Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:11:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (Đọc 8246 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:32:25 pm »

*
*   *

Trong không khí phấn khởi tràn ngập cả nước sau chiến thắng Biên Giới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đã họp tại tỉnh Tuyên Quang.

Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Báo cáo chính trị kiểm điểm những biến chuyển lớn trên thế giới trong 50 năm đầu của thế kỷ và những bước phát triển của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời, đề ra những nhiệm vụ mới nhằm đưa kháng chiến đên thắng lợi, xây dựng chế độ dân chủ mới.

Về quân sự, Người nói: “Địch âm mưu đánh chớp nhoáng. Chúng muốn đánh mau, thắng mau, giải quyết mau, thì Đảng và Chính phủ ta nêu lên khẩu hiệu: Trường kỳ kháng chiến. Địch âm mưu chia rẽ thì ta nêu lên khẩu hiệu: Đoàn kết toàn dân. Thế là ngay từ lúc đầu, chiến lược ta đã thắng chiến lược địch”(1). Người chỉ rõ: “kháng chiến trường kỳ, thì quân đội phải đủ súng đạn, quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc. Nước ta nghèo, kỹ thuật ta kém, những thành phố có chút công nghiệp đều bị giặc chiếm. Chúng ta phải dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém vật chất. Đảng và Chính phủ bèn nêu ra khẩu hiệu Thi đua ái quốc. Thi đua mọi mặt, nhưng nhằm ba điểm chính: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”(2).

Báo cáo chính trị phân tích sự chuyển biến so sánh lực lượng giữa ta và địch. “Lúc bắt đầu kháng chiến, quân đội ta là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt. Quân đội địch là một quân đội nổi tiếng trong thế giới. Chúng có hải quân, lục quân, không quân. Chúng lại có đế quốc Anh - Mỹ giúp, nhất là Mỹ. Lực lượng ta và địch so le nhiều như thế, cho nên lúc đó có người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đấu voi”. Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta không nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia rằng:

Nay tuy châu châu đấu voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.


Sự thật đã chứng tỏ rằng “voi” thực dân đã bắt đầu lòi ruột mà bộ đội ta đã trưởng thành như con hổ oai hùng”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh chia cuộc kháng chiến thành ba giai đoạn chiến lược. 16 năm sau, năm 1967, trả lời phỏng vấn của nữ văn sĩ Đức Stéc-nơ, Người nói: “Chia một cuộc chiến tranh đang xảy ra thành những giai đoạn thì có phẩn hơi khó. Chỉ sau đó thì mới có thể phân chia như vậy được”(4). Nhưng lúc này với năng lực dự đoán của Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định:

Giai đoạn thứ nhất: ta cốt giữ vững và phát triển chủ lực. Giai đoạn này từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 đến hết chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947. Giai đoạn thứ hai: chuẩn bị tổng phản công. Giai đoạn này từ sau chiến thắng Việt Bắc năm 1947 đến lúc này. Giai đoạn thứ ba: tổng phản công. Người nêu rõ quan điểm biện chứng trong việc xem xét, phân chia các giai đoạn: “... giai đoạn này có dính líu với giai đoạn khác, nó kế tiếp giai đoạn trước và nó gây những mầm mống cho giai đoạn sau. Có nhiều sự biến đổi mới sinh ra từ một giai đoạn này đến một giai đoạn khác. Trong một giai đoạn cũng có những sự biến đổi của nó. Có thể xét tình hình chung mà định ra từng giai đoạn lớn, nhưng không thể tách hẳn từng giai đoạn một cách dứt khoát như người ta cắt cái bánh. Một giai đoạn dài hay ngắn phải tùy theo tình hình trong nước và thế giới, tùy theo sự biến đổi lực lượng địch và lực lượng ta”(5). Người nhắc nhở: “Vô luận thế nào, chuẩn bị càng cẩn thận, càng đầy đủ, thì tổng phản công càng chắc chắn, càng thuận lợi”(6).

Về lực lượng vũ trang nhân dân, Người chỉ rõ: “Trong công việc xây dựng và phát triển quan đội, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chỉnh trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân. Đồng thời, phải phát triển và củng cố dân quân du kích về mặt: tổ chức, huấn luyện, chỉ đạo và sức chiến đấu. Phải làm cho lực lượng của dân quân du kích thành những tấm lưới sắt rộng rãi và chắc chắn, chăng khắp mọi nơi, địch mò đến đâu là mắc lưới đến đó”(7).

Người nêu bật sức mạnh của tinh thần yêu nước, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền giáo dục, ý nghĩa thời đại của việc kết hợp tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, “tinh thần yêu nước chân chính khác hẩn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”(8). “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”(9).

Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng là một văn kiện lịch sử, trong đó đã phản ánh đậm nét những quan điểm, tư tưởng của Người về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân hình thành trong quá trình kháng chiến.


(1), (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 22-23.
(3), (5), (6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 23-24, 25-26.
(4) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb Tác phẩm mới, H. 1985, tr. 369.
(7), (8), (9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 36-38
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:37:48 pm »

* 
*   *

Sau thất bại quân sự cuối năm 1950, tình trạng của thực dân Pháp ở Việt Nam giống như người cưỡi trên lưng hổ. “Xuống chăng? Sẽ bị ăn thịt. Đừng xuống chăng? Bị ăn thịt mất thôi”(1).

Tuyệt vọng, thực dân Pháp cầu cứu đế quốc Mỹ.

Tháng 12 năm 1950, Chính phủ Pháp cử tướng Đờ-lát đờ Tát-xi-nhi, Tư lệnh lục quân khối Tây Âu làm Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, đồng thời ký với Mỹ hiệp định về viện trợ quân sự của Mỹ cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Được trao toàn quyền cả về chính trị và quân sự, viên tướng này có nhiệm vụ triệt để thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, tổ chức phản công giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất.

Với vũ khí và tiền bạc của Mỹ, thực dân Pháp ra sức tăng quân, lập những binh đoàn cơ động. Coi đồng bằng Bắc Bộ là “cái then cửa của vùng Đông Nam Á”, Tát-xi-nhi xúc tiến xây dựng phòng tuyến “boong-ke” từ Hòn Gai, Đông Triều, qua Vĩnh Yên; Phúc Yên, Sơn Tây đến Ninh Bình, ở ngoài, địch tàn phá làng mạc, cưỡng bức dân vào vùng chúng kiểm soát, lập “vành đai trắng”. Ở trong, địch càn quét các căn cứ du kích, dồn dân vào các khu tập trung, đốt phá hoa màu, bắn giết trâu bò, phá đê điều và các công trình thủy lợi. Chúng ra sức củng cố ngụy quyền, cưỡng bức thanh niên vào lính ngụy.

Những trận càn quét khốc liệt của địch ở các vùng bị tạm chiếm gây cho ta nhiều tổn thất. Phong trào đấu tranh sụt xuống. Địch đã thực hiện được một phần âm mưu của chúng. Tuy chưa giành lại được thế chủ động chiến lược, nhưng thực dân Pháp đã củng cố được thế phòng ngự ở đồng bằng Bắc Bộ.

Sau chiến thắng Biên Giới, Bộ Tổng tư lệnh liên tiếp mở ba chiến dịch: chiến dịch Trung Du (12-1950), chiến dịch Đường số 18 (3-1951) và chiến dịch Hà - Nam - Ninh (5-1951) nhằm làm thay đổi tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng do chọn hướng tiến công chiến lược vào nơi địch phát huy được chỗ mạnh của chúng là hỏa lực và cơ động, nên tuy tiêu diệt dược nhiều địch, nhưng ta cũng bị tiêu hao, không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Hội nghị kiểm thảo chiến dịch Đường số 18. Người kêu gọi cán bộ chỉ huy nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để tìm ra kinh nghiệm và khắc phục khuyết điểm, đưa quân đội ta tiên tới những thắng lợi mới. Người yêu cầu cán bộ “phải có tinh thần phụ trách, thành tâm phụ trách, dũng cảm phụ trách. Trước khi làm phải có thảo luận cho kỹ để chủ trương cho đúng và đặt kế hoạch cho sát”(2). Người chỉ thị phải tăng cường đoàn kết nội bộ trong hoàn cảnh chiến đấu gay go, quyết liệt. Người dạy: “Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng”(3).

Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ chỉ huy đề cao tinh thần trách nhiệm, ra sức nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội. Cơ quan chiến lược tích cực nghiên cứu hướng tiến công của bộ đội chủ lực để giành những thắng lợi ngày càng lớn.

Đi đôi với chỉ đạo bộ đội chủ lực tiến lên đánh vận động, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chú trọng chỉ đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích ở mặt trận sau lưng địch.

Năm 1951, báo Cứu quốc đăng bài “Đẩy mạnh chiến tranh du kích” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh Nguyễn Thao Lược. Người khái quát nguyên tắc đánh du kích là: “Ta biết rõ giặc, giặc không rõ ta. Đi nhẹ không tăm, về lặng không tiếng. Tiến nhanh như gió, thoái kín như đêm. Phục giặc không biết, đánh giặc không ngờ”(4). “Đánh như vậy thì du kích thực sự là kho thuốc súng trong lòng địch”(5). Tiếp đó, tác phẩm “Tỉnh ủy bí mật” của nhà văn Liên Xô Phê-dô-rốp do Người lược dịch và viết lời tựa, được phát hành rộng rãi. Bằng những mẩu chuyện cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, cuốn sách chứng minh rằng: “Du kích tổ chức khéo, thì toàn dân gái, trai, già, trẻ, sĩ, nông, công, thương ai cũng có thể tham gia. Người thì lo đánh giặc, người thì lo tiếp tế, tình báo, liên Ịạc, tuyên truyền. Mọi người đều có dịp phụng sự Tổ quốc”(6). “Sức du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất định thắng lợi”(7).


(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 5, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 358.
(2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 71-72.
(4), (5) Lưu trữ Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, số DDS1/II 100/47.
(6), (7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 129, 130.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:39:45 pm »

Tháng 9 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa Hội nghi lần thứ 2 của Trung ương Đảng về công tác trong vùng tạm chiếm và vùng du kích.

Xem xét phong trào du kích từ trước đến lúc này, Hội nghị chỉ ra những thiếu sót: thiếu một chủ trương toàn bộ, chuyển hướng đấu tranh không kịp thời, chủ trương máy móc và nhất loạt, không biết bảo toàn lực lượng, chưa biết lấy dân làm gốc. Hội nghị định ra tiêu chuẩn phân biệt hai vùng: vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, chỉ rõ nhiệm vụ và hình thức đấu tranh ở từng vùng. Ở vùng tạm chiếm là nơi địch kiểm soát chặt hoặc tương đối chặt, nhiệm vụ là xây dựng và phát triển cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế là chính, khi có điều kiện thì chuyển lên đấu tranh vũ trang. Vùng du kích là nơi địch và ta giằng co nhau, có nơi có căn cứ du kích tức vùng tự do của ta, thì nhiệm vụ là giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế, xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ du kích. Vùng tạm chiếm và vùng du kích không có giới hạn phân vùng phân tuyến rạch ròi. Cần phân biệt vùng tạm chiếm và vùng du kích để định phương châm đấu tranh cho đúng. Hội nghị xác định: công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích có ba việc chính: dân vận, vận động ngụy binh, chiến tranh du kích, cả ba việc gắn liền với nhau, đều xây dựng trên cơ sở nhân dân rộng rãi và kết hợp với toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân.

Tại Hội nghị chiến tranh du kích do Bộ Tổng tư lệnh triệu tập (1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Mục đích của du kích chiến cũng không phải là ăn to đánh lớn mà phải tỉa dần, đánh làm cho nó ăn không ngon, ngủ không yên, không thở được, bị hao mòn về tinh thần và vật chất rồi đi đến chỗ bị tiêu diệt”(1). Người chủ trương đưa một số đơn vị chủ lực vào tác chiến ở mặt trận sau lưng địch. Người căn dặn “bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân... phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân... Phải vận động nhân dân, để dân tự nguyện, tự giác... Bộ đội chủ lực trong địch hậu có nhiệm vụ giúp đỡ bộ đội địa phương và dân quân du kích về tổ chức, huấn luyện mọi mặt... phái giúp đỡ cả nhân dân... phải biết chiến thuật du kích”(2).

Sau một năm ra sức củng cố thế phòng ngự, bình định vùng chiếm đóng và tăng cường lực lượng, cuối năm 1951, Tát-xi-nhi mở cuộc phản công lớn, đem quân cơ động chiến lược đánh ra Hòa Bình nhằm cắt đường tiếp tế liên lạc, phá sự chuẩn bị tiến công của ta, thu hút chủ lực ta đến để tiêu diệt, giành lại quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ.

Ngay sau khi các binh đoàn cơ động của Tát-xi-nhi tiến ra Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ bộ đội chủ lực; bộ đội địa phương và dân quân, du kích: “Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta. Muốn thắng, thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch. Bộ đội chủ lực đánh. Bộ đội địa phương, dân quân, du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp nhau chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực của địch, để đánh tan kế hoạch thu - đông của chúng”(3).

Theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch vây đánh địch ở Hòa Bình, đồng thời đưa một bộ phận chủ lực tiến vào vùng địch chiếm đóng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ phát triển chiến tranh du kích, đánh địch trên cả hai mặt trận trước mặt và sau lưng, phối hợp chặt chẽ hai mặt trận ấy với nhau.

Trên mặt trận Hòa Bình, bộ đội chủ lực vây đánh địch hơn ba tháng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực tinh nhuệ và phương tiện chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích ở các vùng sau lưng địch giành thắng lợi lớn.

Tại mặt trận sau lưng địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt hàng loạt vị trí then chốt của địch, tạo điều kiện cho nhân dân kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá vỡ từng mảng hệ thống chiếm đóng của chúng, mở rộng và nối liền các vùng căn cứ của ta thành thế liên hoàn.

Sau bốn tháng bị vây đánh tả tơi, quân Pháp ở Hòa Bình rút chạy. Âm mưu của địch hòng phản công, giành lại thế chủ động chiến lược đã bị đánh bại.

Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đánh vận động song song với đánh du kích trên cả hai mặt trận trước mặt và sau lưng địch và phối hợp chặt chẽ hai mặt trận ấy với nhau - tư tưởng quân sự đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành từ rất sớm và đến đây được thực hiện trên chiến trường Bắc Bộ. Các nguyên tắc tác chiến do Người đề ra: tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết dẻo dai, chắc thắng mới đánh, cũng được thực hiện phổ biến trong các lực lượng vũ trang nhân dân; bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích cùng đánh để tiêu diệt sinh lực địch.

Chiến thắng ở Hòa Bình và ở vùng sau lưng địch năm 1951- 1952 chứng minh tư tưởng quân sự nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển của chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, đưa đến những thắng lợi quân sự ngày càng lớn.


(1), (2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 296, 297, 128.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:41:49 pm »

*
*   *

Mùa thu năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, chuyển hướng tiến công chiến lược lên vùng rừng núi phía Tây.

Vùng Tây Bắc nằm trong hướng chiến lược phía Tây Đông Dương trải dài từ Tây Bắc Việt Nam qua Thượng Lào và Trung, Hạ Lào. Địa hình rừng núi ở đây hạn chê khả năng cơ động và sức mạnh hỏa lực pháo binh, không quân của địch; ngược lại, quân ta có điều kiện phát huy sở trường đánh ở vùng rừng núi. Nhưng đưa bộ đội chủ lực lên vùng rừng núi phía Tây, ta cũng gặp khó khăn lớn về hậu cần.

Tháng 9 năm 1952, đến thăm Hội nghị phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc, Người nói: “Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Quyết tâm của Trung ương chưa đủ, còn phải để cho các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tầm cũng chưa đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sĩ... Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”(1).

Kể chuyện trên đường tới Hội nghị phải, qua một con suối nước lũ chảy xiết, không muốn để hội nghị chờ đợi mất thì giờ. Người đã chống gậy lần vượt qua và một số đồng bào thấy Người qua được cũng mạnh dạn bước sang theo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là kinh nghiệm cho các chú. Bất kỳ việc gì, to hay nhỏ, mình có quyết tâm thì làm được, mà còn lôi cuốn người khác cùng quyết tâm như mình”(2).

Người chỉ thị cho bộ đội và dân công: “Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Nghĩa là trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ mọi việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được”(3).

Tháng 8 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay soạn thảo “Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ” cho bộ đội và nhân dân vùng mới giải phóng. Đó là những quy định cụ thể nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản, nghề nghiệp làm ăn của nhân dân; xử lý tài sản của giặc Pháp và của bọn phản quốc; bảo vệ đền chùa, nhà thờ, trường học, bệnh viện và các cơ quan văn hóa xã hội khác; bảo vệ tính mạng, tài sản của kiều dân nước ngoài; giữ gìn trật tự trị an; thưởng người có công, phạt người có tội; tổ chức lại nhân dân để tăng gia sản xuất và để giúp chính quyền, quân đội. Tinh thần cơ bản của “Tám điều mệnh lệnh” là “giải phóng cho đồng bào khỏi ách nô lệ và giúp đỡ đồng bào xây dựng một đời sống tự do, sung sướng hơn”(4).

Ngày 14 tháng 10 năm 1952, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu.

Bộ đội ta tiêu diệt tất cả các vị trí địch từ sông Thao đến tả ngạn sông Đà; tiếp đó, vượt sông Đà, giải phóng một vùng rộng lớn từ Mộc Châu đến Điện Biên Phủ, đồng thời đánh bại cuộc hành quân của địch lên hậu phương chiến dịch ở Phú Thọ -Tuyên Quang. Vùng căn cứ Việt Bắc được mở rộng và củng cố. Bộ đội ta tiến bộ rõ rệt về đánh công kiên và đánh vận động, khắc phục được khó khăn về tiếp tế, tỏ rõ có khả năng đánh lớn ở chiến trường rừng núi xa hậu phương.

Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch, Người chỉ rõ: “Lên Tây Bắc, Trung ương nói: quyết tâm thì đánh được. Thế rồi các chú có quyết tâm và đánh thắng, do đó, chiến sĩ tin tưởng ở cán bộ. Tất cả bộ đội tin tưởng ở Trung ương Đảng và Chính phủ, nhờ đó mà thắng lợi lớn”(5).

Ngay sau chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã cùng Trung ương Đảng và Chính phủ kháng chiến Lào thỏa thuận việc Quân tình nguyện Việt Nam sang cùng Quân giải phóng Pa-thét Lào mở chiến dịch Thượng Lào.

Theo lời dạy của Người “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”(6), bộ đội ta cùng quân đội và nhân dân Lào giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa và một phần các tỉnh Phông Xa Lỳ, Xiêng Khoảng.

Căn cứ kháng chiến của nhân dân nước bạn ở Thượng Lào được mở rộng, nối liền với vùng tự do của Việt Nam. Một thế tiến công mới hết sức thuận lợi cho nhân dân ba nước Đông Dương xuất hiện.


(1), (2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 307, 308.
(4), (5), (6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 313, 351, 401.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:46:21 pm »

*
*   *

Tháng 1 năm 1953, Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng họp giữa lúc cục diện chiến tranh chuyển biến có lợi cho ta.

Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản báo cáo quan trọng, phát triển và cụ thể hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đường lối kháng chiến của Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm vụ chủ yếu để đưa kháng chiến đến thắng lợi: một là, chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược; hai là, phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất.

Về chính sách ruộng đất, Người chỉ rõ: nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc... Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân(1). Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đã ra nghị quyết thực hiện chính sách ruộng đất, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.

Về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược, Người nêu lên 10 điểm:

“1. Phương hướng chiến lược của ta là: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do”(2).

2. Trên chiến trường chính là Bắc Bộ, bộ đội chủ lực phải thực hiện “đánh chắc, ăn chắc, mở rộng vùng tự do”(3); muốn vậy, phải “dùng vận hoạt chiến linh hoạt, để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi, phối hợp với công kiên chiến từng bộ phận, để tranh lấy những cứ điểm và thị trấn nhở ở đó địch sơ hở, yếu ớt... Đồng thời, có thể dùng công kiên chiến hút lực lượng của địch đến mà đánh, phân tán lực lượng địch, làm rối loạn kế hoạch của địch và tạo điều kiện cho vận động chiến”(4).

3. Trên các chiến trường sau lưng địch, “phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch”(5).

4. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực và xây dựng bộ đội địa phương, các vùng tự do và vùng căn cứ du kích đã phải “xây dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất”6, để trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an, bảo vệ lợi ích của quần chúng, đấu tranh với địch, phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực và bổ sung cho chủ lực.

5. Về chỉ đạo quân sự, phải phối hợp mặt trận trước mặt địch với mặt trận sau lưng địch một cách linh hoạt. “Như thế, một mặt lợi cho bộ đội chủ lực có thể tìm nhiều cơ hội để tiêu diệt địch; một mặt khác có thể giúp bộ đội, du kích hoạt động và giúp căn cứ du kích của ta sau lưng địch phát triển và củng cố”(7).

6. Trong giai đoạn tiến công chiến lược, càng phải “nhận rõ tính chất trường kỳ của kháng chiến. Cho nên, phải rất chú ý giữ gìn sức chiến đấu nhất định của bộ đội, không nên làm cho bộ đội hao mòn, mệt mỏi quá. Đồng thời cần phải yêu cầu bộ đội chịu khó, chịu khổ, kiên quyết, gan dạ thi đua diệt địch lập công. Hai điều đó không trái nhau, mà kết hợp với nhau”(8).

7. “Phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta; phải đảm bảo sự chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ: phải triệt để giữ gìn kỷ luật tự giác về mặt quân sự và về mật chính trị. Vì vậy cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội và phải thực hiện dân chủ trong bộ đội”(9).

8. “Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội. Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”(10).

Công tác của Bộ Tổng Tham mưu phải được tăng cường để nâng cao chiến thuật, kỹ thuật của bộ đội. Công tác của Tổng cục Cung cấp phải được tăng cường để bảo đảm cung cấp đầy đủ cho chiến trường và nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, nhưng phải kiên quyết phản đối xu hướng sai lầm làm cho các cơ quan đó phình lên”(11).

9. Trong giai đoạn tiến công chiến lược, việc phát triển bộ đội là một yêu cầu tất yếu. “Phải có kế hoạch chung về việc xây dựng và bổ sung bộ đội. Ngoài việc động viên thanh niên ở vùng tự do tòng quân, cần phải rất chú ý tranh thủ và cải tạo ngụy binh đã đầu hàng ta để bổ sung cho bộ đội ta. Tổ chức bộ đội mới thì không nên hoàn toàn dùng cán bộ mới và binh sĩ mới, mà nên dùng cách lấy bộ đội cũ làm nền tảng để mở rộng bộ đội mới. Đồng thời cũng không nên vét sạch bộ đội du kích để bổ sung cho bộ đội chủ lực”(12).

10. “Cần phải tăng cường và cải thiện dần dần việc trang bị cho bộ đội, nhất là xây dựng pháo binh”(13).

Mười chính sách quân sự do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đã tổng kết những kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong những năm kháng chiến đã qua, vạch phương hướng cho quân và dân ta tiến vững chắc tới thắng lợi thể hiện rõ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh giải phóng ở giai đoạn cuối cùng.


(1), (2), (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 343, 339, 340.
(4), (5), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 343, 341, 342, 339, 340.
(9), (10), (11), (12), (13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 341-342.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:49:05 pm »

Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đã quyết định những chủ trương cụ thể chuẩn bị cho bộ đội ta đánh địch ở những nơi địch sơ hở, hoạt động mạnh ở các vùng sau lưng địch đưa bộ đội ta tiến lên tác chiến ngày càng lớn. Hội nghị chọn vùng rừng núi phía Tây Đông Dương là hướng tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực trong chiến cuộc đông - xuân 1953-1954 và quyết định tập trung toàn lực giành thắng lợi quyết định. Để bảo đảm bí mật tuyệt đối cho cuộc tiến công. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các Ủy viên Trung ương Đảng tham dự Hội nghị “không được phổ biến hướng tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực cho bất kỳ cấp nào”(1).

Tháng 2 năm 1953, Hội nghị liên tịch giữa Ban thường trực Quốc hội và Ủy ban Liên Việt toàn quốc nhất trí tán thành nghị quyết về phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng. Tháng 4 năm 1953; Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về ruộng đất. Tháng 11 năm 1953, Hội nghị toàn quốc của Đảng quyết định cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến. Hội nghị thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng. Với việc thực hiện Cương lĩnh ruộng đất này nguyện vọng hàng nghìn năm của nông dân Việt Nam được thỏa mãn. Lực lượng kháng chiến được tăng cường. Toàn dân đem hết sức người, sức của thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Sau bảy năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã mất hàng chục vạn binh lính và sĩ quan. Nước Pháp lâm vào tình trạng khó khăn cả về kinh tế và chính trị, mặc dù đế quốc Mỹ đã trực tiếp can thiệp và gánh tới trên 70% chiến phí, nhưng vẫn thất bại, thực dân Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương và trước phong trào đấu tranh ngày càng mạnh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xám lược, vấn đề cấp thiết đặt ra cho thực dân Pháp là: hoặc phải thắng nhanh, hoặc phải chịu thua, hoặc đế Mỹ nhảy vảo thay thế. Chính phủ Pháp chủ trương xin thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh, hòng tìm lối thoát bằng thắng lợi quân sự.

Tháng 5 năm 1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, tướng Hăng-ri Na-va, Tham mưu trưởng lục quân của khối Bắc Đại Tây Dương được cử làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Là viên tướng có nhãn quan chiến lược sắc sảo, vừa tới Đông Dương, Na-va đã phát hiện đồng bằng Bắc Bộ không còn là “cái then cửa” của vùng Đông Nam Á nữa. Với những thắng lợi trong đông - xuân 1952-1953, đối phương đã có những căn cứ ở Tây Bắc Việt Nam và ở Thượng Lào, các lực lượng vũ trang đã lớn mạnh, dựa vào đường tây Trường Sơn hoạt động trên toàn cõi Đông Dương. Đây chẳng những là một tình thế khó khăn đối với quân viễn chinh Pháp, mà còn là một sự uy hiếp nghiêm trọng đối với phòng tuyến chống cộng sản của Mỹ ở Đông Nam châu Á.

Na-va vạch một kế hoạch quân sự của Pháp - Mỹ trong 18 tháng (1953-1955) hòng chuyển bại thành thắng. Trung tâm của kế hoạch ấy là tổ chức khối chủ lực tác chiến. Kế hoạch tác chiến của Na-va chia làm hai bước: trong đông - xuân 1953 - 1954 giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở phía Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở phía Nam, nhằm chiếm đóng vùng tự do của ta ở Liên khu 5 (Trung Trung Bộ) và ở Hậu Giang (Nam Bộ); vào đông - xuân 1954 - 1955, sẽ tập trung toàn bộ lực lượng quyết chiến trên chiến trường phía Bắc, giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch Na-va là một kế hoạch chiến lược quy mô rộng lớn và là cố gắng cuối cùng của thực dân phản động Pháp trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh để quyết định chủ trương tác chiến trong đông - xuân.

Khẳng định phương hướng chiến lược đúng đắn do Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng đề ra từ đầu năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị phê chuẩn phương án tác chiến do Tổng Quân ủy trình bày với hướng tiên công chiến lược Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và vùng Trung - Hạ Lào là những nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội chủ lực lên hướng đó, mặc dầu có nhiều khó khăn về tiếp tế, vận tải nhưng ta buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó để ta tranh thủ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đẩy mạnh hoạt động ở các vùng sau lưng địch, tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ mà không phải đưa chủ lực lớn đánh vào đồng bằng. Kết thúc cuộc họp quan trọng này. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”(2). Người khẳng định: “Phương hướng chiến lược không thay đổi”(3).

Người và Bộ Chính trị đề ra cho bộ đội ta phương châm hành động: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, sẵn sàng đánh địch trong mọi tình huống. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: “Đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt. Chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh. Giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta”(4).


(1) Điện gửi các đồng chí Ủy viên Trung ương, tháng 1-1953, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Võ Nguyên Giáp, Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Ban khoa học xã hội thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 75.
(3), (4) Ban nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t. 1, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1974, tr. 531, 533.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:51:06 pm »

*
*   *

Tháng 11 năm 1953, bộ đội chủ lực ta tiến lên Tây Bắc nhằm tiêu diệt địch, giải phóng Lai Châu, đồng thời vượt biên giới Việt - Lào phối hợp với Quân giải phóng Pa-thét Lào đánh địch ở Trung - Hạ Lào. Bị uy hiếp ở chỗ sơ hở nhất, ngày 20 tháng 11 năm 193, Na-va cho quân cơ động chiến lược đổ bộ đường không xuống Điện Biên Phủ nhằm chặn bước tiến của quân ta; đồng thời đánh chiếm Mường Ngòi, Mường Khoa (Thượng Lào), lập phòng tuyến sông Nậm Hu, nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Khối chủ lực cơ động chiến lược của địch bắt đầu bị phân tán.

Chủ lực ta được lệnh bao vây địch tại Điện Biên Phủ.

Ngày 3 tháng 12 năm 1953, Na-va quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ. Thêm nhiều đơn vị cơ động chiến lược của Pháp được đưa tới. Cả Pháp và Mỹ tập trung cố gắng xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương.

Ngày 6 tháng 12 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận. Các mặt trận Tây Bắc, Tây Nguyên, Trung - Hạ Lào đẩy mạnh tiến công. Các mặt trận sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ tích cực hoạt động phối hợp. Nhân dân vùng tự do ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và nhân dân vùng mới giải phóng ở Tây Bắc hăng hái phục vụ chiến dịch.

Cả nước lên đường.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 9 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22 tháng 12 năm 1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định “cho mỗi đại đoàn và mỗi Liên khu một lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” để làm giải thưởng luân lưu”(1). Người chỉ thị:

“Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”(2).

Cùng với cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng sớm nhận thấy những yếu tố mới đó có thể mở mặt trận ngoại giao. Tháng 12 năm 1953, báo Nhân dân và Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam công bố những câu trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với phóng viên báo Ếch-prét-xen (Thụy Điển) và bài nói của Người nhân dịp kỷ niệm bảy năm toàn quốc kháng chiến. Người tuyên bố: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do được sống hòa bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng... thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”(3).

Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân Việt Nam tiến đến giai đoạn quyết định. Ngọn cờ hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh giương cao cùng với ngọn cờ Quyết chiến, quyết thắng.

Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953-1954 triển khai trên các chiến trường toàn Đông Dương.

Tại mặt trận Tây Bắc, bộ đội ta nhanh chóng giải phóng toàn tỉnh Lai Châu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Tại mặt trận Trung - Hạ Lào, liên quân Lào - Việt phá toang phòng tuyên Đường số 9, tiến đến bờ sông Mê Công, phát triển xuống Hạ Lào. Tại Đông Bắc Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng kháng chiến Campuchia giải phóng một phần tỉnh Công Pông Chàm, tiến đến sông Sơ Lông. Tại Liên khu 5, bộ đội ta giải phóng tỉnh Công Tum, làm chủ một địa bàn chiến lược rộng lớn ở Bắc Tây Nguyên. Đánh địch theo hướng tiến công chiến lược lợi hại do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ ra, các đơn vị chủ lực không lớn của ta đã giành được những thắng lợi lớn. Thực dân Pháp buộc phải đưa quân cơ động của chúng đi đối phó. Cuộc tiến công của chúng vào tỉnh Phú Yên phải đình chỉ. Thêm một số tiểu đoàn cơ động nữa phải ném xuống tăng cường cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Khối chủ lực tác chiến của Na-va bị phân tán nghiêm trọng. Kế hoạch Na-va bắt đầu phá sản.

Trong khi đó, tại các mặt trận sau lưng địch, chiến tranh du kích lên mạnh. Bộ đội ta phá vỡ tuyến phòng ngự sông Đáy của địch, tiến vào đồng bằng Bắc Bộ, mở rộng căn cứ kháng chiến ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng. Tại Bình - Trị - Thiên, nhiều vị trí địch bị tiêu diệt. Tại Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, nhân dân nổi dậy đánh đổ ngụy quyền trên phạm vi rộng lớn, mở ra cao trào chuyển vùng bị chiếm thành vùng tự do.


(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 535.
(2) Ban nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t. 1, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1974, tr. 557.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 494.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:56:09 pm »

Tháng 1 năm 1954, bốn đại đoàn bộ binh và đại đoàn công pháo của ta đã tập kết ở Điện Biên Phủ. Ta đã thực hiện được sự kỳ diệu về chiến lược là căng địch ra khắp nơi để ta tập trung binh lực đánh đòn chủ yếu tại điểm quyết định.

Ngày 26 tháng 1 năm 1954, tại mặt trận Điện Biên Phủ pháo binh ta đã vào vị trí bắn và bộ binh ta chiếm lĩnh xong các vị trí xuất phát tiến công. Giờ công kích đã được phổ biến đến từng đơn vị. Cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng xung phong diệt địch.

Sau nhiều ngày xem xét so sánh lực lượng giữa địch và ta tại Điện Biên Phủ, đối chiếu với phương châm “đánh chắc thắng”, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn lúc lên đường, trưa ngày 26 tháng 1 năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định hoãn cuộc tiến công, chuyển phương châm chiến dịch từ “đánh nhanh giải quyết nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Quyết tâm mới của Chỉ huy trưởng mặt trận được báo cáo ngay về Trung ương Đảng.

17 giờ cùng ngày, các đơn vị pháo binh được lệnh kéo pháo ra, các đơn vị bộ binh được lệnh trở về vị trí tập kết. Việc chuẩn bị chiến dịch được tiếp tục theo phương châm tác chiến mới “đánh chắc tiến chắc”.

Chuyển phương châm chiến dịch từ “đánh nhanh giải quyết nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” là một quyết định chính xác kịp thời kiên quyết. Quyết định ấy thể hiện mấy yêu cầu đối với người chỉ huy và đối với quân đội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên từ năm 1941 trong cuốn sách “Phép dùng binh của Tôn Tử”, Người viết: tướng giỏi là: “Tướng biết có thể đánh và không thể đánh”(1); “Tướng giỏi mà Chính phủ cho tướng đủ quyền”(2). “Quân đội thắng lợi là vì họ chắc thắng rồi họ mới ra đánh, quân đội thất bại thì ra đánh rồi mới cầu thắng”(3).

Để đánh lạc hướng phán đoán của địch và tiếp tục phân tán khối chủ lực cơ động của chúng, một mũi tiến công của chủ lực ta từ Điện Biên Phủ đánh vào phòng tuyến địch ở sông Nậm Hu (Thượng Lào), Một bộ phận liên quân Lào - Việt cũng đồng thời tiến lên phía bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phông Xa Lỳ. Bộ chỉ huy Pháp vội vã đổ quân xuống Luông Pha Băng và Mường Sài, lập những cụm cứ điểm nhằm chặn bước tiến của quân ta. Khối chủ lực tác chiến của Na-va càng bị phân tán nghiêm trọng.

Đầu tháng 3 năm 1954, công việc chuẩn bị chiến dịch theo phương châm “đánh chắc tiến chắc” đã hoàn thành, cả nước hướng về Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các chiến sĩ: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất tò lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang.

Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về từ tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới”(4).

Ngày 12 tháng 3 năm 1954, cho rằng quân ta không còn sức tiến công, Na-va tập trung một lực lượng lớn đổ bộ lên Quy Nhơn.

17 giờ chiều 13 tháng 3 năm 1954, trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ bắt đầu.

Đợt thứ nhất, ta tiêu diệt các cứ điểm phía bắc, đập tan tấm lá chắn của địch ở hướng phòng ngự chủ yếu.

Đợt thứ hai, ta đồng loạt tiến công các ngọn đồi phía đông che chắn cho trung tâm tập đoàn cứ điểm, phát triển trận địa tiến công và bao vây, đánh lấn, chia cắt địch, khống chế đi đến triệt hẳn đường tiếp viện bằng cầu hàng không của chúng, tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích.

Lúc này, tại Việt Bắc, nhà báo Úc Bớc-sét phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh về triển vọng cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh lật ngược chiếc mũ trên bàn tre, rồi nói: “Đây là Điện Biên Phủ”. Người đưa tay quanh vành mũ: “Núi ở đây và chúng tôi cũng ở đây”. Rồi Người nắm tay lại, đấm vào lòng mũ và nói tiếp: “Còn đây là quân Pháp. Họ không thoát khỏi chỗ này được”.

Đêm 1 tháng 5 năm 1954, đợt tiến công thứ ba của quân ta bắt đầu. Sau ba ngày đêm chiến đấu, ta chiếm gần hết các cao điểm còn lại ở phía đông, tiến đến sát sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm.

Đêm 6 tháng 5 năm 1954, ta mở cuộc tổng công kích. 17 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954, tướng Đờ Cát-tơ-ri, Tư lệnh tập đoàn cứ điểm và Ban tham mưu của y bị bắt sống. Hơn một vạn quân Pháp tại Điện Biên Phủ đầu hàng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen các chiến sĩ Điện Biên Phủ. Người dặn: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch”(5).

Tin Việt Nam toàn thắng ở Điện Biên Phủ vang động khắp thế giới.

Đánh giá ý nghĩa chiến thắng to lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”(6).


(1), (2), (3) Phép dùng binh của Tôn Tử; Chính trị cục xuất bản, 1947, tr. 21, 22, 25.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 547.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 551.
(6) C.B - Đ.X - T.L - Chiến sĩ - Trần Lực, Nói chuyện Mỹ, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1972, tr. 295.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2020, 10:58:33 pm »

Theo sự thỏa thuận tại Hội nghị ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp ở Béc-lin tháng 1 năm 1954, ngày 8 tháng 5 năm 1954. Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc.

Đoàn đại biểu Việt Nam do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn đến Hội nghị với chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta tại Điện Biên Phủ.

Tại Pháp, quần chúng xuống đường biểu tình đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương. Chính phủ chủ chiến La-ni-en đổ. Chính phủ Măng-đét Phrăng lên thay, tiếp nhận thương lượng với Việt Nam để lập lại hòa bình.

Ngày 15 tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 mở rộng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo tình hình và nhiệm vụ mới. Người chỉ rõ: Âm mưu và kế hoạch của Mỹ là “kéo dài chiến tranh Đông Dương, quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội nghị Giơ-ne-vơ, tìm hết cách hất cẳng Pháp để chiếm ba nước Việt, Miên, Lào”(1).

Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng quyết định: “Dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hòa bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và thực hiện dân chủ trong cả nước”. Quyết định này dẫn tới việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 20 tháng 7 năm 1954.

Theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ, các lực lượng vũ trang của Pháp rút hết khỏi miền Bắc, tập trung vào miền Nam Việt Nam.

Quân đội nhân dân Việt Nam vào tiếp quản các thành phố và các vùng quân Pháp chiếm đóng trên miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Mấy lời căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành”. Người dạy: suốt tám năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó mà chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hòa bình”(2). Tuân theo lời dạy của Người, khi vào tiếp quản vùng mới giải phóng, các chiến sĩ “Bộ đội Cụ Hồ” đã phát huy phẩm chất cách mạng cao quý, giữ được toàn vẹn tài sản của nhà nước và của nhân dân phục vụ công cuộc xây dựng lại đất nước.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đà đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam. Đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(3).

Trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những công hiến kiệt xuất trên lĩnh vực quân sự.

Người yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh, đã kiên trì nhân nhượng. Nhưng Người kiên quyết phát động toàn quốc kháng chiến khi mọi khả năng hòa bình không còn nữa. Người hoạch định chiến lược kháng chiến và chỉ đạo thực hiện chiến lược đó qua từng giai đoạn, đưa quân và dân ta đến những thắng lợi quyết định ở mỗi bước ngoặt của lịch sử.

Người đề ra chiến lược kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để giành thắng lợi. Người lại vạch ra phương châm chiến lược vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng dân chủ ngay trong chiến tranh, xây dựng Đảng vững mạnh để lãnh đạo kháng chiến thắng lợi, xây dựng chế độ xã hội mới, đời sống mới, con người mới, bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để đánh thắng quân xâm lược.

Chiến lược trường kỳ kháng chiến do Người đề ra đã đánh bại chiến lược đánh nhanh giải quyết nhanh của thực dân Pháp tạo nên sự thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, làm cho ta càng đánh càng mạnh, đưa cuộc kháng chiến từ giai đoạn bảo toàn chủ lực sang giai đoạn phản công và tiến công.

Đường lối toàn dân đánh giặc có lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt do Chủ tịch Hồ Chí Minh khỏi xướng, đã dẫn dắt quân và dân ta bền gan vững chí bám đất, bám dân, bám địch, đánh cả ở trước mặt và sau lưng địch, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và vận động binh sĩ địch, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích vừa tiến lên đánh vận động, càng đánh càng thắng.

Tiến công là tư tưởng chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ: chủ động tiến công khởi đầu chiến tranh trước khi kẻ thù kịp hành động, chủ động phát triển chiến tranh du kích tiến công địch ở khắp nơi khi quân địch đánh rộng ra, chọn hướng tiến công chủ yếu của chủ lực nhằm vào nơi hiểm yếu mà kẻ địch sơ hở, chủ động giương cao ngọn cờ hòa bình kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến phù hợp với khả năng chủ quan và tình hình quốc tế.

Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là thời kỳ phát triển hoàn chỉnh tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, đưa nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam đến những thành tựu rực rỡ. Cũng chính trong thời gian này, một đội ngũ cán bộ quân sự trung thành, thao lược đã được Người đào tạo, sẵn sàng thực hiện và phát triển tư tưởng quân sự của Người trong các giai đoạn đấu tranh cách mạng sau này.

Thực tiễn chín năm kháng chiến oanh liệt và thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam kiểm nghiệm và chứng tỏ rằng đường lối kháng chiến của Đảng xây dựng trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, phản ánh những quy luật tiến hành chiến tranh giải phóng ở Việt Nam chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược.


(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 581-582.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 7, Nxb Sự thật, H. 19S7, tr. 44.
(3) Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, t. 2, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1987, tr. 371.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2020, 01:53:44 pm »

Chương IV

TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
PHÁT TRIỂN LÊN ĐỈNH CAO MỚI
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954 -1975)

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Miền Nam còn dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai. Con đường giải phóng mới đi một nửa.

Đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp nắm bộ máy ngụy quyền, trực tiếp xâm lược Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, lập phòng tuyến chống cộng sản ở Đông Nam châu Á đồng thời dùng miền Nam làm bàn đạp tiến công miền Bắc Việt Nam. Việt Nam trở thành nơi tập trung những mâu thuẫn cơ bản của thời đại.

Nhân dân Việt Nam lại phải tiến hành một cuộc chiến đấu lâu dài, ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Đây là cuộc đụng đầu quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai.

Lịch sử đặt ra trước Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm vụ vạch chiến lược cách mạng mới và phương pháp đấu tranh mới, xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lại phát triển lên đỉnh cao mới trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

I. XÁC ĐỊNH KẺ THÙ MỚI, TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI
HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông. Dương được ký kết là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, cũng là thắng lợi của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới.

Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.

Cả nước hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyệt đối tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và của Người.

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết; Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay là: Thi hành đúng đắn Hiệp định đình chiến, đấu tranh để giữ gìn và củng cố hòa bình, để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc(1). Người xác định: “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thông nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”(2).

Ngay từ Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương Đảng, trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Người nói: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giời, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào(3). Người khẳng định: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”(4).

Tại Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp tháng 9 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ trước mắt của cả nước: miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, chuyển hướng công tác tổ chức, công tác tư tưởng và phương châm đấu tranh phù hợp với tình thế mới; miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất. phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, phát triển quan hệ ngoại giao với các nước, thiết thực giúp đỡ miền Nam đấu tranh đòi hòa bình và thống nhất. Người kiên trì chủ trương hòa bình thống nhất đất nước. Vui mừng vì hòa bình được lập lại sau chín năm kháng chiến gian khổ, quân và dân cả nước phấn khởi, nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Nói chuyện với các chiến sĩ đơn vị bảo vệ, Người vạch rõ: “Đế quốc bao giờ cũng muốn chiếm cả nước ta. Nếu quân và dân ta tiếp tục truyền thống đấu tranh anh dũng, nhất trí một lòng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo khéo, thì đế quốc dù có giàu và có tham vọng mấy, ta cũng không sợ”(5). Gặp cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308, Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.


(1), (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 7, Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 22, 3.
(3), (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t. 6, Nxb Sự thật, H. 1986, tr. 582, 586.
(5) Bác Hồ với đoàn Tân Trào, Cục Chính trị, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, 1970, tr. 19.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM