Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:40:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 30 năm phục vụ và xây dựng của ngành Quân y QĐND Việt Nam (1945-1975)  (Đọc 5383 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #60 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2022, 07:59:56 pm »

b) Tổ chức bảo đảm quân y trong chiến tranh đặc biệt

Tuy mới hình thành trong những điều kiện hết sức khó khăn, tổ chức quân dân y chiến trường miền Nam ngay từ đầu đã góp phần đắc lực vào việc tổ chức bảo đảm cho lực lượng vũ trang chiến đấu thắng lợi và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.


Trong những năm đầu có lực lượng vũ trang trước khi thành lập Mặt trận, việc tiếp tế thuốc và trang bị y tế cho các cơ quan quân y, dân y chưa có tổ chức phụ trách. Phần lớn thuốc đều do nhân dân ủng hộ và mua ở địa phương. Cán bộ quân y đã sưu tầm các thuốc lá, bài thuốc gia truyền của đồng bào dân tộc ít người để điều trị. Về sau khi đã có cán bộ, tổ chức dược bắt đầu xây dựng. Người dược sĩ đầu tiền ở miền Nam là dược sĩ Hồ Thu, Ủy viên Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã góp phần tích cực xây dựng ngành dược và đã trực tiếp đào tạo được 4 dược tá trong hoàn cảnh rất khó khăn. Dần dần, đội ngũ cán bộ dược đông hơn.


Ở Nam Bộ đã có 2 dược sĩ trung học, 4 dược tá và 17 nhân viên không chuyên môn vừa làm vừa học, cùng nhau xây dựng cơ sở cho ngành dược ở địa phương. Đến cuối năm 1963, đã có hai xưởng sản xuất do dược sĩ trung cấp phụ trách. Phương tiện trang bị còn rất hạn chế, cả miền chỉ có 1 chiếc cân tiểu ly. Để có phương tiện pha chế anh em trong xưởng đã cắt các chai lọ làm ống đong, phễu lọc, dùng cốc có khắc thêm vạch đo để đong, dùng thùng phuy xăng chế tạo thành dụng cụ cất nước, chế thuốc, dùng vỏ đạn làm ống dập thuốc viên và dụng cụ phẫu thuật, dựa vào dân mua sắm thuyền tán, dao cầu và nhiều dụng cụ khác. Từ hai xưởng dược đầu tiên đã tổ chức được nhiều xưởng khác trong miền.


Ở Khu 5, việc sản xuất thuốc phát triển mạnh vào năm 1962-1963, lúc đầu chủ yếu là thuốc nam và từ năm 1965 cũng sản xuất thuốc tây. Việc pha chế không những làm ở xưởng mà còn được làm ngay ở đơn vị, đằng sau bộ đội đang chiến đấu như trong các đợt hoạt động Việt An, Đèo Nhông, Ba Gia, quân y trung đoàn 1 đã pha tại Đội phẫu thuật các thuốc chiến thương cần thiết như huyết thanh, nô-vô-ca-in, ky-nin tiêm và năm 1965 tỉnh Bình Định đã tự túc 80 % nước cất.


Sự tiếp tế từ hậu phương lớn tuy mỗi ngày một nhiều, nhưng việc sản xuất tự túc tại chỗ rất quan trọng1 (Năm 1962 Đoàn 82 Nam Bộ đã sản xuất được 50.623 ống tiêm, 119.300 thuốc viên, 184 lít thuốc nước, 4.110 cuộn băng, 270 gói băng cá nhân. Năm 1963, Quân y Gia Lai tuy chưa có cán bộ dược đã sản xuất được: 307.580 viên sốt rét, 1447 lít thuốc bổ, 7,5 kg cao động vật). Bên cạnh thuốc tây, thuốc nam đã được pha chế nhiều nhất bằng các nguyên liệu địa phương như chế thuốc sốt rét bằng vỏ dền, thường sơn... các loại thuốc bổ bằng cao động vật, sâm rừng, hà thủ ô. Thuốc tê mê và các loại thuốc chiến thương nhiều khi không đủ, gây khó khăn cho việc cấp cứu thương binh. Thuốc sốt rét có lúc chỉ đủ 25% cho điều trị và 50% cho uống phòng. Nhưng với tinh thần khắc phục khó khăn cao, các cơ sở điều trị đã giải quyết được là nhờ đã dựa vào sư đoàn kết hiệp đồng quân dân y và dưa vào nhân dân.


Trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt, việc trang bị thuốc và dụng cụ còn gặp rất nhiều khó khăn, nhờ có tinh thần tự lực cánh sinh, gian khổ xây dựng ngành được nên cán bộ y tế ở chiến trường miền Nam đã xây dựng được những cơ sở sản xuất đầu tiên, tự túc được nhiều thuốc và dụng cụ bảo đảm cho dân y và quân y làm tròn nhiệm vụ cơ bản cứu chữa cho nhân dân và bộ đội.

- Trong chiến tranh đặc biệt tuy cường độ lao, động trong chiến đấu chưa lớn nhưng phải sinh hoạt công tác và tác chiến trong những hoàn cảnh khó khăn, điều kiện vật chất thiếu thốn, khu vực đóng quân phần lớn là rừng núi nên việc giữ vững số quân bảo đảm sức khỏe để xây dựng lực lượng và chiến đấu thắng lợi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong những năm 1961 đến 1965, trung bình tỷ lệ bảo đảm số quân khỏe là trên 90% trong một thời gian dài, tỷ lệ ốm nghỉ việc hàng ngày là từ 7-10%. Sốt rét vẫn là bệnh chính trong cơ cấu bệnh tật của các lực lượng vũ trang, tỷ lệ nghỉ việc hàng ngày do sốt rét trong một số năm là từ 6-7%, về mùa mưa tỷ lệ này có cao hơn. Sốt rét ác tính là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tử vong. Do điều kiện sinh hoạt thiếu thốn nên các bệnh suy dinh dưỡng nhiều năm cũng tăng như tê phù, quáng gà, loét lưỡi. Các bệnh ngoài da ở một số đơn vị phát triển với tỷ lệ cao từ 8-12%. Các bệnh trên thường thấy ở nhiều đơn vị thồ tải hoặc bộ binh phải cơ động chiến đấu liên tục không có điều kiện cải thiện sinh hoạt, nghỉ ngơi.


Công tác chẩn đoán điều trị từ năm 1963-1964 trở đi có khá hơn. Ở Nam Bộ, hội nghị kỹ thuật bệnh viện tháng ba năm 1963 đã thống nhất được các tiêu chuẩn chủ yếu trong công tác điều trị. Từ chỗ chỉ đơn thuần dựa vào lâm sàng đã có những xét nghiệm cơ bản nên chẩn đoán chính xác hơn, trong chẩn đoán sốt rét, đã chẩn đoán phân biệt được với sốt xoắn trùng, sốt mò, thương hàn...


Tuy mới thành lập, quân y ở miền Nam cũng đã sớm tiếp thu và phát triển truyền thống hoạt động vệ sinh phòng bệnh của quân đội ta thời chống Pháp. Công tác tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh và thực hiện 10 điều kỷ luật vệ sinh đã được thực hiện ở nhiều đơn vị. Khi chưa có màn, quân y đã vận động cán bộ chiến sĩ mua màn tự túc để chống muỗi đốt phòng sốt rét. Các biện pháp hun khói, phát quang quanh nhà ở, mặc quần dài buổi tối, lấy vải màn che miệng hầm đã được thực hiện ở các đơn vị, phổ biến là trong khu vực Biên Hòa, nơi có tỷ lệ sốt rét cao. Chế độ chiến sĩ vệ sinh đã được thực hiện sớm, có đơn vị nhiều chiến sĩ vệ sinh hoạt động tốt được tín nhiệm trong đơn vị và được coi như là người cán bộ thứ ba của tiểu đội sau tiểu đội trưởng và tiểu đội phó. Công tác tuyên truyền vệ sinh được kết hợp giữa quân y và dân y, hầu hết các tỉnh ở Khu 5 đều có đội tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, có tỉnh như Quảng Ngãi có đến ba đội. Mạng lưới vệ sinh viên được xây dựng đến các nóc, các bản, nhân dân địa phương đã giảm bớt các tập quán không hợp vệ sinh như ăn bốc, ăn thịt để lâu ngày. Năm 1964, trong chiến dịch Bình Giã đã có cuộc vận động nuôi quân phòng bệnh có tác dụng tốt bảo đảm sức khỏe cho bộ đội trong suốt cả chiến dịch, hoặc chiến dịch Ba Gia do được chuẩn bị kỹ, công tác nuôi quân phòng bệnh được bảo đảm, nên khi xuất quân tỷ lệ bảo đảm số quân lên đến 97%. Năm 1965, đã có phong trào phòng bệnh chống Mỹ ở Quảng Nam, Quảng Đà và phong trào vệ sinh Ba Tơ quật khởi ở Quảng Ngãi.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #61 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2022, 08:00:33 pm »

Năm 1965, địch bắt đầu sử dụng các chất độc hóa học, tuy chưa có kinh nghiệm phòng chống nhưng nhân dân và bộ đội đã tự túc các phương tiện phòng chống như mang che miệng, áo choàng bằng vải hay ny lông, các chai nước tiêu độc. Bằng các biện pháp thô sơ nhiều đơn vị bị giải chất độc hóa học ngay vào đội hình nhưng vẫn giải quyết được và tiếp tục chiến đấu.


- Trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt các bệnh xá, bệnh viện đều phục vụ chung cho quân đội và nhân dân. Lúc có tác chiến ở khu vực nào, cơ sở điều trị ở khu vực đó được mở rộng thêm hoặc thành lập cơ sở mới. Lúc này đối tượng tác chiến của ta là quân ngụy, vũ khí chúng xử dụng phần lớn là súng bộ binh và súng cối nên tỷ lệ vết thương do đạn thẳng và mảnh đạn là chính. Về cuối chiến tranh đặc biệt, vết thương do mảnh pháo, mảnh bom nhiều hơn nên cơ cấu vết thương cũng phức tạp hơn, bỏng nhất là bỏng do bom napan cũng bắt đầu có nhiều.


Trong bảo đảm quân y cho bộ đội chiến đấu tuy mới được tổ chức nhưng đã sớm hình thành bậc thang điều trị và kết hợp chặt chẽ với y tế nhân dân. Do yêu cầu tác chiến chưa lớn, thường là ở quy mô tiểu đoàn nên quân y trung đoàn thường phân tán thành đội phẫu thuật đi theo đơn vị chiến đấu và một bệnh xá ở phía sau. Tuyến tiểu đoàn thường được tăng cường một bộ phận phẫu thuật làm các phẫu thuật khẩn cấp. Đội phẫu thuật trung đoàn chủ yếu làm các phẫu thuật khẩn cấp và vì vận chuyển khó khăn nên phải xử trí cả các phẫu thuật tương đối hoàn chỉnh và điều trị tạm ổn định mới đưa về bệnh xá tuyến sau được. Bệnh xá trung đoàn ở phía sau nhận thương binh của các đội phẫu thuật và tiếp tục điều trị đến khi khỏi làm nhiệm vụ tuyến điều trị cuối cùng của quân khu. Công tác tải thương trong nhiều chiến dịch đã được tổ chức ngay trong nhân dân nơi có chiến sự để chuyển vận thương binh từ trung tuyến (Trạm phẫu thuật trung đoàn) về bệnh viện dã chiến hoặc bệnh viện hậu phương.


Ở tuyến tỉnh có một đội phẫu thuật lưu động do quân y quản lý và bệnh xá tỉnh, huyện, liên huyện do dân y quản lý. Tổ chức này đã phát huy tác dụng tốt trong việc cứu chữa thương binh và nhân dân bị thương khi đồng bằng chưa mở rộng, quy mô cứu chữa còn nhỏ. Như thế đã tận dụng được khả năng kỹ thuật của quân y và dân y, giải quyết được khó khăn về kinh tế (lương thực, thuốc, các phương tiện khác) vì được cấp ủy địa phương trực tiếp lãnh đạo và cũng tạo điều kiện cho quân y tập trung vào đội phẫu thuật ở tuyến trước. Do điều kiện địa hình của chiến trường miền Nam dài và có nhiều đoạn hẹp nhất là ờ Khu 5 dễ bị chia cắt, bệnh viện khu của cả quân y, dân y đều ở xa, vận chuyển khó nên trong một thời gian dài bệnh xá của tỉnh làm tuyến sau của quân y trung đoàn và tiểu đoàn là phù hợp. Với nhiệm vụ này bệnh xá tỉnh thường được tăng cường để làm được các phẫu thuật cơ bản và có khi cả phẫu thuật hoàn chỉnh và điều trị đến khỏi hoặc gần khỏi bằng cách phân tán trong nhân dân. Cũng do điều kiện phân tán, tác chiến còn ở quy mô nhỏ, việc huấn luyện cho bộ đội, nhân dân biết làm công tác cấp cứu săn sóc người bị thương rất quan trọng.


Thực hiện chủ trương đưa kỹ thuật ra tuyến trước kịp thời giải quyết thương binh nặng, đã tổ chức bệnh viện dã chiến, (chiến dịch Ba Gia Khu 5) hoặc đội phẫu thuật có chuyên viền chấn thương đi trực tiếp phục vụ một chiến dịch (chiến dịch Đồng Xoài năm 1965) và một hệ thống tải thương, thu dung tương đối hoàn chỉnh.


- Từ một số ít nhân viên dân y trưởng thành trong đấu tranh vũ trang của nhân dân, hàng ngũ chuyên môn kỹ thuật cũng phát triển nhanh chóng. Từ hậu phương lớn những người con em miền Nam đã trở về tuy rất ít song đã đặt nền móng cho việc xây dựng trường sở mở các lớp huấn luyện và đào tạo cán bộ.


Từ những lớp học bí mật 5, 7 học viên, đến năm 1961 trường quân y sơ học đầu tiêu ở Khu 5, ở Nam Bộ đã trở thành lập đào tạo cán bộ chung cho cả quân y và dân y nhưng do yêu cầu chiến đấu, đào tạo chủ yếu cho quân y. Trong 2 năm 1961 -1962, đã mở liên tiếp những lớp cứu thương, nha tá, dược tá, y tá, cô đỡ (nữ hộ sinh). Một yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ là phải gấp rút bổ túc tại chỗ những anh em y tá cũ có khả năng xử trí vết thương chiến tranh, cụ thể là giải quyết các vết thương bụng, khâu lỗ thủng ruột, cắt ruột thừa, cắt cụt khẩn cấp..., không để thương binh hy sinh vì những vết thương mà ta có thể cứu chữa được. Từ khả năng cụ thể và yêu cầu thực tế lúc này, hàng ngũ cán bộ sơ căp đã là quân chủ lực của ngành quân dân y, không những số lượng đông, lại phụ trách những đơn vị cơ sở và cả đơn vị lớn vượt khả năng được đào tạo như đội trưởng phẫu thuật tỉnh đội, chủ nhiệm quân y tiểu đoàn độc lập, phụ trách dược chính tỉnh, trung đoàn...


Đến năm 1963, các trường sơ học được chuyển lên thành trường trung học, ngoài việc huấn luyện y sĩ chung, trường còn đào tạo y sĩ, y tá gây mê hồi sức, truyền máu, huấn luyện cho y sĩ về ngoại khoa chiến tranh. Đối tượng học viên đều là những người trưởng thành từ cơ sở lên nên có nhiều kinh nghiệm chuyên môn và đã kinh qua chiến đấu, hầu hết là đảng viên Đảng Lao Bộng Việt Nam, quá một nửa là xuất thân từ thành phần cơ bản nên tuy có nhược điểm văn hóa thấp nhưng đã học tập có kết quả, chất lượng cao rõ rệt nhất là việc xử trí thực tế các kỹ thuật do chiến tranh yêu cầu. Đội ngũ giáo viên ít lại phải kiêm nhiệm nhiều nhưng là những anh em đã trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp có kinh nghiệm phục vụ nên đã khắc phục được nhiều khó khăn về trường sở, phương tiện giảng dạy. Để giải quyết việc học tập sát với thực tế, học viên đã săn bắt được nhiều thú rừng nhất là khỉ vượn để thực tập kỹ thuật ngoại khoa.


Số cán bộ quân y các cấp được đào tạo trong chiến tranh đặc biệt đã góp phần xây dựng các tổ chức quân y, dân y ở chiến trường miền Nam trong những năm đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ và là cơ sở vững chắc cho việc củng cố và phát triển hệ thống tổ chức quân y, dân y trong các giai đoạn về sau.


Sau đồng khởi thắng lợi, lực lượng vũ trang ở miền Nam đã trưởng thành mau chóng, được sự giúp đỡ của ngành y tế nhân dân, tổ chức quân y qua chiến đấu và xây dựng đã phát triển từ không đến có, từ một vài cán bộ phục vụ lẻ tẻ ở các đơn vị đến chỗ đã thành một hệ thống tổ chức. Việc cứu chữa thương binh, bệnh binh đã hình thành các tổ chức điều trị và bậc thang điều trị, việc sản xuất thuốc và đào tạo cán bộ đã có cơ sở chắc chắn.


Từ phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy mà ra, ngành quân y gắn bó mật thiết chặt chẽ với nền y tế nhân dân, ngày nay trong quân y đã có tổ chức riêng, nhưng sự phối hợp dân y, quân y vẫn là truyền thống tốt đẹp của nền y tế ở miền Nam. Sự tiếp tế của hậu phương lớn về mọi mặt góp phần quan trọng làm cho ngành quân y ở chiến trường miền Nam có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ trong chiến tranh đặc biệt và vững vàng đi vào phục vụ trong chiến tranh cục bộ.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #62 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2022, 08:01:04 pm »

c) Phục vụ bộ đội hải quân, phòng không đánh thắng trận đầu chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Ngày 2 và 5 tháng tám năm 1964, để cứu vãn thất bại của chúng trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ", cho máy bay ném bom miền Bắc Việt Nam. Một phân đội tuần tiễu của Hải quân ta nêu cao khí phách anh hùng đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ ra khỏi vùng biển của Tổ quốc. Bộ đội phòng không, hải quân, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngay trận đầu chiến đấu với máy bay hiện đại Mỹ đã lập tức bắn rơi 8 máy bay phản lực Mỹ, bắt sống giặc lái, nêu những gương anh dũng tuyệt vời.


Trong những trận đầu thắng lợi đó, các đồng chí quân y đã góp phần tích cực phục vụ bộ đội chiến đấu. Các đơn vị phòng không 280, 271, một phân đội tuần tiễu của hải quân cùng với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đã trực tiếp chiến đấu với quân thù. Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, quán triệt tình hình nhiệm vụ và nắm được âm mưu địch, công tác bảo đảm quân y được thường xuyên kiểm tra và bổ sung. Tuy biên chế quân y ít, nhưng tất cả chiến sĩ vệ sinh các khẩu đội đều được huấn luyện 5 kỹ thuật cơ bản, băng cá nhân có từ 50 đến 100%, mỗi đại đội có cơ số cấp cứu cho số thương binh cần thiết. Cán bộ quân chính thường xuyên kiểm tra đôn đốc kế hoạch bảo đảm cấp cứu, ở các trận địa đều có hầm thương binh và hào giao thông để chuyển vận về tuyến sau. Các đồng chí quân y ở cơ sở lần đầu cấp cứu thương binh dưới bom và rốc-két đã tỏ ra dũng cảm và hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Khi máy bay địch bắn phá, y tá đại đội đã bình tĩnh băng qua làn đạn, bẵng bó cho thương binh, lợi dụng giữa 2 đợt bắn phá di chuyển từ khẩu đội này sang khẩu đội khác, bảo đảm cấp cứu sớm, nhanh, cất dấu thương binh vào hầm an toàn. Đồng chí y tá của đại đội 3 Đoàn 280 đã nêu gương dũng cảm tận tình cứu chữa đồng đội. Có thương binh bị choáng nặng được chữa choáng đúng kỹ thuật, xử trí bình tĩnh kết hợp với sự chi viện kịp thời của đại đội quân y trung đoàn, nên thương binh đó đã được cứu sống. Do có chuẩn bị trước nên bộ đội đã tự cấp cứu và cấp cứu lẫn cho nhau giải quyết được nhiều trường hợp khó khăn.


Sự giúp đỡ của nhân dân và y tế địa phương, sự hợp đồng tự giác theo tiếng súng chiến đấu cùng nhau đánh thắng giặc Mỹ đã giúp cho việc giải quyết hậu quả của trận đánh được mau chóng. Nhân dân và các nhân viên y tế đã huy động thuyền, phà tiếp cận tàu chiến của hải quân ta để cấp cứu và đưa thương binh vào bờ, giúp bộ đội sửa lại hầm hào ở các trận địa để chuẩn bị cho các trận đánh tiếp.


Qua thử thách đầu tiên mặt đối mặt với quân thù, các đồng chí quân y được sự giúp đỡ của nhân dân đã phần đánh thắng trận đầu giòn giã. Lần đầu tiên trong chiến tranh chống Mỹ, Viện quân y Quân khu 4 đã thực hiện thu dung lớn trong một thời gian ngắn, rút kinh nghiệm sớm nhất về thu dung cấp cứu hàng loạt. Chúng ta cũng đã rút được nhiều kinh nghiệm trong bảo đảm quân y chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ như việc tổ chức cấp cứu ở trận địa cao xạ, cấp cứu trên tàu thuyền và đưa thương binh vào bờ, việc huấn luyện cấp cứu cho bộ đội và việc kết hợp quân y, dân y trong những điều kiện có chuẩn bị và không chuẩn bị.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:36:34 pm »

10. Bảo đảm quân y trong công tác vận tải quân sự  chiến lược.

Chi viện để đồng bào miền Nam đồng khởi thắng lợi, đánh bại chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ là nhiệm vụ lịch sử thiêng liêng của đồng bào miền Bắc. Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng, các chiến sĩ vận tải lại lên đường chiến đấu. Đường vận chuyển chiến lược những ngày đầu đầy gian nan nguy hiểm, với tinh thần xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước từ tháng năm năm 19591 (Đoàn Quang Trung được vinh dự lấy ngày 19-5 năm 1959 là ngày truyền thống của Đoàn) những cán bộ chiến sĩ đầu tiên của Đoàn Quang Trung đã vượt qa dốc đèo, thác ghềnh vai gùi nặng hàng, mở đường vào những nơi chưa có dấu chân người. Anh em quân y các đơn vị 301 và 70 cũng được vinh dự cùng bộ đội chia ngọt sẻ bùi, chịu đói, chịu rét trên tuyến đường vận tải. Với 2 y sĩ, 5 y tá và 3 trạm xá nhỏ, các đồng chí quân y đã phụ trách nhiều trạm đường giao thông. Hàng ngày, y tá với gùi hàng, túi thuốc trên vai hành quân theo bộ đội, khám bệnh, phát thuốc, tiêm thuốc ngay trêu đường dây. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật che mắt địch, những người đi khai phá Trường Sơn thực hiện khẩu hiệu "Đi không dấu, nấu không khói, nói không lời". Lao động vất vả, hàng thồ trên vai có khi nặng hơn nigười chiến sĩ, đời sống sinh hoạt khó khăn nên ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nấu một ngày ăn ba ngày, ăn nóng ăn tươi là việc hiếm có nên bệnh đường ruột phát sinh nhiều. Mở đường vào những khu rừng hoang chưa khai phá, muỗi vắt nhiều nên sốt rét và các bệnh truyền nhiễm khác có tỷ lệ cao. Tuy vậy, quân y đã cùng bộ đội khắc phục mọi khó khăn để cải thiện công tác nuôi quân phòng bệnh, tìm mọi cách cải tiến trang bị tự túc thuốc. Là những y tá cứu thương đã từng lăn lộn ở chiến trường Bình Trị Thiên thời kỳ chống Pháp nên có nhiều kinh nghiệm phục vụ bộ đội, có kỹ thuật tốt và nhất là có tinh thần chiến đấu bền bỉ không lùi bước trước khó khăn. Thuốc sốt rét thiếu, một viên ký ninh phải bẻ làm 3, vỏ thường sơn, các lá đắng theo kinh nghiệm dân gian đã ngăn chặn được một phân cơn sốt, các biện pháp chống sốt rét khi chống Pháp đã được áp dụng. Lá tầm xuân, khế chua là các vị thuốc chữa lở loét chân có tác dụng tốt. Chiếc mũ tai bèo được lót thêm một lớp ni-lông ở trong để chống ngấm nước, chiếc quai ba lô được nới rộng ra đỡ chít vào ngực ảnh hưởng đến hố hấp. Chiếc gậy Trường Sơn ngày nay đã trở thành bài ca lịch sử, cũng đã góp phần thực hiện chế độ 4 tốt bảo vệ sức khỏe, lúc hành quân leo dốc, lội suối chiếc gậy giúp phòng chống tai nạn, lúc nghỉ chiếc gậy là cái cọc buộc tăng, căng màn...


Công tác ngoại khoa lúc này chưa nhiều, nhưng có lúc rất khó khăn, đã có trường hợp viêm ruột thừa được sự giúp đỡ của đơn vị bạn, các đồng chí quân y đã mổ ngay trên đường hành quân.

Chữa bệnh phục vụ nhân dân vùng dân tộc cũng là một yêu cầu thường xuyên của quân y đường dây. Đỡ đẻ, chữa bệnh trẻ em không phải là chuyên khoa của quân y nhưng anh em y sĩ, y tá đã chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo, có cháu bị kiết lỵ nặng bố mẹ đã tuyệt vọng, một đồng chí y tá đã chữa khỏi mang lại hạnh phúc cho gia đình. Có phụ nữ đẻ khó được các đồng chí quân y cứu sống mẹ tròn con vuông. Cả dân bản mừng rỡ, cảm ơn rách mạng và càng quyết tâm đi theo Mặt trận, hướng về Bok Hồ kính yêu.


Cán bộ nhân viên quân y thiếu, đường dây lại dài, liên lạc lại khó khăn. Từ đó, có các lớp cứu thương nghiệp dư, tranh thủ huấn luyện lúc nghỉ ngay trên đường hành quân. Về sau, gần hết các đồng chí cán bộ chiến sĩ của đơn vị 301 đã có trình độ cứu thương loại khá, đã có nhiều người được chuyển sang làm quân y và một số đã trở thành bác sĩ.


Từ năm 1961, yêu cầu chi viện ngày càng lớn, đường vận chuyển chiến lược ngày đêm bám lấy Trường Sơn, vươn dài đến khắp các nẻo đường của Tổ quốc, ở Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, từng lớp chiến sĩ quân y nối tiếp nhau phục vụ và chiến đấu. Hàng ngũ đã có thêm nhiều cán bộ y dược đại học, tổ chức được củng cố và phát triển. Nhiệm vụ của quân y cũng phát triển bảo đảm cho nhiều yêu cầu mới như công tác giao liên và các đơn vị hành quân, chuyển vận thương binh và bảo đảm cho bộ đội chiến đấu.


Từ các trạm thô sơ lúc đầu đã trở thành các binh trạm mang dần tính chất binh chủng hợp thành, nên yêu cầu của quân y ngày càng phức tạp. Chiến thuật bảo đảm quân y cũng được xây dựng, lúc đầu từ nguyên tắc tổ chức xây dựng mạnh hai đầu, vững hai cánh, có trọng điểm, về sau theo kinh nghiệm thực tế đã chuyển hướng bảo đảm theo trạm, theo đoàn.


Bên cạnh sức người, dần dần chúng ta đã có voi, ngựa, xe thồ, thuyền, mảng, và xe cơ giới. Được sự giúp đỡ của tuyến sau, quân y cơ sở đã bám sát các đơn vị vận tải, anh em bác sĩ, y sĩ, y tá đã cùng ăn, ngủ, ngồi trong ca-bin, trong thùng xe, trên thuyền mảng, theo dõi giờ giấc lao động mức tiêu hao năng lượng, tình hình ăn ngủ dọc đường và đã rút ra được kinh nghiệm cải thiện đời sống, bảo đảm cường độ lao động, góp phần thiết thực tăng khối lượng hàng đưa ra tuyến trước. Những chuyển biến tích cực trong công tác chống sốt rét, việc phun DDT dọc đường dây là kết quả của cả một quá trình lăn lộn, nghiên cứu về sinh thái học của các loại muỗi sốt rét ở Trường Sơn vằ chế độ lao động chiến đấu và sinh hoạt của bộ đội.


Quân y đường vận vải quân sự chiến lược từ chỗ có một số ít y sĩ, y tá cùng bộ đội mở đường Trường Sơn, đã phát triển mau chóng đặt nền móng cho một tổ chức quân y to lớn phục vụ một nhiệm vụ chiến lược lịch sử trong những năm về sau.


Mười năm tranh thủ hòa bình xây dựng chính quy hiện đại ở miền Bắc đã tạo ra nhiều khả năng mới cho phép chúng ta chuyển biến một tổ chức chưa đầy đủ, cán bộ còn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo, trình độ khoa học thấp, đơn thuần bảo đảm cho bộ binh, thành một tổ chức tương đối mạnh và hoàn chỉnh, có đội ngũ cán bộ được tăng về chất và lượng, có tư tưởng giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có quyết tâm cao, thực hành đoàn kết khá, có cơ sở vật chất tốt hơn, có trình độ kỹ thuật được nâng cao, có chế độ chức trách, điều lệnh, quy tắc thống nhất, đủ điều kiện bảo đảm cho một quân đội có nhiều quân chủng, binh chủng xây dựng và chiến đấu thắng lợi.


Ở chiến trường miền Nam, từ cuộc chiến tranh chính trị vô cùng gian khổ trong thế phát triển của cách mạng và các lực lượng vũ trang cách mạng, tổ chức quân y đã được xây dựng từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ đơn gỉan đến hoàn chỉnh dần từ một khu vực đến toàn miền, gắn bó mật thiết với ngành y tế nhân dân, lao động khoa học kỹ thuật sáng tạo và đầy dũng cảm của mình đã phục vụ ngày càng đắc lực cho các lực lượng vũ trang nhân dân xây dựng và chiến đấu thắng lợi, đặt ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu được cho việc phát triển ngành quân y trong những giai đoạn chống Mỹ cứu nước sau này.


Tất cả nhưng cố gắng đó của ngành quân y trong cả nước đã tạo ra cho chúng ta một cơ sở tinh thần, tổ chức, trình độ kỹ thuật và vật chất cần thiết để bước vào thời kỳ đỉnh cao của cuộc chống Mỹ cứu nước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #64 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:37:59 pm »

CHƯƠNG TÁM
NGÀNH QUÂN Y PHỤC VỤ QUÂN ĐỘI ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ, CÙNG TOÀN DÂN KIÊN TRÌ VÀ ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, ĐÁNH BẠI MỘT BƯỚC CƠ BẢN CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH Ở MIỀN NAM VÀ BÁNH BẠI CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI Ở MIỀN BẮC

(1965-1-1973)


Năm 1965, trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngụy quân ngụy quyền, đế quốc Mỹ bị động đưa quân Mỹ vào trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Theo lời kêu gọi của Bảng và của Hồ Chủ tịch, quân và dân cả nước ta đã kiên quyết đứng lên chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.


Nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu giành thắng lợi to lớn, liên tiếp đánh bại bốn chiến lược, chiến tranh phản cách mạnh ở miền Nam và đã hai lần đánh bại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, buộc địch phải ký kết Hiệp định Pa-ri chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút quân đội xâm lược về nước.


Ở chiến trường miền Nam, tổ chức quân y lúc này đã được triển khai ở các quân khu. Ở mỗi chiến trường đều đã xây dựng được những cơ quan và phân đội quân y tương đối hoàn chỉnh nhằm bảo đảm cho bộ đội đánh vận động tiêu diệt địch. Đây cũng là thời kỳ xây dựng năm mặt công tác nghiệp vụ, năm hệ thống tổ chức bảo đảm tuy còn đơn giản nhưng đã mang đầy đủ những yếu tố cần thiết cho yêu cầu phục vụ và phát triển sau này.


Về tổ chức và chiến thuật quân y, đây cũng là thời kỳ quân y các chiến trường giải quyết tương đối thành công các chiến thuật quân y bảo đảm cho các hình thức tác chiến vận động, phản kích, bao vây... Ở nhiều cấp chiến thuật, đặc biệt là ở cấp trung đoàn, hoàn thành việc bảo đảm cho một số trận đánh dài ngày trên một số chiến trường chủ yếu, tiền đề cho việc tổ chức bảo đảm quân y trong các chiến dịch sau này.


Năm 1966, bắt đầu thời kỳ phát triển có ý nghĩa chất lượng đối với quân y chiến trường. Lực lượng, phương tiện quân y đều được tăng cường toàn diện. Phòng quân y các quân khu được thành lập hoặc củng cố, có đầy đủ cơ cấu tổ chức có thêm đội ngũ cán bộ quân y trẻ, hăng hái, có kỹ thuật. Về mặt bảo đảm cứu chữa đã hình thành được một mạng lưới cứu chữa hợp lý trên toàn miền, bảo đảm cho bộ đội tác chiến ở đâu cũng được phục vụ. Về mặt xây dựng, quân y chiến trường cũng đã có những phương hướng xây dựng cơ bản lâu dài. Với sự nỗ lực tại chỗ, được sự chi viện ngày càng nhiều, có hiệu lực và toàn diện của hậu phương lớn, quân y chiến trường đã thực sự lớn mạnh, đủ sức bảo đảm cho những chiến dịch quy mô ngày càng mở rộng, có nhiều binh chủng tham gia.


Năm 1967, đánh dấu thời kỳ trưởng thành của quân y chiến trường trong nhiệm vụ bảo đảm cho bộ đội tác chiến trên toàn miền Nam với một đối thủ chủ yếu là lục quân Mỹ có không quân và hải quân chi viện. Chính trong thời kỳ này đã hình thành các khu vực bảo đảm hậu cần, khu vực bảo đảm quân y, một phương thức cần vụ có ý nghĩa tích cực cả về lý luận và thực tiễn.


Năm 1968 và năm 1969 là thời kỳ tiếp tục phát triển tổ chức quân y chiến trường, nâng cao chất lượng mọi mặt công tác. Tuy nhiên, năm 1969 cũng đánh dấu một năm chiến tranh rất ác liệt, các tổ chức quân y chiến trường miền Nam đã khắc phục mọi khó khăn bảo đảm quân y trong các đợt của tổng tiến công và nổi dậy và bẻ gẫy các đợi đánh phá phản kích rất dã man của địch.


Năm 1970, Mỹ làm đảo chính ở Cam-Pu-Chia. Năm 1971, Mỹ mở cuộc hành quân đường 9 Nam Lào. Quân và dân ta đã đoàn kết và phối hợp chặt chẽ với quân và dân hai nước anh em giáng cho Mỹ-ngụy những đòn đích đáng. Trong chiến dịch đường 9 Nam Lào, quân y chiến trường đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho việc phục vụ các hình thức chiến thuật vận động tấn công, chốt, vây lấn, chủ động tấn công kết hợp chốt... của một chiến dịch phản công và các hình thức chiến thuật khác trong các chiến dịch tiến công, chiến dịch tổng hợp khác trên toàn chiến trường miều Nam. Trong chiến dịch này cũng đã giải quyết thành công nhiều vấn đề phức tạp như bảo vệ sức khỏe giữ vững số quân chiến đấu cao, thu dung hết và cứu chữa có hiệu lực cao tất cả thương binh, bệnh binh.


Tháng ba năm 1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền. Tháng năm năm 1972, Mỹ đã "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khi chúng sử dụng tập trung một lực lượng lớn không quân và hải quân đánh phá cả hai miền Nam Bắc nước ta. Chiến thắng to lớn của quân và dân ta ở cả hai miền đã buộc Mỹ phải ký kết hiệp định Pa-ri.


Trong năm 1972 trên các chiến trường, tổ chức quân y các cấp, các đơn vị đã vươn lên và có cố gắng lớn bảo đảm quân y cho các chiến dịch lớn, cùng toàn quân góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước.


Ở chiền trường miền Bắc, ngày 7 tháng hai năm 1965, đế quốc Mỹ chính thức tiến hành chiến tranh phá hoại. Quân và dân ta đã đập tan bước leo thang của Mỹ từ nam vĩ tuyến 20 trở vào.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy các cấp, toàn ngành quân y đã thực hành sơ tán về nông thôn, ra dã ngoại, tổ chức lại đội hình bảo đảm, tăng cường công tác phòng tránh, giữ vững hoạt động ngày, mở rộng hoạt động đêm... là những biện pháp thiết thực giảm thương vong do oanh tạc của địch. Các cơ sở điều trị, nhà trường, kho, xưởng đều di chuyển nhanh chóng, cất dấu an toàn, khai kịp thời, bảo đảm mọi hoạt động không bị gián đoạn.


Từ cuối tháng bẩy năm 1964 và nhất là sau ngày 5 tháng tám năm 1964, các tổ chức quân y ở Quân khu 4 và một số nơi khác đã thực sự ở trong tình trạng chiến đấu. Những kinh nghiệm cấp cứu, thu dung hàng loạt qua thực tiễn chiến đấu ngày 5 tháng tám đã được phổ biến kịp thời cho các đơn vị.


Chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, quy mô tăng dần, địch leo thang đến sát nam vĩ tuyến 20.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #65 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:38:49 pm »

Tháng tư năm 1965, không quân nhân dân Việt Nam ghi chiến công đầu giòn giã, tháng bẩy năm 1965, bộ đội tên lửa ra quân đánh thắng trận đấu vẻ vang. Chiến tranh nhân dân đất đối không chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng mở rộng, có đủ loại hỏa lực lấy lực lượng phòng không làm nòng cốt, kết hợp với mạng lưới dày đặc bắn máy bay bằng súng bộ binh của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ. Tổ chức quân y kết hợp với mạng lưới y tế nhân dân đã kịp thời bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân chiến đấu trong mọi nơi, mọi lúc.


Năm 1965 được đánh dấu bằng những hoạt động toàn diện của ngành, trước hết là việc chuyển sang thời chiến toàn bộ hoạt động bảo đảm thu dung cấp cứu lớn, nhưng đồng thời cũng triển khai toàn diện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác như: bảo vệ sức khỏe cho bộ đội ra chiến đấu dã ngoại, thực hành mọi công tác chi viện chiến trường, triển khai huấn luyện, xây dựng quân tăng cường, triển khai các tổ chức mới bảo đảm cho việc phát triển các lực lượng pháo binh cao xạ, không quân, tên lửa, công binh, lực lượng vận tải chiến lược và các lực lượng bảo đảm giao thông khác.


Đầu năm 1966, đế quốc Mỹ điên cuồng đánh rộng ra nhiều tỉnh trên miền Bắc và các khu công nghiệp, tháng sáu năm 1966 mở đầu đánh phá Hà Nội - Hải Phòng, địch đánh phá càng lớn, Hà Nội - Hải Phòng càng chiến thắng oanh liệt. Lúc này các tổ chức quân y qua một năm rèn luyện thử thách trong chiến tranh phá hoại đã trưởng thành lên một bước và đã thu được ít nhiều kinh nghiệm phục vụ, tổ chức bảo đảm ngày càng hợp lý, chặt chẽ và có chất lượng hơn.


Ngày 17 tháng bẩy năm 1967, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi lịch sử: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Tháng bẩy năm 1966, ban hành lệnh động viên cục bộ, nhằm tăng cường lực lượng quốc phòng, đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.


Nền nếp phục vụ thời chiến đã trở thành một nếp làm việc cho toàn ngành, thúc đẩy mọi mặt hoạt động của tổ chức phát huy sức mạnh của toàn ngành. Sau khi khắc phục những khó khăn ban đầu, hầu hết các cơ sở điều trị đều đã triển khai được các phương tiện kỹ thuật kể cả những phương tiện đòi hỏi phải có trạm nguồn điện.


Năm 1967, cuộc chiến tranh diễn ra với quy mô và cường độ lớn hơn, nhưng quân và dân ta càng thêm từng trải và dày dạn trong chiến đấu cũng như trong sản xuất.

Được sự giáo dục của Đảng, được sư ủng hộ của nhân dân và quân đội, được sự giúp đỡ xây dựng với tinh thần đồng chí của ngành y tế nhân dân, với nỗ lực và quyết tâm của toàn ngành, quân y miền Bắc bước vào năm thứ ba của chiến tranh với tư thế vững vàng, với sự trưởng thành vượt bậc, với niềm tin yêu của quân đội và nhân dân.


Ngày 31 tháng bẩy năm 1967 đánh dấu một ngày vẻ vang cho toàn ngành, Hồ Chủ tịch đã gửi thư khen cán bộ và nhân viên ngành quân y trong cả nước, trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đã "có nhiều cố gắng và đã lập thành tích trong việc cứu chữa thương binh, bệnh binh, giữ gìn sức khỏe cho bộ đội, cùng với ngành y tế nhân dân chế được nhiều thuốc hay, tìm được nhiều cách chữa giỏi, tham gia cứu chữa chăm sóc sức khỏe của nhân dân nơi đóng quân..."


Thư khen của Hồ Chủ tịch còn chĩ cho toàn ngành phương hướng nỗ lực để xây dựng và phát triển hơn nữa trong điều kiện có chiến tranh.

Đón thư khen của Bác Hồ, toàn ngành đã phát động một phong trào thi đua vừa có diện rộng vừa có chiều sâu.

"Học tập và làm theo thư khen của Bác Hồ", đã khiến cho công tác quân y phát triển ngày càng có ý nghĩa chất lượng. Ngày 31 tháng bẩy hàng năm được toàn nghành ghi nhớ. Hàng năm đến ngày này, một số đơn vị quân khu, quân chủng binh chủng, đã mở những đợt thi đua, mỗi hội nghị học tập thư Bác Hồ, liên hệ kiểm điểm, ghi nhận ưu điểm và cống hiến, vạch ra khuyết điểm và tồn tại, gửi thư quyết tâm thi đua lên các Đảng ủy, các Bộ tư lệnh hứa hẹn lập công để xứng đáng với sự quan tâm, săn sóc của Hồ Chủ tịch, của Đảng và của nhân dân cả nước.


Năm 1966-1967 đánh dấu những nỗ lực to lớn của toàn ngành trong nhiệm vụ rèn luyện và củng cố tổ chức, chính trị và tư tưởng. Cùng với toàn quân, ngành quân y không những phục vụ thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm chống chiến tranh phá hoại mà còn làm tốt mọi mặt công tác chi viện chiến trường, tăng cường không ngừng khả năng bảo vệ miền Bắc, nếu địch đưa chiến tranh bằng lục quân ra miền Bắc.


Qua bốn năm chiến đấu vô cùng anh dũng, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Ngày 1 tháng mười một năm 1968, chính phủ Mỹ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom, đánh phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 3 tháng mười một năm 1968, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi". Trong tình hình mới, lời dạy của Hồ Chủ tịch đã trở thành mệnh lệnh của Tổ quốc với ngành quân y, bồi dưỡng thêm cho ngành tinh thần cách mạng triệt để.


Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Giôn-xơn tạm thời phải đình chỉ, nhưng bản chất âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ vẫn không thay đổi. Miền Bắc tạm thời có hòa bình và hòa bình chưa được củng cố. Đây là một thời gian rất quan trọng đề quân và dân miền Bắc tranh thủ tăng cường lực lượng quốc phòng, lực lượng kinh tế. Với tinh thần cảnh giác cách mạng và sẵn sàng chiến đấu cao, ngành quân y tranh thủ thời gian thúc đẩy mọi mặt rèn luyện và củng cố.


Thời gian 1969-1971 cũng là thời gian được đánh dấu bằng những hoạt động quan trọng xây dựng ngành: Xây dựng các quy hoạch nghiệp vụ, quy hoạch phát triển tổ chức, quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tổng kết một phần kinh nghiệm phục vụ và xây dựng ngành trong chiến tranh, biên soạn những vấn đề cơ bản của công tác bảo đảm quân y Việt Nam, tiến hành những hội nghị tổng kết chiến dịch, tổng kết chiến trường, mở những hội nghị thu hoạch các đề tài về tổng kết nghiên cứu khoa học y học quân sự, mở các lớp tập huấn cho các cán bộ lãnh đạo quân y về chuyên môn, chính trị, hậu cần.


Ngày 3 tháng chín năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại qua đời, để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta một bản di chúc lịch sử.

Trong đời hoạt động cách mạng vô cùng vĩ đại và cao quý của Người, Hồ Chủ tịch đã gửi cho ngành y tế và ngành quân y bốn thư vào những thời điềm lịch sử. Đây là những di sản tinh thần vô giá. Toàn ngành quân y vô cùng trân trọng những thư này, coi những thư này như kim chỉ nam cho phương hướng hành động cách mạng và cũng là những yêu cầu của Tổ quốc, của nhân dân đặt ra cho ngành quân y phải phấn đấu.


Năm 1972, năm tiến công chiến lược toàn miền Nam, trước nguy cơ thất bại thảm hại, ngày 15 tháng tư năm 1972, Ních-xơn đã phát động trở lại cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, cuộc chiến tranh Mỹ hóa trở lại, "Cuộc chiến tranh của Ních-Xơn".


Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy các cấp, ngành quân y đã đi vào cuộc chiến tranh này vững vàng hơn, có kinh nghiệm, hơn, phục vụ đắc lực ba nhiệm vụ chiến lược của ngành, đặc biệt là cùng toàn quân, toàn dân tiến hành một chiến dịch đất đối không lịch sử, đập tan cuộc tiến công chiến lược bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ trong 12 ngày cuối năm 1972.


Sau hiệp định Pa-ri, ngành quân y đã cùng quân dân cả nước bắt tay vào muôn ngàn công việc đặt ra sau những ngày đầu có hòa bình và vững vàng tiếp tục nhiệm vụ lịch sử: Xây dựng một ngành quân y cách mạng chính quy, hiện đại trong điều kiện mới và phục vụ quân đội cùng nhân dân cả nước hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #66 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:39:45 pm »

1. Xác định quyết tâm và phương hướng nhiệm vụ quân y trong tình hình mới. Xây dựng và hoàn chỉnh tổ chức quân y các chiến trường.

Bị thất bại trong chiến tranh đặc biệt, giặc Mỹ trực tiếp đưa quân ồ ạt vào, miền Nam, âm mưu trong một thời gian ngắn xâm chiếm một nửa đất nước ta. Ở trong khu căn cứ của ta, chúng tổ chức những cuộc càn quét rải chất độc hóa học, thả quân đóng dọc biên giới, bịt phá các cửa khẩu. Ở vùng giáp ranh, chúng đánh phá và xúc tát dân hòng tạo thành vành đai trắng. Trong vùng tạm chiếm ở các đô thị, chúng ra sức kìm kẹp nhân dân. Những thủ đoạn trên có ảnh hưởng đến công tác bảo đảm quân y trong thời gian đầu.


Nhưng do những thất bại nặng nề của địch và những thắng lợi của ta, mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh Mỹ, lực lượng đối sánh giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Nhân dân ta đã có những cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường, có điều kiện để đánh bại mọi âm mưu trước mắt và lâu dài của địch1 (45 năm hoạt động của Đảng Lao Động Việt Nam, trang 123, nhà xuất bản Sự Thật - năm 1975). Với tinh thần cùng toàn quân, toàn dân kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào các tổ chức quân y ở chiến trường miền Nam đã mau chóng xác định quyết tâm và phương hướng trong tình hình mới là:


"Trên cơ sở quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ mới, ra sức xây dựng tổ chức quân y lớn mạnh về mọi mặt, xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, vững về chất lượng nhằm đảm bảo sức khỏe cho bộ đội chiến đấu liên tục lâu dài, phục vụ cho vận động chiến và du kích chiến phát triển cao, củng cố bậc thang điều trị và các hệ thống điều trị, nâng cao kỹ thuật điều trị, hạ thấp tỷ lệ tử vong tàn phế, trả nhanh số quân về chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất thuốc, góp phần đánh thắng âm mưu phản công của địch".


Hệ thống quân y được xây dựng từ tổ chức quân dân y trong các năm 1963-1964 được tiếp tục củng cố, hoàn chỉnh trong quá trình phát triển của chiến tranh cục bộ ở tất cả các chiến trường một cách mạnh mẽ và tương đối đồng đều, thống nhất. Từ phòng quân y quân khu đến các tổ chức cơ sơ, các phân đội kỹ thuật và các hệ thống nghiệp vụ đã hình thành rõ rệt và dần dần hoàn chỉnh.


Hệ thống chỉ huy được tăng cường biên chế và có chất lượng. Điều đặc biệt là ở tất cả các chiến trường, đã có những cán bộ quân y chủ chốt, có kinh nghiệm trên nhiều mặt công tác, có tinh thần cứu nước cao, có quyết tâm và sáng tạo lớn có khả năng hành động giỏi nên chỉ trong một thời gian ngắn đã đưa mọi mặt tổ chức và trình độ của quân y chiến trường lên phù hợp với yêu cầu tác chiến và xây dựng của quân đội, tạo ra một tiền đề rất quan trọng cho việc phát triển quân y ở chiến trường miền Nam trong những giai đoạn sau này.


Các ngành nghiệp vụ của quân y các quân khu đã có cán bộ có trình độ đại học phụ trách (bác sĩ, dược sĩ cao cấp). Từ năm 1965, các sư đoàn, trung đoàn và một số tỉnh đội đã có bác sĩ làm chủ nhiệm. Do địa hình chia cắt, tuyến tỉnh đội ở nhiều quân khu đã được xây dựng thành một đơn vị quân y hoàn chỉnh có thể chỉ đạo nghiệp vụ và làm tuyến sau trong một khu vực nhất định của quân khu. Đầu năm 1967, các tỉnh đội đã có báo sĩ làm chủ nhiệm và một số bác sĩ làm kỹ thuật. Ở Nam Bộ từ mạng lưới bảo đảm phát triển rộng khắp đã hình thành các khu vực hậu cầu, các ban quân y khu cũng được kiện toàn. Trong điều kiện địa hình và chiến đấu thuận lợi nhiều ban quân y khu vực và các phân đội kỹ thuật lớn, kho xưởng dược đã được tổ chức với quy mô khá hoàn chỉnh (Như Ban quân y Đoàn 70, 82 ở Nam Bộ).


Hệ thống vệ sinh phòng dịch được tăng cường bằng các đội và tổ vệ sinh phòng dịch. Một vài quân khu đã có cán bộ chuyên khoa cần thiết như sốt rét, truyền nhiễm. Tổ chức vệ sinh phòng dịch các khu vực, sư đoàn, tỉnh đội được thành lập. Ở Khu 5, có tổ chức thêm một đội vệ sinh phòng dịch ở phân khu nam. Hệ thống chiến sĩ vệ sinh, cơ sở quần chúng của công tác vệ sinh phòng dịch, đã hoạt động ở các đơn vị đưa dần công tác nuôi quân phòng bệnh vào nền nếp.


Hệ thống huấn luyện:

Việc đào tạo y tá, dược tá, cứu thương được phân công cho các tỉnh đội, khu vực, sư đoàn. Các trường y sĩ ở Khu 5, Nam Bộ thành lập năm 1963-1964 đã chuyển đào tạo cán bộ quân y trung học (y sĩ, dược sĩ). Các lớp dược sĩ trung cấp đầu tiên tốt nghiệp năm 1966. Ở Nam Bộ, năm 1967 đã thành lập thêm hai trường y sĩ cho các khu vực Biên Hòa và Phước Long. Phân khoa đại học quân y1 (Do đồng chí Trương Công Trung làm hiệu trưởng tại miền Đông Nam Bộ) được thành lập vào cuối năm 1965, cùng với phân khoa đại học dân y2 (Do đồng chí Trương Tấn Lập làm hiệu trưởng (quân dân y phối hợp) tại miền Tây Nam Bộ), ngành quân y miền Nam đã góp phần đào tạo hàng trăm cán bộ có trình độ đại học.


Hệ thống điều trị:

Ở các địa phương, quân y tỉnh đội sau khi đã tiếp nhận các tổ chức dân y, thì bệnh xá tỉnh và huyện hình thành tuyến điều trị cuối cùng của bộ đội địa phương, có khi cho cả bộ đội chủ lực. Khi phối hợp tác chiến quy mô các bệnh xá lúc đầu còn nhỏ từ 30 đến 50 giường sau phát triển lên 100 đến 150 giường, và được tăng cường bác sĩ phụ trách. Để phục vụ sát các đơn vị chiến đấu, mỗi tỉnh có từ một đến ba tổ, đội phẫu thuật.

Quân y sư đoàn được bổ sung một số đội điều trị của quân khu chuyển xuống. Tiểu đoàn quân y của sư đoàn phần lớn được tách thành hai bộ phận, một bộ phận làm nhiệm vụ của đội điều trị ở tuyến trước và một bộ phận triển khai thành bệnh xá ở tuyến sau làm nhiệm vụ ở hậu cứ.


Đại đội quân y trung đoàn củng tổ chức thành bệnh xá và đội phẫu thuật.

Các bệnh viện quân khu được tăng cường nhiều về cán bộ và trang bị kỹ thuật. Có bệnh viện đã có cán bộ chuyên khoa sâu về chấn thương, phẫu thuật lồng ngực, phẫu thuật thần kinh. Các phương tiện xét nghiệm, X quang, chẩn đoán chức phận và nhiều bộ phận cận lâm sàng khác cũng được triển khai ở một số bệnh viện.


Hệ thống dược:

Các xưởng dược quân khu thành lập cuối năm 1965. Ở một số phân khu và khu vực hậu cần cũng có xưởng nhằm giải quyết nhu cầu ở địa phương. Bệnh viện quân khu, các đội điều trị và một số sư đoàn đã có dược sĩ cao cấp phụ trách. Đến năm 1967, quân y trung đoàn, tỉnh đội có dược sĩ trung cấp và ở Khu 5, một số tỉnh đã có dược sĩ cao cấp, từ dân y chuyển sang.


Quân y ở chiến trường miền Nam, trong một thời gian ngắn, đã phát triển thành một tổ chức hoàn chỉnh từ quân khu đến các cơ sở với hệ thống chỉ huy gồm nhiều cán bộ có khả năng tổ chức và chỉ huy giỏi và các hệ thống chuyên môn kỹ thuật có nhiều cán bộ có trình độ kỹ thuật cao phụ trách với các cơ sở trang bị kỹ thuật, thuốc ngày càng được tăng cường nên đã nhanh chóng đáp ứng yêu cầu chiến đấu của quân đội đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #67 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:41:31 pm »

2. Phát triển và trưởng thành về tổ chức. Xây dựng các khu vực bảo đảm quân y. Mạng lưới cứu chữa quân dân y bảo đảm thương binh trong chiến tranh phá hoại. Quán triệt tình hình nhiệm vụ, củng cố và xây dựng các cơ quan, cơ sở quân y, thống nhất chỉ huy, giữ vững các chế độ.

Bước vào thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ngành quân y miền Bắc có ba nhiệm vụ chiến lược: Cùng ngành y tế nhân dân bảo đảm cho chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại, hết lòng hết sức làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế, sẵn sàng bảo đảm cho nhiệm vụ chống địch tập kích bằng lục quân ra miền Bắc.


Trước nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang này, công tác tổ chức quân y và các mặt công tác nghiệp vụ quân y đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và toàn diện.

Hệ thống tổ chức quân y được hình thành trong kháng chiến chống Pháp, được bổ sung và hoàn chỉnh trong xây dựng hòa bình và nay lại được thử thách trong chiến tranh chống Mỹ; so với cuộc kháng chiến chống Pháp, thì cuộc chống Mỹ cứu nước có tính chất ác liệt hơn, có diện phát triển rộng hơn và có quy mô lớn hơn. Một đòi hỏi của lịch sử đặt ra cho ngành quân y là mọi nhiệm vụ phải làm tốt hơn, không ''quay lại" như cuộc kháng chiến chống Pháp, phải vừa bảo đảm vừa chỉ đạo thông suốt từ trung ương đến chiến trường.


Tổ chức quân y đã phát triển rất nhanh, trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất quân y của các lực lượng phòng không - không quân tăng 3-4 lần, của bộ đội công binh tăng 4 lần, của bộ đội thông tin tăng gần 2 lần, của bộ đội vận tải tăng hơn 7 lần. Quân y của binh chủng tên lửa được xây dựng hoàn toàn mới. Quân y của các xí nghiệp quốc phòng cùng phát triển theo nhịp độ mở rộng của quy mô sản xuất. Các cơ sở điều trị của quân y trong tám năm (1965-1972) đã tăng trên 3 lần, số giường bệnh tăng trên 2,5 lần.


Số lượng cán bộ quân y được đào tạo tại các trường sơ học, trung học và đại học quân y cũng tăng. Đến năm 1972, số cán bộ tốt nghiệp đại học tăng hơn 9 lần so với năm 1965, số cán bộ tốt nghiệp trung học tăng hơn 15 lần và số cán bộ bậc sơ học tăng hơn 14 lần.


So với cuộc kháng chiến chống Pháp, điểm nổi bật là các tổ chức bảo đảm quân y ở các nơi, các đơn vị đều được tổ chức theo một quan niệm thống nhất. Phương pháp công tác về cơ bản cũng thống nhất, tạo cho công tác quân y các điều kiện thuận lợi phát huy sức mạnh của các tổ chức. Từ thực tế chiến đấu ngành quân y đã nghiên cứu ra các hình thức tổ chức và các nguyên tắc tổ chức thích hợp.


Nguyên tắc cứu chữa thương binh theo bậc thang điều trị hình thành từ thời kỳ chống Pháp đã được vận dụng sáng tạo trong những điều kiện mới. Cũng xuất phát từ những đặc điểm của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, chúng ta lại nghiên cứu và xây dựng nguyên tắc kết hợp quân y với dân y và nguyên tắc bảo đảm quân y theo khu vực hình thành ba nguyên tắc chỉ đạo công tác quân y thời chiến.


Ngoài các tổ chức cứu chữa theo khu vực nhằm bảo đảm cứu chữa kịp thời bất cứ ở đâu, chúng ta đã xây dựng nhiều hình thức tổ chức có khả năng cơ động cao. Trong kháng chiến chống Pháp, đã có đội điều trị hành quân theo bộ đội để phục vụ trong các chiến dịch. Trong chống Mỹ, đã có thêm nhiều tổ chức phong phú hơn như các đội phẫu thuật lưu động, các tổ vệ sinh phòng dịch, tổ tiếp tế lưu động, tổ cấp cứu, tổ chuyên khoa... là những phân đội gọn, nhẹ, có chất lượng dễ bám sát bộ đội.


Hình thức bố trí các phân đội quân y bảo đảm cho chiến dịch và chiến đấu cũng được tích lũy kinh nghiệm và tổng kết lại.

Để phục vụ cho yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là những vấn đề cấp thiết phải giải quyết trong thời kỳ đầu của chiến tranh, chúng ta đã nghiên cứu những vấn đề chung cho công tác y tế phục vụ công tác quân sự địa phương và công tác bảo đảm quân y trong tác chiến bảo vệ khu vực.


Một trong những đặc điểm của thủ đoạn đánh phá của không quân Mỹ là đánh đi đánh lại nhiều lần trên một khu vực, nhất là khu vực trọng điểm. Do yêu cầu chiến đấu tại khu vực đó, nên cần triển khai các lực lượng vũ trang cần thiết để đánh trả lại địch. Tình hình đó đặt ra công tác bảo đảm hậu phương và công tác bảo đảm quân y cho các khu vực.


Trong cuộc chống Mỹ cứu nước đã xuất hiện những khả năng của việc tổ chức và sử dụng tiềm lực hậu phương tại chỗ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta với truyền thống sẵn có, với quyết tâm chiến đấu cao, đã tạo ra một sức mạnh tinh thần và vật chất cho việc tổ chức hậu phương tại chỗ. Quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã và đang bồi dưỡng cho nhân dân tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần chiến đấu rất cao, có tư tưởng làm chủ tập, có tổ chức chặt chẽ, có trình độ văn hóa và khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, có cơ sở vật chất của chủ nghĩa hội ngày càng lớn mạnh trên khắp địa phương miền Bắc, là những yếu tố để tạo ra một lực lượng hậu cần nhân dân, một lực lượng rộng khắp có lãnh đạo, có tổ chức chặt chẽ ở các địa phương. Trên cơ sở hậu cần nhân dân đó đã hình thành một mạng lưới y tế rộng rãi - tổ chức cần thiết của công tác bảo đảm quân y theo khu vực.


Sự lớn mạnh của ba thứ quân, sự phát triển của nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân, tình hình phát triển của địa phương về nhân lực, vật lực, khả năng kinh tế, khả năng y tế bảo đảm cho chiến tranh nhân dân..., đều là cơ sở tinh thần vật chất cho phép thực hành nguyên tắc bảo đảm quân y theo khu vực.


Bảo đảm quân Y theo khu vực cũng là kết quả của việc thựcc hiện nguyên tắc kết hợp quân y với dân y trong các mặt bảo đảm. Nó là một bước phát triển về mặt tổ chức của việc động viên toàn dân làm công tác cứu chữa thương binh, bệnh binh. Nó phát huy và tập trung mọi khả năng to lớn của ta, đồng thời cũng khắc phục được các nhược điểm như ít cơ giới, ít đường, địa hình hiểm trở, dễ bị chia cắt nhất là các tỉnh thuộc Quân khu 4. Với các khu vực đã được chuẩn bị, công tác quân y có điều kiện động viên sức người, sức của nhanh, cứu chữa nhanh, vận chuyển kịp thời.


Cùng với khả năng to lớn của tổ chức hậu cần nhân dân, khả năng của nền y tế nhân dân cũng rất lớn. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngành y tế nhân dân đã trưởng thành nhiều mặt. Đến cuối năm 1964,98% số xã ở đồng bằng, 49% số xã ở rẻo cao đã có trạm xá có y sĩ phụ trách, 97% số huyện đã có bệnh viện, bệnh xá (19% số huyện đã có bệnh viện).


Từ năm 1964 đến 1972, số bác sĩ đã tăng gần 4 lần, số y sĩ đã tăng gần 3 lần, số bệnh viện, viện điều dưỡng, bệnh xá... từ cấp huyện trở lên đã tăng gần 3 lần.

Sự hình thành mạng lưới y tế nhân dân dầy đặc, đã tạo ra một diện cứu chữa rộng khắp đã tỏ ra rất có hiệu lực trong cứu chữa thương binh trong chiến tranh phá hoại. Đến năm 1965, nhà có trang bị, tổ chức và kỹ thuật đã tương đối phát triển, một phẫn lớn các bệnh viện huyện, khu công nghiệp... đã làm được các phẫu thuật lớn, nên có tác dụng rất quan trọng trong việc cứu chữa thương binh và là một thuận lợi cho việc kết hợp quân y với dân y.


Bên cạnh mạng lưới cứu chữa của ngành y tế, mạng lưới cứu thương tải thương của dân quân tự vệ cũng được hình thành, gồm hàng vạn chiến sĩ cứu thương, tải thương tại các thôn xã, khu phố, xí nghiệp...

Do sự trưởng thành của các lực lượng y tế (quân y, dân y, y tế dân lập, tổ chức Hội chữ thập đỏ) và lực lượng quần chúng tham gia làm công tác thương binh nên đã tạo ra một lực lượng rộng khắp, có lãnh đạo, có tổ chức. Việc kết hợp quân y với dân y là biện pháp tổ chức hợp lý nhất để động viên và sử dụng sức người, sức của của nhân dân và quân đội tới mức cao nhất, có hiệu quả nhất, đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quân y, thể hiện việc quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng trong ngành quân y về mặt tổ chức lực lượng, với mạng lưới cứu chữa, với lực lượng cấp cứu tải thương như vậy, nên công tác cứu chữa thương binh, trong mọi nơi, mọi lúc, mọi điều kiệu địa dư, thời tiết... vẫn bảo đảm được liên tục kịp thời.


Thời kỳ này cũng là một quá trình liên tục quán triệt tình hình nhiệm vụ, cảnh giác trước âm mưu của định, nhận thức đúng đắn đặc điểm, tính chất thả đoạn chiến tranh leo thang phá hoại của địch, sáng suốt bình tĩnh trong chủ trương kế hoạch, khẩn trương trong hành động. Đây là những yêu cầu cơ bản mà ngành quân y đã thực hiện được nhằm chuyển biến mọi tổ chức cửa ngành không những trong thời kỳ đầu của chiến tranh phá hoại mà còn được thực hành tốt trong toàn bộ tiến trình của chiến tranh.


Về mặt tổ chức, chúng ta cũng đã phấn đấu để chuẩn bị được tốt nhất về sức người, sức của, đáp ứng được nhiệm vụ phát triển quân đội, đặc biệt là những lực lượng có nhiệm vụ trực tiep chiến đấu và bảo đảm chiến đấu trong chiến tranh, các lực lượng chi viện cho chiến trường và các lực lượng phòng thủ.


Việc xây dựng, củng cố và rèn luyện, các cơ quan, cơ sở quân y ở tất cả các cấp được tăng cường về tổ chức, về lề lối tác phong và thực hành phân cấp quản lý nhằm làm cho các tổ chức quân y ở tất cả các cấp có khả năng chủ động và có quyền hạn giải quyết kịp thời các yêu cầu cấp bách do thời chiến đặt ra.


Các hệ thống tổ chức vẫn giữ được sự thống nhất chỉ đạo từ trên xuống dưới, các chế độ quản lý, tình hình kiểm tra đôn đốc, báo cáo sơ kết, tổng kết, các hội nghị chuyên đề hoặc toàn ngành..., được chấp hành tương đối đều kỳ. Nhờ nắm chắc khâu xây dựng chính trị tư tưởng là cơ bản nhất, tập trung làm tốt khâu tổ chức chỉ huy nên không những công tác tổ chức và chiến thuật quân ý có những bước phát triển mới, mà còn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy 5 mặt công tác nghiệp vụ của ngành phát huy sức mạnh tổng hợp được nhịp nhàng và cân đối.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #68 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:51:13 pm »

3. Xây dựng lý luận các mặt công tác nghiệp vụ của ngành. Công tác tổng kết nghiên cứu khoa học. Phát triển của một số lĩnh vực y học quân sự.

Trong các năm 1969-1970, Cục quân y đã biên soạn lài liệu "Mấy vấn đề cơ bản của công tác bảo đảm quân y Việt Nam"1 (Tài liệu này xuất bân tháng 1 năm 1971). Đây là một tài liệu mang tính chất tồng kết, đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất của công tác phục vụ và xây dựng ngành.


Ngành quân y là một trong những ngành phục vụ có sớm nhất trong quân đội. Ngay từ khi ra đời, ngành quân y đã được xây dựng theo quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng: Ngành quân y của nhân dân lao động thực chất là của công nông, mang bản chất của giai cấp công nhân, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Ngành quân y lại được phục vụ xây dựng đường theo lối chiến tranh nhân dân của Đảng nên ngành quân y cũng là ngành quân y của chiến tranh nhân dân.


Từ rất sớm trong xây dựng ngành quân y, chúng ta đã khẳng định điều này, thực tiễn của cuộc chống Mỹ lại một nữa khẳng định tính chất đúng đắn này.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, lấy xây dựng về chính trị và tư tưởng là cơ bản nhất, nhằm xây dựng ngành quân y trước hết phải là ngành quân y cách mạng là vấn đề nguyên tắc có ý nghĩa thường xuyên quyết định nhất đối với mọi bước trưởng thành của ngành quân y trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước cũng như toàn bộ quá trình phát triển của ngành trước đây.


Thực tiễn của cuộc chống Mỹ cứu nước cho thấy để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong ngành quân y, sau khi đã quán triệt quyết tâm chiến lược của Đảng về nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, vấn đề quan trọng nhất là cần làm quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng trong công tác quân y cho mọi người, mọi tổ chức của ngành. Những quan điểm đó căn bản đã được cụ thể hóa trong hai nhiệm vụ cơ bản của ngành và năm phương châm xây dựng ngành quân y cách mạng.


Nhiệm vụ cơ bản thứ nhất là "Sử dụng mọi biện pháp y học để tích cực tham, gia vào việc bảo vệ bồi dưỡng sức khỏe, nâng cao sức bền bỉ dẻo dai, nhằm giữ vững số quân chiến đấu trong mọi tình huống" nói lên yêu cầu tích cực và chủ động để phấn đấu giữ vững sức khỏe, bảo đảm số quân chiến đấu cao nhất trong mọi tình huống. Đây là một yêu cầu thường xuyên của quân đội luôn luôn đòi hỏi đạt mức độ ngày một cao.


Nhiệm vụ cơ bản thứ hai là "Tiến hành cứu chữa thương binh, bệnh binh, tăng mức bổ sung số quân về chiến đấu tromg một thời gian ngắn, giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ tàn phế để tăng cường khả năng lao động và sản xuất cho thương binh, bệnh binh, hết sức phấn đấu giảm tử vong", nói lên yêu cầu phải cứu chữa tốt nhất, bổ sung số quân về chiến đấu nhanh nhất, nhiều nhất và hết sức giảm tử vong tàn phế đến mức thấp nhất.


Nội dung của hai nhiệm vụ cơ bản phản ánh hai mặt công tác của ngành quân y đối với hai tình trạng chủ yếu của sức khỏe con người: tình trạng sinh lý và tình trạng bệnh lý, nhưng cả hai đều nhằm mục đích là bảo vệ và bồi dưỡng sức khỏe, góp phần nâng cao sức chiến đấu của quân đội. Hai nhiệm vụ có liên quan chặt chẽ với nhau, phối hợp và thúc đẩy lẫn nhau.


Nước ta đất không rộng, người không đông, chiến đấu với một kẻ địch có tiềm lực kinh tế quân sự lớn, có dân số cao. Nước ta lại đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ vừa chiến đấu chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc huy động nhân tài, vật lực nhất thiết phải ưu tiên cho tiền tuyến, nhưng vẫu phải bảo đảm quy luật cân đối giữa hai nhiệm vụ này. Vì vậy, để bảo đảm chiến đấu và chiến thắng kẻ địch, biện pháp tích cực và chủ động nhất vẫn là phấn đấu giữ vững số quân chiến đấu ở tiền tuyến tới mức cao nhăt.


Do đó, việc thực hành tốt hai nhiệm vụ cơ bản cũng chính là quán triệt ý nghĩa chiến lược của việc bảo đảm số quân chiến đấu, góp phần chấp hành tốt phương châm đánh lâu dài dựa vào sức mình là chính, lấy ít thắng nhiều, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa chiến đấu và xây dựng, giữa tiền tuyến và hậu phương, giữa số lượng và chất lượng.


Hai nhiệm vụ cơ bản chính là mục tiêu chính trị của ngành và quá trình trưởng thành của ngành quân y trong cuộc chống Mỹ cứu nước cũng là quá trình phấn đấu hoàn thành tốt hai nhiệm vụ cơ bản của ngành theo phương hướng của năm phương châm y học cách mạng (Năm phương châm y học cách mạng đã được đề ra từ Hội nghị quân y lần thứ 14 (năm 1959). Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, các phương châm này đã được bổ sung về nội dung và thay đổi về đầu đề của các phương châm, xin xem tài liệu Hội nghị quân y lần thứ 14 và cuốn "Mấy vấn đề cơ bản của công tác bảo đảm quân y Việt Nam).


Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, những phương châm này là nội dung suy nghĩ và hành động của toàn ngành và cũng từ thực tế phục vụ và chiến đấu xây dựng nội dung các phương châm cũng được bổ sung phong phú và sâu sắc.


Với phương châm "Phục vụ quân đội, phục vụ thương binh, bệnh binh không điều kiện", ngành quân y đã luôn luôn trung thành với Đảng, với quân đội, với nhân dân; luôn luôn dũng cảm hy sinh, tận tụy; luôn luôn thực hành đoàn kết rộng rãi, phát huy đầy đủ trí tuệ tập thể; sáng tạo trong thực hành tổ chức, trong chuyên môn khoa học kỹ thuật; đem hết khả năng cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ sức khỏe quân đội và cứu chữa thương binh, bệnh binh.


Phương châm dự phòng trong y học, yêu cầu phải quán triệt quan điểm dự phòng trên cả năm mặt công tác nghiệp vụ của ngành, làm cho mọi người, mọi tổ chức quân y đều hướng vào việc phấn đấu hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của thời chiến đối với sức khỏe bộ đội. Thực hiện tốt phương châm dự phòng cũng chính là thực hiện tốt tư tưởng chủ động tiến công, liên tục tiến công trên mặt trận bảo vệ sức khỏe và cứu chữa thương binh, bệnh binh.


Phương châm toàn diện trong điều trị nhằm phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp và toàn diện của ngành trong nhiệm vụ cứu chữa. Coi trọng việc cải tiến kỹ thuật điều trị, làm tốt khâu nuôi dưỡng và công tác chính trị là những biện pháp tổng hợp, đồng bộ giúp cho ngành quân y đạt các chỉ tiêu về thu dung điều trị, trả nhanh số quân về chiến đấu, hạ thấp tỷ lệ tử vong và tàn phế.


Phương châm kết hợp y học hiện đại với y học dân tộc biểu hiện được ba tính chất khoa học, dân tộc và đại chúng của Đảng đã đặt ra cho việc xây dựng các ngành khoa học kỹ thuật. Nước ta có hai nền y học hiện đại và y học dân tộc đều được chính thức công nhận. Việc kết hợp hai nền y học đó là hoàn toàn cần thiết, nhằm xây dựng một nền y học Việt Nam xã hội chủ nghĩa có đầy đủ ba tính chất khoa học, dân tộc và đại chúng. Trong cuộc chống Mỹ cứu nước, ở chiến trường và hậu phương, ngành quân y đã tìm được nhiều vị thuốc hay, những phương pháp chữa bệnh dân tộc góp phần vào công tác điều trị và nghiên cứu khoa học.


Phương châm căn kiệm xày dựng ngành không ngừng phản ánh quy luật phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc quản lý trong một ngành chuyên môn khoa học kỹ thuật mà còn có ý nghĩa rất thiết thực trong việc phấn đấu cao nhất cho sức khỏe của thương binh, bệnh binh và bộ đội.


Cũng từ thực tiễn xây dựng và chiến đấu từ khi thành lập ngành, từ những kinh nghiệm trong chống Mỹ cứu nước, công tác tổ chức chiến thuật đã tổng kết được 3 nguyên tắc bảo đảm quân y thời chiến1 (Xem điểm 1 cùng chương) và 5 mặt công tác nghiệp vụ quân y2 (Xem cuốn "Mấy vấn đề cơ bản của công tác bảo đảm quân y Việt Nam". 5 mặt công tác nghiệp vụ là: - Công tác vệ sinh phòng dịch. - Công tác điều trị dự phòng. - Công tác bảo đảm thuốc và dụng cụ quân y. - Công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học. - Công tác ổS chức chiến thuật quân y).


Lần đầu tiên ngành quân y đã có một tài liệu bàn đến những nội dung cơ bản của ngành một cách tương đối hoàn chỉnh như: Quá trình phát triển tổ chức ngành quân y, nhiệm vụ, phương châm, nguyên tắc chỉ đạo công tác quân y và các mặt công tác nghiệp vụ quân y. Đây là một tài liệu giáo khoa mang tính chất tổng kết phục vụ công tác học tập nghiên cứu của cán bộ nhân viên quân y, đặc biệt là dùng cho cán bộ lãnh đạo. Tuy còn những thiếu sót cần tiếp tục bổ sung, nhưng cũng đánh dấu kết quả của nhiều năm xây dựng ngành về mặt lý luận. Nó là tài liệu đầu tay mà cán bộ, nhân viên quân y tìm được những hướng dẫn cơ bản trong công tác phục vụ bộ đội.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #69 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2022, 07:56:13 pm »

Công tác nghiên cứu khoa học cũng phát triển toàn diện và ngày có nền nếp. Ngay từ các năm 1965-1966, theo chỉ thị của Tổng cục Hậu cần, Hội đồng khoa học kỹ thuật quân y đã được thành lập với chức năng tư vấn cho toàn ngành phát triển công tác tổng kết nghiên cứu khoa học kỹ thuật y học quân sự. Tiếp đó các quân khu, quân chủng, binh chủng, bệnh viện, các tổ chức quân y khác đều lần lượt thành lập hội đồng khoa học kỹ thuật cấp mình. Phương hướng nhiệm vụ chung của công tác tổng kết nghiên cứu khoa học kỹ thuật là tập trung vào những nội dung phục vụ cho chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu phục vụ cho chiến trường, về cụ thể, các đề tài nghiên cứu phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng các mặt công tác nghiệp vụ, làm gọn từng vấn đề và ứng dụng được ngay.


Nhờ có phương hướng đúng, biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp, tinh thần mạnh dạn sáng tạo nên đã thu hoạch được một khối lượng đề tài lớn, có chất lượng tốt, hàng nghìn báo cáo, công trình tổng kết nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã được báo cáo trước các hội nghị thu hoạch của các cấp, gần 500 công trình, báo cáo được phát biểu rộng rãi trên nội san của ngành, trong các kỷ yế công trình, trong các sách chuyên đề và trong các ấn phẩm khác.


Về tổ chức chiến thuật quân y, ngoài nội dung về mấy vấn đề cơ bản của công tác bảo đảm quân y Việt Nam, còn có các vấn đề phục vụ cho công tác quân sự địa phương tác chiến bảo vệ khu vực, công tác bảo đảm quân y cho các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn bộ binh trong một số hình thức chiến thuật phổ biến, công tác bảo đảm quân y cho một số binh chủng, công tác thu dung thương binh trong chiến tranh phá hoại của bệnh viện, bảo đảm quân y cho các đơn vị tác chiến ở trọng điểm và nghiên cứu bảo đảm quân y cho các hình thức tác chiến mới.


Về mặt tổ chức, chúng ta oiĩng đã tổng kết kinh nghiệm và xây dựng các yêu cầu cơ bản cho các loại hình thức tổ chức phân đội quân y, đặc biệt là đã hướng vào các công tác nghiên cứu quy hoạch tổ chức, quy hoạch phát triển kỹ thuật, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công tác quản lý bệnh viện.


Phần lớn những đề tài này đã được đưa vào huấn luyện hoặc triển khai trong xây dựng ngành.

Việc nghiên cứu các cơ số quân y phục vụ cho chiến đấu, chiến thuật, chiến dịch cũng được thường xuyên bổ sung và trên thực tiễn đã chỉ đạo chặt chẽ công tác tiếp tế quân y từng thời kỳ của chiến tranh.

Về vệ sinh quân đội có các đề tài bảo đảm vệ sinh cho bộ đội cao xạ, bộ đội ra-đa, bộ đội tên lửa, vệ sinh binh chủng cho người lái máy bay, lái xe tăng, lái xe hơi, vệ sinh xí nghiệp quốc phòng, vệ sinh cho quân tăng cường, vệ sinh dã ngoại, các công trình điều tra môi trường và sinh lý lao động quân sự...


Về phòng dịch quân sự, đã tập trung nhiều vào các đề tài khoa học về sốt rét: điều tra các bản lưu hành bệnh sốt rét, lâm sàng và điều trị sốt rét thường và sốt rét ác tính, các biện pháp diệt muỗi chống đốt bằng các phương tiện hiện đại và thô sơ, biện pháp phòng sốt rét tổng hợp. Cùng với các công trình tương ứng của quân y ở chiến trường miền Nam, các công trình này đã phát huy tác dụng tích cực trong nhiệm vụ phòng và chống sốt rét trong quân đội và đã góp phần giữ vững số quân chiến đấu. Trong phòng dịch quân sự ngành quân y đã đi theo phương hướng tìm những kỹ thuật chẩn đoán nhanh, phát hiện sớm, áp dụng dễ dàng, ngành quân y cũng đã thành công trong phương pháp phát hiện và phòng chống sốt mò, giun xoắn đầu tiên ở nước ta. Chúng ta cũng đã mạnh dạn áp dụng và phát triển cách chẩn đoán bệnh cúm, sử dụng nhiều loại vác-xin tiêm trong da, áp dụng nghiên cứu kháng nguyên chết, tiếp tục nghiên cứu chẩn đoán bệnh dịch tối nguy hiểm.


Về ngoại khoa dã chiến ngoài những chuyên đề làm thường xuyên như nghiên cứu cơ cấu thương tổn, tác dụng sát thương của các loại vũ khí địch... chúng ta cũng đã thu được nhiều kinh nghiệm giải quyết vết thương chiến tranh nóng, giải quyết các di chứng vết thương chiến tranh. Đối với các di chứng vết thương chiến tranh, nhiều cơ sở đã và đang giải quyết nhanh hơn và có chất lượng cao hơn so với sau khi chống Pháp. Các bệnh viện tuyến sau đã có khả năng giải quyết được những di chưng vết thương chiến tranh hiện có. Ở các trung tâm, chúng ta đã có thêm kinh nghiệm về phẫu thuật thần kinh, áp-xe não, di chứng vết thương mạch máu, các vết thương cần đến phẫu thuật chấn thương - chỉnh hình (ghép xương, điều trị viêm tủy-xương, thủ thuật thay thỉ khớp), cải tiến phương tiện điều trị chấn thương và chỉnh hình cho phù hợp với người Việt Nam. Từ năm 1969-1970, Viện quân y 109 đã được xây dựng thành một bệnh viện chấn thương chỉnh hình, tập trung được nhiều kinh nghiệm về chấn thương của quân y Việt Nam trong 30 năm phục vụ kết hợp với thành tựu khoa học tiên tiến của các nước anh em và thế giới.


Năm 1974, Viện quân y 41 (Quân khu 4) đã tự làm được một dụng cụ chỉnh ngoài để điều trị gẫy xương1 (Đã được giáo sư Tôn Thất Tùng công nhận) và Viện 109 mấy năm gần đây đã có nhiều thành công mới trong việc phát triển kỹ thuật chấn thương chỉnh hình2 (thành công trong việc làm lại ngón   tay cái từ các ngón tay khác và làm được cọc ép răng ngược chiều để chỉnh hình xương). Về phẫu thuật tạo hình, đã làm được tạo hình hậu môn, dương vật, thực quản, chuyển các ngón tay khác thành ngón tay cái...


Về ngoại khoa thời bình, một số viện đã có nhiều tiến bộ trong việc giải quyết các u tụy, u trung thất, cắt phổi, cắt gan, mổ tim... thực hành thận nhân tạo, điều trị dãn bể thận, châm tê để mổ.

Công tác gây mê, hồi sức, cấp cứu đã phát huy tác dụng tích cực trong cấp cứu ngoại khoa, nội khoa, đã thực hành được phần lớn các phương pháp gây mê, gây gây tê hiện dùng trên thế giới. Các khoa cận lâm sàng như X quang, sinh hóa, truyền máu, hóa nghiệm, chẩn đoán chức phận, vi sinh vật, lý liệu, dinh dưỡng... Cũng đã có nhiều tiến bộ đáp ứng tốt các yêu cầu của các khoa lâm sàng.


Đặc biệt Trường đại học quân y đã nghiên cứu dùng các biện pháp chẩn đoán và chữa bệnh mới như dùng các đồng vị phóng xạ (Cr15, Fe 59, I 131...) dùng các thiết bị hiện đại như kính hiển vi huỳnh quang để chẩn đoán mầm bệnh, sử dụng các kỹ thuật mới như kỹ thuật quang phổ, kỹ thuật điện di miễn dịch, kỹ thuật huỳnh quang miễn dịch...


Về nội khoa, chúng ta gặp nhiều khó khăn hơn, nhất là đối với các bệnh mạn tính trong quân đội. Tuy nhiên, công tác chẩn đoán và điều trị đã có những bước phát triển tốt như đã quan tâm đến các bệnh tim mạch, sơ mỡ động mạch, huyết áp cao, các bệnh gan mật... đã thực hành được các thủ thuật soi dạ dầy, soi ổ bụng... Đối với các bệnh cấp tính và truyền nhiễm khác, các tuyến cũng đã thu được nhiều kinh nghiệm và giải quyết đã có nhiều kết quả.


Về tiếp tế quân y, ngoài việc nghiên cứu bao gói theo yêu cầu của cơ số quy định, đã chú trong nghiên cứu các phương tiện dùng trong dã ngoại theo thiết kế Việt Nam và sử dụng trong hoàn cảnh Việt Nam các thiết bị điện tử, bán dẫn, thiết bị theo dõi tự động..., về thuốc chữa bệnh, khoa dược Trường đại học quân y đã nghiên cứu thành công một loại thuốc chữa bệnh hiệu nghiệm: cao AD73. Nhờ bôi cao này, không còn phải băng các vết loét bằng lớp băng hay cao phân tử, mỗi khi thay băng gây nhiều đau đớn cho người bị bỏng. Bôi cao AD73 huyết tương không bị mất, vết bỏng mau chóng lên da.


Việc điều tra cây thuốc và bào chế một số thuốc nam, nghiên cứu cải tiến pha chế và kiểm nghiệm dã ngoại, nghiên cứu về xây dựng ngành dược trong quân đội vẫn được tiến hành.


Về hóa học quân sự nhiều đơn vị đã kết hợp với khoa độc học Trường đại học quân y nghiên cứu chuyển từ phòng chống C.S, chất độc trừ sâu diệt cỏ trong mục đích quân sự, phòng chống chất độc thần kinh, chất độc tâm thần...


Về kết hợp Đông y Tây y, từ sau Hội nghị quân y lần thứ, việc kết hợp đông y và tây y đã được đẩy mạnh trong ngành quân y. Năm 1962, Hội nghị kết hợp đông y, tây y lần thứ nhất được tổ chức tại Viện quân y 7 đã có tác dụng nâng cao nhận thức của ngành, đưa phong trào kết hợp đông y, tây y lên một bước. Sau đó nhiều quân khu như Việt Bắc, Quân khu 4... đều tổ chức các hội nghị hướng dẫn các đơn vị triển khai cụ thể.


Hội nghị kết hợp đông y, tây y lần thứ 2 họp tại Viện quân y quân chủng phòng không - không quân (tháng năm 1974) đã xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ phát triển kết hợp đông y, tây y. Và Hội nghị kết hợp đông y, tây y lần thứ 3 họp tại Viện quân y 108 (tháng năm 1975) là hội nghị bàn về kỹ thuật chữa bệnh, phòng bệnh đông y và tây y kết hợp.


Những hướng dẫn về đông y, tây y kết hợp đã thúc đẩy ngành quân y vận dụng có kết quả phương châm y học cách mạng này vào các mặt công tác của ngành như điều trị, phòng bệnh, sân xuất thuốc...

Công tác tổng kết nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân y luôn nhằm đúng vào các yêu cầu phục vụ quân đội chiến đấu và xây dựng, giải quyết các khó khăn đặt ra trong quá trình thực hành 5 mặt công tác nghiệp vụ, đã có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nâng cao mọi mặt công tác của ngành.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM