HOÀNG VĂN THÁI
THAM MƯU TRƯỞNG
Hoàng Văn Thái sinh năm 1915, mất ngày 2/7/1986, nguyên Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam (nay là Quân đội Nhân dân Việt Nam) (1945-1953), nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn (1958-1965), nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5 (1966-1967), nguyên Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1967-1973), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (1974-1986), Nguyên ủy viên thường vụ Quân ủy Trung ương. Ngoài ra, ông còn từng giữ các chức vụ khác như: Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục Thể thao Nhà nước (1960-1965), ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa III đến khóa V, Đại biểu Quốc hội khóa VII.
Hoàng Văn Thái được phong quân hàm Thiếu tướng ngay trong đợt phong tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (1/1948), Trung tướng ngày 31/8/1959; Thượng tướng tháng 4/1974; Đại tướng tháng 1/1980.
Ông từng tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch, là Đảng ủy viên Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (23/3 -7/4/1951); Đảng ủy viên Chiến dịch Hà Nam Ninh (28/5 - 20/6/1951); Tham mưu trưởng Chiến dịch Hòa Bình (10/12/1951 - 25/2/1952); Tham mưu trưởng Chiến dịch Tây Bắc (14/10 - 10/12/1952); Tham mưu trưởng Chiến dịch Thượng Lào (13/4 -14/5/1953); Tham mưu trưởng Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3 - 7/5/1954); Tư lệnh Chiến dịch Lộc Ninh (27/10 - 10/12/1967); Tư lệnh chiến dịch Tây Ninh (17/8 - 28/9/1968).
Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:
- Huân chương Sao vàng (truy tặng)
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Nhì.
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
- Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất.
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
Đại tướng Hoàng Văn Thái (tên thật là Hoàng Văn Xiêm) quê tại xã Tây An, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trong một gia đình nông dân nghèo. Quê ông vốn là một vùng quê giàu truyền thống yêu nước. Thân phụ ông là cụ Hoàng Thiện Thuật, dạy chữ Nho đến cấp hàng tổng, từng tham gia Hội văn thân yêu nước ở địa phương những năm đầu thập kỷ 30, thế kỷ trước.
Trong từng giai đoạn lịch sử, huyện Tiền Hải luôn luôn xuất hiện những nhân vật nổi tiếng đã đi vào lịch sử dân tộc. Đó là tướng Vũ Đức Cát, triều đại Tây Sơn, sau là một trong những tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành. Đó là nhà cải cách Bùi Viện, đề xướng duy tân đất nước dưới triều Nguyễn. Trong phong trào cần vương cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Quang Bích nổi lên là một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước căm thù giặc. Đặc biệt là cuộc biểu tình của những người nông dân Tiền Hải ngày 14/10/1930 đã ghi đậm dấu son trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Tiếp đó là các ông: Vũ Trọng, Vũ Nhu, Ngô Duy Phớn... những người truyền bá Chủ nghĩa Mác -Lênin và thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở địa phương.
Tất cả những tấm gương và các hoạt động ấy đã có tác động rất lớn đến tư tưởng và lòng yêu nước của ông. Hơn nữa, Hoàng Văn Xiêm là một học sinh chăm học, ham hiểu biết, nhanh nhẹn giàu nghị lực nên được thầy giáo và các bạn quý mến kết quả là ông đỗ bằng tiểu học Pháp - Việt loại ưu.
Năm 13 tuổi, ông đã phải bỏ học đi làm thuê rồi đi cắt tóc. Năm 18 tuổi, ông là thợ mỏ Hòn Gai (Quảng Ninh) rồi sau đó lên làm thợ tại mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) và giác ngộ cách mạng. Trở về làng, ông cùng với số đông anh em khác tích cực tham gia tổ chức các hội ở địa phương như: Hội hiếu, hội tương tế, hội đá bóng, hội âm nhạc, hội đọc báo... Ông Nguyễn Trung Khuyến, cán bộ lãnh đạo do huyện cử xuống trực tiếp chỉ dẫn hoạt động. Chỉ sau vài tháng, số học viên trong làng phát triển nhanh. Hội tương tế lên tới 170 hội viên do ông Lương Thúy làm hội trưởng, Hoàng Văn Xiêm làm thư ký.
Ngoài việc tham gia hoạt động, ông còn cùng với thanh niên trong làng thành lập Đoàn Thanh niên Dân chủ, tổ chức ra các hội đá bóng, hội nhạc âm. Khắp các địa phương trong tỉnh, trong huyện, phát triển đội nhạc âm, thu hút thanh niên, học sinh tham gia. Ông thổi kèn rất giỏi, tranh thủ các tối hòa nhạc chuẩn bị cho những buổi tế lễ, ông cùng các anh em địa phương bí mật rải truyền đơn, vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, hát đồng ca bài hát cách mạng.
Do hăng say, nhiệt tình, sáng tạo và dũng cảm hoạt động ở địa phương nên năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng, trở thành đảng viên trung kiên của chi bộ An Khang.
Cuối năm 1939, địch liên tiếp mở các đợt khủng bố rất dã man, nhiều đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt. Các tổ chức Đảng chuyển vào hoạt động bí mật. Ông gây dựng lại phong trào đấu tranh của quần chúng An Khang, giác ngộ và đưa vào tổ chức nhiều thanh niên yêu nước như: Nguyễn Hữu Tước, Nguyễn Thế Long, Tô Đình Khảm, Nguyễn Đình Khiêm, Tô Chinh... Sau này đều trở thành cán bộ trung cao cấp của Nhà nước và Quân đội.
Giữa năm 1940, sau nhiều năm săn lùng, mật thám Pháp và tay sai bắt được ông Ngô Duy Phớn một trong những người lãnh đạo chủ chốt của phong trào cách mạng ở Tiền Hải và tuyên bố nếu ai khai báo chỗ ở của đảng viên cộng sản sẽ được thưởng thóc và huân chương của chính phủ Pháp. Do chỉ điểm, ông bị bắt giải về phủ Kiến Xương giam giữ. Một lính lệ quen biết bảo lãnh cho ông tại ngoại, chờ ngày xét xử. Chớp thời cơ, tổ chức bí mật đưa ông thoát li khỏi địa phương, tiếp tục hoạt động ở nơi khác.
Sau đó, ông lên nhận nhiệm vụ mới ở Hiệp Hòa, Bắc Giang và dự lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày. Ở lớp đó ông được nghe các ông Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh giảng về chính trị. Tháng 4/1941, ông có mặt ở Bắc Sơn. Cuộc khởi nghĩa vừa nổ ra tại đây và đồng bào các dân tộc đang trải qua cuộc đấu tranh quyết liệt, chống khủng bố của địch.
Mùa thu 1941, ông được cử đi học trường Quân sự Liễu Châu, Trung Quốc.
Trong thời gian học ở đây, ông làm trưởng đoàn Việt Nam và luôn có nhận thức, lý luận cách mạng vững mạnh, phẩm chất đạo đức tốt, đoàn kết được mọi người giữ vững quan điểm của mặt trận Việt Minh đồng thời kiên quyết dấu tranh với những quan điểm sai trái của hai nhóm Việt Quốc và Việt Cách.
Cuối năm 1943, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh thoát khỏi nhà tù Tưởng Giới Thạch, ông đã trực tiếp được gặp lãnh tụ.
Cuối năm 1944, ông được tuyển chọn vào hàng ngũ 34 đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ông được cử phụ trách tuyên truyền và binh vận.
Sau chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, đội phát triển thành đại đội, ông được giao công tác trinh sát và lập kế hoạch tác chiến khi đơn vị chuẩn bị đánh đồn Đồng Mu. Khi đó, theo lời gợi ý của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông đã thức trắng đêm sáng tác bài “Phất cờ Nam tiến” - đây là bài hành khúc đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 3/1945, ông chỉ huy cánh quân giành chính quyền ở Chợ Đồn. Trong khi đang tổ chức huấn luyện quân sự ở đây, ông nhận được lệnh của ông Võ Nguyên Giáp bàn giao mọi việc cho những người lãnh đạo địa phương và chuyển quân xuống Chợ Chu (Định Hóa, Thái Nguyên) tổ chức chính quyền xã, huyện của vùng giải phóng đồng thời huấn luyện quân sự cho lực lượng tự vệ chiến đấu và các cán bộ đoàn thể. Tháng 4/1945, hội nghị Quân sự Bắc Kỳ quyết định sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các lực lượng vũ trang khác thành Việt Nam giải phóng quân (15/5/1945) và quyết định thành lập Trường Quân chính kháng Nhật tại Tân Trào do ông phụ trách.
Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia giành chính quyền ở Lục An Châu rồi sau đó đưa quân về phối hợp với quần chúng và lực lượng vũ trang địa phương giành chính quyền ở Tuyên Quang.
Cách mạng tháng Tám thành công, tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho nhiệm vụ thành lập Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Quốc gia (sau là Quân đội Nhân dân Việt Nam) còn non trẻ và giữ chức Tổng tham mưu trưởng đầu tiên.
Từ 20 đến 27/11/1946, ông trực tiếp chỉ đạo mặt trận Hải Phòng. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ tại Hà Nội, ông cùng với ông Võ Nguyên Giáp là những người phê duyệt kế hoạch tác chiến của ông Vương Thừa Vũ (sau này là Trung tướng - Phó Tổng tham mưu trưởng), chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội. Trên cơ sở những kinh nghiệm ở Hải Phòng, ông đã xây dựng thế trận liên hoàn và khu vực tác chiến nhằm kìm giữ, tiêu hao quân Pháp trong lòng thành phố Hà Nội.
Ngày 26/8/1947, chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký quyết định bổ nhiệm Hoàng Văn Thái là Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam kiêm chức Đại đoàn trưởng Đại đoàn Độc Lập. Tháng 1/1948, trong đợt phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Quân dội, ông được phong Thiếu tướng.
Chiến dịch Biên Giới (16/9-14/10/1950), ông là Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng chiến dịch. Trong chiến dịch này, đích thân ông chỉ huy trận đánh then chốt Đông Khê. Trong trận đánh Đông Khê, lúc đầu diễn ra không thuận lợi, ông đã ra tận chiến hào chỉ đạo, động viên bộ đội giữ chốt. Khi quân Pháp đánh chốt, ông ở lại giữ chốt cùng bộ đội.
Sau đó, ông tiếp tục làm Tham mưu trưởng các chiến dịch quan trọng khác như Trung Du, Hoàng Hoa Thám (1951).
Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, ông là Tham mưu trưởng chiến dịch.
Ngày 26/11/1953, ông dẫn đầu đoàn cán bộ của Bộ Tư lệnh tiền phương đường đi Tây Bắc nghiên cứu thực địa.
Ngày 30/11, đoàn đến Nà Sản, ông chủ trương cho đoàn dừng lại một ngày để nghiên cứu tập đoàn cứ điểm mà người Pháp vừa rút bỏ vào tháng 8 dù trận công kích của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã không đạt mục đích. Chính những nghiên cứu thực địa ban đầu này đã giúp chuẩn bị kinh nghiệm rất nhiều cho trận đánh sau này. Ngày 6/12, đoàn đến Chỉ huy sở đầu tiên tại hang Thẩm Púa và bắt tay vào việc nghiên cứu đề ra cách đánh. Sáng ngày 12/1, đoàn Bộ Tư lệnh chiến dịch của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đến nơi.
Như hầu hết các chỉ huy Việt Nam và cố vấn Trung Quốc khi đó, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cũng ủng hộ phương châm “đánh nhanh thắng nhanh”, dù ông đã băn khoăn: “Làm thế nào để đưa pháo vào trận địa khi ta chủ trương đánh sớm, đánh nhanh mà chưa kịp làm đường cho xe kéo pháo? Làm thế nào để hạn chế tác dụng của máy bay, pháo binh, giảm bớt thương vong khi ta đánh liên tục cả ban ngày?”. Tuy nhiên, là một người lính, ông đã ra lệnh cho các đơn vị rút về vị trí tập kết theo đúng chỉ thị của Tổng tư lệnh, một quyết định mà lịch sử chứng minh sự đúng đắn của nó khi tạo nên một chiến thắng chấn động thế giới.
Sau này, ông đã viết về thời khắc lịch sử này: “Nắm vững chức năng, nhiệm vụ, kiên quyết phát huy tinh thần cách mạng tiến công trong những điều kiện khó khăn, phức tạp và khẩn trương nhất, luôn luôn vì thắng lợi của toàn quân mà ra sức vươn lên trong thực tế chiến đấu và xây dựng, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo chỉ huy của trên... đó là những yếu tố chủ quan quyết định thành công của Bộ Tổng tham mưu trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và nói riêng trong chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ”...
Ngày 10/4/1958, ông là Tổng tham mưu phó Quân đội Nhân dân Việt Nam kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn theo sắc lệnh 61/SL ngày 10/4 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1960, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao Nhà nước. Từ năm 1961 đến năm 1963, ông đi học ở Học viện quân sự cấp cao Bắc Kinh, Trung Quốc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông Nam tiến ngay những ngày đầu tiên quân Mỹ thực hiện Chiến tranh cục bộ. Năm 1966, ông là Tư lệnh kiêm Chính uỷ Liên khu 5. Từ năm 1967 đến năm 1973, ông là Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Bí thư Trung ương cục và Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam. Đây là thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất, ông đã chỉ đạo chỉ huy nhiều chiến dịch lớn ở chiến trường miền Nam.
Cuối tháng 1/1974, ông ra Bắc nhận chức vụ Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, trực tiếp chỉ đạo công tác chi viện chiến trường và chỉ đạo tác chiến.
Qua tám năm làm Tư lệnh 2 chiến trường lớn đánh Mỹ ở miền Nam, B2 và khu V, ông có nhiều kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao làm kế hoạch chiến lược 2 năm 1975-1976.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giữ trách nhiệm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng chi viện, Hoàng Văn Thái đã tập trung chỉ đạo chi viện kịp thời cho các chiến trường, góp phần quan trọng đưa cuộc tiến công và nổi dậy đến toàn thắng.
Từ năm 1974 đến năm 1986, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1974 đến năm 1981, ông là Uỷ viên thường vụ Quân uỷ Trung ương, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III đến khoá V, đại biểu Quốc hội khoá VII.
Đại tướng Hoàng Văn Thái là một vị tướng hiền hậu, giản dị và hết mực khiêm tốn, được cán bộ và chiến sĩ ta rất yêu quý. Đặc biệt, cán bộ và chiến sĩ Quân khu V thường gọi ông trìu mến bằng ông cụ...
Cũng chính Hoàng Văn Thái là người nghĩ ra cách kí hiệu các cấp của các đơn vị Quân đội bằng các chữ cái (ví dụ: A-Tiểu đội, B-Trung đội, C-Đại đội, D-Tiểu đoàn, E-Trung đoàn, F-Sư đoàn) để cho dễ gọi hơn, Việt hơn và đặc biệt thể hiện sự độc lập đối với những quy định do người Pháp để lại.
Đại tướng Hoàng Văn Thái không chỉ đơn thuần làm công tác chỉ huy và tham mưu, ông còn tham gia viết và biên tập nhiều tác phẩm, tài liệu tổng kết, nghiên cứu về lịch sử và học thuyết quân sự Việt Nam như:
Đội tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân, Cục Chính trị phát hành, 1948.
Chiến tranh cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Quân chính, 1949.
Đẩy mạnh vận động tiến tới, Nhà xuất bản Quân chính, 1950.
Báo cáo và kết luận tổng kết huấn luyện, Tổng cục quân huấn xuất bản, 1958.
Nhớ lại ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Hồi ký - in chung trong tập sách: “Anh bộ đội”, Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội - 1959.
Quan điểm thể dục thể thao của chúng ta, Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội - 1959.
Xây dựng Quân dội tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội - 1961.
Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội - 1983.
Mấy vấn đề về chỉ huy và tham mưu, Nhà xuất bản quân đội nhân dân, 1983.
Cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953 -1954, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội - 1984.
Những năm tháng quyết định, Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội - 1985
Mấy vấn đề về tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, 1987.
Điện Biên Phủ - Chiến dịch lịch sử (viết năm 1984), Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội -1990
How South Vietnam was liberated Gen. Hoang Van Thai, The Gioi Publishers 1992 (dịch:
Miền Nam Việt Nam được giải phóng như thế nào, chuyển thể từ:
Những năm tháng quyết định - 1985).
Tổng tập Đại tướng Hoàng Văn Thái (tổng hợp các bài viết của Đại tướng Hoàng Văn Thái), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2007...
Đại tướng Hoàng Văn Thái qua đời ngày 2/7/1986 tại Bệnh viện Quân y 108, thọ 71 tuổi.