandys: oanh tạch Peenemunde. Các phi công không đồng ý biện pháp này, họ cho rằng Peenemunde ở quá xa phạm vi oanh kích thường xuyên của phóng pháo cơ. Hơn nữa những cuộc tấn công như thế này rất nguy hiểm và quân Đồng Minh phải trả bằng một giá rất đắt. Vả lại chưa có bằng cớ rõ ràng xác định rằng người Đức đang thực hiện chế tạo hỏa tiễn hay vũ khí bí mật nào đó ở Peenemunde.

        Sau rốt, Sandys nhận được chỉ thị phải gia tăng việc tìm kiếm những tài liệu cụ thể và áp dụng phương tiện gián điệp một cách tối đa. Hình như chỉ có phương tiện này là biện pháp duy nhất có thể vén được bức màn bí mật đang bao trùm đảo Usedom.

        Gián điệp ở dưới đất thì không dùng được rồi, bây giờ chỉ do thám bằng đường hàng không. Những chiếc spilfire và Mosquitoes vần vũ trên không phận biển Baltique, từ trên cao độ, họ chụp không biết bao nhiêu là hình, mong tìm cho được một dấu hiệu, để xác định nghi ngờ của Sandys là đúng.
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Mười, 2020, 02:13:50 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2020, 08:37:19 am »

   
        Không bao lâu người ta tìm được ngay những bằng cớ xác đáng. Ngày 22 tháng 6 năm 1943, một trung sĩ hoa tiêu tên Peek đã rửa được những tấm ảnh thực rõ. Y chuyển chúng đến viên sĩ quan nữ trợ tá Không quân Constance Babington Smith. Trước đây cô Constance cũng hay tò mò quan sát kỹ lưỡng từng tấm hình. Công việc của cô là tìm kiếm “ một cái gì bất thường”. Mặc dầu không biết cái bất thường đó là cái gì. Cái bất thường mà cô ấy tìm được là: bốn chiếc phi cơ nhỏ không giống bất kì chiếc phi cơ nào mà cô đã từng thấy. Chúng không có đuôi và để lại đằng sau chúng một làn khói lạ đen đen.

        Các vị đại úy Andre Kenny và Trung tá Hugh Hamshaw Thomas cũng đã tìm thấy những chi tiết khác lạ trong cùng bức hình ấy. Ống kính của họ cũng đồng thời cũng thâu nhận được hai vật lạ giống như chiếc thủy lôi, dài độ 12 thước, đặt lên một loại xe “rờ  mọt” đang chiếu lấp lánh dưới ánh mặt trời. Người Anh chứng nhận chúng đích thực là loại hỏa tiễn mà tầm hoạt động có thể xa đến 200km. Về phần các máy bay cụt đuôi mà Constance Babington Smith đã nhận thấy thì những nhà nghiên cứu cho rằng đó là các bộ máy phản lực. Về sau cô Constance lại phát hiện ra các “ phi lôi tiễn” trong các bức hình khác.

        Người ta càng gia tăng thêm công việc quan sát và nhờ đó mới khám phá ra các căn cứ đang được thiết lập trên toàn thể phía Bắc nước Pháp. Đây thật là một tin động trời!Người ta tự hỏi tất cả các kiến trúc kỳ lạ đang chĩa thẳng vào thành phố Luân Đôn có phải chăng là những căn cứ để phóng loại vũ khí bí mật. Những vũ khí bí mật này thật chất là vũ khí gì? Vẫn chưa có câu trả lời nào thỏa đáng. Các tấm ảnh xác nhận một cách khá chắc chắn rằng ba loại vũ khí tối tân khác nhau. Tuy nhiên không thể biết được bằng cách nào, bao giờ và theo lệnh nào chúng sẽ được sử dụng.

        Các điểm nghi vấn này đã gây ra không biết bao nhiêu cuộc tranh luận sôi nổi giữa các cố vấn khoa học của thủ tướng Churchill. Một nhóm thì ủng hộ lập trường của Sandys. Nhóm này nghĩ rằng mối nguy cơ trầm trọng nhất là mối nguy cơ của một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn có tầm xa. Nhóm thứ 2, cũng là nhóm rất có thế lực, lại tin rằng loại hỏa tiễn tác động còn lâu mới hoạt động được. Cái họa trước mắt là loại phi cơ không người lái. Nhóm sau hết thì lại cho rằng tất cả chỉ là một sự quấy phá nhằm mục đích chi phối lực lượng Đồng Minh hầu làm suy giảm hiệu năng chiến đấu của họ. Theo nhóm họ, tất cả những bức không ảnh chụp được không phát giác được điều gì cả. Đó chẳng qua là những bức họa tuyệt xảo mà thôi. Constance đã mô tả giai đoạn đầy lo âu và rối trí này như “ một thời gian hỗn độn vô vọng” lúc đó người ta mò mẫm trong đêm tối để xây những nền móng trên một bãi sình.

        Sau rốt, đa số các cố vấn khoa học đã đứng về phía lập trường của Sandys, người luôn luôn nỗ lực để làm sáng tỏ quan điểm của mình: đó là Luân Đôn đã được chọn làm mục tiêu cho một cuộc không kích mới lạ xưa nay chưa từng có. Tổng trưởng Bộ An ninh lãnh thổ, ông Herbert Morrison đã bắt đầu nghĩ đến viễn cảnh một cuộc tản cư toàn thể dân chúng thủ đô. Bây giờ chính quyền phải làm gấp một cái gì mới được.

        Ngày 29 tháng 6 năm 1943, theo lời khuyến cáo của Ủy ban quốc phòng , thủ tướng Winston Churchill quyết định: Oanh tạc Peenemunde ngay cơ hội thuận tiện đầu tiên. Cuộc tấn công này sẽ là một công tác hoàn toàn của người Anh. Người Mỹ sẽ được thông báo cho biết về những kết luận của bản phúc trình do Sandys đúc kết, khi nào có lệnh mời.

        Những phi công chuẩn bị kế hoạch rất tỉ mỉ, nhưng lòng họ thì không hăng hái chút nào vì họ biết rằng công tác này có vẻ mơ hồ lắm. Họ đã bác bỏ đề nghị ban đầu đưa ra. Đó là tấn công ba đợt bằng phóng pháo cơ xuống mục tiêu, họ viện lý do: bất ngờ là yếu tố then chốt của cuộc không kích này.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 10:09:14 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2020, 08:41:53 am »

  
        
2 - VÀO MỘT ĐÊM TRĂNG

        Tướng Walter Dornberger là giám đốc phân đội “ hỏa tiễn” của quân đội Đức. Sau khi đưa tay gạt tàn điếu xì gà nhỏ, ông đứng lên ra khỏi câu lạc bộ Peenemunde, trở về căn cứ.

        Đó là ngày 17 tháng 8 năm 1943, ông đã trải qua một ngày mệt nhọc. Những tia sáng mặt trời chiếu rọi lên mặt cát trắng và biến mặt đất cằn cỗi ở đảo Usedom thành một vạc dầu sôi. Hơi nóng đầy ẩm ướt này làm cho mọi người khó chịu, thần kinh như căng thẳng. Có lẽ vì vậy nên lúc xế chiều mới xảy ra một cuộc xung đột giữa nhóm nghiên cứu và nhóm sản xuất. Thật là một cuộc xung đột dữ dội, nó đe dọa làm đảo lộn cả chương trình thực hiện hỏa tiễn. Dornberger bị đặt vào giữa thế tấn công cả hai mặt. Ông phải tìm cách để giải tỏa sự nghẹt thở đã đè lên nhóm sản xuất đồng thời phải xoa dịu cơn phẫn nộ của nhóm nghiên cứu. Ông đã dùng bữa với Dr. Wernher Von Braun, vị kỹ sư đầu não của ông, cùng Dr. Ernest Steinhoff đang chịu trách nhiệm về hệ thống điều khiển và kiểm soát ở Peenemunde. Có cả nữ hoa tiêu tập sự tên là Hanna Reistch, hôm nay đến làm khách quý tại căn cứ Peenemunde. Hồi chiều, quay quần giữa đám bạn bè ông đã thấy dễ chịu một chút . Nhưng, bây giờ bách bộ một mình trong đêm tối ngột ngạt, ông cảm thấy mệt trở lại. Ông chợt nhớ đến việc mấy hôm trước đây vị Tổng trưởng Bộ không quân đã thông báo với ông rất có thể quân địch đang chuẩn bị không kích vào căn cứ Peenemunde. Văn phòng của ông đặt tại Bá Linh, khi đến thanh tra ở Peenemunde, ông tạm trú ở chỗ tòa nhà riêng cho khách. Vừa về đến nhà, ông chợt nghe một hồi còi báo động hiệp nhất rít lên lanh lảnh.

        Đây không phải lần đầu ông được nghe báo động ở Peenemunde. Thông thường trên đường tiến đến Bá Linh, các phóng pháo cơ của Anh thường quần tụ trên không phận biển Baltique, nghĩa là ngay trên đầu Peenemunde. Hơn nữa ông vốn không sợ còi báo động chút nào cả. Peenemunde chưa bao giờ bị tấn công vì nó là mục tiêu không đáng kể. Nó chỉ là mảnh đất dài, hẹp và bị cắt thành từng mảnh rời rạc, được sự bảo vệ của các phi cơ tuần thám, các đại bác hạng nặng và các trái khói.

        Còn một lý do nữa, là nó ở ngoài tầm của các khu trục hộ tống và các đợt tấn công chỉ định. Nói một cách khác, phóng pháo cơ muốn đột kích Peenemunde phải đến một mình, không có lực lượng hộ tống và phải chọn vào những đêm trăng thật sáng.

        Như thường lệ, khi có báo động thì tất cả đèn đuốc đều phải tắt, làm sao cho chỉ còn một màn tối dày đặc mà thôi. Nhưng Dornberger lại chú ý thấy trời không hoàn toàn tối hẳn vì một ánh sáng nhợt nhạt, lờ mờ đang tỏa lên nóc dãy nhà đã được ngụy trang. Đó là ánh sáng của vầng trăng vừa ló dạng. Ông phóng nhanh vào phòng và gọi về Bộ chỉ huy phòng không. Bộ chỉ huy trả lời:

        -        Địch quân đang tập trung trên không phận khoảng giữa biển Baltique.

        -        Chúng nhằm hướng nào?

        -        Chưa biết được.

        Dornberger nghĩ: lại một cuộc oanh tạch Bá Linh nữa chứ gì, dầu oanh tạc ở đâu nữa, Ông ta cũng không làm gì khác hơn được. Nghĩ ngợi lan mạn, đoạn ông ta sửa soạn đi ngủ.

        Nếu Ducan Sandys biết được ý nghĩ của Dornberger hay Sở tình báo Anh cho ông ta tiểu sử của vị tướng vô danh tiểu tốt của cơ quan “ Wa Prueff 11” tức “ văn phòng các vũ khí xạ kích đặc biệt”, thì màn bí mật ở Peenemunde được vén lên tức khắc. Nó sẽ làm cho nỗi lo lắng của Sandys đã nặng nề lại càng nặng nề lên gấp bội.

        Dornberger sinh trưởng ở Giessen, một ngôi làng nhở cạnh Francfort. Cha là một dược sĩ. Thuở nhở, cậu bé Walter thường mong mỏi sẽ trở thành một kiến trúc sư. Nhưng đến tháng 8 năm 1914, cậu phải nhập ngũ. Tháng 10 năm 1918 khi là trung úy pháo binh thì bị sư đoàn 2 thủy quân lục chiến Mỹ bắt làm tù binh. Rồi người Mỹ lại giao Dornberger cho người Pháp. Suốt hai năm dài trong nhà giam, không lúc nào Dornberger không nghĩ tới việc tháo cũi sổ lồng.

        Được trả tự do, Dornberger trở về một nước Đức đang làm mồi cho lạm phát và thất nghiệp. Không ai cần dùng tới những vị Trung úy trẻ chưa có kinh nghiệm gì cả. Ông ta cho rằng có thể ở lại trong quân đội Đức nhỏ bé là điều diễm phúc. Quân đội này được giới hạn ở con số 100.000 người theo hiệp ước Versailles.

        Sau năm năm theo đuổi việc học ở Đại học Bá Linh, Dornberger tốt nghiệp với bằng kỹ sư. Rồi ông được bổ về bộ phận “ xạ thuật” thuộc văn phòng vũ trang. Hiệp ước Versailles cấm người Đức tạo đại bác  dài quá 3 inches, nhưng không đả động gì đến loại hỏa tiễn cả. Đến năm 1930, với cấp bậc Đại úy, Dornberger được đề cử một công tác mà phần đông sĩ quan chuyên nghiệp và đầy tham vọng chê là tầm thường, vô vị và có vẻ khôi hài nữa. Đó là công tác bắt đầu xây dựng chương trình chế tạo hỏa tiễn phục vụ quân đội.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 11:04:54 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2020, 08:45:14 am »

 
        Dornberger thiết lập một cơ sở thí nghiệm ở Kummersdorf West, cách Bá Linh ba trăm cây số. Ông kêu gọi sự hợp tác của các thanh niên trẻ tuổi nhưng đầy nhiệt thành. Những người này đã không tìm được một chỗ đứng ở ngân hàng cũng như xí nghiệp tư nhân. Ngày mồng 1 tháng 10 năm 1932, ông đã thâu nhận một sinh viên 21 tuổi tên Wernher Von Braun, sau này là phụ tá kỹ thuật của ông.

        Hitler lên cầm quyền năm 1933, ông ta rất say mê vũ khí, bất kể loại gì, nhưng rất hờ hững với hỏa tiễn. Ông ta chỉ đến thăm cơ sở thí nghiệm tiễn  ở Kummersdorf có một lần, nhưng cũng rất vội vã.

        Tuy nhiên năm sau , 1934 Tư lệnh quân lực Đức là tướng Von Fritsch có đến tham dự cuộc thí nghiệm phóng hỏa tiễn một lần và lần ấy lại thành công hoàn toàn. Ông tự nhận đỡ đầu cho Dornberger. Người kế nghiệp ông là Von  Brauchitsh  đã tặng cho Dornberger và toàn thể cộng sự viên gồm 90 người, một căn cứ trang bị hoàn hảo hơn đặt tại Peenemunde. Chính ở đây, người ta đã theo đuổi rất phấn khởi về hỏa tiễn loại A( loại A gồm có A1 nặng 22.5kg, dài 1.33m hoàn tất năm 1933, còn A4 là kiểu thứ 4).

        Mãi cho đến tháng 3 năm 1939 vào một buổi sáng giá buốt và ẩm ướt, Hitler mới trở lại thăm Dornberger, coi ông này đã làm được gì. Nhưng căn cứ ông đến vẫn là căn cứ ở Kummersdorf chứ không phải ở Peenemunde. Von Braun muốn trình bày với Hitler về những hỏa tiễn sau này có thể dùng trong việc du hành trong vũ trụ, nhưng Dornberger lại khuyên Von Braun chớ hở môi về viễn cảnh ấy. Dornberger và Von Braun đưa Quốc trưởng đi kinh lý toàn thể căn cứ, nhấn mạnh về tiềm thế chiến lược của loại hỏa tiễn tầm xa hiện đang còn ở thời kì ấu trĩ. Hitler lắng nghe một cách rất lịch sự, nhưng Dornberger biết ông ta không đặc biệt chú ý đến loại vũ khí này. Ông chỉ quan tâm đến loại khí giới dùng được ngay tức khắc, chứ không phải trong một tương lại mơ hồ.

        Sau khi chiến thắng bằng cuộc tấn công chớp nhoáng ở Ba Lan, ở Pháp vào những năm  1939-1940, Hitler lại loại bỏ những ưu tiên tuyệt đối dành cho Peenemunde. Ông phải trả giá rất đắt về quyết định này: ông có thể bại trận.

        Mỗi khi nghĩ đến việc trên, Dornberger nghiến răng tức tối. Rồi bây giờ vào năm 1943 khi mà những vũ khí cổ điển đã trở nên bất lực thì người ta lại quấy rầy ông, bắt ông phải nỗ lực gấp đôi để bù lại thời gian đã bỏ lỡ. Nếu năm 1940 Quốc Trưởng đừng hủy bỏ quyền ưu tiên của Peenemunde thì bây giờ hỏa tiễn sắp hoàn tất rồi. Tuy nhiên những kỉ niệm của Dornberger không hoàn toàn là những kỉ niệm buồn như trên mà thôi. Ông nhớ lại một ngày thật tươi sáng , đó là ngày 3 tháng 10 năm 1942 vào khoảng giữa trưa, ánh sáng mặt trời chiếu lấp lánh. Đứng trên nóc tòa nhà thí nghiệm, tay cầm máy vi âm ông hét to: “ Start Frei”. Sau 2 lần phóng vô hiệu quả, một trái A4 đã được phóng lên với cao độ gần 100km để rơi xuống với tốc độ 6.600km/h và cách điểm xuất phát 20km.

        Chiều hôm đó Dornberger tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời Dr, Waler Thiel, Von Braun, Steinhoff, Oberth và vài người trong nhóm đến tham dự. Tất cả đều uống quá chén nhưng điều này không đáng trách vì họ ăn mừng cho cuộc thí nghiệm chứng minh rằng việc phóng hỏa tiễn tầm xa đã thành tựu.

        Hỏa tiễn A4 là vật chế tạo đầu tiên mà quỹ đạo của nó lướt qua tầng thượng khí quyển, nên nó cũng chứng tỏ rằng sức đẩy bởi hỏa tiễn có thể giúp cho việc thực hiện cuộc thám hiểm liên hành tinh.

        Dornberger ứng khẩu đọc một bài diễn văn ngắn: “ hôm nay là ngày khai sinh của phi thuyền không gian”. Rồi ông nhắc các cộng sự viên của ông rằng công việc của họ là phải cải tiến chiếc hỏa tiễn cho thành một vũ khí chiến tranh. Hướng về Von Braun, người đang cao hứng tột độ ông nói thêm: “tôi báo trước với anh, chứng “bịnh nhức đầu” của anh chưa hẳn hết đâu, nó chỉ mới bắt đầu mà thôi”!. Tuy nhiên đêm đó khi nằm trên giường, Dornberger đã nghĩ: mình sẽ có tất cả những gì mình cần đến để xúc tiến việc sản xuất hàng loạt A4.

        Dornberger đã không nhầm khi tiên đoán với Von Braun chứng nhức đầu chỉ mới bắt đầu: chính phủ đã cúp quyền ưu tiên cho chương trình hỏa tiễn của ông. Người ta chỉ cung cấp vật liệu và kỹ thuật gia cần thiết một cách nhỏ giọt. Thêm chế độ bàn giấy của phe phái càng làm cho công việc chậm chế hơn.

        May mắn cho Dornberger là ông đã có một người bạn thân là Albert Speer làm Tổng trưởng Bộ quân lực. Ông này ủng hộ Dornberger hết lòng. Dornberger nhờ ông can thiệp với Hitler, người duy nhất có khả năng làm A4 thành hình một vũ khí tác chiến. Speer liền đi yết kiến Hitler. Khi trở về Speer cho Dornberger biết: Fuhrer không quan tâm đến chương trình hỏa tiễn. Lý do đưa ra làm Dornberger giận run người: Hitler nghĩ rằng không có một trái hỏa tiễn nào có thể phóng tới Anh Quốc.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 10:09:56 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2020, 10:21:52 pm »

    
        Tuy nhiên, không phải là Fuhrer không có những giấc mộng khác, vì ngày 07 tháng 7 năm 1943, Speer đã lệnh cho Dornberger, Von Braun và Steinhoff phải lên ngay một chiếc máy bay để đến Tổng hành dinh của Hitler ở Đông Phổ, nơi được mệnh danh là “ Hang sói”. Họ phải mang theo tài liệu để chứng minh A4 sắp thành tựu, trong đó có cả cuốn phim quay cuộc phóng hỏa tiễn ngày 03 tháng 10 năm 1942.

        Họ chiếu cuốn phim cho Fuhrer xem cùng với lời diễn giải của Von Braun. Khác với lần trước, lần này Fuhrer tỏ ra xúc động vô cùng. Ông thật không giống chút nào với con người mà họ gặp hồi tháng 3 năm 1939. Đó là con người có vẻ mệt mỏi, vai buông xụi xuống, lưng hơi còng, da nhăn nheo và nhợt nhạt. Nhưng trong đôi mắt luôn luôn ngời sáng lại chiếu lên một cái nhìn đầy ảo giác một cách lạ lùng.  Khi hình ảnh cuối cùng vừa dứt, ông chồm ngay đến Dornberger, bắt tay ông một cách cuồng nhiệt và kêu lên:

        “ Tại sao tôi đã không tin vào thành công của ông,? Nếu chúng ta có hỏa tiễn này vào năm 1939 thì chúng ta không bao giờ lâm vào cuộc chiến ngày nay!”

        Ngưng một phút ông nói tiếp:

        “ Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ tạ lỗi với hai người, người thứ nhất là Thống chế Von Brauchitsch, tôi đã không nghe ông ta, khi ông ta nói đi nói lại với tôi hàng chục lần là việc làm của quý ông thật quan trọng. Người thứ 2 là ông đó, ông Dorberger ạ. Tôi chưa bao giờ nghĩ sự nỗ lực của quý ông thành công đến như vậy”.

        Sau đó cơ sở thí nghiệm ở Peenemunde được hưởng quyền ưu tiên tối thượng. Nhưng niềm vui của Dornberger có pha lẫn ít nhiều bực bội. Ngay ngày hôm sau người ta ra lệnh cho ông phải bắt lại cho kịp thời gian đã mất và phải thực hiện một kì công về khoa học vô tiền khoáng hậu. Bây giờ nước Đức chiến tranh, lại ở trong tình trạng thiêu thốn đủ thứ, mà lực lượng Đồng Minh tiến đến gần kề và mối đe dọa thường trực của những cuộc oanh tạc ồ ạt không lúc nào ngớt. Ngay cả trong thời bình, trong những phòng thí nghiệm im lìm trang bị đầy đủ , Dornberger còn ngại ngần khi nhận lời hứa với Fuhrer. Ông tưởng tượng ngay bây giờ ông đã có thể sử dụng loại vũ khí đó, loại vũ khí mà Tổng trưởng Bộ Tuyên truyền đã long trọng đặt tên là “ vũ khí nhiệm màu”.

        Là một chuyên viên về hỏa tiễn, một kỹ sư tốt nghiệp hẳn hoi, hơn nữa là một quân nhân chuyên nghiệp, Dornberger có cái nhìn thực tế hơn nhiều. Với ông, một khí giới có khả năng tống đi một tấn thuốc nổ xa đến 250km cũng không thể nào thay đổi hoàn toàn được tình thế. Tuy nhiên nếu cách đây 1 năm hay 6 tháng, người Đức sản xuất được hàng loạt A4 thì họ có hy vọng căn bằng được cán cân. Họ có thể chặn đứng được cuộc tấn công xuất phát từ hải cảng Anh Quốc. Tướng Dornberger quyết tâm thực hiện hai mục tiêu trên, tất nhiên với điều kiện người ta để yên cho ông làm.

        Tháng 4 năm 1943, có một vị khách đến thăm Peenemunde. Đó là Heinrich Himmler, lãnh tụ S.S. Mặc dù trung tâm thí nghiệm này thuộc quyền quân đội và không quân. Những người S.S không có trách nhiệm gì với trung tâm này cả, ngoài trách nhiệm bảo vệ an ninh. Trái ngược hẳn với những người khác, Dornberger cảm thấy khá thoải mái trược mặt vị lãnh tụ S.S. Khi Dornberger nói, ông này lắng tai nghe một cách chăm chú. Với chiếc kính cặp mũi, với đôi môi mỏng, Himmler có dáng điệu của một ông giáo làng nhã nhặn. Khi Dornberger trình bày, ông chỉ nhìn mọi vật một cách lặng lẽ. Cho tới khi cáo biệt, ông chỉ nói:

        “ Việc làm của ông hay lắm. Tôi có thể giúp đỡ ông, tôi sẽ trở lại!”

        Và ông đã trở lại thật, ngày 29 tháng 6 năm đó tự lái chiếc xe nhỏ riêng, có bọc sắt. Sau bữa ăn tối, ông đã dành cho Dorberger, Von Braun và một vài người trong nhóm một màn độc thoại suốt năm tiếng đồng hồ. Ông trình bày cho họ nghe lịch sử là gì, triết học là gì, chiến tranh là gì. Sáng hôm sau  ông tham dự 2 cuộc thí nghiệm phóng hỏa tiễn A4, hỏa tiễn đầu tiên bị hỏng, nhưng chiếc thứ 2 được điều hành một cách hoàn toàn. Himmler tự nguyện sẽ tham gia vào việc giúp đỡ chương trình này, bên cạnh Hitler. Bởi vậy, Dornberger vẫn tiếp tục nhìn Himmler như người đối thoại khả ái, dù có chút lạnh lùng.

        Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa 2 cuộc viếng thăm của Himmler, Dornberger đã khám phá ra một câu chuyện khá rắc rối, bạn thân với ông, Đại tá Leo Zanssen, một sĩ quan chuyên nghiệp mà trong quá khứ không có gì đáng chê trách, đảm nhiệm việc chỉ huy quân sự ở Peenemunde trong nhiều năm trời đã bị cách chức vì tội chống lại Himmler. Hơn nữa, có vài vị sĩ quan S.S , những người không biết gì về hỏa tiễn, đã quả quyết rằng chính Dornberger phải chịu trách nhiệm về sự chậm chễ này, chương trình mà ông đã phát động và điều khiển suốt 13 năm qua.

        Vậy thì Himmler, lãnh tụ S.S đã suy tính gì? Cuộc tiếp xúc khó hiểu của ông ta, có ẩn chứa gì? Chương trình A4 là kế hoạch dự trù của văn phòng xạ thuật quân đội, và với tư cách sĩ quan quân lực Đức quốc, Dornberger mới được đề cử chỉ huy. Nhưng Dornberger đã không biết rằng, cơ quan S.S cũng có riêng văn phòng xạ thuật và khắp nơi trên lãnh thổ Đức Quốc Xã họ đã tước đoạt dần dần những đặc quyền truyền thống của quân đội.

        Nếu Himmler có những mưu đồ gì liên quan đến chương trình ở Peenemunde, ông ta sẽ thấy ở Dornberger một đối thủ quyết liệt sẽ phản kháng đến cùng. Đã 48 tuổi, dáng người mập mạp, không cao lớn lắm, mày râu nhẵn nhụi, mặt mày hồng hào, tóc lơ thơ màu xám bạc, chỉ có những cộng sự viên thân cận với ông mới biết bên trong cái trán hói, cái gương mặt mịn màng kia là một tâm hồn quả cảm, là một trí óc tinh nhuệ của những người tiên phong trong ngành hỏa tiễn.

        Một ngày kia, câu chuyện xảy ra ở trung tâm Kummersdorf, Dornberger đã làm một lỗi nhỏ. Vì thói quen lúc nào cũng gấp rút, nên khi tháo một chiếc hỏa tiễn chứa toàn bột đen, ông đã dùng một cái búa và một cây kéo bằng thép, thay vì phải đi lấy cái bằng đồng. Một tia lửa xẹt ra đã bắt cháy bột thuốc và hỏa tiễn đã nổ ngay vào mặt ông.

        Các y sĩ của quân y viện Bá Linh khám bệnh và cho rằng, ông khó có thể sống sót vì những vết thương này. Ai cũng tin vậy, vì ông đã bị phỏng một cách rùng rợn. Khoa giải phẫu chỉnh hình thời đó còn kém nên cũng không giúp gì được cho ông. Ông nằm điều trị một năm trong quân y viện, một mình với người tùy dịch. Hai người đã tự chế lấy một miếng nhựa thơm trị phỏng. Mỗi ngày, trong suốt 10h liền, sau khi thoa một lớp kem lên khắp mình Dornberger, người tùy dịch phải gắp từng hạt, từng hạt bụi đã dính vào và làm loang lổ mặt và tứ chi của ông. Và Dornberger đã thoát chết. Nhìn cái trán và đôi gò má không một nếp nhăn của ông, người nào mới gặp lần đầu cũng lầm tưởng rằng ông là người không hề biết ưu tư. Có lẽ Dornberger phải nghĩ rằng: một người thoát chết vì hỏa tiễn thì có khả năng để sống dai hơn Himmler.

        Năm phút sau khi về tới phòng, Dornberger đã nằm ngủ say sưa, mặc chiếc còi báo động hiệp đầu đang rít lên lanh lảnh bên ngoài. Trời đã quá khuya.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Chín, 2020, 11:05:28 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM