Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:17:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8588 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #110 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 02:30:11 pm »

HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC CHI VIỆN SỨC NGƯỜI, SỨC CỦA CHO CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - MỘT SỐ KINH NGHIỆM



Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN QUANG
Nguyên Trưởng phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một quá trình nỗ lực cao độ, khắc phục nhiều khó khăn, gian khổ của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược, của các cấp lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, của quân và dân hai miền Nam - Bắc. Trong đó, sự chi viện sức người, sức của của hậu phương miền Bắc cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam có vai trò quan trọng to lớn, quyết định quy mô và mức độ thắng lợi của cuộc Tổng tiến công.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 được Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu khởi thảo. Tiếp đó, căn cứ vào diễn biến mới của chiến trường miền Nam, hậu phương miền Bắc và tình hình thế giới, đầu tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Theo đó, quyết tâm: "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, Bộ Chính trị chủ trương: "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Quán triệt sâu sắc chủ trương của Bộ Chính trị, nhằm đảm bảo cho cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi to lớn nhất, cùng với công tác chuẩn bị kế hoạch và lực lượng ở chiến trường miền Nam, quân và dân ta cùng các bộ, ban, ngành, các cơ quan đoàn thể, các lực lượng ở miền Bắc... khẩn trương chuẩn bị kế hoạch, dồn mọi khả năng để chi viện sức người, sức của cho cuộc tổng công kích ở miền Nam.

Trên thực tế, công tác chuẩn bị chi viện nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc cho cuộc tổng tiến công lớn ở miền Nam đã được chuẩn bị mọi mặt từ rất sớm và trở thành một chiến dịch trong những tháng cuối năm 1967, đầu năm 1968. Các hoạt động đó được tập trung vào các nội dung lớn sau:

Kiện toàn và tăng cường sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là công tác huấn luyện, tuyển quân, xây dựng các đơn vị dự bị cơ động chiến lược, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân cho chiến trường miền Nam theo kế hoạch tác chiến.

Thực hiện nhiệm vụ này, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã có những chỉ đạo cụ thể và chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến mới. Ngày 19-3-1967, Binh chủng Đặc công - một lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam - chính thức được thành lập. Ngay sau khi thành lập, Binh chủng Đặc công đã kịp thời huấn luyện được gần 4.000 chiến sĩ đặc công, đào tạo và bổ sung hơn 1.100 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn, tăng cường cho miền Nam 2.500 cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với việc thành lập Binh chủng Đặc công, Bộ Tổng Tham mưu còn chỉ đạo Quân chủng Hải quân thành lập thêm một số đoàn tàu vận tải "Không số", huấn luyện và tăng cường thêm những cán bộ, chiến sĩ gan dạ, kiên trung sẵn sàng nhận mệnh lệnh chở vũ khí, đạn dược, thuốc men theo đường biển vào chi viện cho các mặt trận ở Khu 5, Khu 9, miền Đông Nam Bộ... Quân chủng Phòng không - Không quân thành lập Tiểu đoàn máy bay vận tải IL14 (thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 919), tổ chức huấn luyện và sẵn sàng chi viện cho Mặt trận Trị - Thiên - Huế.

Song song với các hoạt động trên, cuối tháng 7-1967, tại miền Bắc, Quân ủy Trung ương mở các lớp tập huấn quân chính toàn quân nhằm quán triệt về tình hình và nhiệm vụ cho hàng nghìn lượt cán bộ trung, cao cấp trong cả nước. Tiếp đó, tháng 8-1967, lực lượng vũ trang nhân dân mở cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Cuộc vận động này đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi trong các đơn vị, qua đó làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn về tình hình nhiệm vụ, thi đua lập công trong xây dựng, huấn luyện và sẵn sàng lên đường chi viện cho miền Nam khi có lệnh. Các sư đoàn dự bị chiến lược 308, 304, 320, 312... được gấp rút kiện toàn về tổ chức, lực lượng biên chế, trang bị vũ khí, khẩn trương tổ chức huấn luyện chiến đấu, diễn tập hiệp đồng chiến đấu quân, binh chủng theo nhiều phương án tác chiến mới. Các lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển, lực lượng giao thông vận tải, công binh, thông tin liên lạc... được chấn chỉnh về tổ chức, tăng cường về số lượng, biên chế, trang bị các phương tiện đảm bảo kỹ thuật mới, hoàn chỉnh thế trận nhằm bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho các chiến trường.

Các lực lượng phòng không nhân dân cũng được kiện toàn và tăng cường cả về quân số và trang bị. Đến cuối năm 1967, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo cao xạ tăng từ 2,5 lần lên 4,7 lần; số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần, các đơn vị ra đa cảnh giới tăng 2 lần, máy bay chiến đấu (Mig 17, Mig 21) tăng 2,2 lần. Các đơn vị phòng không của dân quân, tự vệ phát triển cả về số lượng và chất lượng, được trang bị thêm nhiều súng trường, súng phòng không 12,7 ly, pháo cao xạ 37 ly,... đồng thời thường xuyên được huấn luyện tổ chức diễn tập chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tham gia ứng cứu bảo đảm giao thông vận tải trên các trọng điểm huyết mạch.

Để tăng cường lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, hướng tiến công và các tuyến trọng điểm trên chiến trường miền Nam và cả hậu phương miền Bắc, công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh, động viên thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia lực lượng vũ trang, đi thanh niên xung phong, dân quân hỏa tuyến... được tiến hành rầm rộ, trở thành một khí thế lớn trên toàn miền Bắc. Khắp các tỉnh, thành, các trường đại học, nhà máy xí nghiệp, công trường... đều dấy lên phong trào thi đua tình nguyện lên đường. Về công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 3 đến tháng 9-1967, các địa phương trên toàn miền Bắc đều hoàn thành vượt chỉ tiêu, giao cho các đơn vị quân đội hàng nghìn tân binh. Số tân binh này được gấp rút tổ chức huấn luyện, biên chế thành các đơn vị mới và lần lượt đưa vào các chiến trường. Chỉ tính riêng năm 1967, toàn miền Bắc đã động viên được gần 10 vạn cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành nhiều trung đoàn, sư đoàn bộ binh, binh chủng kỹ thuật bổ sung cho chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Tiếp đó, trong quý 1 và quý 2 năm 1968, miền Bắc đưa thêm 5,5 vạn quân, bổ sung cho các đợt tiến công sau Tết Mậu Thân và củng cố lại vùng mới giải phóng. Được miền Bắc dồn sức chi viện, lực lượng cách mạng miền Nam có bước phát triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1967, lực lượng Quân giải phóng lên tới 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, chưa kể dân quân, du kích, tự vệ, an ninh. Cùng với việc động viên, bổ sung quân cho các chiến trường, trong năm 1967 và đầu năm 1968 miền Bắc còn động viên được hàng chục nghìn nam, nữ thanh niên nông thôn miền Bắc, học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học, công nhân tại các công trường, nhà máy tham gia lực lượng thanh niên xung phong, đi dân công hỏa tuyến, được biên chế thành các đội thanh niên xung phong, đội quân y cứu thương cứu hỏa, đội vận tải... đưa vào phục vụ chiến trường. Đây là một lực lượng hùng hậu đã góp phần cùng bộ đội và nhân dân chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam.

Huy động cao độ đóng góp của hậu phương miền Bắc về lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men, hàng hóa quân sự, phương tiện - kỹ thuật chiến tranh, tổ chức vận chuyển bảo đảm kịp thời cho các hướng chiến trường trong cuộc Tổng tiến công.

Mặc dù chiến tranh phá hoại của Mỹ ngày càng ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc vẫn đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp, nhất là công nghiệp quốc phòng và các loại hình kinh tế khác. Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, miền Bắc đã huy động được một khối lượng lớn vật chất - kỹ thuật, kịp thời chi viện cho các chiến trường. Trong vụ Hè - Thu năm 1967, nhân dân các tỉnh miền Bắc đã chi viện cho các mặt trận tại chỗ và miền Nam hơn 25 vạn tấn lương thực và hoa màu các loại, hơn 2,5 vạn tấn thực phẩm (trâu, bò, lợn, gà, cá, tôm, nước mắm), 5.600 tấn muối cùng nhiều hàng hóa dân sinh khác. Tiếp đó, trong vụ Đông - Xuân 1968, các địa phương đã đóng góp cho chiến trường hơn 30 vạn tấn lương thực, 3,2 vạn tấn thực phẩm. Ngành công nghiệp quốc phòng, mặc dù trong suốt hai năm 1966-1967, các công binh xưởng, xí nghiệp, nhà máy đều bị địch tập trung đánh phá dữ dội, phải sơ tán và sản xuất trong điều kiện rất khó khăn nhưng hầu hết đều hoàn thành chỉ tiêu sản xuất, kịp thời chế tạo, sản xuất hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men cùng nhiều hàng hóa quân sự khác, đảm bảo cung cấp đầy đủ theo yêu cầu tác chiến ngày càng lớn. Cùng với việc tự sản xuất các loại vũ khí, đạn dược thông thường, trong hai năm 1967, 1968, miền Bắc còn tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, phương tiện kỹ thuật, hàng hóa quân sự đặc biệt do Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa viện trợ. Nhờ đó, việc chi viện vũ khí - kỹ thuật cho chiến trường miền Nam và các chiến trường phối hợp trong năm 1967 và đầu năm 1968 tăng 8,4 lần so với năm 1965.

Vào thời gian này, do liên tiếp bị thua đau trên các chiến trường, đế quốc Mỹ đã tăng cường đánh phá các trọng điểm giao thông ở miền Bắc, nhất là các trọng điểm ở Khu 4 và trên suốt tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn. Đế quốc Mỹ đã huy động hàng nghìn lượt máy bay hiện đại các loại, trong đó có cả máy bay ném bom chiến lược B.52 đánh phá suốt ngày đêm ở Nam Khu 4, đồng thời tăng cường đánh phá, kiểm soát gắt gao tuyến vận tải trên suốt vùng biển phía Nam.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Hội đồng Chính phủ quyết định giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, vận chuyển kịp thời một khối lượng lớn vật chất - kỹ thuật và binh lực cho các hướng tổng tiến công cho các bộ, ban, ngành Trung ương phối hợp với các lực lượng của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và Đoàn 559 là lực lượng nòng cốt. Ngày 26-8-1967, Liên bộ Quốc phòng - Giao thông vận tải họp với Bộ Tư lệnh Quân khu 4 quyết định mở các đợt vận tải lớn trong các tháng cuối năm 1967. Tiếp đó, ngày 31-8-1967, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị thay mặt Hội đồng Chính phủ giao nhiệm vụ và chỉ tiêu về bảo đảm giao thông vận tải cho chủ tịch ủy ban hành chính các tỉnh thuộc Quân khu 4 và coi đó là pháp lệnh thời chiến.

Triển khai Chỉ thị trên, Bộ Giao thông vận tải đã chuyển 12.600 công nhân của các công trường và đội công trình vào phối hợp với bộ đội công binh Quân khu 4 và các lực lượng thanh niên xung phong đóng trên địa bàn, tiến hành sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường 7, 12, 21, 48 và mở mới các tuyến đường vòng tránh. Tất cả các đội bảo đảm giao thông ở các tỉnh, huyện trên địa bàn Quân khu 4 đều được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện. Bộ đội địa phương các tỉnh được chuyển hẳn thành lực lượng giao thông - công binh, có các nhiệm vụ chính: bảo đảm đường, tổ chức đánh địch, tổ chức ứng cứu, rà phá bom mìn, bảo vệ chân hàng. Các tổng đội Thanh niên xung phong của Trung ương và các tỉnh vừa làm nhiệm vụ sửa đường, đánh dấu, rà phá bom từ trường nổ chậm, vừa tổ chức cảnh giới dẫn đường cho xe qua các trọng điểm, các tọa độ lửa. Trong các chiến dịch ra quân bảo đảm giao thông vận tải năm 1967-1968, nhân dân các tỉnh trên địa bàn đã đóng góp hàng triệu ngày công, chuyên chở hàng triệu tấn đất đá san lấp hố bom, sửa đường, tham gia vận chuyển hàng chục ngàn tấn hàng hóa vào tập kết ở chiến trường.

Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ làm nòng cốt bảo đảm giao thông vận tải phục vụ cuộc tổng tiến công, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường miền Nam, với nước bạn Lào và hậu phương miền Bắc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Đoàn 559 đã chủ động, sáng tạo sử dụng mọi phương tiện, biện pháp đẩy mạnh vận chuyển vật chất - kỹ thuật, binh lực chi viện kịp thời, đầy đủ cho các chiến trường. Trước khi bước vào các chiến dịch vận chuyển của Bộ chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công, lực lượng Đoàn 559 đã mở mới và củng cố tuyến vận tải cơ giới gần 1.000 km đường trục chính, 445 km đường trục phụ, 822 km đường trục ngang tỏa ra các chiến trường, 560 km đường vòng tránh, đường dự bị, 450 km đường vào các kho hàng, hình thành thế trận giao thông liên hoàn, vững chắc .

Với quyết tâm cao độ của cán bộ, chiến sĩ trong mùa khô 1967-1968, Đoàn 559 đã hoàn thành đúng thời hạn và vượt khối lượng vận chuyển được giao (65.000 tấn/ 61.000 tấn). Trong đó, giao cho các Mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ 20.700 tấn, chiến trường Lào 6.500 tấn; bảo đảm cho bộ đội hành quân 5.800 tấn, cho nội bộ Đoàn là 29.000 tấn. Đến tháng 11-1967, tuyến hậu cần tiền phương phía Nam chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công đã có lượng hàng dự trữ ở các kho Đường 12 lên tới 10.500 tấn hàng hóa quân sự, 15.000 tấn vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật, và Đường 20 là 4.000 tấn hàng hóa quân sự, 5.000 tấn vũ khí - kỹ thuật.

Như vậy, việc động viên sức mạnh của hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam đã góp phần quyết định cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân cả nước; đồng thời tạo ra thế và lực mới để quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 giành thắng lợi vang dội, đưa cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sang một bước ngoặt mới có lợi cho ta. Đã tròn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm về huy động sức người, sức của của hậu phương miền Bắc chi viện cho các chiến trường miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn nguyên giá trị. Qua thực tiễn hoạt động, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

Một là, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của hậu phương chiến lược trong chiến tranh cách mạng, trên cơ sở đó đề ra được các chủ trương và giải pháp đúng đắn nhằm huy động cao nhất sức người, sức của chi viện cho chiến trường.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta đã sớm xác định kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta, của cách mạng cả nước là đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, từ đó lường định con đường đấu tranh hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài, rất gian khổ và ác liệt. Trong cuộc đấu tranh đó, vai trò, vị trí của hậu phương miền Bắc được hoạch định rõ ngay từ đầu. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (khóa II) năm 1955 đã nhận định: Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố về mọi mặt. Tiếp đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta tiếp tục đề ra chủ trương phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, gắn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước; cách mạng miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Xác định như vậy, tức là Đảng khẳng định phải động viên sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hai miền Nam - Bắc; đồng thời nhấn mạnh vai trò chi viện sức người, sức của của hậu phương miền Bắc là vô cùng to lớn, có tính quyết định thành bại tại chiến trường.

Như vậy, ngay từ đầu vai trò, vị trí của hậu phương miền Bắc đã được Đảng xác định rất rõ. Để làm tròn vai trò đó, miền Bắc phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc phát triển vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, khoa học - kỹ thuật. Chỉ có như thế, miền Bắc mới trở thành hậu phương - căn cứ địa cách mạng vững chắc của cả nước; mới đảm đương được vai trò "nền gốc" cho lực lượng đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam.

Nhờ sớm xác định rõ vấn đề này, trong suốt 10 năm xây dựng hòa bình, cũng như trong suốt thời gian chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hậu phương miền Bắc luôn đứng vững và vươn lên chi viện mạnh mẽ, liên tục, ngày càng cao về sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, nhất là trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân 1968, cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 và trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Hai là, công tác chi viện, bảo đảm chuẩn bị mọi mặt về lực lượng, vật chất - kỹ thuật phải kịp thời, đầy đủ và đi trước một bước, bám sát yêu cầu tác chiến của chiến trường.

Song song với chuẩn bị kế hoạch tác chiến, công tác chi viện, bảo đảm chuẩn bị về binh lực, vật chất - kỹ thuật cho các chiến dịch, các cuộc tổng tiến công có vai trò rất to lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và mức độ thắng lợi. Vì vậy, để bảo đảm giành thắng lợi cao nhất, giòn giã nhất, đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra, công tác chi viện, chuẩn bị về binh lực, vật chất - kỹ thuật phải đi trước một bước, phải kịp thời, đầy đủ, liên tục và ngày càng cao, bám sát yêu cầu tác chiến của các chiến trường. Thực tế trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, công tác chi viện, huy động sức người, sức của được xúc tiến mạnh mẽ ngay từ đầu năm 1967 và liên tục trong suốt quá trình chuẩn bị kế hoạch cũng như thực hành tiến công. Sự chi viện đó không những rất to lớn, đầy đủ mà còn rất kịp thời, bám sát yêu cầu tác chiến cụ thể của từng hướng tiến công, từng đợt tác chiến, góp phần to lớn vào thắng lợi chung.

Ba là, trong công tác chi viện sức người, sức của của hậu phương chiến lược phải được chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức thực hiện kiên quyết, huy động được nhiều lực lượng và toàn dân tham gia, nhất là trong các giai đoạn phát triển cao điểm của chiến tranh.

Thực tế cho thấy, huy động sức người, sức của cho chiến trường là một nhiệm vụ to lớn, khó khăn và đầy cam go, thử thách. Bởi lẽ, kẻ thù luôn tìm mọi cách để phá hoại và ngăn chặn công cuộc chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc, chúng không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn và phương tiện ngăn chặn nào, với một mức độ và quy mô phá hoại rất thâm độc, ác liệt. Vì vậy, để công cuộc huy động sức người, sức của và chi viện thắng lợi, nhiệm vụ này phải được coi là mặt trận hàng đầu, được các cấp ủy và chính quyền chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức thực hiện kiên quyết, với nhiều biện pháp sáng tạo; đồng thời phải được nhiều lực lượng các bộ, ban, ngành đoàn thể tham gia, được toàn dân nhiệt tình đóng góp và ủng hộ.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, những bài học trên đây cần tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng đầy đủ, phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước và yêu cầu của chiến tranh hiện đại nếu xảy ra.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #111 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 02:39:53 pm »

ĐÁNH BẠI Ý CHÍ XÂM LƯỢC CỦA ĐỐI PHƯƠNG - KẾ TỤC TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC,
TƯ TƯỞNG XUYÊN SUỐT 30 NĂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG



Đại tá, ThS. LÊ THANH BÀI
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Pháp,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Xuân Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện đòn tiến công chiến lược, đồng loạt đánh vào cơ quan chỉ huy, căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong các đô thị khắp miền Nam. Đòn tiến công táo bạo đã làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ trên chiến trường miền Nam, đẩy chiến lược "chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đã thực thi từ giữa năm 1965 đi đến chỗ phá sản. Nhưng hơn hết, đã làm cho ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay. Đây chính là sự kế tục truyền thống đánh giặc giữ nước, thể hiện tư tưởng chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng.

Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân Việt Nam phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đó là những lần tổ tiên ta phải đối đầu với thế lực ngoại xâm cường bạo, hơn hẳn về tiềm lực kinh tế - quốc phòng, dân số và quân số, vượt trội về sức mạnh quân sự. Do vậy, chưa khi nào ông cha ta đặt vấn đề thắng áp đảo quân thù bằng sức mạnh quân sự thuần túy, mà theo phương châm "đánh đuổi kẻ thù", giữ độc lập, tự do. Để đạt được mục đích đó, các vương triều đã phát huy vai trò của chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh toàn dân với tư tưởng tiến công, liên tục tiến công, tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường tiến tới đánh bại ý chí xâm lược, buộc đối phương phải từ bỏ mưu đồ thôn tính nước ta.

 Cuối năm 1076, nhà Tống phát binh xâm lược Đại Việt. Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân dân ta đã lập phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), chặn địch tiến quân vào Thăng Long. Bất lợi về tương quan lực lượng, Lý Thường Kiệt đã không chủ trương tiến công bao vây, tiêu diệt toàn bộ quân địch mà quyết định mở cuộc tập kích lớn vào đại bản doanh quân Tống "chỉ trong vòng một đêm, cả khu doanh trại tập trung đến ba, bốn vạn quân Tống... bị đánh tan,"; thắng lợi này đã đè bẹp ý chí xâm lược, buộc nhà Tống phải chấp nhận "giảng hòa" rút quân về nước.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288), trên cơ sở đánh giá đúng âm mưu và sức mạnh của địch cũng như tinh thần và khả năng chiến đấu của quân, dân Đại Việt, Trần Quốc Tuấn đã chọn Bạch Đằng để tiến hành trận quyết chiến chiến lược. Chiến thắng Bạch Đằng ngày 9-4-1288 đã tiêu diệt một lực lượng lớn thủy binh gồm 500 - 600 chiến thuyền; "đánh thắng hoàn toàn ý chí xâm lược của quân Nguyên - Mông". Từ sau thất bại này, cộng với những khó khăn trong nước, nhà Nguyên phải bỏ hẳn ý định thôn tính nước ta.

Trong cuộc kháng chiến lâu dài chống quân Minh, sau khi giành được thắng lợi quan trọng ở Nghệ An, Thanh Hóa, tạo thế vững chắc cho phát triển lực lượng, Lê Lợi đã lập thế trận, giành thắng lợi quan trọng ở Chúc Động - Tốt Động (11-1426), đánh bại cuộc phản công của gồm 10 vạn quân do Vương Thông chỉ huy, đánh sập ý đồ xoay chuyển cục diện, giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường của quân xâm lược. Tiếp theo chiến thắng Chúc Động - Tốt Động, thắng lợi Chi Lăng - Xương Giang cuối năm 1427 đã khiến cho ý chí xâm lược của nhà Minh bị lung lay, phải từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta.

Năm 1789, trên đường hành quân ra Bắc đánh đuổi quân Thanh xâm lược, vua Quang Trung kêu gọi quân sĩ "đánh một trận giành toàn thắng, làm cho bọn xâm lược từ nay về sau không còn nuôi ý chí điên cuồng muốn chiếm lấy đất nước ta". Thực hiện ý định, quân và dân ta đã làm nên thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa, quét sạch 29 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Mùa Thu 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng dậy, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng với bản chất thực dân cố hữu, được sự trợ giúp của các thế lực đế quốc, thực dân Pháp đã trở lại xâm chiếm Đông Dương. Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam đứng trước thử thách khắc nghiệt: hoặc đấu tranh giữ vững nền độc lập mới giành được, hoặc trở lại kiếp nô lệ. Trước tình hình đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân kháng chiến, với quyết tâm "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Kế tục truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc, bước vào cuộc kháng Pháp xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Kháng chiến của ta là chiến tranh tự vệ của một dân tộc sống về nông nghiệp, chống bọn đế quốc xâm lược có kỹ nghệ hiện đại", "Lực lượng ta và địch so le nhiều". Do vậy, Đảng đặt mục tiêu: "đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước" . Để hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến, Đảng đã phát huy vai trò chiến tranh nhân dân, "Huy động toàn dân nổi dậy đánh du kích khắp nơi, làm cho lực lượng địch bị phân tán, mệt mỏi, khiến cho quân chủ lực ta bất thần đánh tiêu diệt địch từng bộ phận", tiến tới tiến hành "trận cuối cùng" gây "khủng khiếp cho giặc" để đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp.

Quán triệt tinh thần đó, quân và dân Việt Nam "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", vừa đánh vừa bồi bổ thực lực, thế và lực kháng chiến ngày càng được củng cố, thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển sâu rộng, tạo điều kiện căng kéo, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Đó cũng là quá trình phát huy tinh thần tích cực tiến công, từng bước tiến lên vận động chiến, giành thắng lợi trong từng chiến dịch, làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của thực dân Pháp, tiến tới trận quyết chiến, chiến lược Điện Biên Phủ.

Việc Nava và Bộ Chỉ huy Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh, nhằm tiến hành trận quyết đấu để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta đã lộ rõ ý đồ hòng kết thúc chiến tranh trong thế thắng. Mưu đồ của địch là thách thức lớn trên con đường đi đến thắng lợi của cuộc kháng chiến, buộc chúng ta phải "chiến đấu trên một địa hình thuận lợi cho sự phối hợp các loại vũ khí của đối phương", "hạn chế khả năng giành thắng lợi của bộ đội chủ lực", "và khai thác chỗ yếu của ta là không thể duy trì số đông bộ đội tại rừng núi dài ngày, vì thiếu lương thực và khả năng vận chuyển có hạn". Tuy vậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá so sánh lực lượng, khả năng tác chiến của bộ đội, thế và lực của kháng chiến, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, coi đây là trận quyết chiến chiến lược, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại hình thức phòng ngự cao nhất của chúng, đánh bại mưu đồ của Pháp được Mỹ tiếp sức. Vượt qua mọi khó khăn trở ngại, hạn chế về lực lượng, vũ khí trang bị, trình độ tác chiến đánh tập đoàn cứ điểm, về tiếp tế vận tải, hậu cần, về địa hình, thời tiết,... Sau 56 ngày đêm anh dũng chiến đấu, quân và dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược này. Tuy số quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu ở Điện Biên Phủ chưa bằng 4% tổng binh lực trên toàn Đông Dương ở thời điểm đó 1, nhưng thất bại lại là cú sốc lớn, gây choáng váng cho chính giới Pháp, làm sụp đổ ý định giành thắng lợi quyết định của giới quân sự thực dân, buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán kết thúc chiến tranh với tư thế của kẻ bại trận. Thắng lợi này là sự kế thừa và phát triển truyền thống "đánh bại ý chí xâm lược của đối phương", là sự hiện thực đường lối kháng chiến của Đảng và đã mở đường cho dân tộc ta bước vào giai đoạn cách mạng mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong tương quan lực lượng hết sức chênh lệch, nghiêng hẳn về phía đối phương; Đảng đã không đặt vấn đề thắng Mỹ trên thế áp đảo bằng sức mạnh quân sự thuần túy, mà chủ trương tiến hành kháng chiến lâu dài, từng bước đánh tiêu hao, tiêu diệt quân địch, làm cho thế và lực của kháng chiến của ta ngày càng mạnh, lực lượng địch ngày một suy yếu, cũng như xác định mở mặt trận ngoại giao, tiến hành thương lượng đàm phán khi giành được thắng lợi quân sự quyết định trên chiến trường. Bởi vậy, trong suốt quá trình kháng chiến, Đảng luôn chú trọng đẩy mạnh tiến công quân sự, tiến tới đập tan ý chí xâm lược của địch, "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Trong năm đầu tiên trực tiếp đối đầu với quân Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: "Nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh thì mới khoét sâu được nhược điểm về chính trị và quân sự của đế quốc Mỹ, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực của quân đội Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ và giành được thắng lợi cuối cùng". Thực hiện chủ trương của Đảng, sau hai năm chiến đấu với quân viễn chinh Mỹ và đồng minh, cùng lực lượng quân đội Sài Gòn ngày càng đông đảo, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn về mặt quân sự. Trên chiến trường miền Nam, ta đã đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967); đánh bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. "Quân, dân ta đã đánh thắng địch từng bước và nắm quyền chủ động chiến lược. So sánh lực lượng trên chiến trường, ta mạnh lên và tạo được thế mới, lực mới; địch đang suy yếu, từ chiến lược phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào phòng ngự chiến lược bị động cuối năm 1967 trên toàn chiến trường", mở ra thời cơ thuận lợi lớn cho cách mạng miền Nam. Tuy vậy, tương quan lực lượng trên chiến trường vẫn nghiêng lệch về phía địch, ở miền Nam vẫn còn hiện diện gần 1,2 triệu quân chủ lực Mỹ, quân đồng minh của Mỹ và quân đội Sài Gòn với trang bị rất hiện đại. Trong khi đó, quân số của ta chỉ có 27 vạn bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương Quân giải phóng 2. Phân tích tình hình, Bộ Chính trị nhận định "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ tình hình không xấu đi". Tình thế đó đòi hỏi cách mạng miền Nam phải tận dụng thời cơ, giáng một đòn quân sự thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra một bước ngoặt căn bản để buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán. Trên cơ sở nắm chắc tình hình, so sánh tương quan lực lượng, tháng 10-1967, Bộ Chính trị đi đến quyết định: "Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam". Đây là bước hiện thực hóa dự báo về bước phát triển cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của Tổng Bí thư Trường Chinh: "Quân ta tập trung mau lẹ, tích cực xung phong, tiến công chớp nhoáng và có kế hoạch vào những thành phố và cứ điểm của địch, bao vây, tiêu diệt chúng. Tóm lại, ta tung toàn bộ lực lượng toàn quốc, toàn dân đè bẹp quân địch"; tạo nên cách đánh mới nhằm "Làm thay đổi tình hình, thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược".

Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III quyết định: "Tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định,.... đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, ... tiến tới thống nhất nước nhà".

Đúng đêm giao thừa và đêm mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 và ngày 31-1-1968), trên toàn chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã mở cuộc tiến công và nổi dậy, đánh vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bao gồm cả 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn. Trong đó có những trận gây chấn động lớn như đánh Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quân và dân ta đã diệt và làm ta rã 15 vạn tên địch, có 4 vạn quân Mỹ, phá hủy khoảng 1/3 vật tư chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn, phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1 triệu dân. Thắng lợi oanh liệt của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" - chiến lược chiến tranh quan trọng nhất, được Mỹ công phu chuẩn bị; buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.

Từ chỗ mưu toan dùng sức mạnh quân sự để giải quyết chiến tranh, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố: ngừng ném bom đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pari và không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. "Rõ ràng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 của ta đã làm cho ý chí xâm lược của bọn cầm quyền Mỹ lung lay một bước nghiêm trọng"5. Thắng lợi đó là kết quả của chủ trương cực kỳ táo bạo và sáng suốt của Đảng, quyết tâm cao độ của quân và dân ta, tạo nên bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ba mươi năm tiến hành chiến tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng đã nêu cao tinh thần tiến công cách mạng, lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đó là quá trình vừa đánh vừa xây dựng thực lực, làm thay đổi tương quan lực lượng, từng bước đánh bại âm mưu, kế hoạch quân sự của quân xâm lược; giành thắng lợi từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để thực hiện đòn đánh quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, tạo nên bước chuyển biến quan trọng để đi đến kết thúc kháng chiến thắng lợi. Đó là sự kế tục truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên đã được Đảng ta nâng tầm trong thời đại Hồ Chí Minh, được thể hiện rõ ở Chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đây cũng chính là thành công quan trọng trong điều hành chiến tranh của Đảng.




---------------------------------------------------------------
1. 16.200 binh lính Pháp bị bắt và tiêu diệt ở Điện Biên Phủ so với 445.000 quân số của Pháp và ngụy trên toàn Đông Dương.

2. Vào thời điểm cuối năm 1967, Mỹ tập trung ở chiến trường Việt Nam (cả trên bộ và trên biển, 40% sư đoàn chiến đấu lục quân, 50% sư đoàn lính thủy đánh bộ, 50% số máy bay chiến đấu, 30% tàu chiến.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #112 vào lúc: 02 Tháng Tám, 2020, 03:24:16 pm »

THẮNG LỢI CHIẾN LƯỢC CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
MẠCH NGUỒN BỒI ĐẮP, GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, TÌNH CẢM CÁCH MẠNG



THÂN THỊ THƯ
Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh



Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như dòng chảy cuồn cuộn của bao lớp sóng; sóng sau xô sóng trước, tạo nên sức mạnh phi thường, xua tan mọi trở ngại. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo là vô cùng vĩ đại, bằng cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của đồng bào và chiến sĩ trên cả hai miền Nam - Bắc; là hiện thực sinh động của các cơn sóng cách mạng không bao giờ ngừng nghỉ cho khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã góp phần to lớn, tạo nên thắng lợi toàn diện, thể hiện tinh thần cách mạng tiến công của quân dân ta, đánh dấu bước ngoặt quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, nếu không có Mậu Thân 1968 - thì sẽ không có đàm phán đi đến ký Hiệp định Pari tháng 1-1973 và tiến tới Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục là mạch nguồn bồi đắp, giáo dục truyền thống yêu nước, tình cảm cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

1. Mạch nguồn đó là giá trị lịch sử, là kết tinh của truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh dựng nước và giữ nước; là khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và niềm tin son sắt vào thắng lợi cuối cùng.

Ở Việt Nam, điều đã trở thành bình thường nhưng là chân lý: khi có bất kỳ hành động xâm phạm đất nước, thì sẽ có phong trào cứu nước rộng khắp của mọi tầng lớp nhân dân, như lẽ tự nhiên "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!". Tiếp nối hành trình của dân tộc chiến đấu không mệt mỏi cho độc lập, tự do dưới ánh sáng thời đại của đường lối "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", được mở ra từ mùa Xuân năm 1930, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, qua bước ngoặt lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" tháng 5-1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là hành động cách mạng thực tiễn đáp lại Lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh hun đúc và nâng cao thêm ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.

Ý chí, quyết tâm đó được Trung ương Đảng xác định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III: "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước"; biến thành sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, được tổ chức, tập hợp bằng phương pháp và động lực to lớn: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Ý chí của Đảng, cũng là ý chí quyết tâm của toàn quân, toàn dân "giành thắng lợi quyết định" để không còn cảnh chia cắt hai miền Nam - Bắc, thống nhất nước nhà; để hiện thực hóa khát vọng hòa bình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình. Nhưng phải có độc lập, tự do thì mới có hòa bình thật sự. Đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải rút hết quân đội của chúng về nước, để nhân dân ta tự quyết định vận mệnh của mình thì sẽ có hòa bình lập tức"; cũng là hiện thực hóa niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng và mong muốn như trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 8-5-1968: "Hai miền Nam - Bắc đoàn kết một lòng, thi đua giết giặc, cứu nước, thì nhất định giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Đồng bào miền Nam nhất định sẽ được giải phóng. Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ hoàn toàn độc lập, tự do, nhất định sẽ hòa bình thống nhất! Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!".

Và thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thực hiện được "bước phát triển" mang tầm chiến lược của cuộc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, chúng ta đã đưa cuộc chiến đấu quy mô lớn vào tận sào huyệt cuối cùng của địch, làm chuyển biến nhanh chóng và mạnh mẽ cục diện chiến tranh, nâng cao uy thế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, cuộc Tổng tiến công này đã giáng một đòn quyết định làm phá sản cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải "phi Mỹ hóa" chiến tranh, ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Pari, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; từ đó, tiến tới ký kết Hiệp định Pari, tạo điều kiện hết sức thuận lợi để "đánh cho Mỹ cút", đưa cuộc kháng chiến chuyển sang mục tiêu "đánh cho ngụy nhào", giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân 1975 lịch sử.

Tại Sài Gòn - Gia Định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 càng tô thắm truyền thống của Đảng bộ và nhân dân thành phố trung kiên, bất khuất, đoàn kết, sáng tạo, bản lĩnh vững vàng trước đầu sóng ngọn gió trong suốt hành trình cách mạng của đất nước và dân tộc.

Sài Gòn - Gia Ðịnh là trọng điểm lớn nhất và ác liệt nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vì nơi đây là trung tâm đầu não chỉ huy toàn bộ bộ máy chiến tranh, có hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp vững chắc, tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất của địch. Do đó, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương Cục đã thành lập Khu trọng điểm bao gồm Khu Sài Gòn - Gia Định và một phần các tỉnh tiếp giáp với Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khu trọng điểm, các lực lượng của Sài Gòn - Gia Định đã chấp hành và tổ chức triển khai các nhiệm vụ của Trung ương Cục giao cho với tinh thần quyết tâm cao nhất: đánh chiếm các mục tiêu đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch; phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành quyền làm chủ ở các quận, huyện; tranh thủ mọi khả năng cùng với lực lượng toàn Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn ở các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của quân Mỹ và chư hầu; buộc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam; thành lập Mặt trận thứ hai 1 và tổ chức chính quyền cách mạng các cấp trong thành phố và khu trọng điểm.

Ðêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ với đòn giáng phủ đầu của lực lượng Biệt động thành vào những mục tiêu hiểm yếu, đầu não của bộ máy chiến tranh như Dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại sứ Mỹ, Ðài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân... đã làm rúng động nước Mỹ, khiến nhân dân Mỹ bàng hoàng, khiến khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh trở thành áp đảo. Cùng với đó, lực lượng vũ trang của các đoàn thể, các cơ sở cách mạng ở thành phố đã phối hợp với bộ đội chủ lực, với biệt động Thành tấn công địch bằng nhiều hình thức linh hoạt, đã tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch.

"Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn - Thủ đô đầu não của chế độ ngụy quyền, đã tạo nên sự phân hóa chia rẽ cao độ trong hàng ngũ kẻ thù; thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và tinh thần cách mạng trong lòng nhân dân đô thị; đồng thời cũng thúc đẩy cao hơn phong trào phản chiến của lính Mỹ, phong trào của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối chiến tranh xâm lược" , góp phần vào thắng lợi chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

2. Mạch nguồn đó là minh chứng của truyền thống đánh giặc bằng nghệ thuật, trí tuệ, mưu lược, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta.

Thắng lợi chiến lược của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng minh chứng cho tài thao lược của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định và kiên định đường lối cách mạng và lãnh đạo kháng chiến; nhận ra thời điểm quan trọng của cuộc chiến tranh, thấy được thời cơ quý báu để có chủ trương chiến lược kịp thời; là nghệ thuật biết giành thắng lợi từng bước, quan trọng nhất là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Và thực tế cho thấy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với khởi nghĩa vũ trang theo quy luật của tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, bằng lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, binh vận, lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng cách mạng diễn ra vô cùng ác liệt cả ở thành thị và nông thôn vùng ven, bằng những cuộc tiến công và phản kích liên tiếp, kéo dài. Nhân dân Sài Gòn và các đô thị miền Nam được tận mắt chứng kiến hình ảnh anh Giải phóng quân với vành mũ tai bèo, chứng kiến "Quân giải phóng" chính quy đánh địch trên từng góc phố, trong tư thế hiên ngang và kỷ luật nghiêm minh. Cùng với các cuộc tiến công đồng loạt của lực lượng vũ trang, nhân dân nhiều vùng nông thôn và thành thị nổi dậy diệt ác, trừ gian giải tán dân vệ, phá vỡ hàng loạt "ấp chiến lược" giành quyền làm chủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng", làm cho kẻ địch không thể phán đoán cách đánh cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Bất ngờ trong xác định chủ trương, chiến lược của Đảng đến tổ chức chỉ đạo, bố trí quy mô lực lượng, đến mục tiêu và thời điểm tiến công, để phát huy cao nhất một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nghệ thuật quân sự.

Có thể nói, tất cả những sáng tạo trong chiến lược, chiến dịch và chiến thuật tổ chức cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết tinh từ nghệ thuật đánh giặc của ông cha qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tô thắm truyền thống và bài học "dựa vào dân" của dân tộc ta.

3. Mạch nguồn đó là một trong những biểu tượng của truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi nào, trong cuộc đấu tranh quyết liệt, tử sinh cũng phải trả giá bằng xương máu, bằng sự hy sinh. "Chiến thắng lớn từ hy sinh to lớn. Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường" 2. Thế hệ hôm nay mãi mãi biết ơn các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã chiến đấu, anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và trong toàn bộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ghi lòng tạc dạ công lao của những người con ưu tú đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc, tham gia viết nên thiên anh hùng ca Xuân Mậu Thân 1968 bất diệt, khắc họa nên "dáng đứng Việt Nam" bất tử.

Đó là tinh thần dũng cảm vô song, mưu lược tài ba của các lực lượng vũ trang, đã mở đầu xuất sắc cuộc tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Ðịnh cùng với các chiến trường đô thị khắp miền Nam, dù chiến trường trọng điểm hay những địa bàn "chia lửa". Đặc biệt, chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước chiến công oanh liệt và cả sự hy sinh, mất mát lớn lao của lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Ðịnh, với tinh thần quả cảm cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hầu hết cán bộ, chiến sĩ lực lượng biệt động đã anh dũng hy sinh hoặc rơi vào tay địch. Nhưng ý chí và xương máu của lực lượng biệt động đã dựng lên những tượng đài bất tử của Xuân Mậu Thân 1968.

Đó là lớp lớp thanh niên, sinh viên, học sinh đứng lên sát cánh chiến đấu cùng các chiến sĩ Quân giải phóng. Thế hệ trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay mãi mãi tự hào về lực lượng Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định trong Mậu Thân 1968, tự hào về người Bí thư Thành đoàn Hồ Hảo Hớn quyết hy sinh để giữ bí mật về Nghị quyết Quang Trung - mật danh Nghị quyết của Trung ương Cục về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân khi đồng chí rơi vào tay giặc; tự hào về lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị Thành Đoàn trong Mậu Thân 1968, đã hoạt động mạnh mẽ ở khu xóm Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Lê Văn Duyệt, khu vực chùa Ấn Quang, Bảy Hiền... tham gia các mũi đột kích, diệt ác, rải truyền đơn, treo cờ Mặt trận. Nhiều chiến sĩ Thành đoàn đã anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân giữa đường phố Sài Gòn và được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như Lê Văn Nghề, Nguyễn Sơn Hà (Bảy Thép)...

Đó là lực lượng phụ nữ tham gia vào các đội biệt động, các thứ quân địa phương, giao liên, dân công và cứu thương. Ðặc biệt như phụ nữ Sài Gòn - Gia Ðịnh đóng vai trò quan trọng trong xây dựng cơ sở chính trị trong lòng thành phố, xây dựng các "lõm chính trị", "lõm" căn cứ "nhân tâm" vững chắc trong các chợ, trong khu dân cư lao động.

Đó là đội ngũ giáo chức, văn nghệ sĩ và nông dân ở vùng ven đã tham gia tích cực, vừa hỗ trợ cho lực lượng vũ trang, lực lượng đấu tranh chính trị của công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh vừa tổ chức những hoạt động phù hợp, phát loa, treo cờ, rải truyền đơn, kêu gọi binh lính Sài Gòn bỏ súng về với gia đình.

Đó là các gia đình cơ sở cách mạng đã chấp nhận hy sinh, mất mát, bất chấp nguy hiểm, vận chuyển, cất giấu vũ khí hàng tháng trời trước đó, nuôi giấu cán bộ chiến sĩ, cung cấp cho lực lượng biệt động chiến đấu làm nên những trận đánh vang dội tại Sài Gòn.
Chúng ta mãi mãi không thể nào quên bước chân và chiến công của đồng bào, đồng chí in dấu trên đường phố, từng khu dân cư lao động, từng ngõ hẻm Sài Gòn và các đô thị miền Nam năm ấy; không thể nào quên những hình ảnh của những người lính Cụ Hồ đã kề vai sát cánh của mỗi góc phố, tòa nhà, hiên ngang nhả đạn vào quân thù để chia lửa, che chắn cho nhau; những người mẹ, người chị, em nhỏ dù biết rằng sẽ bị tù đày, tra tấn dã man, hy sinh cả xương máu... nhưng đã dũng cảm băng qua lửa đạn, dẫn đường, mang cơm tiếp tế, cứu thương cho bộ đội nơi trận tuyến trong tầm đạn thù vô cùng khốc liệt... Đúng là "lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất ...".

Chúng ta cũng không thể quên nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ sau Mậu Thân bị bắt vẫn trung kiên, chịu đựng tù đày tra tấn dã man, một lòng son sắt, sẵn sàng hy sinh để giữ gìn khí tiết của người cách mạng, của người cộng sản.

Hòa vào dòng thác cách mạng với khí thế hào hùng trong Xuân Mậu Thân 1968, cán bộ, chiến sĩ của ngành Tuyên huấn Trung ương Cục, Tuyên huấn Thành ủy, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định cũng đã "xông trận" bằng tinh thần và lực lượng cao nhất. Anh em cánh Tuyên huấn tỏa ra trên nhiều trọng điểm, áp sát địa bàn, đột nhập vào ấp chiến lược, thị trấn, thị tứ phổ biến thời cơ chiến lược, vận động nhân dân nổi dậy; rải truyền đơn, dán áp phích, vẽ bản đồ cung cấp cho bộ đội, thực hiện vũ trang tuyên truyền; tổ chức các đoàn văn công, đoàn văn nghệ sĩ Phật tử trong phái Ấn Quang, hội thảo "Văn nghệ sĩ trước hiện tình đất nước", ca ngợi cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc, có ảnh hưởng lớn trong nhân dân; in báo Cờ Giải phóng, đưa tin, hình ảnh chiến trường để cổ vũ, động viên đồng bào, chiến sĩ và tham gia chiến đấu ngay trong lòng đô thị Sài Gòn, tại vùng lõm Bảy Hiền, Gò Vấp, Hóc Môn... Nhiều chiến sĩ tuyên huấn Sài Gòn - Gia Định đã anh dũng ngã xuống trong khói lửa Mậu Thân 1968 ngay trên đường phố Sài Gòn như Nguyễn Kim Hon (Ba Thanh), Nguyễn Thị Thu, Lê Quang Bửu (Hai Thanh), Nguyễn Văn Đáng, Lê Văn Dựng, Phan Thế Trung...

Tất cả, một lần nữa tô thắm cho truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước.

Năm mươi năm đã trôi qua, tiếp tục nhìn nhận một sự kiện lịch sử quan trọng bằng phương pháp khoa học, biện chứng để khẳng định giá trị, trân trọng quá khứ và chiêm nghiệm những bài học lịch sử từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời đấu tranh mạnh mẽ chống lại những quan điểm thiếu cơ sở khoa học nhằm làm giảm ý nghĩa to lớn của chiến thắng này là công việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Để làm tốt nhiệm vụ chiến lược ấy, nhất thiết phải xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự từ trong thời bình, như di huấn của cha ông, kết hợp kiến quốc với phòng thủ đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, quốc phú binh cường. Kết hợp hài hòa xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự với xây dựng tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực chính trị - tinh thần, đặc biệt là thế trận lòng dân bằng sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của toàn dân.

Trong nhiệm vụ chung, ngành Tuyên giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc góp sức làm cho mạch nguồn lòng yêu nước, tình cảm cách mạng không ngừng tuôn chảy, ngày càng phong phú. Không bao giờ ngưng nghỉ nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ để lan tỏa, lan truyền, tiếp nối các giá trị tốt đẹp; bồi đắp để nâng cao hơn nữa giá trị lòng yêu nước, ý chí quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tự lực tự cường, vươn lên mạnh mẽ để thoát khỏi tình trạng có nguy cơ tụt hậu, xây dựng đất nước thật sự phồn vinh, bằng tinh thần, sức mạnh như chúng ta đã làm được trong cuộc đấu tranh giải phóng.



---------------------------------------------------------------
1. Mặt trận thứ hai có tên là Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên minh, có cờ, có tuyên ngôn riêng. Trong đợt Tết Mậu Thân, Mặt trận Liên minh mới có Ban Vận động chứ chưa có Ủy ban Trung ương chính thức. Mặt trận Liên minh có trách nhiệm kêu gọi nhân dân thành phố nổi dậy.

2. Viễn Phương, trích Văn bia tại Đền thờ Liệt sĩ Bến Dược, Củ Chi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #113 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2020, 03:59:42 pm »

SỰ KIỆN XUÂN MẬU THÂN 1968 - SAI LẦM CHIẾN LƯỢC CỦA MỸ
TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM



Thượng tá, ThS. ĐỖ VĂN HINH
Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bước ngoặt lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Cuộc tiến công bất ngờ ấy đã làm thay đổi căn bản thế trận chiến lược, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam bước sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Đối với Mỹ, sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 là minh chứng thực tế của những sai lầm về chiến lược, xóa tan ảo tưởng chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam, "Tết bị coi là sai lầm đối với những người trước đây từng tuyên bố cuộc chiến tại Việt Nam đang đi đúng hướng và đạt được nhiều tiến triển. Tết cũng là bằng chứng rõ ràng cho thấy cuộc chiến ở Việt Nam không chỉ bế tắc mà còn có thể thất bại", cụ thể:

Thứ nhất, Mỹ sai lầm trong nhận định về quyết tâm chiến lược và khả năng tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Việt Nam.

Sau hai năm chiến đấu trực tiếp với quân viễn chinh Mỹ (1965 - 1967), quân và dân ta ở miền Nam vẫn giữ vững và phát huy mạnh mẽ thế tiến công, làm phá sản một bước quan trọng chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giữ vững quyền chủ động chiến trường, mở rộng vùng giải phóng... Tình hình đó là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thực hiện một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao nhằm làm thay đổi tình hình, chuyển biến chiến lược trên chiến trường miền Nam và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 quyết định thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa với quyết tâm "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Hội nghị chỉ rõ: Mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm "tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam". Về phương pháp, kết hợp tổng công kích với phát động tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã quân địch, gây rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, biến hậu phương và dự trữ chiến lược của địch thành hậu phương và dự trữ chiến lược của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng có lợi và giành thắng lợi quyết định về ta. Từ mục tiêu, phương pháp nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng đại và cấp bách lúc này là: "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất".

Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt về lực lượng, phương tiện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 1. Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị, chúng ta vẫn không tránh khỏi "tai, mắt" của các cơ quan tình báo Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Ngay từ cuối năm 1967, trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được, tình báo Mỹ 2 và chính quyền Sài Gòn bắt đầu nhận thấy "cộng sản" có những động thái thay đổi chiến lược - một cuộc tổng tiến công lớn có quy mô chưa từng thấy trên chiến trường miền Nam - thậm chí các giai đoạn cụ thể của cuộc tiến công cũng được tình báo Mỹ lường định phần nào. Tuy nhiên, tình hình chiến sự từ các chiến trường lại khá lạc quan khiến giới chức quân sự Mỹ đã bỏ qua những dữ liệu quan trọng mà cơ quan tình báo cung cấp, "các tài liệu thu giữ được chẳng qua là tài liệu tuyên truyền kích động dân chúng". Cho nên, thay vì tìm kiếm giải pháp đối phó, chính quyền Mỹ vẫn tập trung tô màu lên cuộc chiến tranh Việt Nam để vận động niềm tin và sự ủng hộ của giới chính trị cũng như nhân dân Mỹ.

Phải đến khi những dấu hiệu về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ngày càng rõ ràng và thuyết phục 3, Oétmolen và Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ mới chịu thừa nhận "điều bất thường đã xảy ra" và nguy cơ về "cuộc tấn công tổng lực" trên toàn miền Nam của Quân giải phóng đang đến gần. Giới quân sự Mỹ phỏng đoán cuộc tiến công theo ba giai đoạn: một là, quân Mỹ bị nhử ra khỏi các vùng đông dân để vào vùng núi và biên giới; tiếp theo là những cuộc tiến công trên khắp miền Nam nhằm giành lại các vùng đông dân do quân đội Sài Gòn đang chiếm giữ; và cuối cùng, cả hai giai đoạn đó sẽ được tiếp tục bằng một cuộc chiến đấu trên bộ lớn ở một tỉnh phía bắc vì ý đồ của những người cộng sản là muốn chiếm một hoặc hai tỉnh. Song, những dự đoán về cuộc tiến công của "cộng sản" nhanh chóng bị gạt bỏ bởi sự nhìn nhận chủ quan: "Cộng sản" chưa đủ sức mạnh quân sự để thực hiện cuộc tiến công quy mô lớn vào các đô thị, "bởi từ trước tới nay họ chủ yếu tiến hành các cuộc phá hoại ngầm hoặc kích động chính trị... Trong trường hợp nếu "cộng sản" mạo hiểm làm điều đó thì chắc chắn họ phải chịu thất bại". Cùng với quan điểm đó, giới chức Sài Gòn cho rằng: "Việt cộng" chỉ có khả năng mở những trận quy mô dựa vào những căn cứ xuất phát tại các vùng biên giới nhưng sẽ thất bại. Còn tại các vùng đồng bằng, địch chỉ có khả năng mở những cuộc tấn công ở cấp tiểu đoàn nhằm gây tiếng vang, chỉ có thể đánh trong một thời gian chớp nhoáng nếu không muốn bị tiêu diệt. Bởi vậy, chính quyền Sài Gòn cảm thấy "lạc quan đối với tình hình quân sự chung trên toàn quốc", cho phép 20% binh lính quân đội Sài Gòn thuộc Vùng 1 chiến thuật về nghỉ Tết và ở nhiều đơn vị khác thuộc các Vùng 1, 3, 4 tỷ lệ này lên tới 50%.

Như vậy, chính quyền Mỹ ở cả Sài Gòn lẫn Oasinhtơn đều có tư tưởng chủ quan, dựa vào sức mạnh quân sự khi nhận định, đánh giá về đối phương, đặc biệt là khả năng tổ chức và điều hành chiến tranh của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết tâm của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Người Mỹ "đã không hiểu chiến lược và khả năng của kẻ thù cũng như không hiểu cả chính mình". Đây là nguồn gốc sâu xa khiến Mỹ và chính quyền Sài Gòn không có ý thức chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công mà quy mô vượt sức tưởng tượng của họ, đồng thời khởi đầu cho những sai lầm tiếp theo về chiến lược của Mỹ trong Xuân Mậu Thân 1968.

Thứ hai, Mỹ sai lầm trong đánh giá hướng tiến công chiến lược của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 (1-1968) xác định tổng công kích, tổng khởi nghĩa là "một giai đoạn - một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp" mà muốn thắng lợi "ta phải đủ sức mạnh về quân sự và chính trị, phải biết chọn đúng những hướng tiến công và những biện pháp tiến công chiến lược", trong đó hướng tiến công có vai trò rất quan trọng. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định: một mặt, "sử dụng tốt nhất lực lượng vũ trang của ta, căng địch ra khắp các chiến trường, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch"; mặt khác, "đòn chính của ta phải nhằm vào các thành thị quan trọng,... đánh sụp các cơ quan đầu não của Mỹ và ngụy, đánh phá các hậu cứ, các cơ sở hậu cần... Đó là đòn ác liệt nhất đánh vào óc, tim, mạch máu của địch và cũng là cách tốt nhất để thực hiện ba mũi giáp công trong cả ba vùng chiến lược, để tiêu diệt địch đến mức cao nhất, làm sụp đổ chỗ dựa chính trị của địch và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng". Cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh hoàn chỉnh phương án tác chiến: kết hợp đòn tiến công của bộ đội chủ lực vào hệ thống phòng thủ của Mỹ ở Đường 9 - Khe Sanh để nghi binh, thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch với đòn tiến công chiến lược chủ yếu đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, phát động quần chúng ở nông thôn và đô thị nổi dậy.

Thực hiện kế hoạch trên, cuối năm 1967 - đầu năm 1968, các sư đoàn, các trung đoàn chủ lực Quân giải phóng đã tiến sát các trung tâm dân cư và các đô thị, kể cả Sài Gòn - Gia Định; đồng thời, ở Khe Sanh, một số sư đoàn chủ lực cũng tập kết xung quanh, hình thành thế bao vây, uy hiếp các căn cứ của địch.

Trước tình hình đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải hủy bỏ mọi cuộc hành quân theo kế hoạch để dồn sức phòng ngự bị động với phán đoán Khe Sanh sẽ là hướng tiến công chính của "cộng sản". Đêm 20-1-1968, khi lực lượng vũ trang của ta tiến công Khe Sanh, giới chức quân sự Mỹ càng tin tưởng Khe Sanh chính là "Điện Biên Phủ" thứ hai ở Việt Nam. Điều đó khiến Tổng thống Giônxơn lo lắng tới mức "yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ cam kết bằng máu không để mất Khe Sanh".

Với niềm tin Khe Sanh là mục tiêu chính của "cộng sản", Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Vùng 1 chiến thuật và không ngừng bổ sung lực lượng, vũ khí, trang bị vào khu vực này, nhưng Mỹ "đã rơi vào một chiếc bẫy". Mũi nhọn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy không phải Khe Sanh mà là các đô thị, trung tâm chính trị, kinh tế, căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam.

Trong khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung tâm trí và sức lực ra hướng Đường 9 - Khe Sanh, thì đêm 29 rạng 30-1-1968, quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy, sân bay, bến cảng... của địch, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, những cuộc tiến công ấy không làm giới quân sự Mỹ bận tâm, coi đó chỉ là trò nghi binh để phân tán họ ra khỏi chiến trường chính. Oétmolen vẫn khẳng định "nỗ lực chính của Bắc Việt Nam vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần". "Cộng sản" không thể mạo hiểm thay đổi hướng tiến công, nhất là đủ sức đánh vào Sài Gòn - thủ phủ của chính quyền Sài Gòn.

Sau này, khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân nổ ra và kết thúc, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mới chịu thừa nhận sai lầm. Trong một báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn ngày 5-3-1968 có viết: "khi có quyết định của Trung ương Cục cải tổ lãnh thổ xung quanh Sài Gòn dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ huy tiền phương R... thì lúc đó mới chắc chắn rằng Việt cộng sẽ đánh thẳng vào thủ đô Sài Gòn với một lực lượng to lớn ngoài ước đoán của ta". Như vậy, ngay cả khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân nổ ra, phía Mỹ vẫn hoàn toàn lạc hướng trong việc phán đoán ý đồ chiến lược thực sự của ta và họ đã phải trả giá cho sai lầm ấy.

Thứ ba, sai lầm của Mỹ trong bố trí, sử dụng lực lượng.

Ngay từ khi xác định Khe Sanh là hướng và mục tiêu tiến công chính trong ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao cách mạng Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhanh chóng tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh để giữ vị trí trọng yếu này. Cuối năm 1967, 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và một số đơn vị bộ binh, pháo binh Mỹ cùng 2 tiểu đoàn không vận quân đội Sài Gòn được bổ sung cho Khe Sanh và Vùng 1 chiến thuật. Đầu năm 1968, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ điều Sở chỉ huy và 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn dù kỵ binh 1 về chốt giữ ở Huế; Lữ đoàn dù 101 từ Vùng 2 chiến thuật về Vùng 1. Sau các lần tăng quân, lực lượng quân Mỹ và đồng minh tính riêng tại Khe Sanh lên đến 5.700 quân; đến cuối tháng 2, một nửa các tiểu đoàn cơ động của Mỹ bị điều chuyển về Vùng I chiến thuật. Việc tập trung 50% lực lượng ra Mặt trận phía Bắc khiến Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đối mặt với tình trạng phân tán cũng như thiếu hụt quân số ở các vùng chiến thuật khác.

Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta nổ ra, buộc toàn bộ lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn phải tập trung lực lượng phòng ngự bị động trong các đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn, rừng núi, tạo cơ hội, khoảng trống cho quần chúng nhân dân các địa phương dưới sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ yêu cầu quân đội Sài Gòn mở các cuộc hành quân ra vùng ven đô và trở lại các vùng nông thôn để giải tỏa áp lực cho Sài Gòn và các đô thị. Song, chính quyền Sài Gòn tỏ ra bất lực bởi tình trạng thiếu hụt nhân lực, số binh lính còn lại thì bạc nhược, mất sức chiến đấu. Ở các đơn vị bộ binh cấp tiểu đoàn quân đội Sài Gòn trong hai tuần đầu của tháng 2 chỉ có một nửa số quân, các lực lượng đặc biệt còn thấp hơn, 4 trong 9 tiểu đoàn không vận không còn hiệu lực chiến đấu... Điều đó phản ánh sự yếu kém trong tổ chức sử dụng lực lượng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đồng thời gia tăng sức ép đối với lực lượng chiến đấu Mỹ.

Nhằm bổ sung những thiếu hụt về nhân lực, Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Sài Gòn khẩn thiết đề nghị Oasinhton triển khai thêm lực lượng vào Việt Nam với con số tăng lên không ngừng từ 10.300 (2-1968) lên 24.500 (3-1968), nâng tổng số quân Mỹ có mặt Việt Nam lên đến 549.000 quân. Việc huy động quân Mỹ vào miền Nam đã tác động nghiêm trọng đến tình hình chính trị, kinh tế, quân sự của nước Mỹ, Nhà Trắng phải đối mặt với tình trạng báo động về lực lượng dự bị chiến lược cũng như sự phản đối của dư luận.

Để ngăn chặn các cuộc tiến công của "Cộng sản" và khắc phục tạm thời về lực lượng, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã sử dụng không hạn chế hỏa lực, đánh phá ác liệt nhiều đô thị, khu vực đông dân cư. Tại Huế, hỏa lực Mỹ biến 80% thành phố thành gạch vụn. Thành phố Mỹ Tho và tỉnh lỵ Bến Tre bị bom đạn san bằng một nửa... Bằng cách ấy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tự tay phá hủy cơ sở hạ tầng của chương trình bình định, quan trọng hơn là "nhân tâm" của dân chúng miền Nam mà chúng mất công gây dựng trong nhiều năm qua, đồng thời, thêm một bằng chứng thể hiện sai lầm của Mỹ về chiến lược ứng phó trước Quân giải phóng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tóm lại, từ nhận thức không hoàn chỉnh của Mỹ về chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng như "không nắm được một cách cơ bản tính chất cuộc chiến tranh" cũng như chủ quan, phụ thuộc nặng nề vào sức mạnh vật chất, dẫn tới những sai lầm của Mỹ trong nhận định quyết tâm của quân và dân ta, về hướng tiến công cũng như bố trí, sử dụng lực lượng trong Xuân Mậu Thân 1968. Chính những sai lầm ấy kéo theo những hậu quả và hệ lụy nặng nề đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Quân đội Mỹ bị thiệt hại 1.100 quân cùng 2.300 binh lính Sài Gòn 4. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc Mỹ phải "xuống thang", thay đổi chiến lược, rút dần quân Mỹ về nước... Và cho đến tận bây giờ, sự kiện Xuân Mậu Thân 1968 vẫn là nỗi ám ảnh - "hội chứng Việt Nam" trong lòng nước Mỹ.




----------------------------------------------------------------
1. Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho các chiến trường, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 277.000 quân, trong đó 220 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ); cùng 18.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... (Xem thêm Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập V - Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Sđd, tr.52).

2. Tháng 11-1967, mọi tin tức về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được Phân cục CIA tại Sài Gòn tập hợp trong một báo cáo mang tựa đề "The Big gameble" ("Một vụ cá cược lớn").

3. Nhiều tin tức tình báo của Mỹ thu được: trước Giáng sinh 1967, trên đường mòn Hồ Chí Minh, số xe vận tải của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng 200% so với trước; tháng 1-1968, tình báo Mỹ bắt được một vài kế hoạch tấn công vào Pleiku, Buôn Ma Thuột; các hoạt động quân sự của Quân giải phóng ngày càng gia tăng ở Khe Sanh và khu vực phía bắc khu phi quân sự... Xem thêm James H. Willbanks: The Tet offensive - A concise history (Cuộc tấn công Tết - Lược sử), Columbia University Press, New York, 2007, p.28.

4. Theo ghi chép của chính quyền Sài Gòn, con số này lớn hơn rất nhiều. Chỉ tính riêng trong tháng 2 và tháng 3-1968, quân Mỹ và quân đội đồng minh đã tổn thất 24.013 người, chết 4.124 người; quân đội Sài Gòn tổn thất 20.977 người, chết 4.909 người. (Xem Phạm Văn Sơn: Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968, Sđd, tr.35).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #114 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2020, 04:47:34 pm »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA MẶT TRẬN LIÊN MINH VÀ CHÍNH PHỦ CÁCH MẠNG LÂM THỜI
CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM



ThS. NGUYỄN VÕ CƯỜNG
Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Mặt trận và công tác mặt trận luôn luôn là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20-12-1960 tại Chiến khu Bắc Tây Ninh có ý nghĩa vô cùng trọng đại, phát huy vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quá trình ra đời và hoạt động của Mặt trận đã để lại những kinh nghiệm quý báu cho việc thành lập các tổ chức, phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong tình hình mới.

1. Sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam

Giữa năm 1965, đế quốc Mỹ cho quân chiến đấu đổ bộ vào miền Nam trực tiếp xâm lược nước ta, chuyển chiến lược từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ". Khi đưa nửa triệu quân chiến đấu vào miền Nam, các tướng lĩnh sừng sỏ của Mỹ định giải quyết cuộc chiến tranh trong 18 tháng với quan điểm ngông cuồng "Cuộc khởi nghĩa nào cũng sẽ bị tiêu diệt". Chúng lập tức tung quân đánh phá ác liệt từ Trị - Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ với chiến lược "tìm diệt" thể hiện bằng các chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận", "phượng hoàng vồ mồi", "bủa lưới phóng lao" rất hiểm độc nhằm nhanh chóng tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và các lực lượng cách mạng miền Nam.

Qua một năm rưỡi chiến đấu, quân và dân miền Nam đã đương đầu thắng lợi với chiến lược "tìm diệt" của địch, tổ chức phản công và tiến công quyết liệt quân thù, giành những thắng lợi bước đầu rất quan trọng. Cùng với tiến công quân sự, cách mạng miền Nam còn đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận và ngoại giao. Để triệt để cô lập đế quốc Mỹ và bè lũ Thiệu - Kỳ, phân hóa địch đến mức cao nhất, tập hợp thêm những lực lượng, những cá nhân có tinh thần chống Mỹ và Thiệu - Kỳ, tranh thủ các tầng lớp trung gian ở các thành thị, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi hơn nữa của cộng đồng quốc tế, Bộ Chính trị có ý định lập thêm ở miền Nam một mặt trận mới. Tháng 10 và tháng 11-1966, Bộ Chính trị họp liên tục bàn về cách mạng miền Nam, và ngày 27-1-1967 đã ban hành Nghị quyết số 154-NQ/TW "Về đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam". Trong Nghị quyết, lần đầu tiên Bộ Chính trị bàn tới việc thành lập mặt trận mới: "Trong khi đề cao vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cần xúc tiến việc thành lập một mặt trận liên hiệp hành động rộng rãi ở đô thị và những vùng nông thôn do địch kiểm soát, đấu tranh cho độc lập, hòa bình, dân chủ và trung lập. Mặt trận này được hình thành dần dần từ trong phong trào đấu tranh của quần chúng, cho nên nó có tính chất rất rộng rãi, nhưng vẫn phải dựa trên cơ sở liên minh công nông".

Một năm sau Nghị quyết này, tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường miền Nam. Trong cao trào cách mạng này, Trung ương quyết định: "cần thành lập một mặt trận thứ hai bên cạnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng, lấy một tên thích hợp với cương lĩnh rộng rãi hơn Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Mặt trận thứ hai này sẽ giữ thái độ độc lập đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nhưng tuyên bố thực hiện liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng và tất cả những người muốn phấn đấu cho miền Nam Việt Nam có độc lập, chủ quyền, dân chủ, hòa bình và trung lập". Về thành phần của mặt trận thứ hai có điều chỉnh so với Nghị quyết Bộ Chính trị, không lấy liên minh công nông làm nòng cốt mà chỉ là "tập hợp thêm những lực lượng, những cá nhân có tinh thần chống Mỹ và Thiệu - Kỳ và tranh thủ các tầng lớp trung gian ở các thành thị, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi hơn ở nước ngoài"; Nghị quyết này cũng chưa xác định tên gọi của mặt trận thứ hai.

Cùng với việc ban hành Nghị quyết Trung ương 14, trong mật điện gửi cho anh Bảy Cường, anh Năm Công, anh Bảy Tiến (là các đồng chí Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Quang), Trung ương nêu rõ:

- Mặt trận thứ hai lấy tên là "Liên minh dân tộc dân chủ và hòa bình".
- Gợi ý tám khẩu hiệu của Liên minh.
- Xác định cờ của Mặt trận thứ hai hình chữ nhật, nằm ngay trên cùng là màu đỏ, giữa là màu xanh da trời, dưới là màu đỏ, ngay giữa có ngôi sao vàng.
- Địa bàn ra đời của Liên minh: thành lập chủ yếu ở các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn. Cơ quan trung ương sẽ ở Sài Gòn.
- Thời gian thành lập: trước hoặc sau Tết vài ngày. Khi ở Sài Gòn ra đời được thì các chi nhánh địa phương thành lập và hưởng ứng ngay.

Bộ Chính trị giao cho Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo Khu ủy Trị - Thiên và Khu ủy 5 phối hợp cùng Trung ương Cục thực hiện.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường vụ Trung ương Cục giao cho Khu trọng điểm 1 tổ chức thành lập mặt trận thứ hai. Ngày 28-1-1968, trước khi diễn ra cuộc tổng công kích hai ngày, Thường vụ Trung ương Cục điện cho E12 (có thể là mật danh của Khu ủy trọng điểm) truyền đạt ý kiến góp ý của Bộ Chính trị và Thường vụ Trung ương Cục về nội dung Tuyên ngôn cứu nước và Đại cáo của Mặt trận Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình. Mật điện này cũng yêu cầu E12 báo cáo danh sách các thành viên trong Liên minh. Ngày 31-1-1968, Thường vụ Trung ương Cục lại tiếp tục điện cho E12 truyền đạt ý kiến của Bộ Chính trị và Thường vụ Năm Trường 2 về chủ trương, chính sách, tên một số cơ quan của mặt trận thứ hai, một số nhiệm vụ cần triển khai gấp để E12 chỉ đạo Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thực hiện.

Cùng với tiếng súng tổng tiến công và nổi dậy, ở Huế, Trung Trung Bộ và Sài Gòn đã thành lập Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình của địa phương. Bộ Chính trị đã trực tiếp hướng dẫn các địa phương trên phát tuyên ngôn của mình, chưa vội tuyên bố gia nhập vào Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở Sài Gòn. Khi cần sẽ thống nhất cũng chưa muộn.

Ngày 3-2-1968, đồng chí Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục điện báo cáo với Bộ Chính trị về việc thành lập mặt trận thứ hai ở Sài Gòn, ra Tuyên ngôn chính thức và quyết định của Trung ương Cục cho thành lập Mặt trận Liên minh ở Đà Lạt và Mỹ Tho.

Trong thời gian này, từ đầu tháng 2 đến đầu tháng 4-1968, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ Chính trị liên tục trao đổi mật điện về việc thành lập mặt trận thứ hai. Ngày 8-4-1968, trên cơ sở ý kiến của chiến trường, cân nhắc thận trọng nhiều mặt, Bộ Chính trị điện cho Trung ương Cục chỉ đạo: "Cần thành lập Mặt trận thứ hai (tức Ủy ban toàn miền Nam của Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình). Tuy công việc có phức tạp thêm, nhưng đây là một chủ trương sách lược rất lợi, cần thực hiện. Tuyên cáo của Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình trong dịp thành lập chuẩn bị xong thì đưa ra. Việc này hiện nay không cần gắn với thời gian Mặt trận Giải phóng đưa ra giải pháp chính trị. Sau này, tùy tình hình nếu cần ta còn có thể tính thêm tuyên bố mới nữa của Liên minh.

Tóm lại, cứ thành lập mặt trận thứ hai. Tuyên cáo của nó, chuẩn bị xong thì đưa ra, nhưng cần cho ngoài này biết trước để có kế hoạch giới thiệu, tuyên truyền trong nước và ngoài nước".

Sau khi nhận được những chỉ thị một cách có hệ thống và bàn bạc cụ thể của Bộ Chính trị, Trung ương Cục đã khẩn trương bắt tay vào chuẩn bị một cách rất tỉ mỉ, bài bản cho sự ra đời của mặt trận thứ hai, đặc biệt là vấn đề nhân sự, vì tất cả những vị nhân sĩ, trí thức, đại diện các tôn giáo, tầng lớp trên ta dự kiến mời tham gia vào Ủy ban Trung ương Liên minh đều ở đô thành Sài Gòn.

Trước đó, từ giữa tháng 2-1968, theo chỉ đạo của Khu ủy trọng điểm, các cơ sở mật, các đường dây giao liên đã bí mật lần lượt đón các vị Liên minh từ Sài Gòn ra vùng căn cứ. Phần đông các vị trong Liên minh rời Sài Gòn trong các ngày 15 đến 17-2-1968. Riêng Luật sư Trịnh Đình Thảo được tổ chức đưa ra căn cứ bằng con đường hợp pháp, còn chủ yếu các vị khác trong Liên minh theo đường giao liên từ nội thành bí mật đưa về căn cứ.

Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, ở các thời điểm khác nhau, bằng các con đường khác nhau, một đội ngũ đông đảo đại diện giới nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc, chức sắc tôn giáo, công chức, sĩ quan ly khai, học sinh, sinh viên Sài Gòn đã tề tựu đông đủ về căn cứ Trung ương Cục. Qua hai tháng tìm hiểu, thảo luận về đường lối cứu nước dưới ngọn cờ của Đảng, vị trí của Liên minh trong hành trình cùng dân tộc, trong hai ngày 20 và 21-4-1968, tại Bắc Tây Ninh đã chính thức diễn ra Đại hội thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình miền Nam Việt Nam. Đại hội đã ra Tuyên ngôn cứu nướcCương lĩnh hành động của Liên minh. Sau nhiều lần hiệp thương, Đại hội đã chính thức bầu Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch; Phó Chủ tịch: Kỹ sư Lâm Văn Tết, Hòa thượng Thích Đôn Hậu; Tổng Thư ký: Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ; các Phó Tổng Thư ký: Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nhà văn Thanh Nghị, sinh viên Lê Hiếu Đằng; các Ủy viên Thường trực: Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, chuyên viên cao cấp Huỳnh Văn Nghị, nhà báo Trần Triệu Luật.

Sự ra đời của Liên minh đã tạo nên "ngọn cờ hiệu triệu mới đối với các tầng lớp, giai cấp khác nhau ở miền Nam, nhất là giới trí thức. Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Mỹ ở miền Nam đã được mở rộng".

Khi biết tin Liên minh ra đời và công bố Tuyên ngôn cứu nước, chính quyền Sài Gòn vô cùng tức tối, chúng lập tức ra lệnh cho Tòa án quân sự Vùng 3 chiến thuật xử tử hình vắng mặt và tịch thu tài sản của cả 10 vị lãnh đạo Liên minh.
 
2. Sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Trong quá trình bàn và đi đến quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công chiến lược 1968, Bộ Chính trị trình Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 1-1968 thông qua Nghị quyết với tiêu đề Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong Nghị quyết, Trung ương xác định, cùng với tiến trình của cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở miền Nam, "phải nhanh chóng tổ chức chính quyền cách mạng của nhân dân... Ở bên trên, phải kịp thời thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc. Chính phủ Trung ương và chính quyền cách mạng ở các thành phố cần có tính chất liên hiệp rộng rãi, phù hợp với sách lược của mặt trận thứ hai, để có thể tập hợp được tất cả các lực lượng chống Mỹ và Thiệu - Kỳ, đồng thời phải có năng lực lãnh đạo cuộc kháng chiến, cứu nước và làm được nhiệm vụ quản lý hành chính". Đây là văn kiện đầu tiên Trung ương yêu cầu chiến trường chuẩn bị thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời. Đồng thời, Trung ương chủ trương: "Cần chuẩn bị những người tiêu biểu gồm nhiều thành phần để đưa vào chính quyền liên hiệp dân tộc".

Để cụ thể hóa vấn đề chính quyền cách mạng, ngày 21-1-1968, Bộ Chính trị điện cho anh Bảy Cường, anh Năm Công, anh Bảy Tiến, xác định: "Chánh quyền cách mạng sau này ở miền Nam sẽ lấy tên là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa".

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Trung ương, trong tiến trình lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, bên cạnh việc chỉ đạo đấu tranh quân sự, sau khi mặt trận thứ hai ra đời, ngày 4-8-1968, Trung ương Cục điện ra Hà Nội đề nghị Bộ Chính trị thảo luận việc lập Chính phủ liên hiệp. Ngày 8-5-1968, Bộ Chính trị điện cho đồng chí Phạm Hùng yêu cầu chiến trường cần tiếp tục đánh mạnh, làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho ta hơn nữa, theo dõi diễn biến của tình hình quân sự và cuộc đấu tranh ngoại giao sắp tới giữa ta và địch, rồi sẽ tính đến vấn đề lập Chính phủ liên hiệp. Cuối bức điện, Bộ Chính trị nêu rõ chủ trương: "Trong quá trình tiến công và nổi dậy, ta tiếp tục làm thay đổi lực lượng so sánh, đến lúc nào đó ta sẽ vận động lập một Chính phủ liên hiệp bao gồm thành phần thật rộng rãi: Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh, một số người thuộc phái thân Pháp và nếu cần cả một số người thuộc phái thân Mỹ nhưng chủ hòa nữa, thì công thức đó là thuận lợi nhất. Trong tình hình đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiếp tục giữ vị trí và vai trò của mình như hiện nay, buộc Mỹ phải thừa nhận cả Chính phủ liên hiệp, cả Mặt trận Giải phóng để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam".

Từ thời điểm này cho đến cuối năm 1968, Bộ Chính trị và Trung ương Cục không bàn thêm về việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời. Mãi tới tháng 12-1968, Bộ Chính trị mới xem xét tình hình từ khi Mỹ chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc, đánh giá khả năng giải quyết vấn đề miền Nam trong cuối nhiệm kỳ của Giônxơn và đầu nhiệm kỳ của Níchxơn. Bộ Chính trị nhận thấy một vấn đề rất quan trọng khi đó là lập ở Sài Gòn một chính phủ có mục đích thảo luận các vấn đề chính trị với Mặt trận, cùng Mặt trận đi đến thành lập một chính phủ cách mạng, đòi đế quốc Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, đem lại hòa bình thực sự và độc lập dân tộc cho Việt Nam. Vì vậy, ngày 12-12-1968, Bộ Chính trị điện cho đồng chí Phạm Hùng: "Để thúc đẩy đà tan rã của ngụy và tập hợp thêm lực lượng mới, Mặt trận và Liên minh cần tiến hành hiệp thương, đề ra cương lĩnh tối thiểu của Chính phủ liên hiệp lâm thời và tuyên bố sẵn sàng hiệp thương với những người có thiện chí với hòa bình, độc lập".

Nhìn lại một năm liên tiếp tiến công và nổi dậy, quân và dân miền Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn cả về quân sự lẫn chính trị, nhưng cũng bị tổn thất nặng nề. Mặc dù không giành được thắng lợi quyết định như mong muốn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể khuất phục được dân tộc chúng ta trong cuộc chiến tranh này, buộc phải chuyển từ chiến lược "chiến tranh cục bộ" sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", rút dần quân chiến đấu Mỹ về nước, ngồi đàm phán với ta ở Pari nhằm kết thúc chiến tranh. Để phục vụ cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Pari và đấu tranh chính trị ở miền Nam, bước sang năm 1969 là thời điểm chín muồi để thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 11-2-1969, trong bức điện gửi cho Trung ương Cục để bàn bạc, thảo luận về vấn đề quan trọng này, Bộ Chính trị nêu ý kiến:

"- Trong quá trình hình thành mặt trận thứ ba, nên chăng tổ chức hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh để thảo luận về việc lập Chính phủ liên hiệp lâm thời và đề ra cương lĩnh hành động của Chính phủ đó.

Có thể làm hai mức: mức thấp là đề ra cương lĩnh của Chính phủ lâm thời và tiến hành vận động việc lập Chính phủ đó; mức cao là tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời, có cương lĩnh hành động và những người giữ các chức vụ trong Chính phủ đó...

- Nếu định làm mức cao, nghĩa là tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời thì còn phải có sự chuẩn bị tốt về nhân sự; còn phải thăm dò khả năng các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác công nhận Chính phủ đó như thế nào. Phải có kế hoạch vận động chu đáo, bảo đảm có một tác động quốc tế quan trọng khi Chính phủ lâm thời tuyên bố thành lập".

Xem kỹ bức điện này, ta thấy việc thành lập Chính phủ lâm thời, Bộ Chính trị chỉ gợi ý, còn về nhân sự, thời điểm thành lập, bộ máy Chính phủ do Trung ương Cục quyết định cụ thể. Theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường vụ Trung ương Cục đã nhiều lần bàn bạc, thống nhất với các vị lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam để hai bên hiệp thương cử ra Chính phủ lâm thời.

Ngày 7-4-1969, đồng chí Bảy Linh điện báo cáo X2 xin ý kiến về việc thành lập Chính phủ ta ở miền Nam và thời gian đưa Chính phủ ra hoạt động chính thức. Sau đó, ngày 12-5-1969, Trung ương Cục báo cáo Bộ Chính trị lần cuối cùng trước khi thành lập Chính phủ lâm thời.

Trên chiến trường, tại căn cứ Trung ương Cục, đây là những ngày tháng rất khẩn trương, sôi động chuẩn bị cho Đại hội quốc dân miền Nam. Đồng chí Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh trực tiếp chuẩn bị nội dung, nhân sự và tổ chức; Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế hội trường Đại hội và khu lán trại cho các đại biểu khắp nơi về dự; các vị Thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng và lãnh đạo Liên minh hiệp thương chuẩn bị Đại hội. Ngày 6-6-1969, tại khu rừng Tà Nốt - Tà Đạt tại căn cứ Tân Biên - Bắc Tây Ninh đã chính thức diễn ra Đại hội quốc dân miền Nam Việt Nam để long trọng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đại hội diễn ra trong ba ngày (từ 6 đến 8-6-1969), có 72 đại biểu khách mời và 82 đại biểu chính thức đại diện cho các chính đảng, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Đại hội chính thức thông qua Chương trình hành động của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hội đồng cố vấn của Chính phủ có 13 ủy viên, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch; Chính phủ có 25 thành viên do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát lãnh đạo. Ngay sau đó, Trung ương Cục đã ra thông tri gửi các cấp bộ đảng ở miền Nam về việc ra đời của Chính phủ và lãnh đạo công tác tư tưởng mừng Chính phủ cách mạng lâm thời vừa được thành lập.

Trên miền Bắc, ngày 10-6-1969, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã ra Thông tri số 235-TT/TW Về việc hưởng ứng và ủng hộ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gửi đến tất cả các cấp bộ đảng trên toàn miền Bắc và các sứ quán ta ở nước ngoài. Thông tri nêu rõ: "Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng, một tổ chức chính quyền dân tộc, dân chủ và liên hiệp bao gồm các lực lượng yêu nước, có lực lượng cách mạng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng làm nòng cốt, là thành quả cách mạng của quân và dân miền Nam ta trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, đặc biệt là trong hơn một năm tổng tấn công và nổi dậy, là thắng lợi mới của chính sách đoàn kết dân tộc chống Mỹ, cứu nước của Mặt trận Dân tộc Giải phóng" . Về công tác đối ngoại, Ban Bí thư xác định: Cần ra sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa đối với Chính phủ cách mạng lâm thời...; đòi Mỹ phải nghiêm chỉnh nói chuyện với Chính phủ Cách mạng lâm thời, người đại diện chân chính, hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Mặc dù Chính phủ cách mạng lâm thời đã chính thức ra đời nhưng bộ máy còn chưa được hoàn chỉnh. Vì thế, ngày 5-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục mới ra Nghị quyết hoàn chỉnh tổ chức, bộ máy của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, với Hội đồng cố vấn 13 thành viên và Chính phủ cách mạng lâm thời 25 thành viên. "Chính phủ Cách mạng lâm thời, chính quyền của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, là chính quyền của khối đoàn kết toàn dân, bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những nhân sĩ tán thành hòa bình, độc lập, dân chủ, lấy liên minh công nông làm cơ sở dưới sự lãnh đạo của Đảng, được lực lượng vũ trang nhân dân làm hậu thuẫn vững chắc, được các từng lớp nhân dân nhiệt liệt ủng hộ. Đó là thành quả của cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân miền Nam chống lại chính sách cướp nước và bán nước của đế quốc Mỹ và tay sai, là hình ảnh của một nhà nước dân tộc dân chủ thật sự cho cả miền Nam trong tương lai. Nó đại biểu lợi ích tối cao của dân tộc, đại biểu nguyện vọng cơ bản và bức thiết của các từng lớp nhân dân ta ở miền Nam là hoàn thành đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xây dựng một miền Nam Việt Nam hòa bình thật sự, độc lập dân chủ thật sự, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, cải thiện đời sống nhân dân, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước".

Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời trong chiến tranh cách mạng đã đóng góp vô cùng to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 30-4-1975, bằng khát khao hòa bình, sức mạnh của dân tộc đã hội tụ về Sài Gòn - Gia Định, đánh đổ chế độ tay sai của tên sen đầm quốc tế, thu non sông về một mối. Về cơ bản, đến thời điểm này, vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Liên minh, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã hoàn thành và tự động giải thể, hòa chung vào hệ thống chính trị của nước Việt Nam thống nhất. Dù thời gian không dài, nhưng lịch sử của ba tổ chức là bộ phận hợp thành của lịch sử cách mạng miền Nam, của cách mạng Việt Nam trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng oanh liệt.




-----------------------------------------------------------------
1. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục giải thể Khu Sài Gòn - Gia Định lập ra Khu trọng điểm gồm 6 phân khu do đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục trực tiếp làm Bí thư. Các đồng chí Võ Văn Kiệt và Trần Văn Trà làm Phó Bí thư. Khu trọng điểm lập ra Bộ Chỉ huy Tiền phương Bắc và Bộ Chỉ huy Tiền phương Nam trực tiếp chỉ huy các cánh quân đánh vào Sài Gòn.

2. Năm Trường: Mật danh của Trung ương Cục.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #115 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2020, 09:48:55 am »

TỪ "KẾ HOẠCH X" ĐẾN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



TS. NGUYỄN TRUNG NGHĨA
Phòng Nghiên cứu Lịch sử Đảng,
Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc, đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thể hiện một bước chuyển biến chiến lược của cách mạng miền Nam. Chủ trương của Trung ương Đảng về "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" xuất hiện vào giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt", được nung nấu trong suốt "chiến tranh cục bộ", từ đánh thăm dò, "cài thế" đến xây dựng thế và lực mới trên chiến trường miền Nam, là sự nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng của các cấp lãnh đạo để đề ra chủ trương, là sự phát triển của lực lượng chính trị và vũ trang, là sự chuẩn bị cả về con người, vật chất và tinh thần cho bước chuyển chiến lược. Có thể nói, giai đoạn từ khi "Kế hoạch X" được đề ra cho đến khi diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là quá trình dẫn đến sự thay đổi về chất của cách mạng miền Nam.

1. "Kế hoạch X" và sự xác định chủ trương chiến lược về cách mạng miền Nam

Trước cao trào đấu tranh chính trị của nhân dân ta và các chiến thắng của lực lượng vũ trang, từ giữa năm 1964, theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương và dựa trên tình hình thực tế của chiến trường miền Nam, Trung ương Cục đã vạch ra kế hoạch "tổng công kích - tổng khởi nghĩa" với mật danh "Kế hoạch X", nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch giành thắng lợi cuối cùng. Tháng 6-1964, các bộ phận xây dựng kế hoạch này đã được hình thành gồm các đồng chí trong Quân ủy Miền và Chỉ huy trưởng Khu Sài Gòn - Gia Định; đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Cùng lúc đó, Bộ Chính trị quyết định cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương và một số cán bộ cao cấp có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ huy đánh lớn như Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Trần Độ, Đại tá Hoàng Cầm... vào miền Nam.

Tháng 1-1965, Hội nghị Trung ương Cục nhận định: "Chúng ta thấy hình thái đấu tranh giữa ta và địch năm 1964 ở miền Nam bắt đầu có những biến đổi lớn về các mặt chính trị, quân sự, ở đô thị cũng như nông thôn và rừng núi. Nhiều nhân tố mới, nhiều điều kiện mới đã xuất hiện một thời kỳ cách mạng mới rộng rãi hơn, sôi nổi hơn, quyết liệt hơn đã bắt đầu". Hội nghị cũng đã xác định nhiệm vụ trong năm 1965 là: "Lợi dụng thời cơ, tranh thủ thời gian trên cơ sở cách mạng lâu dài, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta hãy đoàn kết một lòng, tập trung lực lượng, kiên quyết đánh địch, nhanh chóng xây dựng lực lượng mình, tạo cho năm 1965 một bước ngoặt trong so sánh lực lượng có lợi cho ta làm cơ sở để xốc tới giành một bước thắng lợi quyết định". Tháng 4-1965, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Nguyễn Văn Linh chủ trì Hội nghị cán bộ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tại Suối Dây (Tây Ninh) nhận định tình hình và quyết định các phương án "Kế hoạch X". Để tăng cường công tác tổ chức, Trung ương Cục quyết định tăng số cấp ủy viên Khu Sài Gòn - Gia Định từ 13 lên 31 đồng chí.

Trong lúc "Kế hoạch X" đang được tiến hành thực hiện thì đến giữa năm 1965, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã quyết định chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" đưa quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Trước tình hình mới, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nhận định: "Việc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam gần 20 vạn quân viễn chinh trong năm 1965 có nghĩa là Mỹ phải thú nhận là 50 vạn quân ngụy không còn có thể đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta, như thế cũng có nghĩa là chiến tranh nhân dân ở miền Nam nước ta đã thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ trong giai đoạn mà chúng lấy quân ngụy làm chỗ dựa chủ yếu". Phương án đánh thắng địch bằng "Kế hoạch X" trong "chiến tranh đặc biệt" đã không còn điều kiện thực hiện nữa. Song, các bước xây dựng lực lượng vẫn tiếp tục được tiến hành nhằm phục vụ yêu cầu mới của cách mạng, tạo những tiền đề vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo, mà trong đó quan trọng nhất là chuẩn bị cho bước chuyển chiến lược của cách mạng miền Nam khi thời cơ đến.

2. Xây dựng lực lượng, đánh thắng các cuộc phản công mùa khô của Mỹ, tạo thế và lực mới trên chiến trường miền Nam (1965 – 6-1967)

Giai đoạn này chỉ hơn hai năm, nhưng đây chính là một trong những giai đoạn ác liệt và là giai đoạn cách mạng miền Nam chuyển biến mạnh mẽ cả về quân sự và đấu tranh chính trị. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của đấu tranh chính trị tại cả nông thôn lẫn thành thị, trong đó trọng tâm là thành thị; là sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, sự vận dụng nhuần nhuyễn ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược.

Về quân sự, lực lượng vũ trang Miền đã có bước phát triển mạnh mẽ; đặc biệt là sự hình thành của các sư đoàn chủ lực; ngày 2-9-1965, tại Chiến khu D, Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực đầu tiên của Miền được thành lập trên cơ sở 2 trung đoàn đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu là Q761 và Q762. Tiếp đó, ngày 23-11-1965, Sư đoàn 5 ra đời. Thế và lực của chúng ta trên chiến trường đã có sự thay đổi một cách căn bản, ta chuyển từ các trận đánh nhỏ cấp tiểu đoàn lên các trận đánh lớn cấp trung đoàn và cấp sư đoàn 1. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Đồng Xoài (1965), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã nêu rõ: "Hai quả đấm của chúng ta ở hai vùng chiến lược chỉ trong vòng 9 tháng thôi, về số lượng hai quả đấm đó đã tăng gấp đôi. Như thế chúng ta đã mạnh hơn trước rất nhiều. Gấp đôi bây giờ lại có chất lượng khá, có kinh nghiệm".

Trong tổng công kích và tổng khởi nghĩa, nếu như sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang Miền nhằm đảm bảo mục tiêu tổng công kích thì công tác xây dựng lực lượng chính trị đô thị nhằm đảm bảo mục tiêu tổng khởi nghĩa được đặt ở vị trí hàng đầu trong chỉ đạo của Trung ương Đảng cũng như Trung ương Cục. Khu Sài Gòn - Gia Định tiếp tục thực hiện những bước phác thảo đã được chuẩn bị từ trước, tiếp tục bố trí lại lực lượng, xây dựng các lực lượng mũi nhọn, chuẩn bị các tiền đề để thực hiện tổng kích, tổng khởi nghĩa. Từ sau Hội nghị Suối Dây, thực hiện việc xây dựng lực lượng cách mạng theo sự chuyển hướng của Trung ương Cục, thực lực cách mạng của Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định được phát triển khá nhanh. Từ tháng 4-1965 đến tháng 4-1966, đảng viên, đoàn viên, hội viên tăng rất mạnh; quần chúng cảm tình tích cực cũng tăng lên nhiều. Lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển nhanh. Trong thư gửi cho Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tháng 1-1967, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra rằng: "Đối với cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ, thành thị là căn cứ, là hậu phương quan trọng. Hơn nữa, dù liều lĩnh và trắng trợn, đế quốc Mỹ cũng không thể không dựa vào ngụy quyền. Vì vậy, thành thị còn là hang ổ, là đầu não của ngụy quân, ngụy quyền. Đứng về quân sự mà xét, không đánh vào căn cứ, vào hậu phương, vào đầu não của địch thì không thể giành được thắng lợi cuối cùng". Trong giai đoạn này, nội dung, hình thức phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở nội thành phát triển ngày càng đa dạng và phong phú; phong trào học sinh, sinh viên ngày càng phát huy mạnh mẽ, phong phú, đa dạng hòa nhịp với cuộc đấu tranh không ngừng của các tầng lớp nhân dân; các phong trào đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm phụ nữ, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam trước ảnh hưởng của văn hóa thực dân mới và lối sống sa đọa kiểu Mỹ đã thu hút hàng chục vạn quần chúng tham gia, với ý thức độc lập dân tộc và tự do dân chủ ngày càng cao.

Thắng lợi trong cuộc phản công mùa khô 1965-1966, đã tạo nhiều chuyển biến tích cực cho tình hình cách mạng miền Nam, quân và dân ta đã đánh và đã thắng Mỹ trên chiến trường, phong trào chính trị và quân sự phát triển mạnh mẽ tại các đô thị. Ngày 1-5-1966, Thường vụ Trung ương Cục đã ra chỉ thị về phong trào đấu tranh ở đô thị, trong đó Trung ương Cục dự đoán: "Tình hình rối loạn hiện nay của địch không phải là một hiện tượng khủng hoảng bình thường mà là một bước chuyển biến quan trọng mở ra cho thời kỳ địch khủng hoảng mới toàn diện, nghiêm trọng, kéo dài không thể khắc phục được". Tuy nhiên, Trung ương Cục cũng xác định: "Cần nhận rõ hiện nay chưa phải lúc quần chúng có thể khởi nghĩa giành chính quyền".

Đến lúc này, rõ ràng thế và lực trên chiến trường và tình hình đô thị không cho phép ta thực hiện phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa, song cách mạng miền Nam đã có một sự phát triển vượt bậc cả về lực lượng chính trị lẫn quân sự. Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) ra Nghị quyết nhấn mạnh: "Chủ trương của Đảng ta là trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài, cần phải động viên và tập trung lực lượng của cả nước, cố gắng cao độ, đập tan âm mưu của địch; giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn; đồng thời tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước".

Tiếp sau đó, ta lại giành thắng lợi vang dội trong cuộc phản công mùa khô 1966-1967 của địch. Tháng 5-1967, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ năm ra Nghị quyết nêu rõ: "Về công tác đô thị: đây được xem là đặc biệt quan trọng trong thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương. Nhiệm vụ cụ thể là chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương: nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương vẫn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, đồng thời với đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực, thực hiện đánh vừa và đánh lớn, tiêu diệt các đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược của quân Mỹ cũng như quân Sài Gòn, đánh thắng âm mưu "tìm diệt" của địch.

3. Tập trung toàn lực, chuẩn bị cho bước chuyển chiến lược trên chiến trường miền Nam (6-1967 − 1-1968)

Đến nửa sau năm 1967, dù đã nỗ lực thực hiện hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" trên quy mô lớn, quân đội Mỹ vẫn không thể thay đổi được cục diện của cuộc chiến tranh và ngày càng sa lầy vào cuộc chiến. Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã phát triển tới mức rất cao nhưng bị quân và dân ta đánh bại một bước rất quan trọng, chúng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường, tình hình đó đã cho quân và dân ta những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, mở rộng thế làm chủ trên những vùng rộng lớn ở nông thôn đồng bằng, rừng núi. Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Hội nghị nhận định: "Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược". Sau khi nghiên cứu những ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường nhất là Bộ Chỉ huy Miền, Khu 5 về khả năng đánh thành phố và khởi nghĩa, đồng thời phân tích âm mưu cơ bản của Mỹ và những thất bại của chúng về quân sự, chính trị. Bộ Chính trị quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp bách, đòi hỏi quân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc nỗ lực vượt bậc với những cố gắng cao nhất. Sau khi thảo luận kỹ, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo đã được Quân ủy Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam mở các cuộc tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cách mạng chống phá "bình định" của địch trên khắp ba vùng chiến lược... Chiến sự sôi động và quyết liệt nhất vào mùa đông 1967 là chiến dịch tiến công Bình Long - Phước Long từ ngày 27-10 đến ngày 5-12 và Chiến dịch Đắk Tô 1 ở Bắc Tây Nguyên từ ngày 3-11 đến ngày 22-11.

Cùng lúc đó, trên cả hai miền Nam - Bắc, công tác chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra rất khẩn trương. Được sự chi viện vật chất, tăng cường về lực lượng của hậu phương lớn miền Bắc, các đảng bộ và bộ chỉ huy các chiến trường miền Nam đã tích cực động viên lực lượng tại chỗ vào Quân giải phóng, gấp rút củng cố, huấn luyện, nâng cao chất lượng chiến đấu cho các đơn vị. Từ đồng bằng sông Cửu Long cho đến Khu 5 và Tây Nguyên, hàng loạt các đơn vị chiến đấu mới được thành lập. Bên cạnh việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị quần chúng, các cơ sở cách mạng, các tổ chức đoàn thể được chấn chỉnh chặt chẽ hơn. Ở đô thị, nhất là tại các điểm Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng cường, nhiều tổ chức đảng cũng được củng cố. Công tác hậu cần, tiếp tế, ém quân, cất giấu vũ khí, tích trữ lương thực, thực phẩm, tải thương, cứu thương... cũng được chuẩn bị chu đáo. Đối với các mục tiêu then chốt nội đô, việc xác định bố trí, phân công mũi hướng tiến công đã được quán triệt đến từng đơn vị.

Nhìn chung, trên toàn chiến trường, cho đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy về cơ bản đã hoàn thành. Đón nhận và hiện thực hóa Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14, khóa III (1-1968), quân và dân trên các chiến trường, các hướng trọng điểm sẵn sàng chờ "giờ G" giáng một đòn mạnh mẽ và bất ngờ xuống các trung tâm đầu não của địch ở các thành phố, thị xã, quyết giành thắng lợi cao nhất theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương.
Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra trên toàn miền Nam, giáng một đòn chí tử vào tham vọng xâm lược và ý đồ leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải từng bước rút quân về nước và ngồi vào bàn đàm phán với ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.



----------------------------------------------------------------
1. Trận Bàu Bàng ngày 12-11-1965 được xem là trận đánh cấp sư đoàn đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tập kích Lữ đoàn 3 bộ binh, Sư đoàn 1 Mỹ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #116 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2020, 09:56:32 am »

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI



TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền - Ban Tuyên giáo Trung ương


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một đòn sấm sét đánh vào sào huyệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đánh dấu bước ngoặt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, buộc địch phải chấp nhận đàm phán với ta về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam. Làm nên thắng lợi to lớn, vẻ vang này có sức mạnh tổng hợp trên mọi mặt trận, mọi lĩnh vực: quân sự, chính trị, ngoại giao... trong đó có đóng góp quan trọng của công tác tư tưởng - bộ phận rất quan trọng không thể tách rời trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lĩnh vực công tác tư tưởng, đó là:

Một là, công tác tư tưởng đã tập trung xây dựng, giáo dục con người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Chuyển sang "chiến tranh cục bộ", đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược hai gọng kìm "vừa tìm diệt, vừa bình định", dùng những thủ đoạn tác chiến mới như "hỏa lực mạnh, cơ động cao, bước nhảy sâu, quây vùng rộng", để "tìm diệt" chủ lực ta với tham vọng "bẻ gãy xương sống Việt cộng" và "chụp bắt" cơ quan đầu não kháng chiến của ta ở miền Nam. Ở miền Bắc, chúng dùng không quân, hải quân đánh phá với mưu đồ đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Chúng còn kết hợp hoạt động ngoại giao xảo quyệt, lừa bịp dư luận, hù dọa các nước hòng cô lập, đè bẹp ta. Thế nhưng, tất cả sức mạnh tổng hợp của đế quốc Mỹ đã không khuất phục được ý chí kiên cường và lòng quả cảm của con người Việt Nam. Trong Chỉ thị ngày 26-6-1966 của Thường vụ Trung ương Cục "Về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng" đã nhấn mạnh: "Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt thành công tác trọng tâm hàng đầu, nhằm xây dựng con người quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược để cứu nước, phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam". Và chính những con người ấy đã làm nên chiến thắng: "Quyết định thắng bại của chiến tranh do nhiều nhân tố, nhưng nhân tố cơ bản nhất là con người... Địch thua ta, chủ yếu vì nó không đối phó nổi với hàng triệu bộ óc không bao giờ ngừng tìm tòi, cách tốt nhất để đánh bại chúng trong mọi tình huống, đánh chúng bằng mọi phương tiện, theo muôn hình vạn trạng".

Chỉ đạo và thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ được coi là những người thông minh nhất, những nhà khoa học tài giỏi nhất, là tinh túy nhất của Hoa Kỳ, nhưng cuối cùng họ đã thua con người Việt Nam. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô L.Brêgiơnep đã viết: "Toàn thể những người tiến bộ trên quả đất kính trọng sâu sắc tinh thần anh dũng, ý chí kiên cường và sự hy sinh quên mình của những người con vinh quang của nhân dân Việt Nam ở miền Bắc và miền Nam". Chính người Mỹ cũng phải thừa nhận: "Lịch sử phải đánh giá họ (người Việt Nam - miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người". Trong khi đó, kết thúc cuộc chiến tranh, tướng Mỹ Taylo đã phải chua xót thừa nhận: "Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này".

Làm nên điều kỳ diệu ấy là do Đảng ta, ngay sau khi giành được độc lập, nhất là trong kháng chiến, đã quan tâm chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, rèn luyện, đào tạo những con người Việt Nam phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng xả thân vì nước, vì dân. Thấm nhuần mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc tổng tiến công, mỗi người dân đều tích cực tham gia bằng những nhiệm vụ và việc làm cụ thể, góp phần làm nên chiến thắng. Nhiều tấm gương anh dũng đã xuất hiện, tiêu biểu là 17 chiến sĩ Biệt động Sài Gòn trong trận đánh toà Đại sứ Mỹ, hơn 6 tiếng đồng hồ đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ, đã gây tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.

Hai là, xây dựng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trải qua thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam (1955-1958), Đảng ta đã tìm ra con đường cách mạng bạo lực, thực hiện bằng hai lực lượng cơ bản chính trị và vũ trang, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từng bước tiến lên, khơi dậy niềm tin cho đồng bào, chiến sĩ cả nước. Sau các chiến thắng liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch và đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ trên miền Bắc, niềm tin và khí thế đánh Mỹ ngày càng dâng cao. Lúc này, địch còn trên 1 triệu quân và một tiềm lực chiến tranh lớn, nhưng đội quân đó đã liên tiếp thất bại về chiến lược, chiến thuật, quân số tuy đông nhưng tinh thần bạc nhược và bắt đầu suy sụp. Mâu thuẫn nội bộ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng tăng, phải đương đầu với những khó khăn lớn về chính trị, quân sự và tài chính. Nhận định tình hình địch - ta, thuận lợi - khó khăn, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng (1-1968) phát động Tổng tiến công và nổi dậy với quyết tâm: "Kiên quyết tiến công, liên tục tiến công... kiên quyết chống trả và bẻ gãy các cuộc phản kích của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất". Theo chủ trương đó, đồng bào và chiến sĩ miền Nam cùng với sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đã đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy làm nên những chiến công vang dội, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến. Chính niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên sức mạnh tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Sống ngay trong lòng địch, bị địch khủng bố dã man, nhưng nhân dân miền Nam vẫn một lòng tin Đảng, đi theo Đảng là bởi Đảng ta đã đề ra đường lối cứu nước đúng đắn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đồng thời, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam. Đó cũng là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, do đó cả nước đã chung sức, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra trong mọi giai đoạn cách mạng.

Ba là, triển khai công tác tư tưởng một cách chủ động, linh hoạt, sáng tạo; phát huy sức mạnh của các binh chủng, các lực lượng tuyên truyền, cổ động tạo nên vũ khí tinh thần sắc bén trên mặt trận chống Mỹ, cứu nước.

Tạo nên vũ khí tinh thần là cả một quá trình bồi dưỡng, rèn luyện trong suốt chặng đường dài kháng chiến. Vũ khí ấy được hun đúc thông qua thực tiễn của cuộc chiến tranh, qua các lời hiệu triệu của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các phong trào thi đua yêu nước với mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi khẳng định "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" cổ vũ nhân dân cả nước nêu cao ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Cũng trong thời gian này, cả nước dấy lên các phong trào thi đua: "Phụ nữ ba đảm đang", "Thanh niên ba sẵn sàng", "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng", "Tiếng hát át tiếng bom", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến"... Tên của các phong trào thi đua đó cũng là những khẩu hiệu hành động trong suốt cuộc kháng chiến. Riêng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Trung ương Đảng, Trung ương Cục và các cấp ủy đảng đã đề ra những khẩu hiệu sát với thực tiễn của từng thời điểm, từng địa phương, đơn vị, có sức cổ vũ, thúc giục toàn dân tham gia kháng chiến, như: "Độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ cút về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam"; "Đập tan ngụy quyền các cấp và các tổ chức chính trị phản động của địch, lập chính quyền cách mạng"; "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, giành chính quyền về tay nhân dân"; "Tất cả để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược"; "Đánh Mỹ, lật ngụy, giành chính quyền về tay nhân dân"; "Tranh thủ thời cơ, thừa thắng xông lên, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và bọn tay sai, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân"...

Trên lĩnh vực tuyên truyền văn hóa, văn nghệ, lực lượng văn nghệ sĩ luôn xác định: Tổ quốc, nhân dân và cách mạng là đối tượng phục vụ cao quý nhất; văn hóa và tư tưởng là chiến trường; tác phẩm văn học, nghệ thuật là vũ khí sắc bén trên mặt trận chống quân thù. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, Ban Tuyên huấn Khu 5 cùng với cán bộ tuyên huấn được tăng cường từ miền Bắc, đã tổ chức lực lượng cán bộ, kỹ thuật viên, phóng viên, quay phim, họa sĩ, các đội tuyên truyền vũ trang đồng loạt tham gia cuộc tổng tiến công, vừa trực tiếp chiến đấu vừa ghi chép lại những tư liệu, hình ảnh sống động trên chiến trường, đưa tin chiến thắng tới nhân dân cả nước, kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Các đội văn công tăng cường ra tuyến lửa phục vụ đồng bào và chiến sĩ ngay bên chiến hào còn khét mùi thuốc súng. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ trong dịp này như: Truyện Từ tuyến đầu Tổ quốc, Sống như anh; bài thơ Quê hương của Giang Nam; bài hát Giải phóng miền Nam của Huỳnh Minh Siêng; bài hát Chiếc gậy Trường Sơn của Phạm Tuyên; bài hát Xuân chiến khu, Bài ca may áo...

Bốn là, thường xuyên nắm, phân tích và dự báo tình hình tư tưởng địch, ta; kịp thời định hướng dư luận xã hội trong nước, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đã dự kiến sớm và đúng xu hướng phát triển của chiến tranh, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, xác định đúng hướng tiến công là thành thị, sáng tạo cách đánh mới bất ngờ giành thắng lợi oanh liệt, tạo được bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng mắc một số khuyết điểm lớn, đã được tổng kết đánh giá sau cuộc chiến tranh. Ở góc độ công tác tư tưởng, có thể nhận thấy một số khuyết điểm sau: còn chủ quan trong việc đánh giá tình hình tư tưởng địch, ta trong tương quan lực lượng, cho nên đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó. Việc nắm và phân tích diễn biến tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, các tầng lớp nhân dân trong tiến trình cuộc tổng tiến công chưa sâu sát, cho nên chưa kịp thời phát hiện những khó khăn của ta, lợi thế và những cố gắng mới của địch. Việc dự báo tình hình còn chậm cho nên chưa kịp thời tham mưu, đề xuất, tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, đánh giá lại tình hình để chuyển hướng kịp thời chiến lược. Sau tổng tiến công, ta đã gặp khó khăn trong một thời gian dài khoảng 2 năm, địch phản công quyết liệt, hủy diệt tàn khốc, gây cho ta những tổn thất nặng nề, mất dân, mất đất, thế và lực tiến công suy giảm. Những mất mát này vẫn còn là nỗi ám ảnh, suy tư bên lề chiến thắng.

Đây cũng là bài học sâu sắc cho các giai đoạn sau của cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thống nhất đất nước. Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu, rộng trong bối cảnh thế giới có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Công tác tư tưởng cần phát huy vai trò "đi trước", "mở đường", đổi mới nội dung, phương thức công tác, thường xuyên theo dõi nắm chắc, phân tích, dự báo tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tình hình "đối tượng", "đối tác" trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kịp thời định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới, vấn đề bức xúc phát sinh. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận, nhất là trong lĩnh vực chiến tranh nhân dân, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phê phán nhận thức lệch lạc, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã lùi xa 50 năm, nhưng những thắng lợi và giá trị lịch sử của sự kiện đó vẫn luôn ngời sáng. Đây là dịp để tổ chức tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ về thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí tự lực, tự cường, sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #117 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2020, 10:01:44 am »

THÀNH ĐOÀN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT QUANG TRUNG - NHÌN LẠI VÀ SUY NGHĨ



PHẠM CHÁNH TRỰC
Nguyên Phó Bí thư Khu đoàn Sài Gòn - Gia Định thời kỳ Mậu Thân


Thất bại của hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đã đẩy chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ vào tình thế bị động và thất bại trên cả ba vùng chiến lược.

Tháng 10-1967, Trung ương Đảng quyết định đưa cách mạng miền Nam chuyển sang thời kỳ mới: Đấu tranh giành thắng lợi quyết định. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định mở hội nghị để bàn việc thi hành nghị quyết của Trung ương Cục và quyết định thành lập Khu trọng điểm do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Kiệt là Phó Bí thư, chuẩn bị cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Sau Hội nghị Khu ủy, Đoàn cán bộ Khu đoàn 1 được triệu tập về căn cứ của Trung ương Cục quán triệt Nghị quyết Quang Trung.

Tại thành phố, vào những tháng cuối năm 1967, cả Sài Gòn - Gia Định sôi sục trong không khí đấu tranh chống Mỹ - Thiệu. Tháng 9-1967, nhằm "tô son trát phấn" cho chế độ tay sai, ngụy quyền đã bày ra cuộc bầu cử tổng thống Sài Gòn. Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, sau thời gian đấu đá nhau, được chủ Mỹ dàn xếp, đã quay ra đàn áp tàn bạo các lực lượng tiến bộ, yêu nước và trắng trợn chà đạp các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Cuộc bầu cử đã diễn ra như trò hề độc diễn, phô bày trắng trợn tính chất phản động phát xít của chúng, càng làm bùng cháy ngọn lửa căm giận trong các tầng lớp đồng bào. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Sài Gòn - Gia Định, mà đội quân xung kích là lực lượng thanh niên, sinh viên, học sinh dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, nhân thời kỳ này đã đẩy mạnh hoạt động.

Sau ngày 3-9-1967, phong trào chống Thiệu - Kỳ đã lan rộng ra khắp thành phố với những cuộc đấu tranh khá quyết liệt, dưới nhiều hình thức phong phú, đặc biệt diễn ra sôi nổi trong các trường đại học. Từ ngày 9 đến ngày 21-9-1967, hàng ngàn sinh viên các trường Văn, Y, Dược, Khoa học, Sư phạm... đã xé bài thi, tổ chức hội thảo, mít tinh bãi khóa, bãi thi... phản đối bầu cử gian lận, tố cáo Thiệu - Kỳ độc tài phát xít và lên án sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam.

Trước phong trào đấu tranh sôi nổi trong các trường đại học, tháng 10-1967, Khu ủy chỉ thị Khu đoàn cần phải kìm chế phong trào quần chúng, không để lực lượng nội thành bung ra sớm quá. Đồng chí Hồ Hảo Hớn 2 được lệnh cùng các đồng chí Phan Văn Dinh (Chín Kế), Bí thư Đoàn ủy sinh viên và Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết), Phó Bí thư Đoàn ủy sinh viên trở vào nội thành trực tiếp chỉ đạo Đảng đoàn Tổng hội Sinh viên Sài Gòn.

Căn cứ chính của Thành đoàn chuyển về tỉnh Bến Tre, trở thành nơi tập trung các cánh Thành đoàn để rèn luyện chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Cán bộ, cơ sở bí mật của Thành đoàn từng đợt khẩn trương quán triệt Nghị quyết Quang Trung, bàn thảo kế hoạch hành động và huấn luyện cấp tốc sử dụng các loại vũ khí.

Tại đây, Thành đoàn đã bố trí lại toàn bộ nhân sự thành ba lực lượng phù hợp yêu cầu chỉ huy chiến dịch:

- Lực lượng chính trị công khai, bao gồm các tổ chức và cơ sở trong phong trào công khai như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, các đoàn văn nghệ, công tác xã hội, báo chí, các ủy ban tranh đấu...

- Lực lượng chính trị vũ trang, bao gồm cơ sở bí mật, các tổ chức bán công khai, và các tổ, đội vũ trang tuyên truyền.

- Lực lượng vũ trang biệt động, bao gồm lực lượng Biệt động Thành đoàn và các đội vũ trang của các đoàn ủy.

Rạng sáng ngày 31-1-1968 (tức mùng 2 Tết Mậu Thân), Ban Thường vụ Thành đoàn dưới sự chủ trì của đồng chí Phan Chánh Tâm quyết định huy động toàn bộ lực lượng cơ sở chính trị và vũ trang tuyên truyền tập hợp được vào khu vực Bàn Cờ, Vườn Chuối phát động quần chúng nổi dậy làm chủ. Cán bộ đoàn vào từng nhà dân, thông báo tin Quân giải phóng đã về thành phố, kêu gọi đồng bào ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Nhằm tập dượt lực lượng quần chúng chuẩn bị nổi dậy phối hợp với mũi tấn công vũ trang, Ban Thường vụ Thành đoàn chủ trương tổ chức các cuộc tập hợp quần chúng thanh niên với quy mô hàng vạn người. Đêm văn nghệ mừng Tết Quang Trung do Tổng hội Sinh viên và Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn phối hợp tổ chức vào ngày 26-1-1968 với sự tham gia của 21 phân khoa đại học, 53 trường trung học và các đoàn văn nghệ sinh viên, học sinh tại sân trường Quốc gia Hành chính Sài Gòn, đã quy tụ trên 10.000 thanh niên, sinh viên, học sinh và đồng bào. Mọi người đã hát vang những bài hát của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và các nhạc sĩ phong trào như "Lên đàng", "Tổ quốc ơi ta đã nghe", "Người đợi người", đặc biệt là ca nhạc kịch "Hội nghị Diên Hồng", biểu thị khí thế sôi sục cách mạng của tuổi trẻ Sài Gòn - Gia Định đi vào giai đoạn tổng tiến công của cách mạng miền Nam.

Đội vũ trang Nguyễn Văn Trỗi của Thành đoàn, thuộc cánh Thanh niên công nhân lao động, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Bình, bắt được liên lạc với Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Trung đoàn 2 tấn công trại cảnh sát dã chiến ngụy tại Trường đua Phú Thọ, Trung tâm Chiêu hồi khu vực Vườn Lài, chiếm lĩnh vùng Bình Thới, phát động quần chúng nổi dậy làm chủ trong cả một khu vực rộng lớn các khu xóm lao động từ Bình Thới, Phú Thọ, Trần Hoàng Quân (nay là Nguyễn Chí Thanh), Chí Hòa, Vườn Lài, Sư Vạn Hạnh, Ngã Bảy...

Tổ giao liên trinh sát Thành đoàn dẫn đường cho cánh quân của tiểu đoàn mũi nhọn Quân khu Sài Gòn - Gia Định gồm các đồng chí Nguyễn Thị Thu Vân (Bảy Thủy), Hai Thủy, Chín Phương và em Nguyễn Kiến Quốc (Bé Đào), đã cùng bộ đội bám trụ chống địch càn quét.

Ngày 5-5-1968, đợt 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, các lực lượng vũ trang biệt động, vũ trang tuyên truyền Thành đoàn tiếp tục ra quân. Hàng trăm vụ tuyên truyền xung phong, treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn cách mạng trong các khu lao động Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Trương Minh Giảng, Phú Nhuận, Cầu Tre... đã duy trì thế đứng chân của Quân giải phóng trong lòng thành phố, buộc địch phải ra tay đối phó.

Sau thời gian lúng túng ban đầu, địch xoay ra phản kích. Trước tình hình trên, tập thể Thường vụ Thành đoàn đã quyết định tổ chức công khai cứu trợ đồng bào lánh nạn chiến tranh, tiếp tục duy trì lực lượng đã tập hợp, khẩn trương nối liên lạc với chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Tiền phương.

Từ chủ trương của Đoàn, Tổng hội Sinh viên, Hội đồng đại diện sinh viên Sài Gòn đã quyết định thành lập Ủy ban Thanh niên, Sinh viên, Học sinh cứu trợ đồng bào bị nạn với khẩu hiệu "tay nắm, tay che" do anh Nguyễn Thanh Công làm Chủ tịch, Ủy ban, hình thành Trung tâm cứu trợ đồng bào đầu tiên tại số 4 Duy Tân. Sau đó Ủy ban đã tiếp tục triển khai thêm các trung tâm cứu trợ khác tại trường Phan Đình Phùng, Viện Ung thư Gia Định, Trường trung học Lê Văn Duyệt, tổ chức phân phối gạo, thực phẩm, khám bệnh, phát thuốc giúp đỡ đồng bào. Các trường trung học đã thành lập Văn phòng liên lạc học sinh do đồng chí Hoàng Đôn Nhật làm Tổng Thư ký và lập Đoàn công tác lưu động đến tận các vùng xảy ra chiến sự, giúp đồng bào sửa chữa, dọn dẹp nhà cửa bị bom đạn Mỹ tàn phá. Cùng với sinh viên, học sinh, thanh niên, công nhân lao động thành phố cũng tích cực đến tham gia công tác tại các trung tâm cứu trợ. Qua đó, nhiều thanh niên đã được Đoàn giáo dục, giác ngộ cách mạng, trở thành cán bộ, đoàn viên, cơ sở đoàn.

Phong trào thanh niên cứu trợ đồng bào bị nạn đã được duy trì đến sau đợt 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, mở rộng thêm ở các điểm Pétrus Ký, Minh Phụng (Quận 11), Phạm Thế Hiển (Quận 8 )... tập hợp thường xuyên gồm 5.000 thanh niên, sinh viên, học sinh tổ chức các hoạt động phục vụ quần chúng, sinh hoạt báo chí, văn nghệ lành mạnh, tiến bộ. Đây còn là nơi liên lạc, ém quân, nơi chứa cán bộ ta đi lại hoạt động trong nội thành. Trung tâm cứu trợ tại đường Minh Phụng (Quận 11) là nơi tiếp tế, nuôi giấu một số anh em bộ đội bị thương, được sự che chở đùm bọc của đồng bào, sau đó, cơ sở ta đã liên lạc với bên ngoài đưa các đồng chí về đến đơn vị an toàn.

Thắng lợi của Đoàn và phong trào thanh niên thành phố trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là thắng lợi nhiều mặt: vừa chủ động góp phần tiến công quân thù, vừa phát triển được phong trào và tổ chức, lực lượng. Đồng thời, Thành đoàn đã tiếp tục duy trì thế trận tấn công địch khi Quân giải phóng đã rút đi, bằng cả vũ trang "nổ to, cháy lớn, tắc nghẽn, tối om" và đấu tranh chính trị ngay trong nội thành. Với những thành tích xuất sắc đó, Thành đoàn và phong trào thanh niên Sài Gòn - Gia Định đã vinh dự được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương Thành đồng hạng Nhất; các lực lượng vũ trang Thành đoàn được Thành ủy trao tặng danh hiệu "Trung đoàn Thanh niên Cận vệ Sài Gòn - Gia Định".

Tuy nhiên, nhìn chung Thành đoàn chưa đưa được phong trào thanh niên lên cao trào để có thể lôi cuốn được các giới, các tầng lớp đồng bào thành phố tham gia làm chủ các khu xóm lao động theo kế hoạch đã được chuẩn bị, mà chỉ tập trung khu trọng điểm là Bàn Cờ - Vườn Chuối. Phong trào đấu tranh của lực lượng chính trị các cánh Liên quận, các đoàn thể và các ngành cũng tập trung chủ yếu ở cơ sở và còn phân tán, thiếu phối hợp thành phong trào quần chúng toàn thành phố tấn công trực diện chính quyền Trung ương Sài Gòn.

Riêng lực lượng vũ trang Biệt động Thành đoàn chưa hoàn thành nhiệm vụ làm thê đội 2 cho Biệt động Quân khu tại các mục tiêu đã được phân công, do không nhận được lệnh nổ súng ngày N giờ G theo kế hoạch. Nhưng những tổ, đội của lực lượng Biệt động Thành đoàn đã linh hoạt xuất kích ở nhiều nơi trong thành phố, như tham gia cùng địa phương diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ ở cơ sở, hoặc phối hợp cùng các tiểu đoàn mũi nhọn tiến quân từ vùng ven đô vào trung tâm thành phố, hoặc trực tiếp tấn công một số đơn vị quân đội địch.

Kỷ niệm 50 năm Mậu Thân 1968, sâu thẳm trong trái tim, trong tâm hồn mỗi chúng ta còn in đậm hình bóng đồng đội, đồng chí và đồng bào ngàn lần yêu quý và khâm phục.
 



---------------------------------------------------------------
1. Gồm Ban Chấp hành Khu đoàn, lãnh đạo các đoàn ủy Thanh niên công nhân lao động, học sinh, sinh viên, Ban Mặt trận - Trí thức trẻ, lãnh đạo Văn phòng, các ban tham mưu, nghiệp vụ, Ban Chỉ huy lực lượng vũ trang Biệt động và An ninh vũ trang Khu đoàn cùng các Phân khu đoàn Bình Tân (Bình Chánh - Tân Bình), Thủ Đức, Dĩ An, Nhà Bè (riêng Phân khu đoàn Củ Chi và Hóc Môn - Gò Vấp do Huyện ủy Củ Chi và Gò Môn chỉ đạo).

2. Nhưng khi vào đến thành phố thì đồng chí Hồ Hảo Hớn bị một tên chiêu hồi nhìn mặt và địch đã bắt đồng chí đem về bốt Bà Hòa (Quận 5) tra tấn dã man. Đồng chí Hồ Hảo Hớn đã dũng cảm chịu mọi cực hình tra tấn của địch, không hé răng khai báo một lời, kiên cường bảo vệ Nghị quyết Quang Trung và toàn bộ cơ sở nội thành và hy sinh anh dũng, nêu gương bảo vệ khí tiết của người cộng sản trung kiên, bất khuất.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #118 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2020, 10:08:30 am »

PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



TS. NGUYỄN THỊ HOA XINH
Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh,
Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh


50 năm đã trôi qua, cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định, trở thành biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách kiên cường và sức mạnh sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam; đồng thời, có tầm vóc lịch sử to lớn, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.

Những địa danh, địa điểm gắn với những sự kiện diễn ra trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều. Đó là nơi phát lệnh tiến công; nơi tập kết lực lượng, trạm liên lạc; nơi cất giấu vũ khí, lương thực, cứu chữa thương binh; nơi diễn ra các trận đánh anh dũng của quân và dân ta;... đã trở thành những di tích lịch sử - là những "địa chỉ đỏ" để thế hệ hôm nay "về nguồn", từ đó thêm hiểu, trân trọng truyền thống đấu tranh oai hùng của cha anh. Trong bài viết này, chúng tôi xin được đề cập đến một số địa danh, di tích tiêu biểu như:

* Tòa Đại sứ Mỹ (số 4 đường Lê Duẩn, phường Bến Nghé, quận 1)

Tòa Đại sứ Mỹ là cơ quan đầu não chỉ đạo trực tiếp toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam; nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam. Tòa Đại sứ Mỹ, một pháo đài kiên cố, niềm tự hào của quân đội Mỹ - nơi được coi là "bất khả xâm phạm", "an ninh nhất" và là biểu tượng của nước Mỹ ở Việt Nam. Tòa Đại sứ Mỹ cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Sài Gòn - Gia Định từ năm 1967 đến ngày 30-4-1975.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Tòa Đại sứ Mỹ là một trong những mục tiêu trọng điểm tấn công của ta. Mặc dù chuẩn bị gấp rút nhưng các chiến sĩ của Đội 11 Biệt động Thành Sài Gòn - Gia Định đã chiến đấu với tinh thần quyết tử, khiến kẻ thù phải hoảng sợ. Tuy chỉ chiếm giữ được Tòa Đại sứ trong hơn 6 giờ, nhưng trận đánh đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, tại Tòa Đại sứ Mỹ đã diễn ra một số sự kiện, đánh dấu thất bại thảm hại cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đó là cuộc tháo chạy hỗn loạn xảy ra trong hai ngày 28 và 29-4-1975 của người Mỹ và tay sai; Đại sứ Graham Martin ôm lá cờ Mỹ, leo lên chiếc trực thăng Lady Ace 09 rời Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút ngày 30-4-1975...
Hiện nay, Tòa Đại sứ Mỹ đã bị phá bỏ, nhưng cạnh đó, một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi bản anh hùng ca của các chiến sĩ biệt động "vị quốc vong thân".

Tòa Đại sứ Mỹ được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 77A/VHQĐ, ngày 25-6-1976.

* Địa đạo Củ Chi (ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi)

Địa đạo Củ Chi ra đời khoảng năm 1947-1948 ở hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Củ Chi phát triển nhanh chóng, nếu tính từ năm 1961 đến năm 1968, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Huyện ủy Củ Chi, quân dân Củ Chi đã kiên trì đào địa đạo, tạo nên một kỳ tích "làng ngầm" có độ dài khoảng 200 km.

Từ năm 1960 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh (tháng 4-1975), Mỹ - ngụy đã thực hiện khoảng 5.000 cuộc hành quân càn quét vào vùng căn cứ cách mạng Củ Chi, trong đó có những cuộc càn nổi tiếng như cuộc hành quân mang tên Crimp (tháng 1-1966) và cuộc hành quân Xeđa Phon (tháng 1-1967). Mỹ - chính quyền Sài Gòn đã ném hàng ngàn tấn bom, đạn, chất độc hóa học, với mục tiêu "bới tung địa đạo Củ Chi". Nhưng dựa vào hệ thống đường hầm, công sự, chiến hào, quân và dân Củ Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ... Địa đạo Củ Chi được đánh giá là một công trình đánh giặc độc đáo của quân và dân huyện "Củ Chi đất thép thành đồng".

Địa đạo Củ Chi được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 54/VHQĐ, ngày 29-4-1979 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2367/QĐ-TTg, ngày 23-12-2015.

* Sở chỉ huy tiền phương - Phân khu 6 trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 (số 7 đường Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3):

Nhà số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), quận 3 là tiệm phở Bình được chọn làm cơ sở bí mật của lực lượng bảo đảm chiến đấu Biệt động Thành từ năm 1967. Trong cuộc Tống tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nơi đây được chọn đặt Sở chỉ huy tiền phương của Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định).

Cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 tại Sài Gòn. Di tích còn thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu.

Nơi đây đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16 tháng 11-1988.

* Cơ sở Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ (số 51/10/14 đường Cao Thắng, phường 3, quận 3)

Sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Ban Phụ vận đã sử dụng nơi đây để cất giấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch.

Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ (30-4-1975), đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn.

Cơ sở Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1998.

* Cơ sở giấu vũ khí của Biệt động Thành đánh Dinh Độc Lập năm 1968 (số 287/70 đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 5, quận 3)

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định, các đơn vị bảo đảm chiến đấu của Biệt động Thành đã xây dựng nhiều cơ sở bí mật nhằm phục vụ chiến đấu lâu dài. Từ năm 1966, căn nhà số 287/70 đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) đã được chọn, mua làm nơi cất giấu hơn 2 tấn vũ khí.

Tại đây, lúc 1 giờ 30 phút ngày 31-1-1968 (tức mồng một rạng ngày mồng hai Tết Mậu Thân), Đội 5 Biệt động (thuộc cụm 345) gồm 15 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Trương Hoàng Thanh chỉ huy, đã nhận vũ khí và xuất phát, tấn công Dinh Độc Lập, đầu não của chính quyền tay sai.

Bốn ngày sau trận đánh, địch phát hiện cơ sở số 287/70 đường Phan Đình Phùng và bắt giữ cán bộ, chiến sĩ của ta, chúng tịch thu nhà, tài sản và chiếm giữ đến ngày 30-4-1975.

Hầm bí mật chứa vũ khí của lực lượng Biệt động Thành đánh Dinh Độc Lập năm 1968 tồn tại giữa trung tâm Sài Gòn, gây bất ngờ cho kẻ thù, thể hiện sự mưu trí, táo bạo trong công tác phục vụ chiến đấu của quân và dân Sài Gòn - Gia Định.

Di tích đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1988.

* Hầm bí mật chứa vũ khí trong thời kỳ chống Mỹ (1965-1975) (số 183/4 đường 3 tháng 2, phường 11, quận 10)

Hầm bí mật chứa vũ khí trong thời kỳ chống Mỹ (1965-1975) nằm trong căn nhà số 183/4 đường 3 tháng 2, Phường 11, Quận 10; có vị trí gần khu quân sự và cơ quan đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đây là một điểm hẹn để tiếp nhận vũ khí, đạn dược; nhưng trên đường đi, một số chiến sĩ trúng đạn bị thương và một số chiến sĩ khác hy sinh nên cánh quân không thể tiến đến điểm hẹn theo quy định. Sau chiến dịch, ngôi nhà này thường bị địch khám xét, nhưng chúng không phát hiện được căn hầm.

Căn hầm bí mật được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-VH/QĐ, ngày 16-11-1988.

* Khu Di tích Dân công hỏa tuyến Mậu Thân 1968 (Ấp 4, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh)

Để phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta tại Sài Gòn vào dịp Xuân Mậu Thân 1968, hàng ngàn lượt dân công với đa số là thanh niên nam nữ xã Vĩnh Lộc và một số xã khác thuộc huyện Bình Chánh (Chợ Lớn), huyện Đức Hòa (Long An) đã đêm đêm không ngại gian khổ, hy sinh, vượt qua kênh rạch, đồng bưng trống trải, sình lầy và đồn bốt giặc để phục vụ chiến đấu, thực hiện các nhiệm vụ: nấu cơm, đào mô, vác đạn, tải thương binh,...

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15-6-1968 (ngày 20-5 Âm lịch), đoàn dân công đang trên đường làm nhiệm vụ đưa thương binh vượt bưng Láng Sấu xuống Đức Hòa - Long An và tải đạn về Sài Gòn, khi qua cánh đồng bưng ấp 4 thì bị máy bay địch rọi đèn pha phát hiện và bắn xối xả làm 35 người hy sinh (trong đó có 32 dân công), 25 người sống sót đều bị thương tích.

Sau ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), đồng đội còn lại của những người hy sinh đã dựng lên ngôi miếu nhỏ giữa đồng bưng để hằng năm cùng nhau hương khói cho các liệt sĩ. Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc đã dựng thêm nhà bia nhỏ khắc tên 35 liệt sĩ hy sinh ngay nơi diễn ra sự kiện và hằng năm lấy ngày 20-5 Âm lịch làm ngày cúng giỗ cho anh chị em dân công hy sinh tại đây.

Địa điểm Dân công hỏa tuyến hy sinh năm Mậu Thân 1968 được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 119/2005/QĐ-UBND, ngày 12-7-2005.

* Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã (phường Tăng Nhơn Phú B, phường Phú Hữu, quận 9 và khu Đồng Miếu, khu phố 3, phường An Phú, quận 2)

Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã là địa bàn cơ động chiến lược quan trọng của các lực lượng vũ trang từ xã, huyện đến tỉnh, quân khu và miền để uy hiếp và đánh vào cơ quan trung tâm của quân xâm lược một cách bất ngờ, trong thời gian nhanh nhất, với khoảng cách ngắn nhất, đặc biệt là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang tiến công vào thành phố Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Căn cứ vùng Bưng Sáu Xã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng Di tích lịch sử cấp thành phố tại Quyết định số 4302/QĐ-UBND, ngày 10-10-2008.

* Cơ sở bí mật của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1968-1972 (số 91 đường Phạm Văn Chí, phường 1, quận 6)

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, căn nhà số 91 đường Phạm Văn Chí, phường 1, quận 6 là cơ sở bí mật của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1968-1972 và cơ sở bí mật của Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Gia Định.

Căn nhà này được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 188/2005/QĐ-UBND, ngày 15-10-2008.

* Đình Cầu Sơn (số 218 đường Xôviết Nghệ Tĩnh, phường 26, quận Bình Thạnh)

Đình là địa điểm gắn với nhiều sự kiện lịch sử qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân thành phố.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, đình là địa điểm ém quân, tiếp tế lương thực, cứu chữa thương binh. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-1975, Ban quý tế dùng vải đỏ của đình may cờ cho cơ sở cách mạng và quần chúng trong khu vực tham gia nổi dậy và đón quân chủ lực vào giải phóng Sài Gòn từ hướng đông.

Đình Cầu Sơn được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 117/QĐ-UBND, ngày 12-7-2005.

* Đình An Phú - cơ sở cách mạng (Ấp 3, phường An Phú, quận 2)

Đình An Phú, ngoài chức năng là nơi nhân dân làng An Phú thờ thần Thành Hoàng theo tín ngưỡng dân gian, đình còn được cán bộ cách mạng Sài Gòn - Gia Định chọn làm cơ sở trú ẩn, trạm giao liên,... suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Đình là nơi Đội Biệt động 66 Khu Sài Gòn - Gia Định đặt trạm liên lạc để đưa, đón cán bộ, cất giấu vũ khí, cứu chữa thương binh trong các trận đánh của Biệt động Thành và các đơn vị bộ đội, tiêu biểu như: trận tấn công cầu Tân Cảng (Mậu Thân 1968), đánh Tòa hành chính quận Thủ Đức (1969), đánh và giữ cầu Rạch Chiếc (1975),...

Đình An Phú được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 5515/QĐ-UBND, ngày 30-11-2006.

* Chùa Thiên Tôn (số 117/3/2 đường An Bình, phường 6, quận 5)

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa là nơi tập hợp quần chúng, vận động tài vật, thuốc men ủng hộ nuôi quân, đảm nhận công tác tiếp tế tài chính, nhu cầu vật chất cho cơ quan Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ đóng trong chiến khu Đồng Tháp Mười.

Chùa Thiên Tôn là cơ sở cách mạng nội thành quan trọng, có công nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; là nơi truyền đạt, triển khai các chủ trương chỉ đạo của Khu ủy, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định qua các giai đoạn lịch sử trong phong trào đấu tranh của tăng ni, phật tử chống các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược, chống chế độ độc tài, tay sai, bán nước.

Năm 1968, chùa Thiên Tôn trở thành trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo. Nơi đây cũng đã tổ chức Đại hội thành lập Tổng đoàn Thanh niên Tăng ni. Tổng đoàn này trực thuộc Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, là lực lượng đấu tranh "chống Mỹ, cứu nước", trụ sở được đặt tại chùa đến năm 1975.

Chùa Thiên Tôn là nơi tuyên truyền, giáo dục về lịch sử, truyền thống đấu tranh cho giới tăng ni, phật tử hiện nay, thể hiện tốt tinh thần "Đạo pháp và dân tộc".

Chùa Thiên Tôn được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố tại Quyết định số 696/QĐ-UBND, ngày 17-2-2011.

* Đình Phú Thạnh (số 111 đường Trần Quang Cơ, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú)

Đình Phú Thạnh gắn với lịch sử làng Phú Thọ Hòa của Sài Gòn trước đây và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đình không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa phi vật thể mà còn là một cơ sở cách mạng.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đình Phú Thạnh là cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ, là nơi hội họp và chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng tại địa phương xã Phú Thọ Hòa.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đình Phú Thạnh tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc của Chi bộ Phú Thọ Hòa, là điểm quyên góp tài chính cho vùng căn cứ, là nơi nuôi giấu và cứu chữa thương, bệnh binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đình cũng là nơi phổ biến chỉ thị tổng tiến công và nổi dậy cho cán bộ liên xã trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (4-1975).

Đình Phú Thạnh được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 3947/QĐ-UBND, ngày 18-8-2011.

* Đình Tân Hòa Tây (số 17/14 đường Lương Minh Nguyệt, phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú)

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đình Tân Hòa Tây là địa điểm, cơ sở cách mạng.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đình Tân Hòa Tây là cơ sở cách mạng có hầm bí mật dưới bàn thờ Chánh điện, đây là căn cứ hầm có ngách thông ra ngoài, dùng để nuôi giấu cán bộ cấp ủy xã Phú Thọ Hòa.

Thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, đình là địa điểm họp bí mật của Chi bộ đảng xã Phú Thọ Hòa, là nơi thu nhận đóng góp vật chất ủng hộ kháng chiến, là nơi nuôi giấu, cứu thương binh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy vào Sài Gòn Xuân Mậu Thân 1968.

Đình Tân Hòa Tây được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng là Di tích lịch sử cấp thành phố theo Quyết định số 2719/QĐ-UBND, ngày 28-5-2013.

Các di tích lịch sử về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Thành phố Hồ Chí Minh là những dấu ấn về tinh thần yêu nước, tinh thần kiên trung cách mạng của quân, dân Sài Gòn - Gia Định luôn sát cánh cùng quân, dân cả nước kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi gian nan, thử thách, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Những di tích lịch sử không chỉ là nơi ghi dấu những chiến công oanh liệt, tưởng nhớ sự hy sinh anh dũng của cha anh, mà những "địa chỉ đỏ" ấy còn là bài học lịch sử quý giá, thiết thực nhất, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #119 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2020, 10:13:30 am »

SỰ KIỆN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
XUÂN MẬU THÂN 1968 VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THÔNG TIN CHÍNH THỐNG



ThS. HOÀNG THANH HẢI
Ban Tuyên giáo Trung ương


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, có rất nhiều sự kiện, trận đánh, chiến dịch đã trở thành bản anh hùng ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một trong số bản anh hùng ca đó.

Giữa năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân Mỹ cùng quân các nước đồng minh ồ ạt vào chiến trường Việt Nam cùng một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh hiện đại. Tính đến đầu năm 1968, quân chiến đấu của Mỹ ở miền Nam đã vượt quá nửa triệu, chưa kể sự yểm trợ của trên 20 vạn quân Mỹ có mặt ở Thái Lan, Philíppin, Nhật Bản, Guam, Hạm đội 7 và gần 7 vạn quân các nước đồng minh của Mỹ. Cùng lực lượng hùng hậu của gần 60 vạn quân đội Sài Gòn, quân Mỹ liên tục tổ chức các cuộc hành quân "tìm diệt" trên khắp chiến trường miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, nhằm đè bẹp ý chí giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của quân và dân ta.

Tuy nhiên, sau hơn 2 năm, mọi toan tính của đế quốc Mỹ dần dần bị phá sản. Quân Mỹ từ thế phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào thế phòng ngự chiến lược bị động vào cuối năm 1967. Đối với ta, tuy giành được nhiều thắng lợi trên chiến trường, thế và lực của cách mạng đã có bước phát triển mới, nhưng chưa tạo được chuyển biến cục diện chiến tranh.

Đứng trước tình hình trên, tháng 5 và tháng 6-1967, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm đánh giá tình hình mọi mặt và xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1967-1968, Hội nghị đưa ra chủ trương: Trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn.

Thực hiện chủ trương trên, tháng 1-1968, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta quyết định tổng công kích, tổng khởi nghĩa đồng loạt trên toàn miền Nam, nhằm giáng đòn bất ngờ vào ý chí xâm lược của Mỹ, bằng cách chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị; đánh thẳng vào sào huyệt địch trong tất cả các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng; đánh vào trung tâm đầu não chính quyền địch ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng... Từ đó tạo ra bước ngoặt lớn, làm thay đổi căn bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta, đưa chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược về chính trị và quân sự hết sức to lớn; là trang sử đấu tranh oanh liệt của Đảng ta, dân tộc và quân đội ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã gây ra cú "sốc" làm đảo lộn thế và lực, phá vỡ kế hoạch tác chiến, đẩy cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ lên một cao trào mới; buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đơn phương tuyên bố ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari tạo nên bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của cách mạng miền Nam.

Bên cạnh những thắng lợi quan trọng về quân sự, chính trị và ngoại giao, công tác chỉ đạo tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cũng đã mắc những khuyết điểm "chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; ... ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn..., cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra 50 năm. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc thắng lợi. Chiến tranh dần lùi xa, thành quả của hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất đất nước đang đem đến cuộc sống đổi mới, hạnh phúc và ấm no cho người dân từng ngày. Sự thật lịch sử và ý nghĩa to lớn của cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 đã quá rõ ràng, không thể phủ nhận, song các thế lực thù địch vẫn nuôi thù hận, thực hiện những hành động thâm độc, xảo trá, nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự hy sinh xương máu và những đóng góp vô cùng lớn lao của quân và dân ta, của bè bạn quốc tế - những người yêu chuộng công lý và hòa bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thổi phồng những hạn chế trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hỗ trợ các phần tử chống đối và lực lượng tay sai, phản động chống phá đất nước.

Đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hiện nay các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng mạng xã hội, Internet và nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân, chúng sử dụng các chiêu trò như: tạo ra các website giả mạo, lập và sử dụng website, blog, mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến mà người đọc khó kiểm chứng hết để tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả tạo, sai lệch, thật giả lẫn lộn, để lôi kéo, hướng lái dư luận ngả theo quan điểm sai trái.

Chúng vu khống Quân giải phóng thảm sát dân thường và thành phần phục vụ cho chính quyền Sài Gòn ở Huế, gọi Xuân Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt. Nhiều thông tin còn bịa đặt rằng quyết định tổng tiến công là sai lầm, phía cộng sản Bắc Việt đã thua trên chiến trường nhưng lại may mắn đạt được kết quả chính trị và tâm lý ngoài dự kiến (?). Từ các thông tin đó, chúng quy chụp Đảng, Nhà nước đã sai lầm về đường lối, vu khống cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội; bôi nhọ lịch sử, ý nghĩa chiến thắng và sự hy sinh xương máu của đồng bào, chiến sĩ trong Tổng tiến công và nổi dậy, tạo ra sự dao động, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân, làm lung lay lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; phá hoại cuộc sống, môi trường hòa bình, ổn định mà chúng ta phải đổ bao xương máu mới có được; nuôi dưỡng hận thù dân tộc, chế độ. Đây là thủ đoạn chiến tranh tâm lý vô cùng nguy hiểm của các thế lực thù địch 1.

Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng có điều kiện nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học hơn về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Vì vậy hơn lúc nào hết, cần phải tăng cường thông tin chính thống về sự kiện này tới đông đảo đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài được tường tận; đồng thời đấu tranh, phản bác hiệu quả với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Để tăng cường các thông tin chính thống cần thực hiện những nội dung sau:

Thứ nhất, quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 với nội dung và bằng nhiều hình thức phù hợp.

Phát huy tối đa hình thức tuyên truyền miệng qua các buổi giao lưu văn hóa, văn nghệ, họp thôn, tổ; hội họp và hoạt động của các tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội, câu lạc bộ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp...

Kết hợp tuyên truyền bằng triển lãm và trưng bày tư liệu, tranh ảnh, hiện vật của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân tham quan tìm hiểu, học tập.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng tuyên truyền qua các kênh phát thanh, truyền hình trong nước và nước ngoài; tăng cường mở rộng các chuyên mục, các diễn đàn, các cuộc giao lưu, tọa đàm về gặp gỡ các nhân chứng lịch sử, sự kiện lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của nhân dân. Qua đó làm cho mọi người có được cách tiếp cận đúng, biết tiếp nhận thông tin và biết sàng lọc thông tin, phân biệt đúng, sai, nhất là trong điều kiện thông tin mở, thông tin trên mạng như hiện nay; không để cổ xúy và lan truyền những thông tin xấu độc.

Bên cạnh đó, cần tập trung tuyên truyền các nội dung như: đường lối, sách lược của Đảng khi ra quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; diễn biến sự kiện; những kết quả đã đạt được; ý nghĩa chiến lược và nguyên nhân thắng lợi; nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; những bài học lịch sử quý báu đã trở thành kinh nghiệm xương máu rút ra từ lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới; đấu tranh với những quan điểm sai trái, thiếu cơ sở khoa học làm giảm ý nghĩa của chiến thắng, đồng thời phản bác lại những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ lịch sử và các thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Từ đó tạo thành phong trào mang tính cộng đồng đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc và thông tin độc xấu, góp phần giữ vững thế trận lòng dân trước sự chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ hai, coi trọng giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội; giáo dục niềm tự hào về sự kiện Mậu Thân 1968 cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Để cho mọi người có cách nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc hơn về nguyên nhân thắng lợi, những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù hung bạo; tầm vóc lớn lao và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; lòng trung thành vô hạn của các lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc và nhân dân, tinh thần sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước trong những thời điểm thử thách ác liệt nhất của lịch sử... Muốn vậy cần kết hợp đa dạng hóa các phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục, phổ biến, tuyên truyền phù hợp với từng loại đối tượng cụ thể; đưa nội dung tuyên truyền về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vào các hoạt động kỷ niệm; vào nội dung các cuộc hội thảo chuyên đề của sinh viên, cán bộ giảng dạy, giáo viên và vào các buổi sinh hoạt của các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp ở nhà trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề; hoặc chương trình hoạt động ngoại khóa cho học sinh trung học phổ thông. Tổ chức cho học sinh, sinh viên các hoạt động như tham quan các di tích lịch sử liên quan; dọn dẹp, vệ sinh và dâng hương viếng liệt sĩ...

Thứ ba, tăng cường các cuộc hội thảo và nghiên cứu khoa học chuyên sâu về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tổ chức họp báo, phỏng vấn tại các hội nghị, hội thảo, lấy ý kiến phản hồi, phản biện của các chuyên gia... Cơ quan tuyên giáo các cấp cần phối hợp với các địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, quân đội trong việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tổng kết lịch sử, nhất là giai đoạn Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Thứ tư, tổ chức sáng tác văn học, nghệ thuật, thi tìm hiểu, viết báo... về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Thông qua các hoạt động này, chúng ta lựa chọn được những tác phẩm tốt, phù hợp để sử dụng cho hoạt động tuyên truyền. Phối hợp với các đoàn văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, xây dựng chương trình biểu diễn theo chủ đề nội dung thích hợp, đáp ứng được mục tiêu công tác tuyên truyền.

Cùng với việc triển khai những nội dung trên, chúng ta cần quan tâm tổ chức biên soạn, phát hành các giáo trình lịch sử, các ấn phẩm chính thống... về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 phục vụ công tác tuyên truyền, học tập và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của độc giả. Đưa các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền đã được xuất bản (sách, đặc san, băng casset, đĩa hình, đĩa tiếng...) thành dữ liệu điện tử, các video clip và đăng tải dữ liệu đó trên Internet, mạng xã hội.

Nửa thế kỷ đã trôi qua, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 luôn để lại cho các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau niềm tự hào sâu sắc. Ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc Tổng tiến công vẫn còn nguyên giá trị và trường tồn cùng với lịch sử dân tộc Việt Nam. Tăng cường những thông tin chính thống về Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ là việc làm thiết thực trong giai đoạn hiện nay, mà còn là sự tri ân sâu sắc đối với công lao đóng góp và sự hy sinh xương máu của các anh hùng, liệt sĩ và nhân dân ta đã chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
 



----------------------------------------------------------------
1. Từ ngày 1-11-2016 đến ngày 16-11-2017, trên Internet có tổng số 140 bài viết xuyên tạc lịch sử và sự kiện Mậu Thân. Trong đó: blog có 81 bài chiếm 57,9%, mạng xã hội có 33 bài chiếm 23,6%, báo điện tử không có bài tiêu cực, các loại hình khác trên Internet có 26 bài tiêu cực chiếm 18,5% (số liệu từ phần mềm giám sát thông tin trên Internet của Tập đoàn Viettel).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM