Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:02:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 30 năm phục vụ và xây dựng của ngành Quân y QĐND Việt Nam (1945-1975)  (Đọc 5362 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2020, 04:41:48 pm »

30 năm phục vụ và xây dựng của ngành quân y Quân đội nhân dân Việt Nam
(1945-1975)


CỤC QUÂN Y — TỔNG CỤC HẬU CẦN — 1976

Chủ biên : PHẠM VĂN HỰU
Biên tập : VŨ VĂN NGẠN - TRẦN TRỌNG VỰC
Tư liệu : PHÒNG TỔNG KẾT NGHIÊN CỨU — CỤC QUÂN Y
Trình bày: NGUYỄN VIẾT MY


Số hóa: Giangtvx, hoi_ls








… Luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền…

HỒ CHÍ MINH







QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM        
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
                                     
TỔNG CỤC HẬU CẦN                                
Độc lập — Tự do — Hạnh phúc
           
CỤC QUÂN Y                                            
Hà Nội ngày 16 tháng 4 năm 1976




KÍNH GỬI: Các đồng chí

Chấp hành chỉ thị của Tổng cục Hậu cần về việc biên soạn lịch sử của các ngành phục vụ trong quân đội để có tài liệu học tập, vận dụng kinh nghiệm phục vụ quân đội, góp phần vào việc giáo dục bản chất cách mạng, truyền thống anh hùng của quân đội ta, góp phần vào công cuộc chiến đấu và xây dựng của các lực lượng vũ trang cách mạng.

Năm 1961, Cục quân y đã biên soạn Dự thảo lược thuật công tác quân y Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).

Năm 1971, nhân kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập ngành quân y, chúng tôi đã biên soạn và in rônéô cuốn “Dự thảo sơ lược lịch sử ngành quân y Việt Nam” với tính chất một đề cương để xin ý kiến các đồng chí.

Năm 1973, nhân kỷ niệm lần thứ 28 ngày thành lập ngành quân y, chúng tôi đã biên soạn và in rônéô cuốn “Ngành quân y Việt Nam phục vụ và xây dựng thời kỳ chống Mỹ cứu nước”, nhằm tập hợp một số tư liệu cần thiết của thời kỳ này giúp cho việc nghiên cứu của các đồng chí.

Năm 1974, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 7 ngày ngành quân y đón thư khen của Hồ Chủ tịch (31-7-1967), chúng tôi đã tổ chức cuộc họp mặt một số các cán bộ lãnh đạo trong ngành của nhiều thời kỳ đến xin ý kiến trực tiếp về việc biên soạn lịch sử ngành quân y và về những đề cương, dự thảo trước đây đã gửi đến các đồng chí.

Cũng trong thời gian qua, tổ biên soạn lịch sử ngành quân y đã được sự hướng dẫn của Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Chính trị (Ban nghiên cứu lịch sử quân đội) và được sự giúp đỡ của nhiều đồng chí trong và ngoài quân đội, đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu và viết từng phần lịch sử ngành quân y.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập ngành quân y Quân đội nhân dân Việt Nam (16-4-1976), chúng tôi cho in tập tài liệu này lấy tên là : 30 năm phục vụ và xây dựng của ngành quân y Quân đội nhân dân Việt Nam (dự thảo tóm tắt) để xin ý kiến các đồng chí.

Việc nghiên cứu biên soạn lịch sử ngành quân y quân đội ta là một công tác rộng lớn, phức tạp và kho khăn, trình độ và khả năng mọi mặt của tổ biên soạn lịch sử quân y lại rất hạn chế, nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót.

Xin chân thành cảm ơn các đồng chí và đề nghị các đồng chí tiếp tục góp ý kiến giúp cho việc sửa chữa, bổ sung được đầy đủ và chính xác để Cục tiến tới xây dựng một tài liệu chính thức.

Chào thân ái và quyết thắng.


CỤC QUÂN Y

 
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #1 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2020, 04:45:40 pm »

Việt Nam là một nước có đồng bằng phì nhiêu, có nhiều đồi núi, có hình thể dài hơn rộng, được biển cả bao quanh, vừa nối liền với đại lục châu Á, vừa tiếp giáp với Thái bình dương, có vị trí địa lý quan trọng. So với các nước châu Á, Việt Nam là một nước đất không rộng lắm, người không đông lắm.

Khí hậu nước ta vừa mang tính chất nhiệt đới ẩm vừa mang tính chất á nhiệt đới, lượng nước ở nước ta có dư, lượng nhiệt lại đầy đủ, cân bằng bức xạ nhiệt quanh năm tạo nên một nhiệt độ cao, thuận lợi cho sinh giới phát triển : Động vật và thực vật ở Việt Nam rất phong phú, cây thuốc, con thuốc cũng rất nhiều. Nguồn nước dồi dào đã tạo ra một mạng lưới sông ngòi dầy đặc, dọc theo bờ biển khoảng 20km lại gặp một cửa sông.

Nước ta lại dài nên khí hậu giữa miền Nam và miền Bắc cũng khác nhau. Gió mùa đông bắc từ miền ôn đới tràn về đã mang theo cái rét lạnh đột ngột, với nhiệt độ tối thiểu dưới 10°C ở đồng bằng, ở vùng rừng núi xuất hiện sương muối, sương giá, đôi khi có cả tuyết rơi. Gió mùa đông nam từ Ấn độ dương và biển Đông lại đã đem đến một lượng ẩm cao khiến cho thiên nhiên nước ta có cả tính chất cận xích đạo. Gió mùa đã in dấu vết sâu sắc trên nhịp độ mùa. Ở nước ta mùa lạnh, mùa nóng, mùa khô, mùa mưa thể hiện rõ nét và ảnh hưởng lớn đến chế độ sông ngòi và chu kỳ sinh vật, tình hình bệnh phát theo mùa.

Trải qua hàng vạn năm, tổ tiên ta đã sớm được rèn luyện về tinh thần đoàn kết, cần cù nhẫn nại, sớm biểu lộ trí thông minh sáng tạo trong đấu tranh cải tạo thiên nhiên, từng bước phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của mình. Từ vua Hùng dựng nước, ý thức “Là dân một nước là con một nhà” của nhân dân ta ngày càng củng cố, dân tộc ta đã xây dựng được một nước nhà thống nhất. Với bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, với hơn hai mươi cuộc chiến tranh lớn chống xâm lược, nhân dân ta đã hun đúc được một ý chí chiến đấu kiên cường, một tinh thần đoàn kết nhất trí, anh dũng hy sinh hết sức vẻ vang, có một di sản quân sự hết sức quý báu về tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ tổ quốc.

Việt Nam được coi là một trong những cái nôi phát tích của loài người. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hóa lâu đời có trình độ khá cao, niềm tự hào của dân tộc ta và là một đóng góp vào nền văn minh cổ xưa của nhân loại.

Nền y học dân tộc cũng xuất hiện từ rất sớm, đã giúp cho con người Việt Nam chẳng những tồn tại mà còn phát triển trong những điều kiện khác nhau của cuộc đấu tranh cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội, trước những điều kiện bất lợi của thời tiết, trước những đe dọa của bệnh tật hiểm nghèo, nền y học dân tộc cổ truyền đã phát triển trên kinh nghiệm dân gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thầy thuốc lỗi lạc.

Ngay từ thế kỷ thứ II sau công nguyên, do điều kiện địa dư và quan hệ chính trị, nền y học dân tộc của ta đã có sự trao đổi với Trung Quốc.
Qua các triều đại của các nhà nước phong kiến tự chủ Việt Nam, từ thế kỷ thứ X luôn luôn xuất hiện các thầy thuốc ưu tú. Về tổ chức y tế, đời nhà Lý triều đình đã đặt ra Ty thái y. Y học dân tộc thời này đã phát triển lên một bước, ngoài việc mở rộng nền y học dân tộc, còn đề xuất được những quy tắc về phép biện luận hạp lý trong chẩn bệnh và chữa bệnh, dùng châm cứu theo huyệt vị kinh lạc. Nhà Trần đã mở rộng Ty thái y thành Viện thái y. Do yêu cầu chống xâm lược phong kiến phương Bắc, đời Trần đã có kế hoạch chuẩn bị thuốc để phục vụ kháng chiến. Thái y viện đã tổ chức hái thuốc ở núi Yên Tử (Đông Triều), trồng thuốc ở Phả Lại và Dược Sơn (xã Hưng Dạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng). Kế hoạch tự túc thuốc nam đã góp phần tích cực trong kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (1288); năm 1362, vua Trần đã cho tổ chức việc trồng một số cây có giá trị chống bệnh thời khí (bệnh dịch) như hành, tỏi, tía tô, mùi, sả... ở một số địa phương bên sông Tô Lịch. Ý thức trồng thuốc bắt đầu từ đấy và đã trở thành truyền thống trồng cây thuốc trong nhiều địa phương.

Nguyễn Bá Tĩnh (thế kỷ thứ XIV) là một thầy thuốc có nhiều cống hiến tích cực cho nền y học dân tộc. Ông đã sử dụng một số chùa làm nơi chữa bệnh cho nhân dân. Qua những cơ sở chữa bệnh này, ông đã thu thập những kinh nghiệm quý trong dân gian, sưu tầm những bài thuốc hay, áp dụng, nghiên cứu và viết thành sách. Ông đã tổ chức trồng thuốc, kiếm thuốc, chế thuốc đề phát cho người bệnh, huấn luyện y hoc cho các tăng đồ, phổ biến phép phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. Ông đề ra phương châm tiến bộ “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”, nhằm sử dụng chữa bệnh cho đông đảo nhân dân, nêu cao tinh thần tự lực dân tộc.

Triều Lê (1428-1788) có nhiều chủ trương tiến bộ đối với việc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Luật Hồng Đức đặt ra quy chế nghề y, quy chế vệ sinh xã hội, quy chế pháp y, đồng thời ban hành luật cấm tảo hôn. Lê Huy Tông ra lệnh biên soạn và phát hành sách “Những điêu chủ yếu bảo vệ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ” (Bảo sinh diên thọ toàn yếu) để truyền bá phương pháp vệ sinh, hô hấp vận động cho nhân dân.

Về tổ chức y tế, ở triều đình có Thái y viện, có Sở lương y trong các vệ quân chữa bệnh cho quân đội. Ở các tỉnh có Tế sinh đường chữa bệnh cho quan quân, trông nom việc cứu tế, y tế nhân dân, nhất là chống dịch ở các địa phương. Ở trung ương và các tỉnh đều có kho thuốc dự trữ và cấp phát, ở các huyện có các Y ty có trách nhiệm trông coi người tàn tật, già yếu.

Về phát triển dược liệu, thời kỳ này ta đã khai thác một số mỏ quặng để chế biến diêm tiêu, hồng đơn..., quản lý việc bóc quế để giữ giống và bảo đảm phẩm chất, thu thuế bằng hiện vật ở các nơi sản xuất thuốc (diêm tiêu, hồng đơn, tê giác, ngà voi, xạ hương, sâm, quế, trầm hương, kỳ nam, sáp ong...). Nghề trồng cây thuốc được tiếp tục khuyến khích và mở rộng trên nhiều địa phương.

Về phát triển y học ở Thái y viện có khoa huấn luyện y học (Y học huấn khoa) và đặt chức học lại ở các phủ huyện trông coi việc học thuốc ở các địa phương. Triều Lê Hiến Tông (thế kỷ thứ XVIII), Thái y viện lại có chủ trương đẩy mạnh việc trước tác sách y học và mở thêm trường dạy thuốc ở một số phủ, mở khoa thi Y khoa đồng tiến sỹ năm 1747 và xây dựng Y miếu Thăng Long 1774 nhằm khuyến khích và phát triển y học.

Lê Hữu Trác (1720-1791) là người thầy thuốc vĩ đại nhất đã có nhiều cống hiến xuất sắc phát triển nền y học nước nhà. Lê Hữu Trác không những là một nhà y học nổi tiếng mà còn là một nhà tư tưởng tiến bộ thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Là nhà y học có học vấn sâu rộng, có tinh thần độc lập, sáng tạo trong nghiên cứu, ông đã vận dụng quan niệm về sự nhất trí giữa con người và môi trường, ông chủ trương phải nghiên cứu thời tiết khí hậu nước ta và đặc điểm của cơ thể để tìm ra những phương pháp phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán và điều trị thích hợp. Ông coi trọng kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân và ra sức tìm tòi các cây thuốc trong nước để chữa bệnh. Ông đã sưu tầm, phát hiện và bổ sung thêm công dụng của 305 vị thuốc nam, thu thập 2.854 phương thuốc của các bậc tiền bối và của nhân dân. Cuộc đời hoạt động khoa học của Lê Hữu Trác là tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm và sứ mệnh của người thầy thuốc.

“Đạo làm thuốc là nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mệnh cho con người, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người làm phận sự của mình mà không cầu lợi, kể công”, đó là nội dung tư tưởng cơ bản đạo đức y học rất tiến bộ của Lê Hữu Trác. Ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một di sản quý giá, đặc biệt là bộ Hải thượng lãn ông y tông tâm lĩnh (66 quyển). Trong tác phẩm này, ông đã phát huy những thành tựu của nền y học dân tộc cổ truyền kết hợp với việc vận dụng sáng tạo lý luận cơ bản của đông y và những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của bản thân, xây dựng thành hệ thống toàn bộ lý, pháp, phương, dược của nền y học Việt Nam.
Lê Hữu Trác được coi là một trong những nhà bác học uyên thâm với những hiểu biết có tính chất bách khoa và những công trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực của nhân dân ta trong thế kỷ 18.

Trong triều đại Tây Sơn, do tình hình chiến tranh liên tiếp, đói kém và dịch tễ nhiều, nên Thái y viện đã tăng cường việc đi chống dịch cho nhân dân, đồng thời đã tổ chức ra Cục thuốc nam (Nam dược cục) nhằm nghiên cứu sử dụng thuốc nam.

Y học dân tộc dưới triều Nguyễn, thời kỳ tự chủ 1862-1883, cũng có những tổ chức y tế giống như triều Hậu Lê, Thái y viện có mở trường dạy thuốc ở Huế năm 1853.

Dưới các triều đại phong kiến, y học dân tộc đã có những thành tựu và phát triển nhất định, với những tác phẩm y học của Nguyễn Bá Tĩnh và Lê Hữu Trác, nền y học dân tộc đã có những thu hoạch quan trọng trên nhiều mặt cả về đạo đức y học và phép chữa bệnh, cả về kinh nghiệm và lý luận, cả về phòng bệnh và chữa bệnh. Đáng chú ý là các trước tác y học có một số không ít được viết bằng văn nôm dưới thể diễn ca nhằm phổ cập rộng rãi những kiến thức vệ sinh, y, dược trong quần chúng. Điều đó, một phần đã nói lên tính quần chúng và tính tự lập của nền y học dân tộc.

Song song với nền y học dân tộc của người Kinh, y học của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam cũng có những phát triển, đã truyền lại nhiều kinh nhiệm phòng bệnh, chữa bệnh tốt.

Nền y học dân tộc đã có tác dụng to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của đông đảo quần chúng nhân dân mặc dù khả năng hạn chế của y tế nhà nước phong kiến.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #2 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2020, 04:49:56 pm »

PHẦN MỘT
Y HỌC YÀ Y TẾ VIỆT NAM THỜI THUỘC PHÁP.
HÌNH THÀNH CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG
(1939 - 1945)



1. Y HỌC VÀ Y TẾ VIỆT NAM THỜI THUỘC PHÁP



Cuối thế kỷ 19, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta, bọn phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng giặc, dân tộc Việt Nam mất nước, nhân dân ta trở thành nô lệ.

Nước ta trước đây vốn là một xứ nông nghiệp, dưới chế độ thống trị của đế quốc phong kiến, nhân dân ta không những bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, mà về văn hóa, khoa học, kỹ thuật cũng đã bị chúng kìm hãm hết sức nặng nề, làm cho trình độ của ta về mặt này lạc hậu rất xa so với trình độ phát triển chung của thế giới. Cuộc cách mạng kỹ thuật (hay cuộc cách mạng công nghiệp) ở nhiều nước trên thế giới đã diễn ra từ thế kỷ 18, thế mà hàng trăm năm sau, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trong một thời gian dài cho đến trước Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước ta vẫn ở trong tình trạng một xứ nông nghiệp, là thuộc địa khai thác nguyên liệu và thị trường tiêu thụ của chủ nghĩa đế quốc, sản xuất nhỏ, phân tán và thủ công, văn hóa khoa học kỹ thuật lạc hậu và thấp kém.

Cán bộ khoa học kỹ thuật chỉ có rất ít, nói chung do đế quốc đào tạo ra nhằm sử dụng phục vụ cho bộ máy thống trị của chúng, chủ yếu có 3 ngành: luật, sư phạm và y. Về kỹ thuật thực hành cũng chỉ có một vài trường đào tạo, số lượng chừng vài trăm người ở trình độ trung cấp và sơ cấp, và cũng chỉ có một vài ngành đơn giản.

Nền y học dân tộc Việt Nam bị đè nén, xuyên lạc miệt thị và lợi dụng, có nguy cư bị mai một. Bọn gian thương chạy theo lợi nhuận, đầu cơ sức khỏe của nhân dân, lạm dụng những thành quả của nền y học dân tộc, biến thành mặt hàng buôn bán. Y tế dân tộc không thành một tổ chức, không có cơ sở chữa bệnh, không có trường đào tạo. Tại các địa phương đều có các ông lang, bà mế làm nghề tự do, truyền lại nghề làm thuốc trong phạm vi nhỏ hẹp. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội lúc đó vẫn có một số lương y chân chính, có mối liên hệ tốt với quần chúng nhân dân, có kinh nghiệm phòng và chữa một số bệnh, được tín nhiệm và có tiếng từng vùng. Trong dân gian rộng rãi vẫn lưu truyền những bài thuốc hay, các cách chữa bệnh đặc sắc; cây thuốc và con thuốc Việt Nam vẫn được nhiều người nuôi, trồng, kiếm hái và sử dụng.
Nền y học hiện đại (còn được gọi là tây y), do đế quốc Pháp đưa vào trong quá trình khai thác thực dân được bọn thống trị đưa lên hàng chính thống.

Song song với chính sách chia để tri, bần cùng hóa và ngu dân, thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách y tế phản động. Chi phí y tế chiếm khoảng 4% ngân sách Đông Dương lúc đó, trên 80% ngân sách là chi cho bộ máy thống trị và “Để trả nợ nước Pháp”. Mục đích chi phí ít ỏi này cũng chỉ nhằm bóc lột hơn nữa nhân công rẻ mạt của người bản xứ và để truyền bá ảnh hưởng của Pháp.

- Toàn quyền Đông Dương An-be Sa-rô vạch rõ: “Kinh nghiệm hôm qua chứng minh rằng: Sự tăng gia sản xuất thuộc địa... cũng là và nhất là một vấn đề nhân công, vấn đề bảo vệ dân chúng, bảo vệ sinh đẻ bằng công cuộc vệ sinh và cho thuốc... Tóm lại, cần phải giữ gìn và tăng gia vốn người để có thể làm cho vốn tiền hoạt động được và có lãi”.

- Toàn quyền Đông Dương Đu-me cũng nói: “Việc lập trường y sỹ có một ý nghĩa chính trị. Ông y sỹ do ta đào tạo ra, do ta trả lương sẽ là môt công cụ tích cực đề truyền bá ảnh hưởng Pháp, bởi vì ông y sỹ không thể không có ảnh hưởng trong dân”  .

Tổ chức y tế thời thuộc Pháp rất nhỏ yếu, với đại đa số nhân dân có thể nói là không có tổ chức y tế bảo đảm. Chỉ tại một số thành phố lớn và tỉnh lỵ mới có một số cơ sở y tế và thực hành một số biện pháp vệ sinh nhằm phục vụ cho bọn cai trị người Pháp và số ít người giàu có. Đến trước Cách mạng tháng 8, cả nước chỉ có 147 bác sĩ y khoa được đào tạo từ các trường của Pháp và một số nhân viên y tế sơ cấp. Số nhân viên y tế do Pháp đào tạo chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm y học tư sản, một số trở thành công chức phục vụ cho bọn thống trị, số còn lại kinh doanh làm giàu. Nghề chế thuốc và chữa bệnh lúc đó được coi là “Nghề tự do”, nghề của giới thượng lưu xã hội.

Sau 80 năm thống trị, thực dân Pháp đã làm nhà tù nhiều hơn bệnh viện, trên cả nước có 83 nhà tù và chỉ có 47 bệnh viện mà người dân lao động coi đây là nhà thương làm phúc “Là nơi chữa bệnh bố thí”.

Thời thuộc Pháp trung bình có một thầy thuốc cho 15 vạn dân, trong khi đó theo tỷ lệ trung bình trên quốc tế thường thấy là 1/1000, về giường bệnh có 0,1 giường bệnh cho 1000 dân, tỷ lệ đó ở các nước Âu Mỹ phát triển là 5/1000 đến 10/1000.

Trong nước không có công nghiệp chế thuốc, thuốc và dụng cụ y dược phải hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài, nguồn dược liệu dồi dào trong nước không được chú ý khai thác, sử dụng.

Đời sống và sức khỏe nhân dân ta bị uy hiếp rất nghiêm trọng: Hàng năm tỷ lệ trẻ mới đẻ bị chết từ 13% đến 20%, tỷ lệ trẻ em chết dưới một tuổi nhiều nơi rất khủng khiếp (50%). Trong những năm bình thường không có nạn đói hay dịch tả, tỷ lệ chết chung của người lớn lẫn trẻ lên tới 3 % do chính sách ngu dân của đế quốc và phong kiến nên trình độ hiều biết về văn hóa, về khoa học, về vệ sinh của nhân dân ta rất thấp kém.

Các bác sĩ, dược sĩ, y sĩ nhất là các anh em trẻ tuổi và các sinh viên y khoa, dược khoa phần lớn xuất thân từ thành phần trung gian hoặc thành phần lớp trên, nói chung có tinh thần yêu nước và đồng tình với cách mạng. Nhưng trong chế độ cũ, họ đã ít nhiều bị ảnh hưởng của tư tưởng và nếp sống của giai cấp tiểu tư sản và tư sản. Sau khi tốt nghiệp đại học, một số trở thành công chức, còn hầu hết đều đi vào đường “Làm tư”, họ tập trung ở một số thành phố lớn, thu hẹp vốn trí thức của mình trong việc kinh doanh. Các y sĩ, bác sĩ, thì mở phòng khám bệnh tư và chỉ mong “Khách hàng” cho đông để kiếm được nhiều tiền; họ không muốn và cũng không còn thì giờ đâu mà nghĩ đến việc ngăn ngừa bệnh tật cho nhân dân, các dược sĩ thì dựa vào nguyên liệu mua ở nước ngoài, pha chế thành các thành phẩm thông thường bán lấy lãi hoặc làm đại lý cho các hãng dược phẩm nước ngoài. Việc nghiên cứu khoa học, xây dựng một nền y học dân tộc nhằm ngăn ngừa bệnh tật, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân lao động, khai thác tài nguyên phong phú về dược thảo, dược liệu trong nước; kế thừa và phát huy vốn y học cổ truyền của dân tộc thì hầu như không ai chú ý đến.

Tình hình trên đây có ảnh hưởng nhất định đến việc xây dựng và phát triển ngành quân y sau này trong một thời kỳ lâu dài, đặc biệt là đã tác dụng đến việc xây dựng và phát triển ngành trong những năm chống Pháp xâm lược.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #3 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2020, 04:53:56 pm »

2. HÌNH THÀNH CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG


Từ khi có giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng của mình lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ cách mạng quyết liệt và liên tục giành thắng lợi.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng tài tình và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-Nin về chiến tranh cách mạng và xây dựng lưc lượng vũ trang cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Ngay khi mới thành lập, Đảng ta đã đặt vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của công nông. Những mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng đã xuất hiện, đó là những đội tự vệ đầu tiên, những đội tự vệ đỏ trong cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Khi Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng và chuyển hướng hình thức đấu tranh để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, các lực lượng tự vệ, tự vệ chiến đấu và du kích được xây dựng và phát triển, lúc đầu trong các vùng cơ sở cách mạng miền rừng núi Việt Bắc và đồng bằng Nam bộ, về sau ở nhiều địa phương rộng lớn khắp cả nước. Các lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của nhân dân ta lần lượt ra đời : Đội du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Đội du kích Ba Tơ :

Các đội đầu tiên ấy có Đảng chỉ lối đưa đường lấy lòng dân làm căn cứ, lấy giác ngộ giai cấp, tinh thần yêu nước, lòng căm thù địch làm vũ khí tấn công, đã lớn lên trong ngọn lửa đấu tranh cách mạng, đã phát triển nhanh chóng trong cao trào chống Nhật cứu nước và được thống nhất lại thành Việt Nam giải phóng quân, đã lớn mạnh trong những ngày đầu tổng khởi nghĩa oanh liệt và trở thành đội ngũ Vệ quốc đoàn đông đảo khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.

Lịch sử thời kỳ hình thành các lưc lượng vũ trang cách mạng cho thấy : Quá trình hình thành ấy gắn liền với sự lãnh đạo cách mạng của Đảng, gắn liền với sự nổi dậy tự giải phóng của toàn dân. Ngay từ thời kỳ rất sớm, sự hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng đã có những đặc điểm sau :

- Đảng là người trực tiếp sáng lập, lãnh đạo và giáo dục quân đội ta. Đảng đã xác định sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của Đảng đối với các lực lượng vũ trang cách mạng ngay từ khi còn là các đội tự vệ. Sự lãnh đạo của Đảng đã quyết định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của quân đội. Đảng đã chỉ rõ quân đội ta phải là công cụ sắc bén của Đảng để tiến hành đấu tranh giai cấp bằng hình thức vũ trang. Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ chính trị của Đảng là lý tưởng, mục tiêu chiến đấu của quân đội. Đảng đã đem đường lối tổ chức của Đảng làm đường lối xây dựng quân đội. Đảng đã giáo dục cho quân đội lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, đã đem truyền thống đấu tranh bất khuất, của một dân tộc anh hùng, đem tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp công nhân mà rèn luyện chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho quân đội. Đảng đã đem truyền thống đoàn kết nhất trí của mình mà đoàn kết cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân đội và nhân dân.

Nguồn gốc sức mạnh của quân đội ta trước hết và chủ yếu là ở sự lãnh đạo của Đảng. Xác định và luôn luôn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đối với quân đội từ đầu đã là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng quân đội ta.

- Từ nhân dân mà ra, từ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng mà ra. Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta đã phát triển lên đấu tranh vũ trang và từ đấu tranh chính trị của quần chúng, lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân ra đời. Ngay từ đầu, quân đội ta là quân đội công nông, là tổ chức vũ trang của khối liên minh công nông, của tình đoàn kết chiến đấu giữa hai giai cấp công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Từ lúc ra đời, quân đội ta đã có tính chất là quân đội của dân tộc. Nó là quân đội giải phóng dân tộc. Từ nhân dân mà ra, quân đội ta phục vụ nhân dân không điều kiện. “Vì nhân dân quên mình” là tiêu chuẩn, là hòn đá thử vàng của quân đội cách mạng. Quân đội ta không những là đội quân chiến đấu mà còn đội quân công tác. Tách rời khỏi nhân dân, quân đội ta cũng ví như con thơ lìa mẹ, quan hệ nhân dân là quan hệ sinh tử của quân đội ta.

- Xây dựng chính trị, tư tưởng là vấn đề bản chất trong việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Công tác chính trị là công tác Đảng và công tác vận động quần chúng của Đảng trong các lực lượng vũ trang, nhờ đã xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản về tổ chức, xây dựng và lãnh đạo của Đảng nên đã có phương hướng đúng đắn ngay từ đầu. Nó đã giáo dục nâng cao không ngừng trình độ chính tri, tư tưởng cho cán bộ và chiến sĩ, đã lấy đường lối chủ trương của Đảng làm nội dung giáo dục, lấy công tác tư tưởng của Đảng làm cơ sở cho công tác tư tưởng trong lực lượng vũ trang. Nó đã giáo dục lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, lòng yêu nước, yêu nhân dân, nung nấu chí căm thù địch, đã rèn luyện tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất cho các lực lượng vũ trang. Nó đã có tác dụng quyết định đối với bản chất giai cấp và mục tiêu phấu đấu của các lưc lượng vũ trang ngay từ khi mới hình thành. Lấy xây dựng chính trị và tư tưởng làm cơ sở, các lực lượng vũ trang cách mạng ngay từ khi mới ra đời đã nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đã là một tập thể anh hùng.

Những đặc điểm trên đây là những đặc điểm cơ bản, nó quyết định bản chất của quân đội, đồng thời nó cũng có tác dụng quyết định đến quá trình phát sinh và phát triển của ngành quân y, có ảnh hưởng rất sâu sắc đến mọi bước trưởng thành của ngành quân y trong tất cả các thời kỳ lịch sử sau này.

Trên đây cũng là bối cảnh lịch sử trực tiếp quyết định điều kiện hình thành ngành quân y quân đội ta.

Trong thời kỳ hình thành, các lực lượng vũ trang cách mạng thường phải hoạt động trong các chiếu khu rừng núi. Đời sống chiến đấu gian khổ đã ảnh hưởng ngày càng nhiều đến sức khỏe các chiến sĩ.

Lúc này, quân y chưa thành một tổ chức, việc bảo vệ sức khỏe cũng như cứu chữa cho các chiến sĩ là do chính các chiến sĩ tự lo liệu bằng những phương tiện địa phương. So với ăn, mặc thì thuốc lại càng thiếu hơn. Do hoàn cảnh thực tế và do ý thức cách mạng, nên quân giải phóng đã coi cách giải quyết tốt nhất là giữ gìn vệ sinh, phòng ngừa hơn chữa bệnh. Kỷ luật vệ sinh được đặt ra rất nghiêm ngặt : Cấm ăn quả xanh, cấm uống nuớc lã, mỗi khi hành quân mệt nhọc phải nghỉ ngơi rồi mới được tắm rửa, mỗi khi trú quân bắt buộc làm giường, làm lán, trừ trường hợp đặc biệt tuyệt đối không được gối đất nằm sương; mỗi khi có điều kiện là tổ chức tắm giặt, diệt chấy rận... Phương châm giữ vệ sinh, phòng bệnh tật đã có kết quả tốt trong điều kiện khó khăn gian khổ lúc đó, tỷ lệ người ốm không quá 7 % so với quân số.

Khi có người ốm, các đội vũ trang dựa vào kinh nghiệm của đồng bào địa phương tìm các lá, rễ cây làm thuốc để chữa. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã kể lại trong cuốn sách “Đội giải phóng quân”: “Mỗi tiễu đội chọn lấy một đồng chí thầy thuốc trong hàng ngũ của mình. Đồng chí ấy chuyên trách thu nhặt các thứ thuốc “Ngoại khoa”... nước mã liên an đã giúp cho nhiều anh em đỡ cơn sốt rừng, lá chiêu phi oóng, nụ áo, mần chông mu chữa sốt rét hoặc bị cảm ; có thứ lá đã giúp trị các vết thương nặng nhẹ, và hút đạn ra khỏi vết thương; cho đến bệnh lỵ, bệnh sâu quảng tất cả đều nhờ vào thuốc lá cây, rễ cây...” .

Một hộp đựng bơm tiêm với hai bơm tiêm (một bơm tiêm 5ml, một bơm tiêm 2ml) và 5 kim tiêm của Pháp sản xuất từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, là vốn liếng duy nhất của ngành quân y. Một trong những người thầy thuốc đầu tiên sử dụng những dụng cụ trên trong năm 1944-1945 để phục vụ người bệnh là đồng chí Nguyễn Thị Tuyết (tức Mai) chiến sĩ của đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân.
Ở Ba Tơ, đồng chí chính trị viên đội du kích chiến khu Núi Lớn kiêm luôn “Thầy thuốc” của đội (đồng chí này khi ở tù có làm nhiệm vụ săn sóc các đồng chí trong tù bị ốm nên có biết qua về thuốc). Thuốc của đồng chí “Thầy thuốc” này gồm mấy viên ký ninh, aspirin, ít bông băng, mấy ống quinin, dầu long não, một bơm tiêm...

Mãi tới ngày gần khởi nghĩa mới có một số y sĩ, dược sĩ, bác sĩ và sinh viên tham gia cách mạng 1 nhưng lúc đó vì phương tiện quá thiếu thốn, điều kiện hoạt động khó khăn, những người quân y đầu tiên này cũng chỉ cống hiến được nhiều tinh thần hy sinh, tận tụy hơn là cố gắng kỹ thuật.

Vì vậy, lịch sử ngành quân y Việt Nam chỉ thực sự bất đầu từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công đã kết thúc hơn 80 năm thống trị của chủ nghĩa đế quốc và hàng ngàn năm áp bức của vua chúa phong kiến, đưa nhân dân Việt Nam từ nô lệ lên làm chủ nước nhà.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám là một cuộc nổi dậy thắng lợi của nhân dân một nước thuộc địa và nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trải qua một quá trình đấu tranh chính trị lâu dài phát triển lên đấu tranh vũ trang, tiến hành đấu tranh du kích cục bộ khởi nghĩa từng phần ở rừng núi và nông thôn, cuối cùng nhân lúc quân thù khủng hoảng đến cực độ đã nhằm đúng thời cơ, dùng lực lượng của đội quân chính trị rộng lớn, kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng vùng dậy đập tan nền thống trị của đế quốc và phong kiến, lập nên chính quyền dân chủ nhân dân.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã khai sinh ra ngành quân y Quân đội nhân dân Việt Nam.



----------------------------------------------------------------
1. Dược sĩ Vũ Công Thuyết, nha sĩ Nguyễn Dương Hồng, sinh viên Nguyễn Xuân Bích. Dược sĩ Vũ Công Thuyết làm cứu thương cho đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm Thái Nguyên.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #4 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2020, 04:58:45 pm »

PHẦN HAI
THỜI KỲ HÌNH THÀNH NGÀNH QUÂN Y QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
NGÀNH QUÂN Y PHỤC VỤ QUÂN ĐỘI TRONG NĂM ĐẦU CỦA CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
(8.1945 - 12.1946)




Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi !

Ngày 2 tháng chín năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yêu của Đảng ta, của giai cấp công nhân và nhân dân ta. Thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa lịch sử rất trọng đại này của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tư do của Tổ quốc.

Trước thắng lợi rực rỡ của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc thế giới mặc dù bị suy yếu sau chiến tranh vẫn ra sức tìm cách tiêu diệt chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam đang trứng nước.

Ở miền Bắc, cuối tháng tám năm 1945, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch do đế quốc Mỹ dật dây, mượn cớ vào tước vũ khí quân đội Nhật, nhưng thực ra là âm mưu xâm lược miền Bắc nước ta. Ở miền Nam, đầu tháng chín năm 1945, quân đội đế quốc Anh kéo đến. Chúng cũng mượn tiếng tước vũ khí quân Nhật, nhưng kỳ thật đó là đội quân viễn chinh giúp thực dân Pháp mưu cướp lại nước ta. Trong khi đó, bè lũ phản cách mạng trong nước, bọn thân Mỹ, thân Tưởng, thân Pháp ra sức phá hoại cách mạng.

Ở các thành phố, đô thị quan trọng vẫn còn sáu vạn quân Nhật với nguyên vũ khí. Chúng tuy đã đầu hàng nhưng sẵn sàng theo lệnh quân đồng minh chống lại cách mạng nước ta.

Trước tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp, với đường lối cách mạng tài tình sáng suốt, với phương pháp đấu tranh phong phú và linh hoạt, Đảng và Hồ Chủ tịch đã động viên đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng hùng hậu, triệt để khai thác những mâu thuẫn trong hàng ngũ quân thù, kiên quyết và khôn khéo đưa con thuyền cách mạng Việt Nam luồn các mỏm đá ghềnh lướt tới.

Miền Nam anh hùng đi đầu trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Với ý chí sắt đá vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc, với tinh thần cách mạng tiến công, nhân dân ta ở miền Nam đã đem sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân chống lại kẻ thù hung bạo. Cuộc chống Pháp anh dũng nổ ra ngày 23 tháng chín năm 1945 của Nam Bộ, lần lượt lan ra Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã ngăn chặn một bước sự xâm lược của thực dân Pháp, làm thất bại âm mưu của chúng hòng nhanh chóng đánh chiếm lại miền Nam nước ta, góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền nhân dân, chủ quyền dân tộc. Đó là sự phát triển liên tục từ khởi nghĩa vũ trang thành chiến tranh cách mạng. Nó cống hiến những kinh nghiệm đầu tiên của kháng chiến toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân nước ta.

Nhân dân ta ở miền Bắc được cuộc kháng chiến oanh liệt của miền Nam cổ vũ, đã tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết và đầy mưu trí trên các mặt trận : chính trị, quân sự và ngoại giao. Âm mưu lật đổ của Mỹ - Tưởng bị hoàn toàn đập tan. Hai mươi vạn quân Tưởng bị gạt ra khỏi bờ cõi. Bọn phản động tay sai bị diệt trừ. Khối đoàn kết toàn dân được tăng cường. Hậu phương được củng cố. Điều đó có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ vận mệnh của Tổ quốc, đến sự phát triển thắng lợi của cuộc kháng chiến cả nước.

Chỉ một thời gian ngắn sau Cách mạng tháng Tám, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều phát triển nhẩy vọt, tạo nên sức mạnh to lớn để vượt qua muôn trùng khó khăn trước mắt, đồng thời chuẩn bị lưc lượng cho cuộc kháng chiến cả nước sau này. Đảng và Hồ Chủ tịch đã động viên toàn dân kháng chiến ở miền Nam và đấu tranh chính trị ở miền Bắc, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, vừa vũ trang toàn dân vừa xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đánh giặc.

Trong hoàn cảnh mới giành chính quyền, kinh tế lạc hậu và kiệt quệ, lại phải lập tức chiến đấu chống thù trong giặc ngoài, Đảng đã dựa vào khối đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của chế độ và chính quyền mới, huy động khả năng của toàn xã hội để xây dựng lực lượng vũ trang cả về chính trị, quân sự, và cơ sở vật chất kỹ thuật, lấy xây dựng về chính trị tư tưởng làm căn bản. Quân đội ta lúc này còn rất nghèo về trang bị, vũ khí, còn rất non nớt về trình độ chỉ huy và tác chiến, song nó vững vàng về chính trị, giầu lòng yêu nước, yêu dân, có khí thế cách mạng sục sôi của cả dân tộc vùng dậy.

Đó là đặc điểm tình hình chung của các lực lượng vũ trang cách mạng trong năm đầu của chính quyền nhân dân.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #5 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2020, 09:10:26 am »

CHƯƠNG MỘT
NGÀNH QUÂN Y KHI MỚI THÀNH LẬP NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA (8-1945 - 3-1946)



1. Nam Bộ kháng chiến, quân y Nam Bộ kháng chiến chống Pháp. Ban hồng thập tự các mặt trận ở Nam Bộ. Tổ chức dưỡng đường Nam Bộ. Hội nghị tổ chức đầu tiên của các ban Hồng thập tự. Tổ chức ban y tế các chi đội.

Tại Nam Bộ, ở khắp các làng, xã, huyện, tỉnh các cấp ủy Đảng, chiến sỹ du kích Nam Kỳ năm 1940, cán bộ Việt minh đã nhanh chóng xây dựng, phát triển tự vệ, dân quân và các đội du kích. Ở Sài-gòn, giai cấp công nhân đã giữ vai trò chủ yếu trong việc xây dựng lực lượng tư vệ. Xứ ủy Đảng, Ủy ban nhân dân và Tổng công đoàn Nam Bộ đã trực tiếp tổ chức lãnh đạo lưc lượng tự vệ, mua sắm vũ khí cho các đội, nhất là những đội trong các xí nghiệp, khu phố quan trọng.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nam Bộ lúc này đã đem từng đơn vị Bảo an binh vừa mới đi với cách mạng, bổ sung thêm công nhân, thanh niên, học sinh tổ chức ra Cộng hòa vệ binh, thành lập các sư đoàn, ngoài ra còn công nhận một số tổ chức vũ trang khác như nhóm Thanh niên phòng vệ đoàn, nhóm Bình Xuyên... Do đó, tình hình tổ chức các lực lượng vũ trang tập trung ở Nam Bộ trong thời kỳ mới giành đươc chính quyền rất phức tạp  1.

Ngày 23 tháng chín năm 1945, thực dân Pháp có quân Anh giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Được sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ, nhân dân Sài Gòn sôi sục căm thù, nhất trí đứng dậy, quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới : Nam Bộ kháng chiến.

Ở các bệnh viện tại Sài Gòn, dựa vào cán bộ nòng cốt của ta, anh em y tá và nhân viên đều có tổ chức bảo vệ thương binh, bảo vệ thuốc, dụng cụ y tế. Tại nhà thương Chợ Rẫy có một số cán bộ nòng cốt của ta, một số anh em học sinh y khoa xã hội, y tá, học sinh y tá hăng hái, lại được sự giúp đỡ của đồng chí Nguyễn Văn Tạo 2  bị thương đang nằm điều trị tại đây, nên tại nhà thương Chợ Rẫy trong thời gian này đã tổ chức học tập quân sự, đưa được thương binh, thuốc, dụng cụ ra ngoài trước khi Sài Gòn bị địch tạm chiếm. Trong lúc này, một số đông y sĩ, bác sĩ, y tá ở các nhà thương tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Bà Chiểu cũng theo kháng chiến đưa được thương binh, mang được thuốc ra phục vụ các mặt trận.

Mặc dù chuẩn bị chưa kịp, nhân dân Sài Gòn anh dũng, được cả nước giúp đỡ tiếp sức và cổ vũ đã vây giữ địch trong thành phố hơn bốn tuần lễ, bước đầu làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của chúng và tạo điều kiện cho các nơi khác có thời gian sửa soạn kháng chiến.

Mặt trận Thị Nghè - Cầu Bông. Mặt trận có tổ chức Ban hồng thập tự đóng ở Gò Vấp, cách tuyến chiếm đóng của địch chừng 4 - 5km, do một y sĩ, trên 10 y tá và cứu thương, khoảng 50 thanh niên xung phong vào học cứu thương, có tương đối đầy đủ thuốc và dụng cụ y tế đưa từ nhà thương Bà Chiểu ra, Ban hồng thập tự tổ chức một cơ sở điều trị hàng ngày cho thương binh, bệnh binh và tổ chức ra một ban cứu thương mặt trận do anh chị em y tá và một số anh chị em cứu thương mới được đào tạo cấp tốc vài ngày về các kỹ thuật cấp cứu, đi làm nhiệm vụ cứu thương mặt trận, thương binh từ mặt trận về đều được chuyển bằng ô tô. Thời gian đầu tổ chức cứu chữa này phát huy được tác dụng phục vụ, nhưng từ giữa tháng mười 1945, giặc đánh rộng ra thì Ban hồng thập tự chỉ lo chuyển được thương binh, bệnh binh và một số thuốc, dụng cụ rút theo cùng bộ đội. Do tổ chức lúc đầu thiếu chặt chẽ, thiếu ý thức quân sự, nên cuối cùng có khoảng hơn 20 anh chị em theo được bộ đội tiếp tục phục vụ. Số này là nòng cốt cho tổ chức của Ban y tế chi đội 6 sau này.

Mặt trận Bà Quẹo: Cũng tổ chức Ban hồng thập tự đóng tại thị xã Bà Quẹo, do một y tá của nhà thương Chợ Rẫy phụ trách, 4 cứu thương và khoảng 50 nam nữ thanh niên mới xung phong vào học cứu thương. Ban hồng thập tự tổ chức một bộ phận điều trị 10 giường, một ban cứu thương ở tập trung tại cơ sở điều trị, không có cứu thương ở đơn vị. Do đó, ban cứu thương chỉ làm được nhiệm vụ băng bó cho thương binh nhẹ từ mặt trận tự về hoặc được bộ đội chuyển về.

Mặt trận Phú Lâm. Các đơn vị của mặt trận này đều có tổ chức Ban hồng thập tự. Chung cho toàn mặt trận có Ban hồng thập tự Trần Quốc Toản do bác sĩ Nguyễn Văn Hoa phụ trách, cách tổ chức cứu chữa thương binh cũng giống như hai mặt trận trên, riêng Ban hồng thập tự Liên hiệp công đoàn Nam Bộ thì có nữ cứu thương ở phân đội. Đầu tháng mười năm 1945 có triệu tập một cuộc hội nghị đầu tiên của các ban hồng thập tự nhằm liên lạc với nhau và giúp đỡ nhau về thuốc và dung cụ. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, mặt trận còn tổ chức ra Dưỡng đường Nam Bộ, có 3 bác sĩ, 3 hộ sinh trung cấp, một số y tá, 3 bộ đồ mổ, lúc đầu ở thị xã Tân An, sau chuyển về Rạch Chanh. Nhiệm vụ của Dưỡng đường Nam Bộ là thu dung, cứu chữa thương binh của mặt trận Phú Lâm. Sau địch đánh rộng ra lục tỉnh thì Dưỡng đường Nam Bộ lại phân tán theo các đơn vị chiến đấu.

Nói chung, trong các sư đoàn đều có các ban cứu thương do các y sĩ, bác sĩ và phần lớn là y tá cũ tình nguyện phục vụ bộ đội phụ trách.
Số người xung phong tham gia ban cứu thương, các ban hồng thập tự ngày một đông, nhất là chị em phụ nữ, họ được huấn luyện cấp tốc kỹ thuật cấp cứu thương binh trong 5-7 ngày rồi tung ra mặt trận. Bên cạnh những đội quân cảm từ chỉ có vũ khí thô sơ chống cự oanh liệt hàng tháng với các đội quân xâm lược nhà nghề của đế quốc, những chiến sĩ quân y đầu tiên của Nam Bộ đã tỏ ra không kém phần hy sinh dũng cảm.

Nhưng do không nhận thức đúng đắn về tính chất của cuộc kháng chiến, do thiếu kinh nghiệm, do không có một tổ chức ban đầu thích hợp với yêu cầu chiến đấu và một phần cũng vì thành phần phức tạp, nên khi địch đánh lan rộng, các mặt trận bị vỡ, các ban hồng thập tự cũng dần dần giải tán. Tuy vậy, còn khoảng gần hai chục y sĩ, bác sĩ, sinh viên y khoa và hơn 40 y tá vẫn quyết tâm rút lên chiến khu theo sát bộ đội phục vụ, mang theo được một số thuốc và dụng cụ  3.

Tháng mười hai năm 1945, sau khi 4 sư đoàn bị tan rã, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương bộ đội được tổ chức thành các chi đội. Sự phân hóa, tan rã của các lực lượng vũ trang phức tạp này chỉ ra rằng: Lực lượng vũ trang muốn thực sự là của nhân dân thì nhất thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng ta. Nó chứng tỏ nghị quyết của hội nghị Thiên Hộ về vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là hết sức đúng đắn. Giữa lúc đó, Nam Bộ nhận được chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị vạch rõ nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta là kiên trì kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. Chỉ thị đã nâng cao tinh thần chiến đấu và lòng tin tưởng vào thắng lợi, soi sáng những vấn đề cơ bản nhất có ý nghĩa quyết định đề duy trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở miền Nam.

Các ban y tế chi đội cũng lần lượt được thành lập. Mỗi ban y tế chi đội tổ chức ra một dưỡng đường chi đội. Ở nhờ nhà nhân dân để thu dung tất cả thương binh, bệnh binh thuộc chi đội do tổ cứu thương các đại đội gửi lên. Tình hình công tác quân y lúc này có nhiều khó khăn, cán bộ, thuốc và dụng cụ đều rất thiếu, đã có những trường hợp phải dùng cưa thợ mộc, dao thường để mổ cho thương binh. Các đơn vị rút về nông thôn hay rừng núi đã học hỏi kinh nghiệm nhân dân, dùng thuốc nam ngày một phổ biến.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ được giữ vững. Trong chiến đấu ác liệt với quân thù, các lực lượng vũ trang được sàng lọc, tôi luyện. Các đội quân phức tạp đã phân hóa, tan rã. Còn các đội du kích, tư vệ do Đảng tổ chức, lãnh dạo và được nhân dân ủng hộ thì tồn tại và phát triển. Tuy còn rất nhỏ bé, các đội du kích ấy đã đảm đương được nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh quang là cùng nhân dân giữ vững cuộc kháng chiến. Đó là những đơn vị nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở Nam Bộ sau này.

Bài học đầu tiên của quân y Nam Bộ trong gần 4 tháng kháng chiến chống Pháp là :

- Ngay từ đầu ta đã thiếu một tổ chức chung để lãnh đạo tất cả các y sĩ, bác sĩ, y tá, chỉ đạo các nhà thương công và tư tại Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh. Việc tập hợp chủ yếu dựa vào sự hăng hái của anh em y tế, chưa có một sự chọn lọc chặt chẽ.

- Chúng ta mới có hăng hái yêu nước, căm thù xâm lược, quyết tâm kháng chiến, nhưng chúng ta còn non nớt về chính trị, về quân sự, không hiểu chiến thuật của địch, chưa hình dung được tổ chức quân y kháng chiến phải như thế nào, do đó các nơi đều tổ chức hình thức chính quy, quy mô như của Pháp, tổ chức đông người và nặng nề, không cơ động bám sát được bộ đội. Vị trí các ban hồng thập tự đều ở các thị xã, trên lộ giao thông chính, thủy hay bộ nên khi địch tấn công thì dễ bị tổn thất. Có nơi còn tin ở tính chất bất khả xâm phạm của dấu hồng thập tự, nên có gặp tổn thất nhất định trong việc triển khai và cứu chữa ở mặt trận (như ở mặt trận Bà Quẹo, địch bắn vào nhân viên y tế ở bệnh viện có mang dấu hiệu hồng thập tự).

- Điểm nổi bật của thời gian này là với tinh thần yêu nước của anh chị y tá, y sĩ đã tự động vận chuyển được thuốc, dụng cụ ở các nhà thương ra vùng giải phóng để phục vụ cho các mặt trận trong khi bọn Nhật còn chiếm giữ hoặc trong khi giặc Pháp đến chiếm đóng như anh em ở nhà thương Chợ Rẫy, Chợ Quán, Bà Chiểu, Thủ Dầu Một, Cần Thơ... Với tinh thần hăng hái tham gia đông đảo của nam nữ thanh niên học sinh, công chức, các y sĩ, bác sĩ và y tá, nên chỉ trong một thời gian ngắn các nơi đã tự động tổ chức được các ban hồng thập tự, ban y tế, ban cứu thương ở phục vụ các mặt trận, đồng thời các nơi cũng tranh thủ huấn luyện gấp rút cứu thương nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ của các mặt trận và các bệnh viện. Chị em phụ nữ các giới đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ quân y ban đầu.

- Trong điều kiện rất phức tạp của Nam Bộ kháng chiến lúc đó, đội ngũ cán bộ quân y ban đầu gồm có 10 y bác sĩ, 2 sinh viên dược khoa, 7 sinh viên y khoa xã hội, trên 40 y tá và một số nam nữ cứu thương đã quyết tâm đi theo kháng chiến, phục vụ bộ đội, phục vụ thương binh, bệnh binh. Anh chị em đó đã giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng các cơ sở ngành quân y ở Nam Bộ sau này.




------------------------------------------------------------------
1. Ngày 25-11-1945, Hội nghị toàn xứ Đảng bộ Nam Bộ họp tại Thiên Hộ, Mỹ Tho bàn nhiều vấn đề quan trọng để đẩy mạnh kháng chiến, đặc biệt chú trọng vấn đề tăng cường sự lãnh dạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang, hội nghị chỉ rõ: Việc tổ chức lực lượng “Cộng hòa vệ binh” là không đúng với đường lối, nguyên tắc xây dựng các lực lượng vũ trang của Đảng, các tổ chức vũ trang phức tạp rồi đây sẽ không thể tránh khỏi bị phân hóa, tan rã và đề ra các biện pháp nhằm hạn chế những tai hại do các lực lượng đó gây ra. Hội nghị chủ trương tăng cường nhiều cán bộ của Đảng cho công tác nhân sự.

2. Đồng chí Nguyễn Văn Tạo, nguyên là Bộ trưởng Bộ Lao động.

3. Rút kinh nghiệm phục vụ thời kỳ đầu của quân y Nam Bộ, đồng chí Vũ Văn Cần nêu rõ:
    1. Không nên tin vào tính chất bất khả xâm phạm của dấu Hồng thập tự, thực dân Pháp đã tàn sát cả nhân viên y tế và cơ sở bệnh viện có mang dấu Hồng thập tự.
    2. Quân y phải phân tán theo sát bộ đội, phải phân tán cả người, cả thuốc và dụng cụ, bệnh xá, bệnh nhân phải phân tán vào các tư gia. Quân địch sẽ không thấy các căn cứ quân y mà phá phách như đã phá phách các quân y viện của chúng ta.
    3. Phải biết kín đáo về tinh thần, phải biết biến đổi, che đậy.
    4. Phải tích cực áp dụng chiến thuật du kích trong công tác quân y.
Vũ Văn Cần - Một bài học kinh nghiệm. Vui sống tháng 12-1946.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #6 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2020, 09:15:30 am »

2. Mở lớp hồng thập tự ở Nam Trung Bộ. Bệnh viện hậu phương Nha Trang. Đội nữ hồng thập tự Khánh Hòa. Sở y tế miền Nam Trung Bộ. Đoàn giải phẫu Nam Tiến đầu tiên phục vụ mặt trận Nam Trung Bộ. Thành lập Ban quân y Khu 5. Kết hợp quân y và dân y ở Nam Trung Bộ.

Cùng với việc đánh rộng ra nông thôn Nam Bộ, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ và vùng rừng núi Tây Nguyên hòng dựa vào quân Anh thôn tính cả miền Nam nước ta từ vĩ tuyến 16 trở vào.

Ngày 19 tháng mười năm 1945, quân Pháp được sự giúp đỡ của quân Anh và quân Nhật đã đổ bộ lên Nha Trang.

Tháng mười hai năm 1945, từ miền Đông Nam Bộ chúng đánh lên Tây Nguyên, chiếm thị xã Buôn Mê Thuột. Tháng giêng 1946, chúng đánh chiếm Di Linh, Đà Lạt. Đầu tháng hai 1946 từ Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, chúng đánh xuống Ninh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết, phối hợp với quân đổ bộ đường biển giải vây cho Nha Trang.

Ở những nơi địch tiến công đến, nhân dân và các lưc lượng vũ trang địa phương cùng với bộ đội Nam tiến làm nòng cốt, các lực lượng vũ trang địa phương đã tổ chức lại và phát triển thành các đơn vị bộ đội tập trung ở Nam Trung Bộ. Tại các chi đội, ngoài một số ít y tá cũ, bộ đội đã chỉ định một số anh em chiến sĩ nào biết ít nhiều về thuốc như anh em hướng đạo sinh... làm cứu thương, đồng thời ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời cũng giao cho dân y mở lớp Hồng thập tư ngắn ngày để cung cấp người chuyên môn cho các chi đội. Cũng như ở Nam Bộ, việc điều trị bệnh binh lúc này vẫn dựa vào lưc lượng của dân y.

Tháng mười một năm 1946, Ban y tế Vệ quốc đoàn đã bổ sung cho Nam Trung Bộ: 2 bác sĩ, 2 sinh viên y khoa. Sở y tế Trung Bộ cũng cử vào Quảng Ngãi 5 y sĩ và cử vào Quảng Nam 1 y sĩ để phục vụ y tế cho bộ đội và nhân dân trong tỉnh.

Các chi đội Nam tiến đều có y tá, cứu thương đi theo phục vụ. Đây là các y tá các bệnh viện dân y tình nguyện nhập ngũ, còn những cứu thương nam, nữ đều là thanh niên học sinh mới được huấn luyện ngắn ngày tại các bệnh viện dân y ngoài Bắc.

Theo tổ chức quân đội, Nam Trung Bộ lúc này chia làm 2 khu : Khu 5 và Khu 6.

Tại Khu 6. Do chiến sự xảy ra sớm, các tỉnh trong khu hoặc bị chiếm, hoặc bị chia cắt, nên không có tổ chức quân y ở khu. Từng nơi đều tổ chức tự động công tác, tổ chức thành bệnh viện quân dân y. Tại Buôn Mê Thuột thành lập một bệnh viện quân dân y do một bác sĩ phụ trách. Tại Phan Thiết, ủy ban quân sự Phan Thiết đã huy động 4 bác sĩ cùng toàn thể nhân viên bệnh viện Phan Thiết cùng một số nhân viên khác tổ chức thành Bệnh viện quân dân y Phan Thiết. Tại Nha Trang, ngoài số nhân viên của Bệnh viện Nha Trang còn huy động cả một số bác sĩ, dược sĩ làm tư tổ chức thành Bệnh viện quân dân y Nha Trang.

Nhìn chung, tổ chức y tế các tỉnh đều thành lập các bệnh viện quân dân y trực tiếp phục vụ chiến đấu. Các bệnh viện quân dân y đều tập trung tại các đô thị, nên khi chiến sự lan tới, các cơ sở quân dân y đều gặp nhiều lúng túng, không bảo đảm được nhiệm vụ khi bộ đội rút lui, có nơi có gặp tổn thất.

Khi Pháp tấn công Nha Trang, ta rút ra ngoài thành bao vây địch gần 4 tháng. Cơ sở điều trị, thuốc, dụng cụ y tế và hầu hết nhân viên y tế của thành phố Nha Trang cũng rút ra ngoài theo bộ đội và tổ chức thành bệnh viện hậu phương của bộ đội Nha Trang. Nhân viên chuyên môn lúc này có rất ít, nên Tỉnh ủy Khánh Hòa đã vận động toàn nữ thanh niên Trưng Trắc, Trưng Nhị tổ chức thành một đội nữ Hồng thập tự gồm 30 người. Đội này sau khi được học tập ngắn ngày về cấp cứu đã được phân công đi phục vụ tại các cơ sở điều trị hoặc đi theo bộ đội ra hỏa tuyến vừa chiến đấu, vừa cấp cứu thương binh. Nhiều chị em đã bình tĩnh băng bó cho thương binh ngay dưới tầm bom đạn địch, dùng cáng, dùng thuyền hoặc tự mình cõng thương binh vượt khỏi vòng vây của địch. Trong nhiệm vụ vẻ vang của mình, có chị đã bị thương nặng, có chị đã anh dũng hy sinh vì thương binh, vì Tổ quốc 1 . Đồng thời với việc chuyển Bệnh viện Nha Trang thành Quân y viện để phục vụ bộ đội chiến đấu ở mặt trận Nha Trang, ta còn chuyển Phòng bào chế ở Suối Tre (Nam Bộ) ra Phan Thiết và rời cơ sở y tế Đà Lạt xuống Phan Rang, tạo thêm được một số cơ sở điều trị và chế thuốc cho kháng chiến. Sở y tế miền Nam Trung Bộ khi này phụ trách cả quân y và dân y.

Cũng trong thời gian này, từ ngoài Bắc Ban y tế Vệ quốc đoàn phái vào một số sinh viên y khoa, y tá, cứu thương đi theo các đơn vị Nam tiến. Tháng giêng 1946, Đoàn giải phẫu đầu tiên 2  đi cùng đồng chí giám đốc y tế Vệ quốc đoàn (có nhiệm vụ đi kiểm tra và bắt liên lạc với các tổ chức quân y các địa phương), tiếp sau đó Đoàn giải phẫu thứ hai từ Bắc vào tăng viện cho miền Nam. Nhờ thế, lực lượng quân y của miền Nam Trung Bộ ngày càng được tăng cường. Lực lượng quân y này đã kịp thời phục vụ, đáp ứng được một phần yêu cầu của chiến đấu, nhất là trong những trận đánh ngăn chặn địch, đánh rộng ra khỏi Phan Thiết, Buôn Mê Thuột và Nha Trang. Trong lúc tình hình khẩn trương và quyết liệt của các trận chiến đấu của miền Nam Trung Bộ, nhiều cán bộ và nhân viên quân y đã tỏ ra bình tĩnh dũng cảm, như ở chiến khu Phan Thiết, khi giặc đánh đến, toàn thể nhân viên bệnh xá chiến khu Phan Thiết đã dũng cảm chiến đấu đến cùng, bảo vệ được thương binh, rút ra được an toàn.

Tại Khu 5, tình hình còn yên tĩnh. Tháng mười một năm 1945, quân y Khu 5 được thành lập 3  tổ chức còn rất đơn giản. Mỗi trung đội vẫn do một y tá phụ trách, tại các tỉnh đều nhờ bệnh viện dân y của tỉnh giúp thêm cho bộ đội. Tháng giêng 1946, Sở y tế Trung Bộ bổ sung 2 y sĩ để thành lập bệnh viện quân y tại Quảng Ngãi, thành lập thêm 2 bệnh xá, nhân viên y tế thì điều động từ các bệnh xá dân y của huyện lên và đào tạo thêm một số cứu thương mới.

Ban quân y Khu 5 bắt đầu đào tạo một lớp 40 cứu thương (có 20 nữ), tiếp đó lại nhận được 10 nữ cứu thương từ miền Bắc gửi vào.

Lúc này, mặt trận Tây Nguyên bị uy hiếp, quân y mặt trận Tây Nguyên đã hình thành 3 tuyến phục vụ :

- Tại Bầu Cạn thành lập một trạm mổ, đồng chí trưởng ban quân y đảm nhiệm có 10 nữ cứu thương giúp việc.

- Tại Phú Phong lập một bệnh viện do một y tá phụ trách, có 10 nữ cứu thương phụ vụ cho 50 thương binh.

- Tại Bồng Sơn lập một bệnh xá do một bác sĩ phụ trách.

Được sự giúp đỡ của Ủy ban quân sự các tỉnh, theo đề nghị của đồng chí giám đốc y tế Vệ quốc đoàn lúc này đang làm việc tại các mặt trận phía Nam, các bệnh viện dân y các tỉnh chính thức giành một nửa bệnh viện phục vụ quân đội, đảm nhận việc tiếp tế thuốc, đào tạo cứu thương quân y cho các đơn vị đóng trong tỉnh. Việc kết hợp quân dân y ngày càng chặt chẽ, tạo điều kiện tốt cho công tác phục vụ bộ đội, phục vụ thương binh, bệnh binh.




------------------------------------------------------------------
1. Do chị Nguyễn Thị Ngọc Cầm làm đội trưởng.

2. Đoàn giải phẫu đầu tiên do bác sĩ Hoàng Đình Cầu phụ trách.

3. Do bác sĩ Nguyễn Thiện Thành phụ trách và 2 đồng chí y tá dân y của bệnh viện Quy Nhơn tình nguyện tòng quân.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #7 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2020, 09:21:18 am »

3. Vệ quốc đoàn, Ban y tế Vệ quốc đoàn Hà Nội, “Hội cứu thương” Bắc Bộ. Sắc lệnh trưng dụng các y sĩ, bác sĩ, dược sĩ vào phục vụ quân đội. Trường huấn luyện y tá Vệ quốc đoàn. Thành lập Ban y tế vệ quốc đoàn. Thành lập Phòng bào chế tiếp tế đầu tiên.

Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, từ cuối tháng tám đến đầu tháng mười năm 1945, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã chiếm đóng hầu hết các thành phố từ vĩ tuyến 16 trở ra. Chúng tăng cường gây sức ép, giúp bọn tay sai hoạt động phá hoại nhằm lật đồ chính quyền cách mạng.
Đồng thời, quân Pháp chạy trốn quân Nhật trước đây (9 tháng ba năm 1945) cũng trở lại đánh chiếm một số nơi như Lai Châu, và nhảy dù xuống Đông Triều, Phúc Yên, Thừa Thiên, Quảng Nam,... Bọn phản cách mạng trong nước nhân cơ hội ngóc đầu dậy cùng bọn tay sai Mỹ - Tưởng ra sức chống phá cách mạng. Có bọn cướp chính quyền ở địa phương, lập căn cứ phản động chống chính phủ lâm thời (Lao Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Việt Trì, Vĩnh Yên, Lạng Sơn, Hải Ninh...). Có bọn tiến hành phá hoại ở các thành phố, thị xã.

Thưc hiện chủ trương của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta hết sức bình tĩnh đề phòng mọi khiêu khích, tránh xung đột với quân Tưởng. Với các hình thức đấu tranh linh hoạt và kiên quyết ta đã buộc chúng phải tôn trọng chính quyền nhân dân và chủ quyền dân tộc của ta. Vấn đề cốt tử để đối phó với mọi tình thế là tranh thủ thời gian ráo riết xây dựng, phát triển thực lực của cách mạng.
Tháng chín năm 1945, Hồ Chủ tịch chỉ thị phải nhanh chóng chấn chỉnh, mở rộng Giải phóng quân Việt Nam và đổi tên là Vệ quốc đoàn. Từ đây Quân giải phóng Việt Nam trở thành quân đội của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mang tên Vệ quốc đoàn.

Ở miền Bắc, tình hình chính trị tuy có nhiều phức tạp, nhưng chiến sự chưa lan tới nên cũng là một điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển công tác quân y. Ở các chiến khu, các chi đội đều có ban y tế, các ban này phần lớn là do anh em y tá cũ hoặc cứu thương mới đào tạo cấp tốc được cử ra phụ trách. Trừ một số nơi có bác sĩ tình nguyện đứng ra tổ chức Ban y tế Vệ quốc đoàn  1.

Riêng ở Hà Nội, sau khi Quân giải phóng từ Thái Nguyên tiến về (tháng chín năm 1945) trong trại Trung ương Vệ quốc đoàn Hà Nội chỉ có một sinh viên y khoa 2 phụ trách phát thuốc hàng ngày cho những người ốm. Cuối tháng chín năm 1945, bác sĩ Vũ Văn Cẩn tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn và được đồng chí Chủ tịch Ủy ban bảo vệ thành phố Hà Nội giao cho tổ chức Ban y tế Vệ quốc đoàn Hà Nội. Nhiệm vụ của ban y tế lúc này mới chỉ là phục vụ các đơn vị Hà Nội, một số đơn vị tự vệ, du kích và bộ đội Nam tiến. Sau những ngày chiến đấu gian khổ ở chiến khu về, bộ đội bị ốm nhiều, đặc biệt là bệnh sốt rét và sâu quảng là hai bệnh phổ biến lúc bấy giờ. Người thiếu, thuốc thiếu nên việc chính của Ban y tế là tổ chức một nơi thăm bệnh và khám sức khỏe cho bộ đội, giới thiệu những người ốm sang bệnh viện dân y. Dần dần có thêm một số sinh viên y khoa và nữ hồng thập tự tòng quân 3 ,  từ một phòng thăm bệnh đã phát triển thêm một bệnh xá và một văn phòng làm việc. Cũng như các tổ chức quân y ở các chiến khu, Ban y tế đã tranh thủ, mở được hai lớp cứu thương ngắn ngày để cung cấp nhân viên cho các đơn vị trực thuộc.

Ngày 19 tháng mười năm 1945, Ủy ban nhân dân cách mạng Bắc Bộ thành lập “Hội cứu thương”, nhiều chị em đã được huấn luyện công tác cứu thương và sau này tòng quân trở thành cán bộ quân y.

Nhu cầu cán bộ quân y ngày càng trở thành gay gắt, cần phải có trong một thời gian ngắn một số y bác sĩ vào phục vụ trong quân đội, phục vụ chiến đấu ở miền Nam. Việc kêu gọi tòng quân vào lúc có phong trào Nam tiến đang rầm rộ, nên đã có kết quả nhất định. Nhưng nhu cầu ngày một tăng mà số người tình nguyện chỉ có hạn, nên ngày 24 tháng mười một năm 1945, Chính phủ đã ra sắc lệnh trưng dụng các y sĩ, bác sĩ, dược sĩ vào phục vụ quân đội 4

Việc trưng tập này gặp nhiều khó khăn, số đông các y sĩ, bác sĩ, dược sĩ lúc đó đều có tâm lý ngại gian khổ, sợ tham gia bộ đội sẽ trở ngại cho việc làm tư, mặt khác còn hoang mang do dự trước tình hình chính trị phức tạp lúc đó, một số đã ngả theo bọn phản động Quốc dân đảng phản đối lệnh trưng tập (đứng đầu bọn này có Trương Đình Tri lúc ấy là Bộ trưởng Bộ y tế thay bác sĩ Hoàng Tích Trí, sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp). Vì vậy, mặc dù có lệnh trưng tập, nhưng thực sự là phải tranh thủ thuyết phục từng người một. Thời gian trưng tập cũng chỉ quy định cho mỗi người là 6 tháng và lần lượt từ người trẻ tuổi và gia đình có ít con đi trước.

Đồng thời với việc trưng tập, tiếp tục mở các lớp huấn luyện y tá Vệ quốc đoàn 5.

Từ tháng chín năm 1945, Ban y tế Vệ quốc đoàn Hà Nội bắt đầu đào tạo cứu thương, mỗi khóa học khoảng 30 - 45 ngày. Khóa đầu có 150 học sinh. Cuối khóa giữ lại 30 học sinh để đào tạo thêm 2 tháng nữa thành y tá. Các khóa 2, 3 cũng tiếp tục như vậy. Ngày 12 tháng bẩy năm 1945 tại giảng đường Trường đại học y khoa Hà Nội đã làm lễ bế mạc lớp y tá Vệ quốc đoàn khóa 3. Trong buổi này đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đến dự, động viên và giao nhiệm vụ.

Với số cán bộ tình nguyện, đào tạo và trưng tập đó, đến tháng ba năm 1946, từ Bắc Bộ đến Nam Trung Bộ đả có một số cán bộ quân y tối thiểu để phục vụ cho nhu cầu của quân đội.

Sự phát triển của quân đội đòi hỏi phải có một tổ chức y tế chung, nên tháng mười hai năm 1945, Bộ y tế ra nghị định thành lập Ban y tế Vệ quốc đoàn và cử bác sĩ Vũ Văn Cẩn làm giám đốc.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, Ban y tế Vệ quốc đoàn đã gấp rút tiến hành :

- Củng cố Ban y tế Vệ quốc đoàn, cụ thể là quân y xá và văn phòng, làm cơ sở cho cơ quan chỉ đạo sau này.

- Động viên, hô hào các nhân viên y tế cũ tòng quân, gấp rút đào tạo y tá, cứu thương làm cơ sở cho đội ngũ cán bộ đầu tiên của ngành quân y sau này và để tăng viện cho mặt trận miền Nam đang đòi hỏi.

Ngày 5 tháng ba năm 1946, thành lập Phòng bào chế tiếp tế đầu tiên ở Ba Thá (Hà Đông) do dược sĩ Vũ Công Thuyết phụ trách; phương tiện, dụng cụ là những thứ thu thập được ở nhà thương Đồn Thủy, nhân viên có 8 người vừa làm vừa học, nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức kho tàng và pha chế một số thuốc thông thường để cấp phát cho các đơn vị quân đội.

Về tổ chức, ngành quân y đã bắt đầu có một cơ quan chỉ đạo chung, song thực tế về điều kiện và khả năng có hạn nên ngoài mấy việc kể trên, các đơn vị các địa phương vẫn phải tự lực về mọi mặt.




-----------------------------------------------------------------
1. Bác sĩ Nguyễn Văn Vịnh tổ chức Ban y tế Vệ quốc đoàn Hải Phòng, bác sĩ Trương Tấn Lập phụ trách y tế chi đội Lý Thường Kiệt ở Vĩnh Phú.

2. Đồng chí Phạm Thế, sinh viên y khoa, theo Quân giải phóng từ chiến khu về.

3. Sinh viên Nguyễn Sỹ Quốc, Nguyễn Xuân Ty, Trịnh Văn Khiêm, nữ hồng thập tự Nguyễn Thị Hải Nguyệt, Hoàng Thị Kim Quy.

4. Sắc lệnh số 66/SL ngày 24-11-1945.

5. Trường y tá Vệ quốc đoàn Quân y cục, do bác sĩ Đỗ Đạo Tiềm làm giám đốc, hoạt động từ tháng chín năm 1945 đến tháng mười một năm 1946, huấn luyện được 4 khóa y tá Vệ quốc đoàn.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #8 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2020, 09:24:57 am »

CHƯƠNG HAI
NGÀNH QUÂN Y CÙNG QUÂN DÂN CẢ NƯỚC TÍCH CỰC
CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN (3-1946 — 12-1946)



Đến cuối tháng hai đầu tháng ba năm 1946, ở miền Bắc toàn dân đoàn kết một lòng đã giữ vững củng cố chính quyền nhân dân. Bè lũ Mỹ - Tưởng và tay sai không thực hiện được âm mưu lật đổ của chúng. Ở miền Nam, cuộc kháng chiến được giữ vững. Âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của thực dân Pháp đã bị thất bại.

Chủ nghĩa đế quốc Mỹ - Tưởng và Anh - Pháp đã tạm dẹp mâu thuẫn bộ phận ở Đông Dương, thỏa thuận với nhau cho quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam. Âm mưu của địch định hãm ta vào thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc.

Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương “Hòa đề tiến”, chủ trương đó dẫn đến việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng ba giữa ta và Pháp, bằng việc ký hiệp định nay ta đã chia rẽ được kẻ thù, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tạo điều kiện khôi phục, phát triển phong trào cách mạng miền Nam.

Từ Hiệp định sơ bộ 6 tháng ba năm 1946 đến toàn quốc kháng chiến là một thời kỳ đấu tranh phức tạp, quyết liệt giữa nhân dân ta với bè lũ đế quốc và bọn tay sai của chúng, một quá trình giáo dục và tổ chức quần chúng liên tục, gấp rút sửa soạn cho cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi trên cả nước.

Tại Nam Bộ, sau khi ký Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp vẫn duy trì chiến tranh xâm lược và có âm mưu chia cắt lâu dài Tổ quốc ta. Cuộc đấu tranh cách mạng rộng lớn với khí thế mãnh liệt, đến cuối năm 1946 vẫn tiếp tục phát triển. Đó là một quá trình phát triển từ nhỏ đến lớn, từ địa phương đến toàn miền Nam, ở cả nông thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Với phong trào nổi dậy, vùng giải phóng được mở rộng gấp nhiều lần, chiếm phần lớn nông thôn Nam Bộ. Các căn cứ lớn nhỏ thực sự hình thành và bước đầu được củng cố. Từ các căn cứ, bộ đội ta tiến đánh khống chế các đường giao thông chiến lược, đột nhập vào các đô thị, thành phố. Với sự hình thành các căn cứ kháng chiến ở khắp nơi như vậy, hình thái xen kẽ, cài răng lược giữa ta và địch đã xuất hiện rõ rệt.
Nhờ có lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu, lực lượng du kích, tự vệ đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, nhiều đội du kích được xây dựng thành các chi đội Vệ quốc đoàn. Mỗi tỉnh xây dựng một hai chi đội. Đã có một số chi đội và đơn vị trực thuộc các khu. Toàn Nam Bộ từ một chi đội đến đây đã có hai chi đội. Lực lượng vũ trang tập trung vừa được tổ chức lại đều có hệ thống Đảng trong quân đội từ xứ ủy đến chi đội ủy và các chi bộ lãnh đạo. Điều này có ý nghĩa quyết định để phát huy bản chất cách mạng, bảo đảm sự thống nhất chỉ huy và sự phát triển của các lưc lượng vũ trang nhân dân ở Nam Bộ.

Nằm giữa vựa lúa Nam Bộ hầu hết đã được giải phóng, được chính quyền nhân dân chăm sóc tận tình, các đơn vị đều được nuôi dưỡng tương đối đầy đủ. Đó là điều kiện thuận lợi để các lực lượng vũ trang phát triển. Bộ đội đã có nhiều kinh nghiệm đánh các đồn bốt nhỏ bằng lối đánh tập kích, phục kích trên bộ, trên sông, nổi bật là có nhiều tiến bộ trong chống càn quét. Vừa xây dựng vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang nhân dân ở Nam Bộ đã lớn mạnh từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ phân tán đến tập trung, sàng lọc, tôi luyện trong cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược.

1. Ban y tế các chi đội, Ban y tế các khu. Thành lập Sở quân y Nam Bộ. Thành lâp phòng y tế các khu. Tổ chức bệnh viện các khu, hoạt động bảo vệ sức khỏe và cứu chữa thương binh bệnh binh của các chi đội, huấn luyện cứu thương tại các chi đội.

Từ tháng mười hai năm 1945, trở đi các chi đội lần lượt được thành lập ở Khu 7, Khu 8 rồi đến Khu 9 1 . Sau khi thành lập các chi đội, ban chỉ huy chi đội xét khả năng cán bộ chuyên môn trong chi đội mình chỉ định người phụ trách. Từ đó ban y tế các chi đội được lần lượt hình thành và đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ban chỉ huy chi đội. Lúc này chưa có một tổ chức chỉ đạo nghiệp vụ chung cho các ban y tế các chi đội.

Tổ chức ban y tế chi đội có một văn phòng, một dưỡng đường và các cứu thương đại đội. Tất cả nhân viên có khoảng trên dưới 20 người. Có chi đội có y sĩ hoặc bác sĩ phụ trách, (như ở Khu 7), 2 - 5 y tá, số còn lại là cứu thương.

Sau Hiệp định sơ bộ 6 tháng ba năm 1946, Ủy ban hành chính Nam Bộ được thành lập và bắt đầu có cung cấp cho bộ đội Khu 7 và đến Tạm ước 14 tháng chín năm 1946, Nam Bộ chính thức tổ chức lại thành lập 3 khu quân sự. Bộ tư lệnh Nam Bộ và Bộ tư lệnh các quân khu quyết định thành lập Sở quân dân y Nam Bộ và các phòng y tế các khu, bác sĩ Hồ Văn Huê phụ trách Ban y tế chiến khu 7 được cử làm Giám đốc Sở quân dân y Nam Bộ kiêm Trưởng phòng Y tế Khu 7.

Tổ chức này đánh dấu sự hình thành của ngành quân dân y Nam Bộ có hệ thống tổ chức từ toàn miền đến quân y các đại đội.

Về tổ chức : Sở quân y Nam Bộ và phòng y tế các khu còn rất đơn giản, Sở quân dân y cũng chưa quan niệm được nhiệm vụ của sở đối với các phòng y tế các khu. Phòng y tế các khu cũng chưa hình dung được nhiệm vụ cụ thể của phòng đối với ban y tế các chi đội. Công việc của các địa phương vẫn là do địa phương tự lo liệu lấy.

Các phòng y tế các khu thì dựa vào bệnh viện của khu để tổ chức khám bệnh và điều trị cho cán bộ, chiến sĩ trong khu vực và cho cơ quan Bộ tư lệnh khu, đồng thời cũng cung cấp một số thuốc cho một số đơn vị không phải với tính chất là một chế độ cấp phát mà là giúp đỡ, tương trợ khi có điều kiện.

Tổ chức và nhiệm vụ bệnh viện các khu cũng rất đơn giản. Lúc đầu là thu dung cứu chữa bệnh binh, sau dần số thương binh ngày một đông lên, lượng thu dung khoảng 30 đến 60 thương binh, bệnh binh.

Do điều kiện chiến đấu và sinh hoạt gian khổ nên chấy rận, ghẻ lở và một số bệnh ngoài da khác đã phát triển trong một số đơn vị. Từ sau Tạm ước 14 tháng chín năm 1946, các đơn vị các địa phương được củng cố một bước, điều kiện tiếp tế và cung cấp có khá hơn, bộ đội có thời gian nghỉ ngơi, luyện tập nên các bệnh ngoài da, nạn chấy rận giảm dần, sức khỏe được khôi phục và từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, ý thức phòng chống sốt rét của quân y và bộ đội còn kém, nên bệnh sốt rét đã phát triển trong bộ đội hoạt động các vùng Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh và các vùng của rừng U Minh.

Các đại đội thường hoạt động trên một địa bàn nhất định, xa ban y tế chi đội, nên cứu thương đại đội thường phải tự lực giải quyết mọi yêu cầu cứu chữa tại chỗ. Bệnh tật chủ yếu là sốt rét, một số bệnh ngoài da, lỵ. Cứu thương đại đội còn giữ điều trị những vết thương nhẹ. Dựa vào bộ đội và nhân dân địa phương, anh em cứu thương đại đội đều dùng thuốc nam để chữa một số chứng bệnh như: sốt, cảm, ho, đau bụng, lỵ, ghẻ...

Trong chiến đấu cứu thương đại đội thường đi theo ban chỉ huy đại đội, nắm tình hình thương binh trong đại đội, cấp cứu sơ bộ tại mặt trận và tổ chức chuyển thương binh về nơi quy định. Sau chiến đấu rút quân thì đưa thương binh về địa điểm an toàn và săn sóc lần thứ hai tại đây. Khi có thương binh nặng thì tổ chức đưa về dưỡng đường chi đội, còn thương binh nhẹ thì giữ lại điều trị tại đơn vị. Mỗi trận chiến đấu thường có 3 đến 7 thương binh, tính chất vết thương ít phức tạp do đạn thẳng, đạm đum đum, lựu đạn gây nên, lượng thu dung thương binh, bệnh binh tại dưỡng đường chi đội thường khoảng 40 đến 60.

Trong năm 1946, Nam Bộ chưa có cơ sở sản xuất bào chế thuốc, nguồn thuốc cung cấp chủ yếu dựa vào mua, quyên góp của nhân dân nên số lượng cũng có hạn, nhưng do thương binh có ít, anh em quân y lại có ý thức tiết kiệm, lại biết khai thác sử dụng thuốc nam nên đã tự lực giải quyết được nhiều việc, khắc phục được một phần thiếu thốn.

Các chi đội đều tự đào tạo lấy cứu thương vì chưa có chương trình thống nhất nên các ban y tế các chi đội thường dựa trên công tác thực tế hàng ngày mà hướng dẫn cho anh chị em.

Tại Nam Trung Bộ, quân Pháp cũng không thi hành Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946. Chúng tập trung nhiều lực lượng tiến công hòng chiếm đóng các tỉnh tự do của ta, đồng thời ra sức càn quét, bình định các tỉnh cực Nam Trung Bộ.

Cũng như ở Nam Bộ, tại các vùng bị địch tạm chiếm ở cực Nam Trung Bộ, nhân dân các tỉnh đã vùng lên đấu tranh với địch, khôi phục lại chính quyền cách mạng. Ở Tây Nguyên chiến tranh du kích bước đầu đã phát triển, nhiều căn cứ du kích nhỏ mọc lên ở nông thôn đồng bằng và rừng núi. Trong phong trào nổi dậy của nhân dân, lực lượng bộ đội và du kích địa phương đều phát triển.

Tháng tư năm 1946 thành lập 3 đại đoàn hoạt động từ Quảng Nam đến Phan Rang và Tây Nguyên.




-----------------------------------------------------------------
1. Nam Bộ lúc này chia làm ba khu :
- Chiến khu 7: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
- Chiến khu 8: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
- Chiến khu 9: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #9 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2020, 02:07:10 pm »

2. Hình thành hệ tổ chức quân y ở Nam Trung Bộ. Thành lập Quân y vụ đại đoàn, Ban quân y trung đoàn. Quân y phục vụ chiến đấu ở các mặt trận cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Trạm phẫu thuật. Bệnh viện mặt trận. Quân y Tây Nguyên dựa vào dân triển khai phục vụ thương binh.

Sau khi Quân y cục và Phân cục quân y Trung Bộ được thành lập, chế độ trưng tập cán bộ y tế phục vụ quân đội được thực hiện, nên đã có được một số cán hộ tăng cường cho quân y Nam Trung Bộ.

Từ tháng ba đến tháng mười hai năm 1946, Quân y Nam Trung Bộ đã được tăng cường 9 bác sĩ, 7 y sĩ, 45 y tá quân đội, một số y tá dân y chuyển sang, 5 dược tá do Phân cục quân y Trung Bộ đào tạo.

Nhờ số cán bộ này, quân y Khu 5 bắt đầu được xây dựng thành một hệ thống và tách khỏi y tế về mặt tổ chức.

Tại các đại đoàn đều thành lập các quân y vụ đại đoàn do một bác sĩ làm quân y vụ trưởng. Mỗi trung đoàn đều có một bác sĩ hoặc một y sĩ phụ trách, có nơi do một y tá phụ trách, quân y các đại đoàn đều chịu sự chỉ đạo của Phân cục quân y Trung Bộ tại Huế.

Mỗi quân y vụ đại đoàn, ban quân y trung đoàn đều có bệnh viện, tiểu đoàn có bệnh xá, đại đội có tương đối đủ y tá, cứu thương.

Tổ chức chỉ đạo quân y còn rất đơn giản. Các đồng chí phụ trách quân y đại đoàn, trung đoàn đều trực tiếp làm công tác điều trị tại bệnh viện, giúp việc có một ít nhân viên quản lý, kế toán giữ và phát thuốc.

Sau khi thành lập, Quân y cục và Phân cục quân y Trung Bộ đã cố gắng tiếp tế thuốc cho Nam Trung Bộ. Việc cấp thuốc chưa được đều, có gì cấp nấy, có hoàn cảnh thì tiếp tế và chưa thành chế độ, tiêu chuẩn. Thuốc và dụng cụ y tế còn thiếu thốn nhiều. Các đại đoàn đã cử cán bộ sang các bệnh viện dân y để học về pha chế thuốc và đã bắt đầu pha chế một số thuốc thông dụng, đơn giản cho bộ đội.

Về cán bộ, do đa số là cán bộ trưng tập có thời hạn nên cũng không ổn định. Đến cuối năm 1946 đã có 7 bác sĩ, 7 sinh viên và y sĩ, hầu hết là y tá dân y trưng tập trở về Bắc. Số còn lại có tư tưởng tạm bợ, thiếu yên tâm. Số cán bộ trưng tập ngoài sinh hoạt phí được hưởng như bộ đội còn được hưởng thêm phần lương cũ, chế độ này được hưởng cho đến hết năm 1949 mới thôi. Ngoài một số cán bộ trưng tập, còn có một số bác sĩ, y tá dân y tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn, số y tá, cứu thương do quân y đào tạo đều hưởng mọi sinh hoạt như bộ đội.
Đội ngũ cán bộ quân y Nam Trung Bộ, mặc dù những hạn chế về nhiều mặt, đã có những cống hiến tích cực xây dựng ngành quân y trong thời kỳ hình thành.

Tại mặt trận An Khê, tháng sáu năm 1946, sau khi dịch chiếm Đông An Khê, Bệnh viện Tuy Hòa đã di chuyển ra Bồng Sơn để phục vụ, tránh lâm vào tình trạng bị chia cắt. Tháng bảy năm 1946 ta ngăn chặn được dịch, bệnh viện đã chia làm 3 bộ phận nhằm phục vụ yêu cầu tác chiến lúc đó 1.

Trong một thời gian ngắn, tại Phú Yên đã hình thành được 5 cơ sở điều trị (Bệnh viện Sông Cầu, Bệnh viện Ngân Sơn, Bệnh viện Tuy Hòa, Bệnh viện Bàn Thạch, Bệnh viện Củng Sơn) tập trung tới 3 bác sĩ, 3 sinh viên y khoa và hơn 30 y tá của Quân y cục tăng cường, chưa kể số y tá Nam tiến, dân y biệt phái và cứu thương sẵn có.

Tại cực Nam Trung Bộ tình hình có khó khăn hơn. Hai trung đoàn hoạt động ở đây đều thiếu bác sĩ, chỉ có y tá phụ trách. Các trung đoàn bộ và các đại đội đều thành lập bệnh xá riêng, mỗi đại đội có 1 y tá và 3 cứu thương.

Tuy đã có một tổ chức quân y nhất định, nhưng thực ra việc liên hệ công tác rất khó khăn, các đơn vị đều tư lo liệu lấy công việc. Thuốc và dụng cụ y tế cũng do đơn vị tự mua lấy. Tổ chức bào chế tuy có đặt ra nhưng chưa biết pha chế.

Tại mặt trận Tây Nguyên. Sau khi xây dựng Đại đoàn 23, ta mở một đợt chiến công tháng mười năm 1946 vào Cửu An, Tú Thủy, Konack là một trận đánh tương đối lớn của Nam Trung Bộ. Nhờ có sự chỉ đạo chặt chẽ về mặt quân sự, nên các công tác chuẩn bị được chu đáo, phục vụ được kịp thời. Trong trận này, lần đầu đã sơ bộ hình thành bậc thang cứu chữa vận chuyển và vận động được tốt nhân dân trong công tác phục vụ thương binh, bệnh binh.

Ngoài y tá, cứu thương đi theo các đại đội, tiểu đoàn mặt trận thành lập thêm:

Hai trạm hoàn phẫu (thực chất là trạm phẫu thuật có khả năng phẫu thuật và điều trị cơ bản), mỗi trạm có một bác sĩ, một y tá phẫu thuật, một cứu thương và một số chị em địa phương tham gia phục vụ. Một trạm đóng ở Đồng Tranh cách đồn Tú Thủy 7km, một trạm cách đồn Cửu An 12km và cách đồn Konack 20km. Cả 2 trạm đều đóng ở nhà dân cạnh sông, đều được trang bị một bộ dụng cụ mổ, một số thuốc chiến thương đựng gọn trong túi vải. Trong trận đánh, mỗi trạm thu dung trên dưới 100 thương binh.

Bệnh viện mật trận do một y sĩ phụ trách đóng ở Phú Phong, nhân viên của trạm lấy từ các tiểu đoàn, trung đoàn ra trong thời gian chiến đấu. Bệnh viện này có nhiệm vụ tiếp tế thuốc cho tuyến trước, tiếp tục điều trị và vận chuyển thương binh ra Huế bằng xe lửa, bệnh viện mang rõ tính chất bệnh viện chuyển thương.

Việc triển khai trạm phẫu thuật và bệnh viện mặt trận này đánh dấu sự chuyển biến bước đầu của công tác bảo đảm quân y, đã tiến hành phẫu thuật ở những nơi không có điều kiện thiết bị chuyên môn. Cơ sở quân y đã biết bám sát lấy đội hình chiến đấu mà phục vụ, đã biết dựa vào dân trong việc triển khai trạm, và tổ chức săn sóc, hộ lý, nuôi dưỡng thương binh. Đồng thời lần đầu tiên quân y cũng sơ bộ rút được kinh nghiệm trong phục vụ chiến thuật đánh công sự vững chắc.

Tại miền Bắc, theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng ba năm 1946, quân Pháp vào đóng ở nhiều thành phố, thị xã quan trọng, chúng tiếp tục khiêu khích hoạt động lấn tới. Quân Tưởng nấn ná không chịu rút, bọn phản động trong nước tiếp tục phá hoại cách mạng, nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang lúc này là ra sức củng cố, tăng cường lực lượng, hết sức xúc tiến việc sửa soạn cho cuộc kháng chiến cả nước chống quân Pháp xâm lược. Lực lượng vũ trang tập trung lúc này đã được củng cố, chấn chỉnh về nhiều mặt. Tổ chức Đảng trong quân đội được kiện toàn, hệ thống Đảng trong quân đội từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ được hoàn chỉnh, chế độ chính trị viên cùng đội trưởng phụ trách đơn vị được thực hiện trong toàn quân, cơ quan chính trị các cấp được thành lập. Việc đào tạo cán bộ các cấp được ráo riết tiến hành.

Về tổ chức, theo sắc lệnh 71 ngày 22 tháng năm năm 1946, Vệ quốc đoàn chính thức trở thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, biên chế chính thức theo từng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, tổng số quân lên tới 8 vạn với gần một triệu du kích và tự vệ. Toàn quốc lúc này chia làm 12 chiến khu. Chiến khu nào cũng có tiền tuyến, hậu phương, thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh. Công tác hậu cần bước đầu được xây dựng trên nhiều mặt, tháng mười một năm 1946, việc cấp phát sinh hoạt phí cho bộ đội được quy định.

Hồ Chủ tịch luôn chăm chú theo dõi từng bước đi của quân đội, trong bước đầu trưởng thành, luôn quan tâm giáo dục và bồi dưỡng cho quân đội. Đối với quân đội, hình ảnh Bác Hồ là hình ảnh của Đảng, hình ảnh của Tổ quốc, là sức mạnh lớn lao, động viên toàn quân hoàn thành nhiệm vụ.

Cuối tháng sáu năm 1946, toàn bộ quân Tưởng đều phải rút về nước. Bọn phản động trong nước tiếp tục gây nhiều tội ác đẫm máu chống lại nhân dân. Chính phủ ra lệnh kiên quyết trừng trị bọn phản động. Quân đội ta đã cùng nhân dân tấn công bọn phản động giải phóng các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lao Cai, chính quyền nhân dân được tăng cường, hậu phương của kháng chiến được củng cố.

Cũng từ tháng sáu năm 1946, thực dân Pháp càng để lộ rõ dã tâm xâm lược nước ta. Chúng liên tiếp gây ra những vụ xung đột địa phương để lấy cớ xâm lược từng vùng, lấn tới từng phần. Mặc dù có Tạm ước 14 tháng chín năm 1946, tình hình giữa ta và Pháp vẫn căng thẳng.
Ngày 19 tháng mười năm 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp để đánh giá đúng tình hình, có những biện pháp quan trọng thúc đẩy sự chuẩn bị, sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Hội nghị đã đem nguyên tắc tổ chức của Đảng để xác định các nguyên tắc chỉ huy và lãnh đạo, đã đem truyền thống đoàn kết của Đảng để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong quân đội. Cũng trong lúc này, Hồ Chủ tịch ra chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” để đẩy mạnh công cuộc sửa soạn kháng chiến.

Thực dân Pháp ngoan cố đã chọn con đường chiến tranh, điều kiện hòa hoãn đã hết. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

20 giờ ngày 19 tháng mười hai năm 1946, tiếng súng kháng chiến toàn quốc nổ ra ở Hà Nội, mở ra một thời kỳ mới : thời kỳ kháng chiến cả nước.





-----------------------------------------------------------------
1. Bộ phận chính ở lại phối hợp với một số nhân viên dân y của bệnh xá Bồng Sơn, thành lập Bệnh viện phẫu thuật đại đoàn do bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng phụ trách.
Bộ phận thứ hai thành lập Bệnh viện ở Nam Bình Định do bác sĩ Võ Văn Vinh phụ trách.
Bộ phận thứ ba trở lại Phú Yên, phối hợp với quân y Khánh Hòa thành lập Bệnh viên Sông Cầu do bác sĩ Hoàng Đình Cầu phụ trách.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM