Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:45:22 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8748 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #70 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 09:53:57 am »

SƯ ĐOÀN 5 TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá THÁI THÀNH ĐỨC
Chính ủy Sư đoàn 5


Sau những ngày chiến đấu gian khổ ở chiến trường vùng sâu Bà Rịa - Long Khánh, Sư đoàn 5 hành quân trở về Kho Xanh - Phước Long để củng cố. Tháng 9-1967, Trung đoàn 88 (Trung đoàn Tu Vũ) thuộc Sư đoàn 308 được tăng cường về đội hình chiến đấu của Sư đoàn. Đến đầu tháng 11-1967, Sư đoàn đã kiện toàn, củng cố được 3 trung đoàn bộ binh: Trung đoàn 4, Trung đoàn 5, Trung đoàn 88 và 9 Tiểu đoàn trực thuộc 1.

1. Chiến đấu ở Mặt trận Biên Hòa (Đông Sài Gòn)

Ngày 20-1-1968, Trung đoàn 5 và các đơn vị trực thuộc Sư đoàn được lệnh ra quân tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đêm 29-1, Trung đoàn 5 đã vượt sông Đồng Nai về vị trí tập kết ở ấp 3 xã Tân Định. Các đơn vị trực thuộc hành quân đến Sở chỉ huy tiền phương tại hóc Ông Tạ. Trung đoàn 4 từ căn cứ Suối Quýt (phía tây Đường số 2) hành quân về Tây Trảng Bom. Tiểu đoàn 2 - đơn vị thọc sâu cơ động xuống Bưng 6 (xã Thủ Đức) chuẩn bị thực hiện tiến công các mục tiêu liên trường huấn luyện Thủ Đức, cầu Đồng Nai, nhà máy điện Thủ Đức.

Đêm 31-1, các đơn vị xuất phát chiếm lĩnh mục tiêu theo kế hoạch. Đến 23 giờ 50, đội hình chiến đấu của Sư đoàn và các lực lượng vũ trang Biên Hòa mới có 3 tiểu đoàn, 1 đại đội và các đơn vị pháo binh chiếm lĩnh xong; 3 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công bị địch ngăn chặn, chưa vào được vị trí xuất phát tiến công. Trước tình hình trên, Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định nổ súng theo giờ G.

Tại mặt trận Biên Hòa, sau 30 phút chiến đấu, toàn Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 4) đã vượt qua 3 lớp rào, cùng lực lượng của Tiểu đoàn đặc công phối hợp chiến đấu tiêu diệt tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ án ngữ ở phía đông bắc sân bay. Tuy đã bị thiệt hại nặng, nhưng được sự chi viện của xe tăng và pháo binh, địch vẫn ngoan cố phản kích ngăn chặn ta, làm cho Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn đặc công không tiến được sâu vào trong sân bay. Rạng sáng, ở hướng đông nam sân bay, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4) cũng bắt đầu nổ súng. Đến 5 giờ ngày l-2, địch bắt đầu mở các đợt phản kích mạnh. Vào 5 giờ 30, địch dùng máy bay đánh phá, ném bom napan vào Sở chỉ huy Trung đoàn 4. Vào 7 giờ sáng, 1 tiểu đoàn địch cùng 2 chi đoàn thiết giáp bao vây ba mặt Tiểu đoàn đặc công và Tiểu đoàn 1. Lúc 11 giờ, Trung đoàn 4 lùi về Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn tại cứ "Mô tô" tiếp tục tổ chức trận địa phòng ngự đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt 5 xe M113 và nhiều tên địch.

Tại hướng Trung đoàn 5, sau 30 phút chiến đấu, Đại đội 6 (Tiểu đoàn 2) vượt qua cửa mở tiến vào sân bay dã chiến thuộc Bộ Tư lệnh dã chiến II, bắn cháy 5 trực thăng; địch lùi vào bên trong chống trả ta quyết liệt. Lúc 4 giờ, địch tăng cường 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 1 chi đội xe thiết giáp tập trung phản kích vào Tiểu đoàn 2, kết hợp dùng trực thăng bắn phá quyết liệt vào đội hình của Đại đội 7, Đại đội 8. Sáng ngày 1-12, địch tung lực lượng vây chặt Đại đội 6 đã thọc sâu vào bên trong sân bay trực thăng.

Hướng tiến công của Tiểu đoàn 1 cũng gặp khó khăn. Đến 5 giờ, Tiểu đoàn vẫn chưa phát triển vào đến mục tiêu quy định. Mũi tiến công của Tiểu đoàn 3 từ 1 giờ đến 4 giờ, ta và địch liên tục giành giật nhau quyết liệt. Lúc 5 giờ, địch tăng cường một tiểu đoàn kết hợp cùng xe tăng đánh vào Tiểu đoàn 3.

Từ sáng ngày 31-1, Tiểu đoàn 3 mất liên lạc với Trung đoàn. 17 giờ, Tiểu đoàn 3 rời khỏi trận địa, trên đường rút bị địch tiếp tục dùng máy bay, pháo binh đánh chặn, gây cho Tiểu đoàn thương vong lớn. Ở mũi thọc sâu của Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4) do đồng chí Tư On - Tiểu đoàn trưởng chỉ huy phối hợp với lực lượng vũ trang Phân khu 4 và du kích tự vệ Thủ Đức tấn công Trường Sĩ quan Thủ Đức. Địch tập trung đánh vào đội hình Tiểu đoàn 2, ta vừa cầm cự vừa lui về vùng bưng 6 xã. Tiểu đoàn 2 tiếp tục trụ lại chiến đấu đánh địch phản kích trên khu vực xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, nhà máy điện Thủ Đức và sau đó được Bộ Chỉ huy biên chế về đội hình chiến đấu của Phân khu 4.

Giữa tháng 2-1968, ta thực hiện bước 2 của đợt 1 cuộc Tổng tiến công. Tại mặt trận Biên Hòa, Trung đoàn 4 và bộ đội địa phương Biên Hòa đã liên tục chiến đấu tập kích các cụm địch đóng dã ngoại ở khu vực Trảng Bom và tổng kho Long Bình. Đêm 18-2, Trung đoàn 4 tổ chức tập kích cụm bộ binh cơ giới Mỹ ở Bắc Trảng Bom 2 km. Sau 2 giờ chiến đấu, Tiểu đoàn 3 và 2 đại đội của Tiểu đoàn 1 đã tiêu diệt toàn bộ cụm địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch, bắn cháy 7 xe quân sự. Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 phối hợp cùng đại đội ĐKZ của Trung đoàn 724 và đại đội địa phương Biên Hòa pháo kích vào tổng kho Long Bình, đốt cháy 2 kho đạn, tiêu diệt 1 đại đội địch.

Kết thúc đợt 1 tổng tiến công (từ 31-1 đến 15-3-1968), các đơn vị của Sư đoàn 5 đã tiêu diệt hàng nghìn tên địch, bắn cháy 119 xe quân sự, 5 máy bay, phá hủy 2 kho đạn và nhiều trang bị vật chất chiến tranh của địch. Với những nỗ lực và thành tích đã đạt được, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4) được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, các đồng chí Nguyễn Văn Chánh và Võ Văn Tăng được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì.

2. Chiến đấu tại Trảng Bàng, Dương Minh Châu (Tây Ninh)

Tháng 4-1968, Sư đoàn có sự thay đổi biên chế lực lượng. Trung đoàn 4 tiếp tục ở lại hoạt động độc lập tại chiến trường Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hòa, tăng cường trong đội hình chiến đấu của Quân khu miền Đông. Trung đoàn 5 và các đơn vị trực thuộc Sư đoàn được lệnh hành quân cơ động về mặt trận vùng Tây Bắc Sài Gòn, chiến đấu đánh địch trên địa bàn Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Dương Minh Châu. Ngày 7-5-1968, Phó Tư lệnh Miền Lê Trọng Tấn đến kiểm tra và giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 5 chiến đấu kìm chân Sư đoàn 25 Mỹ tại Trảng Bàng và sẵn sàng làm dự bị cho Sư đoàn 9 thọc sâu vào Sài Gòn.

Phát hiện lực lượng lớn của ta di chuyển về mặt trận Bắc Củ Chi, địch vội tung một lực lượng gồm các đơn vị Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4), Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 25) Sư đoàn 1 kỵ binh thiết giáp và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 22) Sư đoàn 25 bộ binh cơ giới Mỹ, có sự chi viện của không quân, pháo binh tổ chức càn quét vào khu vực Bắc Trảng Bàng và Củ Chi. Ngày 11-5, Bộ Chỉ huy Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 5 chuyển sang đánh địch đang càn quét ở Trảng Bàng, buộc chúng phải đối phó không thực hiện được ý định phản kích tiêu diệt lực lượng ta. Ngày 14-5, Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 25 Mỹ được trực thăng đổ xuống Trung Hòa tổ chức càn quét vào Tầm Đinh - Trảng Cỏ. Lực lượng địa phương Trảng Bàng và Tiểu đoàn 1 đẩy lui 3 đợt phản kích của địch, khiến quân Mỹ không tiến được sâu vào trong, phải lùi ra cụm lại ở Trảng Ông Lên.

Ngày 18-5, được Sư đoàn tăng cường 1 phân đội hỏa lực H12, Trung đoàn 5 triển khai kế hoạch tiến công tiêu diệt địch. Tiểu đoàn 1 được tăng cường 2 khẩu cối của Trung đoàn tập kích tiêu diệt đoàn bộ binh cơ giới tại Trảng Ông Lên, Tiểu đoàn 2 được tăng cường 12 quả hỏa tiễn H12 tập kích tiêu diệt cụm địch ở Cầu Xe lần thứ 3. Đêm 18-5, Tiểu đoàn 1 bí mật bố trí chốt chặn, đúng 24 giờ, Tiểu đoàn nổ súng tiến công địch, sau 40 phút chiến đấu quyết liệt, tiêu diệt 150 tên địch, thu 18 súng, 1 máy PRC25 và nhiều trang bị của địch. Hướng Tiểu đoàn 3, ta tổ chức lực lượng phối hợp đánh cụm địch đóng chốt tại Cầu Cát, diệt 11 xe cơ giới và nhiều tên địch, cắt đứt giao thông trên trục đường liên tỉnh số 26. Trên hướng chủ yếu Tiểu đoàn 2 được tăng cường hỏa lực của Sư đoàn tổ chức tập kích hỏa lực vào quân Mỹ ở Cầu Xe, phá hủy 38 xe quân sự, đánh cháy 4 nhà lính. Ngày 21-8, Trung đoàn 5 sử dụng Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tập kích lần thứ 4 vào tiểu đoàn bộ binh cơ giới thuộc Sư đoàn 25 tại Bàu Me vào 0 giờ ngày 21-5, diệt một số tên địch, bắn cháy 19 xe cơ giới.

Sau 4 lần liên tục tập kích, pháo kích, Trung đoàn 5 đã đánh quỵ Tiểu đoàn 2 bộ binh cơ giới thuộc Trung đoàn 22, Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, làm cho chúng không còn khả năng tham gia càn quét theo kế hoạch. Để cứu vãn tình thế, ngày 22-5, quân Mỹ huy động hàng chục đợt B52 và các loại máy bay đánh phá các khu vực Bời Lời, Trảng Cỏ, Sa Nhỏ 1, Sa Nhỏ 2.

Ngày 22-5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 5 được tăng cường Tiểu đoàn 3 đã chủ động chặn đánh quân Mỹ tại Trảng Sa. Sau một ngày chiến đấu, ta đẩy lùi 7 đợt phản kích của bộ binh và xe tăng dịch, tiêu diệt 4 xe tăng, bảo vệ được trận địa. Ngày 24-5, Tiểu đoàn 3 tiếp tục cơ động phối hợp với các đại đội trực thuộc của Trung đoàn đánh địch ở Sa Nhỏ, Trảng Cỏ, tiêu diệt 11 xe tăng, xe thiết giáp và nhiều tên địch, buộc chúng phải tháo lui, chấm dứt cuộc càn.

Tổng cộng trong 10 ngày liên tục chiến đấu, Trung đoàn 5 đã tổ chức đánh địch 11 trận (trong đó có 2 trận cấp trung đoàn thiếu, 9 trận cấp tiểu đoàn, đại đội), tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy 2 máy bay. Trung đoàn đã phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và các đơn vị bạn đánh bại cuộc càn quét của quân Mỹ ở địa bàn Bắc Trảng Bàng. Sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, Trung đoàn 5 được lệnh trở về cứ K10 (Đồng Ban) để củng cố và chuẩn bị cho kế hoạch đợt 3 của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Tháng 7-1968, Sư đoàn 5 tiếp nhận Trung đoàn 33 và Trung đoàn 88 vào đội hình chiến đấu của mình.

Nhiệm vụ của Sư đoàn trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy là phối hợp cùng Sư đoàn 9, Trung đoàn 174, Tiểu đoàn đặc công và Trung đoàn pháo binh Miền mở chiến dịch Tây Ninh - Dầu Tiếng kéo lực lượng 2 lữ đoàn của Sư đoàn "Tia chớp nhiệt đới" và Lữ đoàn 1 Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ ra ngoài để tiêu diệt, mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Tây Ninh, đánh bại kế hoạch hành quân phản kích của quân Mỹ vào địa bàn Tây Ninh - Dầu Tiếng. Sư đoàn được củng cố, bổ sung đủ 3 trung đoàn (Trung đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 33) và các tiểu đoàn trực thuộc (1 tiểu đoàn ĐKZ, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn quân y, 1 tiểu đoàn vận tải). Đồng chí Võ Minh Như (Chín Hiền) được điều về làm Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn. Ngày 15-8, Trung đoàn 33 được Bộ Chỉ huy Sư đoàn giao nhiệm vụ phục kích lực lượng ứng cứu của quân Mỹ tại khu vực Bến Củi, mở màn đợt hoạt động của Sư đoàn, tạo điều kiện cho đơn vị bạn tiến công các mục tiêu Trảng Lớn, Trà Phí, Tua Hai, đồng thời phối hợp cùng Trung đoàn 5, Trung đoàn 88 đánh chiếm sân bay Bến Củi, căn cứ Gò Da và các cụm địch đóng dã ngoại trên đường 26 và 22.

Ngày 17-8, Trung đoàn 33 tổ chức hành quân vào vị trí chiến đấu tại khu vực Làng 2, Làng 3 Bến Củi, triển khai trận địa phục kích từ suối Ông Hùng đến Làng 3, Bến Củi, sẵn sàng chờ quân Mỹ đến. Sau một ngày chiến đấu, ta tiêu diệt 3 xe tăng, đánh thiệt hại 1 đại đội địch, nhưng chưa diệt được đội hình lớn xe cơ giới và bộ binh Mỹ.

Ngày 19-8, quân Mỹ tổ chức 2 cánh quân gồm cả bộ binh và thiết giáp tiến hành giải tỏa Đường số 2 đoạn Bến Củi - suối Ông Hùng. Cánh quân thứ nhất gồm 5 xe tăng M113 và 1 đại đội Mỹ từ ngã ba Đất Sét đánh vào Tây Bắc Bến Củi. Cánh thứ 2 gồm 46 xe thiết giáp và 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ từ Dầu Tiếng theo trục Đường số 2 đánh vào khu vực Làng 2, Làng 3 Bến Củi. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn trưởng Ma Văn Minh, Tiểu đoàn 8 chặn đánh địch tại Trảng Trường, các tiểu đoàn của Trung đoàn 33 bám sát quân Mỹ, hình thành thế vây chặn trên hai ngả rút quân của chúng về Dầu Tiếng, Tây Ninh. Ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ, bắn cháy 47 xe cơ giới, trong đó có 33 xe M41 và xe M113, diệt tại chỗ hơn 100 tên địch, thu 2 khẩu 12,7 ly, 6 đại liên, 6 trung liên, 16 M79, 3 M72, 5 ống nhòm và 1 máy PRC25. Ngày 21-8, Trung đoàn 33 tiếp tục tổ chức tập kích cụm dã ngoại quân Mỹ tại bàu Tà Keng, diệt thêm nhiều tên địch, bắn cháy 2 trực thăng và liên tục chặn đánh xe cơ giới địch trên Đường số 2.

Trên trục Đường số 2, tại mặt trận Đường 26, khu vực Trảng Bàng, liên tục trong 3 ngày 19, 20, 21-8, Trung đoàn 88 tổ chức phục kích, tập kích các cụm bộ binh cơ giới Mỹ, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch và 1 chi đoàn xe bọc thép, cắt đứt giao thông trên Đường số 26. Ngày 23-8, Trung đoàn 88 được lệnh khẩn trương cơ động thọc sâu về Tây Bắc Gò Dầu, tổ chức đánh lực lượng vận tải cơ giới của địch đang từ Củ Chi lên cứu viện cho quân Mỹ ở Tây Ninh. Đêm 24-8, các đơn vị của Trung đoàn 88 thực hành chiếm lĩnh và tổ chức ngụy trang trận địa. Quân địch số bị tiêu diệt, số còn lại bỏ xe tháo chạy tán loạn. Tiểu đoàn 9, đại đội đặc công và 2 trung đội du kích bắn cháy 96 xe cơ giới (17 xe M41 và xe M113), bắn rơi 2 trực thăng. Ta thu 5 súng đại liên và nhiều trang bị quân sự, bắt 5 tù binh. Vào 12 giờ 30, ta đã hình thành thế bố trí đánh lực lượng giải tỏa của địch. Máy bay Mỹ và các trận địa pháo ở tua Trảng Bàng, Gò Chùa oanh kích, dùng máy bay thả hơi cay "CS" vào trận địa, cả Đại đội 10 và Đại đội 11 bị nhiễm hơi độc. Lực lượng phòng không của Trung đoàn bắn cháy 5 máy bay, khiến những chiếc còn lại phải lên cao vòng xa ngoài trận địa, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh củng cố công sự chuẩn bị chiến đấu.

Dựa vào lực lượng đông, hỏa lực mạnh, quân Mỹ chia thành nhiều mũi đột kích vào trận địa của Đại đội 11. Đảm nhận nhiệm vụ phòng ngự ở sườn trái của trận địa, Trung đội 1 bắn cháy 5 xe tăng, đẩy lùi 1 đại đội địch. Sau gần một giờ phản kích không phá được trận địa ta, quân Mỹ lui ra tiếp tục dùng máy bay, pháo binh bắn phá và chia làm 3 mũi tấn công vào Đại đội 10 và Đại đội 9, còn lại một bộ phận đánh vào Sở chỉ huy Tiểu đoàn. Lúc 16 giờ, quân Mỹ tiếp tục đưa máy bay lên thả hơi cay vào trận địa của ta, nhưng lúc này gió Tây Nam thổi mạnh nên hơi ngạt thả xuống lại bay trùm lên đoàn xe của chúng. Lập tức Trung đoàn trưởng lệnh cho Đại đội 1 của Tiểu đoàn 7 vận động đánh áp vào phía sau cánh trái của quân Mỹ. Lúc 18 giờ, trận đánh kết thúc, tàn quân địch lui về Trảng Bàng, bỏ lại trận địa 147 xác xe cơ giới các loại, trong đó có 33 xe M41 và M113, 15 xe Jeep có gắn đại liên, 99 xe vận tải và rất nhiều xác chết. Trung đoàn 88 hoàn toàn làm chủ trận địa.

Chiến thắng vang dội tại Nam Đá Hàng làm nức lòng và tăng thêm khí thế thi đua diệt Mỹ trong toàn Sư đoàn. Với lực lượng 1 trung đoàn (thiếu), số trực tiếp tham gia chiến đấu chỉ có 280 đồng chí, trong 1 ngày, Trung đoàn 88 đã tiêu diệt 1 đại đội bộ binh cơ giới Mỹ, 1 đại đội thiết giáp, 1 đại đội vận tải, 1 đại đội công binh và 2 trung đội quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắt sống nhiều tù binh, thu 127 súng các loại (có 3 đại liên), 1 máy thông tin 15W, 1 máy dò mìn và rất nhiều trang bị khí tài quân sự. Trận đánh cũng gây một tiếng vang lớn trong vùng, đồng bào và lực lượng vũ trang địa phương tin tưởng hơn vào sức mạnh của chủ lực Quân giải phóng, tích cực ủng hộ cách mạng.

Phát huy thắng lợi đó, Bộ Chỉ huy Miền chủ trương mở đợt tổng công kích và nổi dậy vào tháng 8-1968. Giờ nổ súng thống nhất trên toàn miền là đêm 17-8-1968. Sư đoàn 5 được giao nhiệm vụ tiêu diệt tiểu đoàn địch tại Chà Là trong đêm 17 để làm ngòi nổ lệnh chung Chà Là (Gò Da).

Đến 17 giờ ngày 17-8, Trung đoàn hành quân vào chiếm lĩnh trận địa nhưng không thể phát triển được lực lượng. Bộ Chỉ huy Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 5 tiêu diệt tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ tại Chà Là (lần 2) trong đêm 20 rạng sáng ngày 21-8. Trung đoàn điều chỉnh bổ sung lực lượng hành quân chiếm lĩnh các vị trí an toàn, đúng thời gian. Sau 3 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta cơ bản làm chủ trận địa, bắn cháy 40 xe tăng, thiết giáp. Ngày 21-8, địch tiếp tục đổ quân xuống Chà Là, Trung đoàn được lệnh đánh địch ở Chà Là (Gò Da) lần thứ ba. Ngày 24-8, được Sư đoàn tăng cường Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 83), Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 88) và 1 đại đội H12 phối hợp cùng Trung đoàn 5 tiến công mục tiêu Gò Da lần thứ ba. Đến 2 giờ sáng ngày 27-8, các mục tiêu cơ bản bị diệt.

Kết quả tập kích lần thứ 3, Trung đoàn 5 và các đơn vị tăng cường đã cơ bản đánh chiếm hoàn toàn mục tiêu Gò Da, diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bắn cháy và phá hủy 55 xe quân sự, phá hỏng 8 khẩu pháo 105mm và 106mm, bắn rơi 2 trực thăng. Ta hy sinh 32 đồng chí, bị thương 135 đồng chí. Trong trận tập kích này, Trung đoàn 5 đã thực hiện thành công chiến thuật tiến công cụm bộ binh cơ giới Mỹ phòng ngự liên hoàn trong công sự. Tiếp đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Ninh, Dầu Tiếng chỉ thị cho Sư đoàn 5 tổ chức lực lượng đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm phòng ngự của quân Mỹ ở khu vực Chà Là, Bến Củi và tuyến đồn bốt địch dọc đường số 2 và 26, phối hợp cùng các đơn vị của Sư đoàn 9 tiến công các mục tiêu ở hướng đông và đông nam thị xã Tây Ninh, hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương mở rộng vùng giải phóng và tiêu hao sinh lực của lực lượng tổng trù bị và Lữ đoàn 1 bộ binh cơ giới Mỹ trong bước 2 của chiến dịch.

Ngày 12-9, Trung đoàn 88 của Sư đoàn 5 đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 2 Mỹ, tiêu diệt 46 xe tăng, bắn rơi 6 máy bay. Ngày 14-9, Trung đoàn 88 tiếp tục tổ chức chống càn, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ, bắn cháy 2 máy bay. Ngày 16-9, Trung đoàn 5 tổ chức lực lượng tập kích cụm địch ở phía Bắc sân bay Bến Củi, đánh thiệt hại 2 đại đội bộ binh cơ giới hỗn hợp Mỹ. Đêm 17-9, Trung đoàn 5 tiếp tục dùng hỏa lực của 1 đại đội cối 82mm và 1 đại đội H12 tập kích sân bay Bến Củi lần thứ 2, gây cho địch nhiều thiệt hại. Từ ngày 19-9, địch liên tiếp đổ trực thăng càn quét vào khu vực Bàu Me, Bời Lời, Đồng Lớn. Trước diễn biến tình hình trên, Bộ Chỉ huy Sư đoàn điều Trung đoàn 33 đang tập kết chuẩn bị đánh các cụm địch đóng dã ngoại và đánh phá giao thông tại khu vực Cầu Kho, ngã ba Đất Sét, Trảng Dài cơ động về hướng bắc tập kích tiêu diệt quân kỵ binh không vận Mỹ ở Bàu Me. Ngày 20-9, Trung đoàn đã kịp thời nổ súng tiêu diệt một đại đội Mỹ khi chúng vừa đổ xuống bàu Tà Keng, diệt nhiều tên địch, bắn cháy 2 trực thăng. Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 88 tổ chức trận địa phục kích tại Đồng Lớn, tiêu diệt gọn 1 đại đội địch. Đại đội cối 82mm của Trung đoàn phối thuộc với Tiểu đoàn 9 chỉ với 45 quả đạn và 2 khẩu đội đã tổ chức tập kích tiêu diệt 1 đại đội kỵ binh không vận địch khi chúng vừa đổ quân xuống Đông Nam Đồng Lớn, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch.

Sau 2 lần ta liên tiếp tập kích tiêu diệt địch tại sân bay Bến Củi, ngày 17-9, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ tổ chức 2 tiểu đoàn bộ binh và 167 xe cơ giới tiến hành giải tỏa càn quét dọc trục Đường số 2 và khu vực xung quanh sân bay Bến Củi. Trung đoàn 5 tiến công tiêu diệt lực lượng gồm 2 đại đội bộ binh, 100 xe cơ giới, 1 đại đội cối 106,7mm, bắn rơi 2 máy bay trực thăng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Trận thắng giòn giã lần thứ 3 tại sân bay Bến Củi của Trung đoàn 5 đã kết thúc đợt 3 tổng tiến công trên hướng Tây Ninh của Sư đoàn.

Tổng kết đợt 3 tổng tiến công, từ 17-8 đến 23-9-1968, Sư đoàn 5 đã tổ chức đánh 19 trận quy mô cấp trung đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 6 tiểu đoàn địch, bắn cháy 590 xe cơ giới các loại, phá hủy 24 khẩu pháo 105mm và cối 106,7mm, bắt 5 tù binh, thu 163 súng các loại và nhiều trang bị chiến tranh. Với nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt để chiến đấu, liên tục đánh thắng, liên tục lập công xuất sắc, Sư đoàn 5 đã được Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền tặng cờ thưởng luân lưu "Quyết chiến quyết thắng" và Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhì. Các Trung đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 33, Tiểu đoàn 22 ĐKZ, Tiểu đoàn 31 và Trung đoàn 4 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Những thành tích, chiến công, phần thưởng cao quý của các đơn vị trên đây trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là nguồn cổ vũ lớn lao, động viên cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn tiếp tục tiến lên chiến đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao trong chiến dịch mùa Xuân và chiến dịch Hè - Thu 1969 tại địa bàn vùng Đông và Đông Bắc Sài Gòn.




------------------------------------------------------------------
1. Cuối tháng 11-1967, Trung đoàn 88 được lệnh trở về trực thuộc Bộ Chỉ huy Miền hoạt động ở chiến trường Bắc Tây Ninh, Lộc Ninh.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #71 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 10:00:55 am »

SƯ ĐOÀN BỘ BINH 9 TRONG CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



Đại tá LÊ ANH TUẤN
Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 9 Quân đoàn 4


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một bản anh hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đồng thời để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật quân sự để vận dụng, phát triển trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Sư đoàn bộ binh 9 được thành lập ngày 2-9-1965 tại một khu rừng bên bờ Suối Nhung, căn cứ Mã Đà, Chiến khu D thuộc huyện Phước Thành (nay là xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), là một trong những đơn vị chủ lực đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Sư đoàn đã lập nên nhiều chiến công xuất sắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế giúp Campuchia. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong xây dựng và chiến đấu, Sư đoàn đã được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Sư đoàn bộ binh 9 đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, chấp nhận thương lượng để có thể kết thúc chiến tranh trong danh dự.

Thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của Trung ương Đảng, Sư đoàn 9 và các đơn vị chủ lực Miền được giao nhiệm vụ tiến công vào các căn cứ địch ở vòng ngoài, kiềm chế và ngăn chặn các sư đoàn Mỹ và quân đội Sài Gòn, không cho chúng đưa lực lượng về Sài Gòn, bảo đảm phía sau cho lực lượng vũ trang các phân khu hoạt động.

 Quán triệt mệnh lệnh của cấp trên, cuối tháng 12-1967, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bắt đầu hành quân hướng về đồng bằng. Trên đường hành quân, Sư đoàn trưởng Tạ Minh Khâm giao nhiệm vụ cho các trung đoàn vừa hành quân vừa chiến đấu để bảo đảm đúng kế hoạch thời gian quy định.

Đêm mồng 1-1-1968, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 phối hợp chặt chẽ, hành quân chiếm lĩnh vị trí tập kết bí mật, an toàn, nổ súng diệt gọn cụm chốt của quân Mỹ ở ngã ba Bà Chiêm, mở đường cho các đơn vị bạn vượt qua tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn của địch. Sau chiến thắng ở ngã ba Bà Chiêm, toàn Sư đoàn tranh thủ thời gian huấn luyện, bổ sung cách đánh ở làng mạc, ruộng đồng trống trải, tập đánh xe tăng, xe M113, tổ chức nguỵ trang, giấu quân, đào công sự... Cùng với các hoạt động huấn luyện, các đơn vị đều tổ chức sinh hoạt chính trị, xây dựng quyết tâm chiến đấu, học tập 7 điều căn dặn của Bác Hồ cho cán bộ, chiến sĩ. Để bảo đảm tuyệt đối giữ bí mật cho đến giờ nổ súng, Sư đoàn trưởng Tạ Minh Khâm và Chính ủy Nguyễn Văn Tòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho các trung đoàn trưởng và chính ủy.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức đêm mồng 1 Tết Mậu Thân), quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở nhiều thành phố, thị xã miền Nam. Tại Sài Gòn - Gia Định, bộ đội đặc công, biệt động đồng loạt tiến công các cơ quan đầu não quan trọng nhất của Mỹ - chính quyền Sài Gòn như Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô, Đài Phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất... Các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu tiến công các vị trí địch ở vùng ven. Một số đơn vị vượt qua tuyến ngăn chặn của địch tiến sâu vào nội thành, phối hợp chiến đấu với bộ đội đặc công và biệt động. Phối hợp với các lực lượng, các sư đoàn chủ lực Miền tiến công các căn cứ quân sự, Sở chỉ huy các sư đoàn quân Mỹ - quân đội Sài Gòn ở vòng ngoài, kiềm chế không cho chúng đưa lực lượng về nội thành.

Đối với Sư đoàn 9, Trung đoàn 1 được giao nhiệm vụ tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Để bảo đảm nổ súng đúng thời gian theo kế hoạch, Tiểu đoàn 3 được lệnh cơ động trước.

Trung tâm huấn luyện Quang Trung là một căn cứ quân sự lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn, cách nội thành Sài Gòn hơn 10km về phía tây bắc. Ở đây thường xuyên có khoảng 16.000 tân binh; xung quanh căn cứ có hệ thống bố phòng cẩn mật, chắc chắn, mạng đường cơ động thuận lợi và có nhiều căn cứ không quân, trận địa pháo binh yểm trợ hoả lực.

Ngày 31-1-1968, Phó Chính ủy Trung đoàn 1 Nguyễn Văn Sơ trực tiếp chỉ huy một bộ phận của Tiểu đoàn 3, luồn lách qua tuyến phòng thủ của địch ở vùng ven, áp sát mục tiêu. Mặc dù đại bộ phận đơn vị chưa kịp cơ động đến, trong khi đó, lực lượng địch lại quá đông, vũ khí, trang bị hiện đại, nhưng để phối hợp chung với toàn chiến trường, đồng chí Nguyễn Văn Sơ quyết định cho các mũi đồng loạt xung phong. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt 5 giờ, bộ đội ta vừa tổ chức đánh bộ binh, bắn máy bay, vừa vận chuyển thương binh, tử sĩ về phía sau. Kết thúc đợt tiến công vào Trung tâm huấn luyện Quang Trung, ta đã tiêu diệt 300 tên địch, phá hủy trung tâm phát thanh của địch. Với lực lượng rất chênh lệch, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đại đội 12 Tiểu đoàn 3 đã trụ bám đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Phó Chính ủy trung đoàn Nguyễn Văn Sơ vừa động viên các chiến sĩ, vừa tổ chức, chỉ huy chiến đấu giữ vững trận địa vừa cầm súng chiến đấu 1. Gương chiến đấu của đồng chí đã cổ vũ tinh thần, ý chí chiến đấu kiên cường của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 12 trong bám trụ trận địa, kiềm chế quân địch, không cho chúng đưa lực lượng tân binh địch ở đây về Sài Gòn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Theo kế hoạch, nhiệm vụ của Trung đoàn 1 là tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Tuy nhiên, do không kịp cơ động nên chỉ có Tiểu đoàn 3 nổ súng theo đúng kế hoạch. Trong khi đó trước sự tiến công của Quân giải phóng, địch tung lực lượng từ Thới Tam Thôn (Hóc Môn) ra chi viện, giải toả. Trước tình hình trên, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 1 tổ chức lực lượng đánh địch chi viện. Sau 10 ngày chiến đấu liên tục (từ ngày 4 đến 13-2-1968) với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, táo bạo, linh hoạt, lại được sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân địa phương, Trung đoàn 1 khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, loại khỏi vòng chiến đấu 856 tên địch, bắn rơi 23 máy bay, bắn hỏng 56 xe quân sự, phá hủy 2 khẩu pháo và thu 115 khẩu súng các loại.

Nhằm ngăn chặn sự cơ động ứng cứu và co cụm của địch, Trung đoàn bộ binh 2 được giao nhiệm vụ chốt chặn trên đường số 22, đoạn giữa Quang Trung với Hóc Môn qua xã Tân Phú Trung huyện Củ Chi, ngăn chặn Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn ở Đồng Dù.

Dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, lợi dụng địa hình, địa vật để giấu quân và cơ động lực lượng, tranh thủ củng cố công sự, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Năm Thông đã kiên cường chốt, chặn và đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Có ngày, từ 3 giờ sáng đến 6 giờ chiều, địch huy động 170 lượt xe tăng, xe bọc thép, mở liên tiếp nhiều đợt phản kích. Bom, pháo địch phá nát các vườn cây trái, phá hủy nhiều nhà dân, giết chết hàng chục dân thường, nhưng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 đã chiến đấu ngoan cường, giải phóng, làm chủ đoạn Đường 1 đi qua xã Tân Phú Trung cho đến khi có lệnh rút khỏi trận địa.

Trong khi đó, hai Tiểu đoàn 5 và 6 phối hợp với du kích địa phương diệt và bức hàng một số đồn bảo an, dân vệ ở vùng ven căn cứ Đồng Dù. Cán bộ chỉ huy các đội du kích cùng phối hợp chỉ huy với các tiểu đoàn, thông báo kết quả nắm địch của du kích và dẫn đường cho bộ đội cơ động chiến đấu.

Bị ta uy hiếp mạnh, lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù yêu cầu máy bay ném bom và liên tục bắn pháo vào các khu vực nghi ngờ có bộ đội ta. Có lần trận địa Tiểu đoàn 5 bị trúng bom địch, 70 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh.

Phát hiện quân địch tập trung lực lượng chuẩn bị mở cuộc phản kích lớn, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 5 cùng với cấp ủy đảng địa phương tổ chức cho nhân dân sơ tán và chuẩn bị phương án kiên quyết trụ bám đánh địch. Tình huống chiến đấu rất khẩn trương. Trụ lại đánh địch, tình huống chiến đấu sẽ vô cùng ác liệt vì địch có ưu thế về quân số, hỏa lực phi pháo và cơ giới. Nhưng nếu giành thắng lợi sẽ có tác động ảnh hưởng chính trị tốt đối với nhân dân vùng địch tạm chiếm, góp phần thực hiện mục tiêu của cuộc tiến công chiến lược. Với quyết tâm và sự nhất trí cao, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đã phân công cán bộ xuống từng tiểu đội quán triệt quyết tâm đến từng chiến sĩ, đồng thời tổ chức cho bộ đội đào đắp công sự, bố trí lại lực lượng sẵn sàng đánh địch.

Ngày hôm sau, trận đánh diễn ra ác liệt từ sáng sớm. Sau mỗi lần phản kích thất bại, quân địch lại gọi máy bay đến ném bom, gọi pháo bắn vào trận địa ta. Nhiều công sự bị phá hủy, nhà dân bị cháy, cây cối bị gãy gập. Nhưng quân địch vẫn không thể đột phá được trận địa của Tiểu đoàn 5. Trong đợt tiến công cuối cùng của địch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn mưu trí chờ cho một số xe địch lọt vào hẳn khu vực trận địa đã bố trí mới tập trung lực lượng đánh bật bộ binh địch ra xa, tạo điều kiện cho tổ diệt cơ giới bắn cháy 2 xe, bắt 1 xe.

Cùng thời gian, trên hướng bắc, đông bắc Sài Gòn, Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Chín Mây và Chính ủy Hai Hêm chỉ huy tiến công chi khu quân sự Thủ Đức, Tổng kho Long Bình và khu vực cầu Băng Ky (Bình Thạnh), đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thủy quân lục chiến ngụy.

Sau đợt 1, theo quyết định của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn dãn lực lượng ra để củng cố, bổ sung quân số, trang bị; đồng thời tiếp tục giữ một số bàn đạp ở phía bắc Sài Gòn, chuẩn bị các đợt tiến công mới.

Tháng 4-1968, Hội nghị Trung ương Cục chủ trương mở đợt tiến công thứ hai trong mùa Hè 1968, nhằm tiếp tục tiến công địch và phát động quần chúng nổi dậy ở các đô thị.

Trong đợt 2 này, Sư đoàn chuyển về hướng tây và tây nam Sài Gòn, dựa vào vùng nông thôn các tỉnh Long An, Chợ Lớn làm bàn đạp tiến vào nội đô. Khác với đợt 1, các đơn vị đều gặp nhiều khó khăn do không còn yếu tố bí mật bất ngờ; địch đã tăng cường 50 tiểu đoàn về Sài Gòn, tổ chức ba tuyến phòng thủ tương đối chặt chẽ. Trong khi đó, quân số, trang bị của các đơn vị trong Sư đoàn chưa kịp bổ sung. Mặt khác, thế phối hợp giữa lực lượng bên trong với bên ngoài thành phố và các tỉnh trên toàn miền cũng không được như đợt 1. Hướng tiến công mới của Sư đoàn là vùng đồng bằng trống trải, dày đặc đồn bốt địch. Để tiếp cận mục tiêu, bộ đội phải lội qua nhiều đầm lầy, kênh rạch, vượt qua nhiều đồn, bốt và tuyến ngăn chặn của địch. Chủ động khắc phục khó khăn, quyết tâm đánh địch, đêm mồng 5-5-1968, các đơn vị của Sư đoàn đã cơ động và tập kết tại các vị trí quy định trong nội thành.

Ngày 6-5-1968, Tiểu đoàn 1 và Đại đội 7 (Tiểu đoàn 2), Trung đoàn 1 được lệnh nổ súng đánh chiếm trường đua Phú Thọ. Tiếp đó, trong những ngày từ 6 đến 8-5, Trung đoàn 1 phối hợp với Tiểu đoàn 2 (Phân khu 2) đánh lui nhiều đợt phản kích của các tiểu đoàn 33, 35, 38 biệt động ngụy có xe tăng, máy bay yểm trợ ở các khu vực Minh Phụng, Đường 46, trường đua Phú Thọ... Chiến sĩ Nguyễn Hồng Phúc, lần đầu tiên ra trận đã bắn 4 quả đạn B40, diệt 4 xe tăng địch. Chiến sĩ mới Lê Trung Lâm sử dụng trung liên RPĐ diệt 45 tên. Trong 4 ngày chiến đấu ở nội thành, Trung đoàn 1 đã diệt 200 tên Mỹ, ngụy, bắn cháy 31 xe tăng, xe bọc thép, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Nhưng do lực lượng quá chênh lệch, điều kiện chiến đấu khó khăn, Trung đoàn 1 được lệnh rút ra khỏi nội thành về hoạt động ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn (đêm mồng 9-5).

Trong khi đó, cũng vào ngày 6-5, Trung đoàn 2 vượt qua bưng Vĩnh Lộc và các tuyến phòng thủ của địch, tiến vào khu vực Bà Quẹo, ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ Hoà, sân vận động Cộng Hòa (có đơn vị vào đến đường Sư Vạn Hạnh). Dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Quách Thanh Quang, Chính trị viên Trần Long, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 bám trụ ở khu nghĩa địa gần ngã tư Bảy Hiền, đánh lui hàng chục đợt phản kích của Tiểu đoàn 7 dù ngụy có xe tăng và máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ, diệt tên đại tá cảnh sát Lưu Kim Cương. Với khẩu trung liên và lựu đạn, chiến sĩ mới Đặng Văn Tuyết ở Đại đội 1, Tiểu đoàn 4 diệt hàng chục tên địch trên đường phố. Ngày 7-5, Tiểu đoàn 4 được lệnh rút ra phía tây Bà Quẹo, sau đó cơ động về gần bưng Vĩnh Lộc, Đức Hòa (Long An).

Ngày 8-5, được trinh sát báo tin một cụm bộ binh và cơ giới Mỹ chốt ở xã Mỹ Hạnh (Đức Hòa, Long An), Trung đoàn trưởng Trương Văn Đàng giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 6 do Tiểu đoàn trưởng Trịnh Hồng Ngọc và Chính trị viên Đoàn Phúc Hạnh chỉ huy trận vận động tập kích. Mặc dù cự ly vận động xa, phải vượt qua ruộng nước, địa hình trống trải, nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm, với 84 cán bộ, chiến sĩ được trang bị B40, Tiểu đoàn 6 đã đánh trận vận động tập kích xuất sắc, phá hủy và hỏng 96 xe (chủ yếu là xe tăng M41, xe bọc thép M113), 12 khẩu pháo, bắn cháy 7 máy bay lên thẳng. Hai ngày sau (ngày 10-5), Tiểu đoàn 6 lại vận động tập kích cụm quân địch ở Vĩnh Lộc, phá hủy và hỏng 54 xe, 13 khẩu pháo của địch. Trung đội trưởng Lê Sơn Hà, Đại đội 13 lập công xuất sắc, được tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt cơ giới".

Cuối tháng 5-1968, Trung đoàn 2 được lệnh rút ra đánh địch ở vùng ven thành phố. Mặc dù quân số và trang bị của các đơn vị đều bị tiêu hao, thế tiến công suy giảm nhiều, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ, anh dũng chiến đấu. Có đại đội chỉ với 25 cán bộ, chiến sĩ trong trận vận động tập kích cụm cơ giới Mỹ ở Xuân Thới Đông, đã phá hủy 31 xe tăng, xe bọc thép, 3 khẩu pháo, loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 tên địch.

Trong những ngày đầu đợt 2, Trung đoàn 3 bị quân địch chặn đánh quyết liệt trên các cánh đồng nước ở khu vực huyện Bình Chánh nên đã không kịp vào tiếp ứng cho lực lượng của Phân khu 2 theo kế hoạch. Nhưng sau đó (từ ngày 25-5 đến ngày 18-6) Trung đoàn 3 lại vào được nội thành theo hướng tây. Đêm 25-5, Tiểu đoàn 8 cùng một bộ phận lực lượng Phân khu 2 tiến công Phú Lâm, Phú Định, Cầu Tre. Đêm 28-5, Tiểu đoàn 7 được lệnh vào thay thế Tiểu đoàn 8, nhưng khi vào đến Quận 6, Tiểu đoàn 8 đã chiến đấu quyết liệt với 5 tiểu đoàn địch (3 tiểu đoàn biệt động quân 35, 36, 38, tiểu đoàn 2 thủy quân lục chiến, 2 đại đội cảnh sát dã chiến). Ngày 7-6, Trung đoàn 3 được lệnh rút ra khỏi nội thành.

Trong đợt 2 này, Sư đoàn làm nhiệm vụ chiến đấu trên nhiều đường phố Sài Gòn. Do ta chậm chuyển hướng và cách đánh sau đợt 1, đợt tiến công thứ hai diễn ra khi địch đã tăng cường lực lượng và tổ chức ngăn chặn trên tất cả các hướng. Trên 5.000 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn đã anh dũng ngã xuống trên đường phố, để lại tình cảm tiếc thương trong lòng người dân Sài Gòn.

Cuối tháng 6-1968, toàn bộ lực lượng còn lại của Sư đoàn được lệnh rút lên sát biên giới Việt Nam - Campuchia. Nhận định tình hình đã thay đổi, không thể đưa chủ lực đánh tiếp vào Sài Gòn và các thị xã như ý định, tháng 7-1968, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định chuyển hướng hoạt động, huy động phần lớn các đơn vị chủ lực Miền mở chiến dịch tiến công địch trên hướng tây bắc và bắc Sài Gòn đánh vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, kéo lực lượng địch ở tuyến giữa và tuyến trong ra, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang các phân khu hoạt động.

Ở Tây Ninh, Sư đoàn bộ binh cơ giới 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, bố trí Lữ đoàn 1 ở khu vực ven thị xã, trong đó 1 tiểu đoàn ở Trảng Lớn, 1 tiểu đoàn ở Trà Phí, 1 tiểu đoàn ở Chà Là; Lữ đoàn 3 đứng ở khu vực Dầu Tiếng, Bến Củi; Lữ đoàn 2 (thê đội 2) đứng ở Củ Chi.

Mở màn chiến dịch, đêm 17-8-1968, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 3 tiến công cụm quân Mỹ ở Trà Phí cách thị xã Tây Ninh 5 km về phía Bắc. Các mũi tiến công của trung đoàn giữ bí mật khi chiếm lĩnh trận địa, lợi dụng lúc pháo bắn để tiếp cận, đột phá hướng chủ yếu chính xác và phát huy tốt các loại hỏa khí diệt tăng, diệt lô cốt địch. Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Quân Mỹ chết và bị thương hơn 400 tên, 33 xe tăng, xe bọc thép, sáu khẩu pháo 105, hai khẩu cối 106,7 mm bị phá hủy. Cùng ngày, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 tập kích cụm quân Mỹ ở bắc Trảng Lớn, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên. Chiến dịch mở đầu khá tốt, nhưng do sức tiến công của ta chưa đủ mạnh, một số trận không dứt điểm, địch không ra ứng cứu giải tỏa nên Sư đoàn và các đơn vị bạn không có điều kiện đánh địch ngoài công sự như ý định và kế hoạch chiến dịch.

Ngày 19-8, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Trung đoàn 3 (thiếu Tiểu đoàn 7), tập kích quân địch ở Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu 600 tên, phá hủy 82 xe quân sự, 10 khẩu pháo, bắn rơi 4 máy bay. Ngày 22 và 26-8, Trung đoàn 2 tập kích "ấp chiến lược" Bến Sỏi và cụm quân Mỹ đóng dã ngoại ở tây Bến Sỏi, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Từ ngày 10 đến ngày 28-9, chiến dịch chuyển sang đợt 2. Hướng chủ yếu (Tây Ninh), Trung đoàn 1 phối hợp với Trung đoàn 2 tập kích cụm quân Mỹ ở Lâm Vô, Bến Sỏi, buộc quân Mỹ phải tăng viện bằng cơ giới và đổ bộ đường không bằng máy bay lên thẳng, tạo điều kiện cho Trung đoàn 3 và Trung đoàn 88 vận động phục kích, diệt cơ giới và sinh lực địch trên đường 22, 26, liên tỉnh lộ 4, tập kích địch ở Bến Củi, Bến Sắn. Đêm 19-9, Trung đoàn 2 cài thế, dùng 1 tiểu đoàn diệt đồn Tàbăngrôbon do 1 đại đội bảo an ngụy đóng giữ, dụ quân địch lên cứu viện, tạo điều kiện cho bộ phận lớn lực lượng của trung đoàn vận động tập kích, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 2 đại đội biệt kích ngụy, bắn rơi chiếc máy bay lên thẳng chở Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh số 1 "Anh cả đỏ" Mỹ.

Đêm 22-12-1968, Trung đoàn 2 phối hợp với du kích địa phương vận động tập kích đánh thiệt hại nặng cụm quân Mỹ vừa đóng quân dã ngoại ở Bến Cầu. Đêm 24-1-1969, Trung đoàn 2 tiếp tục tiến công ấp chiến lược Trà Cao và sau đó trong nhiều ngày, tại khu vực Trà Cao - Gò Ngãi - ngã ba Bà Xẩm huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Trung đoàn đã kiên cường bám trụ, liên tục thực hiện 11 trận tập kích cụm tiểu đoàn quân Mỹ khi chúng vừa đổ quân đóng chốt tại Trà Cao; tiêu diệt, tiêu hao nhiều đơn vị của Mỹ - quân đội Sài Gòn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sư đoàn đã đánh 524 trận, làm thương vong 31.544 quân Mỹ và quân Sài Gòn; đánh thiệt hại 17 tiểu đoàn; phá hủy 1.441 xe quân sự; bắn rơi và phá hủy 394 máy bay các loại.

Mặc dù chưa hoàn thành trọn vẹn các nhiệm vụ được phân công, nhưng bằng xương máu, lòng quả cảm và quyết tâm chiến đấu triệt để, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 đã trực tiếp nhận nhiệm vụ bám đánh và chiến đấu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, góp phần cùng quân và dân cả nước lập nên kỳ tích: đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt căn bản của chiến tranh.

Với truyền thống của một đơn vị anh hùng, có bề dày kinh nghiệm của một đội quân chiến đấu, công tác, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ binh 9 đã và đang viết tiếp những trang sử mới, xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và Quân đoàn 4 thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




----------------------------------------------------------------
1. Với những thành tích đạt được, ngày 20-12-1969, đồng chí Nguyễn Văn Sơ được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #72 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 02:40:09 pm »

QUÂN VÀ DÂN TỈNH LONG AN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY LONG AN


Với 1,4 triệu quân, đế quốc Mỹ và lực lượng tay sai đã không thực hiện được mục tiêu "tìm diệt - bình định" trong cục diện chiến trường miền Nam vẫn chưa chuyển biến có lợi cho Mỹ. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc cũng không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương chiến lược cho chiến trường miền Nam. Chiến tranh xâm lược Việt Nam làm cho nội bộ giới cầm quyền Mỹ bị phân hóa và chia rẽ sâu sắc. Phong trào đấu tranh chống Mỹ, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lan rộng trên thế giới và trong lòng nước Mỹ . Tại Sài Gòn, "tham nhũng tràn lan, chính quyền chỉ thực sự kiểm soát các lõm, mục nát từ trong cơ cấu. Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiếp tục kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam... quân đội Việt Nam Cộng hòa mệt mỏi, thụ động có xu hướng thỏa hiệp...".

Tình hình thế giới và trong nước đã tạo điều kiện cho Đảng ta phân tích và hình thành những chiến lược lớn. Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, diễn ra đồng loạt trên toàn miền Nam, tiến công chủ yếu vào các sào huyệt, căn cứ trung tâm của địch ở thành thị, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Theo chỉ thị của Trung ương Cục, địa bàn tỉnh Long An và một số quận, huyện hướng tây nam Sài Gòn - Gia Định được sáp nhập thành 2 phân khu, lấy quốc lộ 4 (quốc lộ 1 ngày nay) làm ranh giới. Phân khu 2 gồm các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa, Bình Chánh, Tân Bình... có nhiệm vụ thực hiện tiến công từ hướng tây bắc vào các mục tiêu: Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất. Phân khu 3 gồm các huyện Cần Đước, Cần Giuộc, Tân Trụ, các quận 4, 7, Nhà Bè... tấn công vào tây nam Sài Gòn với mục tiêu quan trọng là Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh hải quân và hỗ trợ quần chúng thành phố nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành chính quyền. Tỉnh Kiến Tường được Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 8 giao nhiệm vụ tiến công dứt điểm thị xã Mộc Hóa, hỗ trợ phát động quần chúng nổi dậy giải phóng quận lỵ, nông thôn và bảo đảm hành lang vận chuyển từ biên giới tới vùng trọng điểm Mỹ Tho.

Theo chỉ đạo chiến lược của Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền, Đảng bộ Phân khu 2, Phân khu 3 tiến hành công tác chuẩn bị cho các nhiệm vụ đảm nhiệm tấn công trên một nửa địa bàn thành phố với phần lớn các mục tiêu quân sự, chính trị quan trọng, đồng thời bám sát vùng ven, chuẩn bị cho các đợt tiến công tiếp theo vào thành phố, chiến đấu, bảo vệ vùng giải phóng. Đây là những nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng bộ và quân, dân hai phân khu. Trên thực tế, quân và dân Long An chưa thực hành và tích lũy được kinh nghiệm chiến đấu trong thành phố. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng bộ cùng với quân và dân hai phân khu đã tích cực, bí mật, khẩn trương triển khai các mặt công tác, đảm bảo an toàn tuyệt đối, đúng thời gian quy định.

Công việc đầu tiên là các phân khu nhanh chóng ổn định tổ chức, nắm chắc lại các tổ chức đảng và cơ sở cách mạng, cơ sở quần chúng cách mạng trong nội thành, đây là mũi tấn công có vai trò quyết định đối với đợt tổng khởi nghĩa. Đồng thời, tranh thủ tận dụng cơ sở binh vận nội thành kết hợp bản đồ của thành phố, xác định rõ các mục tiêu tiến công.

Nhằm đảm bảo lực lượng cho mỗi phân khu từ 6 - 7 tiểu đoàn, các phân khu ủy quyết định huy động phần lớn lực lượng của bộ đội địa phương các huyện, du kích các xã và thanh niên mới nhập ngũ2. Đến cuối năm 1967, quân số cũng như quân trang đã được trang bị đầy đủ và tương đối mạnh. Công tác bảo đảm vật chất, hậu cần, kỹ thuật cũng được tích cực triển khai trong điều kiện khó khăn, gian khổ và nguy hiểm. Địa hình Long An trống trải, sình lầy, bị chia cắt, trong khi đó quãng đường cơ động dài (hơn 80km) lại bị phong tỏa, kiểm soát gắt gao . Nhận thức được những khó khăn cũng như xác định vai trò to lớn của nhân dân, bộ chỉ huy các phân khu đã chủ động phối hợp với các cơ quan thành lập hội đồng cung cấp, cùng huy động, động viên nhân dân các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Thủ Thừa, Bến Lức, Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí. Hàng chục ngàn người dân, hàng ngàn gia đình yêu nước của tỉnh đã tham gia vào các đội tải lương thực, tải đạn trong nhiều tháng. Phát hiện các hoạt động của ta, địch tổ chức đánh phá các tuyến vận chuyển (bắn pháo, ném bom, đổ biệt kích, thả máy ghi tiếng động, rải chất độc hóa học...). Tuy nhiên, các tuyến vận chuyển của ta vẫn kiên trì và hoạt động hiệu quả.

Tại Kiến Tường, nhằm tăng cường các vùng 4, 6, 8, Khu ủy chỉ định bổ sung cho Kiến Tường 5 đồng chí tỉnh ủy viên trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy. Tiểu đoàn 504 tập trung kiện toàn, trong đó chú trọng xây dựng, củng cố lực lượng đấu tranh chính trị, rà soát các cơ sở binh vận và móc nối liên lạc với các cơ sở nội tuyến. Trước những diễn biến mới và yêu cầu của chiến trường, Quân khu 8 quyết định điều Tiểu đoàn 504 tham gia vào đội hình của quân khu tăng cường lực lượng cho trọng điểm 1 (thành phố Mỹ Tho). Để bảo đảm quân số, Tỉnh ủy Kiến Tường đã nhanh chóng huy động, rút lực lượng từ bộ đội các vùng 4, 6, 8 và du kích đã qua chiến đấu thành lập hai đại đội bộ binh mang phiên hiệu Tiểu đoàn 504B, củng cố lại hai đại đội đặc công, đội biệt động thị xã Mộc Hóa, đại đội pháo cối. Mục tiêu chiến lược là Dinh Tỉnh trưởng, Tỉnh đoàn bảo an, Ty Cảnh sát, Đài Phát thanh, sân bay...

Vào lúc 3 giờ sáng mùng 1 Tết âm lịch (tức ngày 30-1-1968), từ chiến trường trọng điểm Chợ Lớn - Gia Định, các phân khu nhận lệnh chiến đấu. Mặc dù chưa có sự thống nhất thời gian hiệp đồng tác chiến nhưng các phân khu đã chủ động khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, khẩn trương tập trung binh lực hành quân tiến công vào Sài Gòn.

Phân khu 2, sau khi vượt 20km đường bộ, cánh thứ nhất gồm Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 12 đặc công chia làm hai mũi đánh vào đầu đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy được một số máy bay, diệt được nhiều tên lính nhảy dù. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng, các đơn vị của ta phải rút ra bám trụ và phản kích đẩy lui các đợt tấn công quyết liệt của địch ở khu vực ngã ba Bà Quẹo đến cầu Tham Lương. Cánh thứ hai gồm Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Tiểu đoàn 269 đã thọc sâu vào khu vực Phú Thọ Hòa, đánh chiếm đường Trần Quốc Toản, trụ lại trên một khu vực khá rộng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Sau một tuần bám trụ, do thiếu tiếp tế lương thực, đạn dược, các đơn vị phải lui về vùng ven phía tây Sài Gòn.

Phân khu 3, do thiếu lực lượng dẫn đường trong khi phải vượt qua nhiều sông rạch nên đến rạng sáng hôm sau mới cơ động đến vùng ven thành phố phối hợp với các lực lượng tiến hành tiến công vào các quận 8, 4 và Nhà Bè. Tuy nhiên, do thiếu vũ khí, đạn dược nên các tiểu đoàn rút ra vùng ven chiến đấu chống càn và chờ lệnh. Phối hợp với các lực lượng, Phân khu 6 tiến công vào nội thành đánh chiếm gây thiệt hại nhiều mục tiêu quan trọng như Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tòa Đại sứ, khu Hậu cần.

Tại Kiến Tường, ngày 31-1-1968, nhận lệnh của Quân khu, Ban Chỉ huy thống nhất của tỉnh triển khai theo hai hướng cánh Đông và cánh Tây tiến công vào thị xã Mộc Hóa. Do gặp phi pháo của lực lượng hành quân Cửu Long 2 của địch, nên đến giờ G cánh Đông vẫn chưa áp sát được các mục tiêu. Về phía cánh Tây, bộ phận đặc công và trinh sát đã bám sát mục tiêu sân bay. Tuy nhiên, do chưa có tín hiệu hiệp đồng từ cánh Đông, trong khi đó lực lượng phòng thủ của địch đã phát hiện các hoạt động của ta nên đã lập tức đưa pháo, lực lượng bảo an bao vây. Trước sự chống cự quyết liệt của địch, các đơn vị đã chủ động tổ chức lực lượng phản kích và rút dần về điểm tập kết. Ngày 2-2-1968, lực lượng cánh Đông tiếp tục nổ súng, tấn công vào các mục tiêu nhà lao, Dinh tỉnh trưởng và Tòa hành chính. Tại chiến trường trọng điểm Mỹ Tho, lực lượng Tiểu đoàn 504A sau khi xuất sắc tham chiến nhiều trận đánh giành thắng lợi, được lệnh trở về Kiến Tường đánh địch, bảo vệ hành lang biên giới và củng cố lực lượng chuẩn bị cho các đợt tiến công tiếp theo.

Sau đợt 1, các phân khu 2, 3 nhận lệnh bám vùng ven thành phố sẵn sàng tiến công đợt 2. Phân khu 2, Phân khu 3 tập trung lãnh đạo tư tưởng cho lực lượng vũ trang, đúc rút kinh nghiệm, bài học của đợt 1, động viên bộ đội giữ vững tinh thần chiến đấu, đồng thời phải chiến đấu chống lại các đợt càn ở các vùng ven. Tuy nhiên, các đơn vị vẫn đứng vững ở những vị trí quy định và sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Thực hiện yêu cầu "đưa lực lượng tiến công thọc sâu vào nội đô Sài Gòn, diệt địch, trụ lại đánh địch phản kích càng sâu càng tốt" , đêm 5-5-1968, Phân khu 2, Phân khu 3 nhận mệnh lệnh tiến công đợt 2 vào nội thành Sài Gòn. Trên hướng Phân khu 2, cánh thứ nhất phối hợp với Sư đoàn 9 tiến về Bộ Tổng Tham mưu tiêu diệt nhiều tên rồi lui về trụ lại khu vực Bà Quẹo. Cánh thứ hai, Trung đoàn 2 tấn công theo hướng Phú Thọ Hòa, chiếm đường Trần Quốc Toản, sân vận động Cộng Hòa. Hướng Phân khu 3, lực lượng của ta được chia thành hai cánh: Cánh thứ nhất đánh vào khu vực Phú Lâm, Cầu Tre trụ một thời gian rồi rút về vùng ven; cánh thứ hai gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An tiến công Hưng Long, Đa Phước đánh chiếm cầu Chữ Y, một phần đường Phạm Thế Hiển. Tại đây, nhiều cuộc giao tranh ác liệt diễn ra liên tục suốt 7 ngày đêm, ta và địch giành giật nhau từng ngôi nhà, góc phố, con đường.

Tại Kiến Tường, lực lượng chủ yếu là Tiểu đoàn 504 được kiện toàn tiến về thị xã Tân An. Tại đây, địch đã bố trí hệ thống phòng thủ dày đặc với 1 tiểu đoàn, 1 liên đoàn bảo an, 2 tổng đoàn dân vệ và các lực lượng thiết giáp, hải quân. Tiểu đoàn 504 đã tổ chức các trận đánh ở các vùng ven và giành được nhiều thắng lợi tại Châu Thành, Vĩnh Công, Bình Tâm, An Vĩnh Ngãi.

Kết thúc hai đợt tấn công trên hướng của Phân khu 2, Phân khu 3 và tỉnh Kiến Tường đã thực hiện được yêu cầu của cấp chiến lược đề ra là đưa lực lượng vào sâu thành phố, bám trụ được nhiều ngày, bảo vệ được đường hành lang chiến lược, tạo ra những khu vực chiến sự quy mô lớn, thu hút lực lượng địch khá đông và tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Nhìn toàn cuộc, tỉnh Long An có hai khu vực là vùng ven Sài Gòn và vùng biên giới, nên trong kháng chiến, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tỉnh có nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt là tiêu diệt sinh lực địch, đánh phá bình định, tạo bàn đạp tấn công Sài Gòn và bảo đảm hành lang chiến lược . Trên thực tế, quân và dân tỉnh Long An không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xuyên suốt đó, mà còn trực tiếp tham gia hai trong sáu mũi tiến công thuộc khu trọng điểm chiến lược, tấn công vào các cơ quan đầu não của địch tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Qua hai đợt lãnh đạo quân và dân Long An tham gia tổng tiến công với nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, bằng ý chí tự lực, tự cường, Đảng bộ tỉnh Long An đã hoàn thành xuất sắc ba trọng trách do Trung ương Cục và Quân ủy Miền giao: tổ chức lãnh đạo toàn quân, toàn dân thực hiện nhiệm vụ chiến lược tấn công thành phố Sài Gòn - Gia Định, lãnh đạo và động viên tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn, với nhiệm vụ bám trụ vùng ven nhằm thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa và bảo đảm hành lang biên giới. Những đóng góp, hy sinh của quân và dân Long An là to lớn, thể hiện bản lĩnh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí kiên cường và tinh thần chấp hành mệnh lệnh vô điều kiện vì thắng lợi chung; đồng thời, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong công tác lãnh đạo, phát động quân và dân tham gia đánh giặc, giữ nước. Đó là truyền thống quý báu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xứng với danh hiệu "Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc" do Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng ngày 17-9-1967.

Thắng lợi của cuộc tiến công Xuân Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm giảm ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam tại hội nghị Pari. Từ kết quả thắng lợi trên, Đảng bộ tỉnh Long An đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc:

Một là, phát huy cao độ ý thức tổ chức chấp hành chủ trương, đường lối chung của Đảng để phục vụ theo yêu cầu chiến lược trong điều kiện phải bảo đảm tuyệt đối tính bí mật, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Long An chấp hành nghiêm chủ trương, sẵn sàng triển khai nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, khác nhau (tấn công các cứ điểm quan trọng, chấp nhận giao tranh với địch trên mặt trận đường phố). Sau khi kết thúc các đợt tấn công, lực lượng vũ trang tỉnh nhận lệnh bám trụ vùng ven, tổ chức các đợt chống càn của địch đồng thời củng cố, ổn định quân số và sẵn sàng tấn công theo chỉ đạo. Bằng quyết tâm, nghị lực và trí tuệ, Đảng bộ tỉnh Long An đã đoàn kết vượt qua khó khăn, tuân thủ sự chỉ đạo chung, tổ chức và lãnh đạo quân, dân phối hợp hiệu quả cùng các mặt trận khác, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, tinh thần chủ động của Đảng bộ và quân, dân tỉnh Long An được phát huy cao độ, biểu hiện cụ thể trên các mặt công tác chuẩn bị, đáp ứng quân số, chuyển tải khí tài, lương thực đợt tổng công kích, công tác vận động quần chúng nhân dân Phân khu 2, Phân khu 3 tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến lược là mốc son trong chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ Long An. Hàng trăm tấn vũ khí, lương thực đã được quân và dân Long An vận chuyển vượt qua nhiều chốt chặn, càn quét gắt gao của địch, đến các lõm căn cứ vùng ven, đưa vào nội thành. Tại Kiến Tường, trước giờ nổ súng 48 giờ, Đảng bộ tỉnh Kiến Tường đã động viên, huy động lực lượng bộ đội từ các vùng thành 2 đại đội bộ binh mang phiên hiệu Tiểu đoàn 504B cơ động đến chiến trường trọng điểm Mỹ Tho. Qua đó cho thấy, tình yêu quê hương đất nước, khát vọng tự do và tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu ngoan cường của quân và dân nếu được nuôi dưỡng, khơi gợi, động viên sẽ được phát huy cao độ trong những thời điểm cam go.

Ba là, công tác động viên tinh thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ hy sinh, tinh thần gương mẫu của đảng viên, chiến sĩ là bước trưởng thành trong chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ tỉnh Long An. Đảng bộ các phân khu 2, 3, Kiến Tường đã quán triệt tư tưởng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, quần chúng cách mạng, động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ nỗ lực vượt bậc, sẵn sàng tham gia cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa đi đến giành thắng lợi quyết định. Từ đó, tạo ra khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng có trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Long An. Tinh thần chiến đấu dũng cảm, chịu đựng gian khổ, hy sinh, tinh thần gương mẫu của đơn vị, cán bộ, chiến sĩ được biểu hiện cụ thể qua các đợt hành quân, các đợt bám trụ vùng ven đầy gian khổ, tổn thất hoặc hăng hái tham gia các mặt trận có nhiều giao tranh ác liệt, mất mát, hy sinh. Nhiều trận đánh oanh liệt như trận cầu Chữ Y, trận Tân Sơn Nhất (Sài Gòn), trận kênh Nguyễn Văn Trỗi (Kiến Tường); nhiều tấm gương đơn vị lực lượng vũ trang anh hùng tiêu biểu như Tiểu đoàn 1 Long An, Tiểu đoàn 504; hàng trăm cán bộ, chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hy sinh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cuộc tổng tiến công. Điều đó khẳng định sự trưởng thành trong lãnh đạo cách mạng của Đảng bộ tỉnh Long An đi đến thắng lợi cuối cùng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #73 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 02:53:44 pm »

QUÂN VÀ DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



TỈNH ỦY BÌNH DƯƠNG


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn tấn công chiến lược, bất ngờ, với quy mô lớn vào sào huyệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở các thành phố, thị xã lớn trên toàn miền Nam, mở ra một bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; cơ bản làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari để bàn việc chấm dứt chiến tranh. Trong cuộc Tổng tiến công này, cùng với quân dân miền Nam, quân và dân tỉnh Bình Dương đã có đóng góp quan trọng góp phần làm nên chiến thắng trên mặt trận miền Đông Nam Bộ.

Theo tổ chức mới, địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) thuộc 2 phân khu: 1 và 5; trong đó, Phân khu 5 hướng bắc Sài Gòn gồm các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành (bao gồm các xã Chánh Phú Hòa, Thới Hòa, Tân Định, Tân An, Tương Bình Hiệp của huyện Bến Cát giao về cho Châu Thành), thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Dĩ An và một phần Phân khu 1 gồm các huyện Bến Cát, Dầu Tiếng. Các cơ quan của tỉnh Thủ Dầu Một là nòng cốt tổ chức cơ quan Phân khu 5. Cơ cấu tổ chức đảng, các đoàn thể, lực lượng vũ trang của các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát vẫn giữ nguyên khi chuyển giao về cho Phân khu 1. Đồng thời, một số cán bộ Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Thủ Dầu Một được bổ sung cho Phân khu 1. Ngay sau đó, các cơ quan của tỉnh Thủ Dầu Một chuyển từ căn cứ Long Nguyên - Bến Cát về Chiến khu D. Phân khu ủy chỉ đạo các huyện thị, các lực lượng khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy.

Thực hiện Nghị quyết Quang Trung, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã triển khai cho các địa phương huyện, thị, lực lượng vũ trang tích cực làm công tác chuẩn bị, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chủ động xây dựng và giữ vững vùng căn cứ (vùng giải phóng rộng lớn với khoảng trên 15.000 dân), gấp rút xây dựng phát triển thực lực mọi mặt theo kịp tình hình khi thời cơ đến. Đến tháng 1-1968, quân và dân Thủ Dầu Một đã chuẩn bị được 1.500 tấn lương thực; 750 tấn vũ khí, đạn dược; đội ngũ cán bộ được bổ sung và kiện toàn đầy đủ, lực lượng vũ trang phân khu có Trung đoàn Đồng Nai gồm 4 tiểu đoàn (K1, K2, K3, K4), các đại đội 12,7 ly, cối, ĐKB, công binh, đặc công, trinh sát. Mỗi huyện, thị có 1 đại đội, riêng thị xã có thêm đội Biệt động; ở các huyện có thêm Trung đội nữ pháo binh. Lực lượng tập trung và các đại đội của huyện được tổ chức biên chế đủ, tỷ lệ đảng viên từ 20 - 37%. Các cơ sở được phát triển rộng khắp, toàn tỉnh có trên 900 đoàn viên ở cơ sở, các tổ chức quần chúng khác có trên 9.000 hội viên. Các phương án tác chiến được chuẩn bị, hiệp đồng, luyện tập chu đáo.

Trong khi đó, lực lượng địch trên chiến trường Phân khu 5 đến cuối năm 1967 đã có tương đương 3 sư đoàn với một hệ thống bố phòng có thể chi viện cho nhau cả về hỏa lực, binh lực khi cần.

Trong đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, để giữ triệt để yếu tố bí mật, bất ngờ trước giờ nổ súng, chỉ huy các phân khu chỉ được biết nhiệm vụ cụ thể trước 48 giờ. Tuy vậy, mọi công tác chuẩn bị vẫn được gấp rút tiến hành. Nhiệm vụ tổng quát và phương thức sử dụng lực lượng của Phân khu 5 là: Sử dụng một phần lực lượng của Phân khu (K1, K3) thọc sâu vào nội thành tiếp sức cho đặc công và biệt động trong nội thành đánh chiếm và giữ Đài Phát thanh Sài Gòn, Đại sứ quán Mỹ; sử dụng K2, K4 cùng đội biệt động thị xã, đặc công của phân khu (có sự chi viện của đại đội hỏa lực phân khu) đánh chiếm thành Công binh, Tòa hành chính, phối hợp với quần chúng nổi dậy chiếm thị xã, thiết lập chính quyền cách mạng; các huyện còn lại, sử dụng lực lượng hiện có đánh chiếm các mục tiêu trên địa bàn của huyện, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kiềm, giành quyền làm chủ. Phối hợp với Sư đoàn 7 đánh Sư đoàn 5 quân đội Sài Gòn tại Bến Cát, Phú Giáo, không cho địch chi viện vào Sài Gòn.

Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất các lực lượng trên địa bàn Phân khu 5 trong Tổng tiến công và nổi dậy, hướng Phân khu 5 thành lập Ban Chỉ huy thống nhất, do đồng chí Hoàng Cầm, đại diện Bộ Chỉ huy Miền làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Minh Đạo, Bí thư Phân khu ủy, làm Chính ủy. Trên hai hướng chính của Phân khu 5 (nội đô và thị xã Thủ Dầu Một), phân khu tổ chức hai Sở chỉ huy tiền phương để chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp các lực lượng trên từng hướng.

Đúng 0 giờ ngày 31-1-1968, tức đêm mùng 2 Tết Mậu Thân, cùng với toàn Miền, quân và dân Phân khu 5 đồng loạt nổ súng tấn công, nổi dậy khắp trong địa bàn Phân khu. Trên hướng đánh vào nội đô, đêm 31-1 rạng ngày 1-2-1968, Tiểu đoàn 3 (K3) nghi trang bí mật thọc sâu, bất ngờ tiến công và đánh chiếm chi khu cảnh sát Hàng Xanh. Ta làm chủ khu vực lúc 2 giờ sáng. Sáng ngày 1-2-1968, nhờ có cơ sở nội thành dẫn đường, Tiểu đoàn 3 di chuyển qua khu vực Cầu Sơn tiếp tục chiến đấu. Tại thị xã Thủ Dầu Một, 3 giờ sáng ngày 1-2-1968, Tiểu đoàn Phú Lợi (K4) cùng Đại đội đặc công Phân khu, Đội Biệt động thị xã nổ súng đánh chiếm thành Công binh. Tiểu đoàn 2 và Đại đội 12,7 ly của Phân khu nổ súng tiến công Ty Cảnh sát. Phối hợp với lực lượng Phân khu, lực lượng tại chỗ của thị xã, huyện Châu Thành tiến công tiêu diệt và bức rút nhiều đồn bốt địch như: Bốt Nhà Hơi, Tua chùa Úp Nồi, Bốt Bà Lụa, Đồn Bến Thế, Bưng Cầu, Tua Ngã tư Sở Sao..., kêu gọi binh lính mang súng trở về với nhân dân. Ta làm chủ tình hình ấp Chánh Trong, Lò Chén, ấp Chánh Ngoài. Các địa phương còn lại nổ súng đánh chiếm và làm chủ các mục tiêu theo kế hoạch.

Sau thắng lợi của đợt tiến công Tết Mậu Thân, chấp hành Chỉ thị ngày 23-3-1968 của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục chủ trương mở đợt tiến công lần thứ hai. Nhiệm vụ của Phân khu 5 trong đợt 2 là: Sử dụng lực lượng Trung đoàn Đồng Nai cùng với Tiểu đoàn 4 Quyết thắng (Sài Gòn - Gia Định) tấn công khu vực Gò Vấp, phát triển về phía Bình Hòa, Hàng Xanh, Thị Nghè, Quận 3, phát triển vào nội thành, đánh chiếm Khu an ninh quân đội và Đài Phát thanh Sài Gòn. Đêm ngày 4 rạng 5-5-1968, đội "cảm tử" của Trung đoàn Đồng Nai hành quân bằng xe vận tải bất ngờ tiến công bốt gác ở cầu Thị Nghè, chiếm các cao ốc đường Tự Đức, giữ đường cho Tiểu đoàn 3, 4 vào đánh chiếm Khu an ninh quân đội và Đài Phát thanh Sài Gòn. Bị bất ngờ, hải quân địch đóng gần bốt Thị Nghè bỏ chạy tán loạn. Đêm 13 rạng ngày 14-5-1968, Trung đoàn Đồng Nai dùng thuyền câu vượt sông Sài Gòn - ngã ba sông Rạch Cát, tiếp tục tiến công về hướng ngã ba Cây Thị, ngã năm Bình Hòa. Sau 10 ngày chiến đấu, ta đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn thủy quân lục chiến, tiểu đoàn dù, 3 đại đội cảnh sát dã chiến, Tiểu đoàn 38 biệt động quân, bắn cháy 7 xe tăng, xe bọc thép, sau đó được lệnh rút về An Phú Đông củng cố, chuẩn bị sẵn sàng trở lại chiến đấu.

Liên tục từ tháng 6-1968 đến cuối tháng 8-1968, các tiểu đoàn của Trung đoàn Đồng Nai liên tục thay nhau chiến đấu, bám trụ cùng lực lượng các huyện đánh bại chiến dịch "Nguyễn Trãi II" của địch với mục tiêu đánh phá mạnh vành đai Sài Gòn - Gia Định để hỗ trợ cho chương trình "bình định cấp tốc".

Tính chung trong 3 đợt (cả nội đô, trên địa bàn Phân khu và huyện Dầu Tiếng, Bến Cát) quân, dân Thủ Dầu Một đã diệt, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên (đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, 3 đại đội bộ binh Mỹ, 7 tiểu đoàn, 9 đại đội quân Sài Gòn), bắn cháy và phá hủy 30 xe tăng, xe bọc thép; làm tan rã và tê liệt bộ máy kìm kẹp ở nông thôn, làm đảo lộn thế bố trí của địch, buộc chúng phải đưa quân về phòng ngự; vùng giải phóng mở rộng áp sát thị xã và Sài Gòn. Khí thế quần chúng sôi nổi, thực lực cách mạng phát triển (kết nạp 145 đảng viên, xây dựng 386 du kích xã, ấp, động viên 300 thanh niên tòng quân, kết nạp được 3.867 hội viên giải phóng, đào tạo được một số cán bộ từ cơ sở lên). Lực lượng vũ trang địa phương đã vận dụng nhiều cách đánh phong phú, đa dạng, sáng tạo như kết hợp địa đạo chiến với ô ụ chiến đấu, sử dụng thành thạo các loại vũ khí thô sơ, tự tạo, nâng giá trị cách đánh thành chiến thuật, hiệu quả chiến đấu cao, độc đáo, sáng tạo; quân và dân phân khu đều dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu, còn một người cũng đánh, một tổ cũng bám trụ chiến đấu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân tỉnh Thủ Dầu Một trong Mậu Thân 1968, đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng trên mặt trận Sài Gòn - Gia Định, cùng quân và dân cả nước giáng một đòn chí mạng, bất ngờ vào cơ quan đầu não và hậu phương của Mỹ - chính quyền Sài Gòn; đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện của địch; đánh bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm phá sản kế hoạch "tìm diệt và bình định" của địch, làm cho làn sóng phản đối chiến tranh trong nước Mỹ dâng cao, chính quyền Mỹ bị khủng hoảng và làm lung lay ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mỹ, buộc Mỹ phải thừa nhận không thể chiến thắng bằng quân sự, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh ở miền Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân tỉnh Thủ Dầu Một trong Mậu Thân 1968 thể hiện sự quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đường lối đúng đắn của Khu ủy, Tỉnh ủy; sự nỗ lực, tinh thần hy sinh, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân tỉnh Thủ Dầu Một.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một, các trận đánh, nhất là Hàng Xanh, ngã ba Cây Thị, ngã Năm Bình Hòa... tiêu biểu về quy mô và tính chất ác liệt. Đây cũng là lần đầu tiên ta dùng một lực lượng lớn tổng hợp đánh vào nội đô, trung tâm đầu não của địch và bám trụ, giằng co với địch nhiều ngày. Qua đó cho thấy sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang phân khu; cán bộ, chiến sĩ được tôi luyện, thử thách trong lửa đạn, kinh nghiệm chiến đấu ngày càng dày dạn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tỉnh Thủ Dầu Một được xem là một trong những trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Mặc dù, ta chưa giành được thắng lợi như mong muốn nhưng có ý nghĩa chính trị to lớn. Đó là bước tập dượt đầu tiên cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 sau này giành thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời, cũng để lại nhiều bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn quý báu trong công tác chuẩn bị, tác chiến trong đô thị, phối hợp, hiệp đồng quân binh chủng... có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, được cấp ủy, chính quyền, quân, dân tỉnh Bình Dương vận dụng và giành thắng lợi vẻ vang trong thời gian còn lại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, góp phần to lớn cùng quân và dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và bảo vệ biên giới Tây Nam cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #74 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 03:11:11 pm »

KHU 6 TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG
VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



ThS. NGUYỄN THÀNH TÀI
Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Thuận


Tháng 10-1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập các chiến khu. Khi đó, Chiến khu 6 bao gồm các tỉnh từ Phú Yên trở vào Bình Thuận và các tỉnh Nam Tây Nguyên 1. Tháng 5-1961, Bộ Chính trị quyết định thành lập Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 6 gồm các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng 2, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam do đồng chí Trần Lê (Liên Khu ủy viên Khu 5, Bí thư Liên tỉnh 3) làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Yblock Êban làm quyền Tư lệnh Quân khu 3. Đến tháng 10-1966, Trung ương Cục, Quân ủy Miền điều chỉnh chiến trường, tách một số tỉnh thuộc địa bàn Khu 6 thành lập Khu 10; Khu 6 còn lại các tỉnh: Lâm Đồng (gồm cả tỉnh Tuyên Đức) 4, Ninh Thuận và Bình Thuận. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, là địa bàn nằm xa sự chỉ đạo của Trung ương, nhưng quân và dân Khu 6 đã góp phần cùng cả nước làm nên một mùa Xuân đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Tháng 1-1968, tại Hội nghị lần thứ 14, Bộ Chính trị nhận định: "... do những thất bại có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam và do những thắng lợi to lớn của ta, trong đông - xuân này, địch khó có khả năng mở cuộc "phản công mùa khô" lần thứ ba. Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước". Từ đó, Bộ Chính trị nhận thấy cần "đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định".

Ngày 8-1-1968, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu nhận được quyết định của Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền về Tổng tiến công và nổi dậy, do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến (Tám Kiến Quốc) - Phó Tư lệnh Miền trực tiếp về Khu 6 truyền đạt (trên đường đi đồng chí bị đụng địch càn nên Quân khu tiến công địch chậm mất một tuần so với kế hoạch). Nhiệm vụ Khu 6 là phối hợp với toàn Miền, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đánh vào các thị trấn, thị xã, khu vực quan trọng của đối phương; trong đó, cố gắng tập trung dứt điểm Phan Thiết và Đà Lạt; trong đó Phan Thiết là trọng điểm số một. Thường vụ Khu ủy Khu 6, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu hạ quyết tâm, ngoài việc làm chủ hai thị xã, còn cố gắng giải phóng toàn bộ nông thôn các tỉnh Bình Thuận - Ninh Thuận - Lâm Đồng.

Lực lượng tham gia tấn công Phan Thiết gồm Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 482, các đơn vị đặc công của tỉnh Bình Thuận, đơn vị vũ trang thị xã và lực lượng chính trị địa phương. Lực lượng tham gia đánh Đà Lạt gồm Tiểu đoàn 186 (Tiểu đoàn lá bép), Tiểu đoàn 145, các đơn vị đặc công thị xã và tỉnh Lâm Đồng, lực lượng chính trị địa phương. Do nhận được chỉ thị của Trung ương Cục chậm (ngày 8-1-1968), thời gian chuẩn bị ít, công tác tổ chức còn thiếu sót, nên ngày 29-1-1968, khi nhận được lệnh của Trung ương Cục về "giờ G", nhưng các đơn vị chủ lực chưa sẵn sàng và chưa đến kịp mục tiêu 5. Việc Khu 6 tổ chức đánh chậm hơn so với các nơi khác ở miền Nam là mất thời cơ, không còn yếu tố bất ngờ. Mặc dù vậy, nhờ làm tốt công tác động viên chính trị, với tinh thần quyết tâm cao và chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, nên các đơn vị trong Quân khu đã bước vào cuộc tổng tiến công theo tinh thần "kịp bao nhiêu đánh bấy nhiêu, kịp lúc nào đánh lúc ấy", năng động giải quyết tổ chức hiệp đồng trong quá trình chiến đấu để tiến công địch.

Đợt 1, tại trọng điểm Phan Thiết, lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận chia thành ba mũi đánh vào các mục tiêu quan trọng trong thị xã. Đêm 31-1 rạng sáng 1-2-1968 (đêm mùng 2 rạng ngày mùng 3 Tết Mậu Thân 1968) 6, hai cánh quân nổ súng tấn công các mục tiêu đã định trong nội ô. Cánh quân còn lại chủ yếu do việc thông tin liên lạc chậm trễ 7, nổ súng chậm hơn (tối 2-2-1968). Tuy sự phối hợp tác chiến tại trọng điểm Phan Thiết chưa được đồng bộ, nhưng đây vẫn là nơi chiến sự diễn ra quyết liệt nhất. Địch sử dụng pháo ở hạm đội ngoài biển và máy bay thả bom vào các khu nội thị và ngoại ô, bất chấp, gây nhiều đám cháy, phá hoại nhà cửa. Đồng bào phải chạy lánh khỏi vùng chiến sự, nhưng cũng có đồng bào ở lại cùng bộ đội làm công sự tránh đạn pháo, cứu chữa nhà cháy, tiếp tế cơm nước cho bộ đội... Qua bốn ngày đêm chiến đấu liên tục, đêm ngày 4-2, lực lượng ta rút ra ngoài củng cố lực lượng, bám trụ đánh địch phản kích.

Tại Đà Lạt, đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, Bộ Chỉ huy Tiền phương điều gấp bộ đội địa phương các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương cũng chia thành ba hướng tấn công nội ô với tinh thần "lực lượng đến được bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu". Tuy vậy, do chưa chuẩn bị và đường xa, điều kiện cơ động gặp nhiều khó khăn nên tiếp cận mục tiêu chậm, đến đêm ngày 31-1 rạng ngày 1-2-1968 ta mới nổ súng tấn công. Riêng đơn vị chủ công mãi đến đêm ngày 4-2 mới đến kịp để tham chiến. Địch phòng thủ tại Đà Lạt có chỗ yếu, sơ hở, nhưng do ta vào chậm, lực lượng lại ít, phân tán, nên địch đã được báo động, có điều kiện và thời gian cố thủ những nơi trọng yếu. Trong những ngày lực lượng vũ trang tấn công địch, cơ sở cốt cán bên trong Đà Lạt đã vận động quần chúng nổi dậy. Những nơi lực lượng vũ trang bám trụ, mặc dù địch phản kích ác liệt, nhưng đồng bào vẫn tham gia tải thương, tải đạn, tiếp tế lương thực cho bộ đội. Ngày 5-2-1968, lực lượng tham chiến rút ra ngoài, để lại một tiểu đoàn chặn địch truy kích.

Phối hợp với trọng điểm Phan Thiết và Đà Lạt, đêm ngày 31-1, lực lượng đặc công tỉnh Ninh Thuận đột nhập vào thị xã Phan Rang diệt bọn quân cảnh ngụy, thu một số súng. Một bộ phận khác đột nhập vào sân bay Thành Sơn bắn cháy một máy bay Dakota.

Trong khi lực lượng tại Phan Thiết chuyển ra vùng ven tiếp tục ép địch trong thị xã, vừa củng cố lực lượng, vừa mở rộng vùng nông thôn, thì nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Miền: tấn công đợt 2 vào ngày 17-2-1968, trọng điểm vẫn là Phan Thiết và Đà Lạt.
 
Đợt 2, ở trọng điểm Phan Thiết, công tác tổ chức, chuẩn bị được tiến hành chu đáo, lực lượng tham gia tấn công được điều chỉnh, bổ sung, tăng cường vũ khí, đạn dược, công tác hiệp đồng chiến đấu được chặt chẽ. Đêm ngày 17-2-1968, hai cánh quân đồng thời tấn công các mục tiêu trong thị xã nhưng rất tiếc do thủy triều lên, còn một cánh quân không vượt được sông Cà Ty, nên phải bám trụ bên ngoài tạo thế vây ép thị xã. Đến đêm ngày 21-2, được lệnh của Bộ Chỉ huy Tiền phương, các đơn vị đánh Phan Thiết chuyển ra bám trụ ở vùng ven, vừa đánh địch bung ra tìm lực lượng ta, vừa tổ chức những mũi thọc sâu đánh vào nội ô; đồng thời tổ chức đánh địch, giành dân ở vùng nông thôn.

Tại Đà Lạt, đêm ngày 17-2-1968, các lực lượng vũ trang mở cuộc tiến công vào nội ô. Lực lượng địch bị tiêu hao nhiều qua đợt 1, nên đã tăng cường thêm quân, có cả lính Mỹ và Nam Hàn. Vì vậy, lực lượng tấn công của ta gặp sự phản kháng quyết liệt của địch nên không tiến được vào trung tâm thành phố. Đêm ngày 18-2, ta lại tổ chức tiến công vào nội thị nhưng không đạt kết quả. Suốt ngày 19-2, địch dùng pháo đánh phá và chọc thủng được phòng tuyến của ta. Một bộ phận lực lượng ta mất sức chiến đấu nên đến tối đã rút lui. Đến ngày 21-2, trước tình hình địch tăng cường phòng giữ Đà Lạt, Bộ Chỉ huy Tiền phương quyết định chuyển lực lượng ra khỏi nội đô, hoạt động ở nông thôn, trọng điểm là huyện Đức Trọng. Trong thị xã chỉ để lại một lực lượng và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ, kìm giữ địch.

Phối hợp với trọng điểm Phan Thiết và Đà Lạt, lực lượng đặc công tỉnh Ninh Thuận đột nhập vào sân bay Thành Sơn lần thứ hai, bắn cháy một máy bay. Sau đó, ta dùng pháo liên tục bắn phá sân bay, các máy bay không thể cất cánh được. Một lực lượng khác của tỉnh phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích đánh phá và chia cắt đường Phan Rang - Đà Lạt trong nhiều ngày.

Đợt 3, đêm ngày 11-3 rạng sáng ngày 12-3, lực lượng vũ trang Bình Thuận tấn công và làm chủ yếu khu Phú Long, đánh sập cầu Phú Long (cách Phan Thiết 7km về hướng đông bắc). Địch đưa quân từ Phan Thiết ra ứng cứu, lọt vào trận địa phục kích của ta, bị thiệt hại nặng về sinh lực, buộc phải lui quân. Ta thu nhiều vũ khí, đạn dược, huy động xe chở về vùng căn cứ.

Thượng tuần tháng 3-1968, lực lượng vũ trang Lâm Đồng nổ súng tấn công yếu khu cảnh sát Tùng Nghĩa, đánh diệt đồn Phú Hội, đánh thiệt hại 2 đại đội bảo an từ chi khu Đức Trọng tiếp viện, làm chủ thị trấn Tùng Nghĩa. Bộ đội địa phương và các đội công tác các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương, Di Linh đã đánh phá giao thông, giành quyền làm chủ một số ấp trên các tuyến đường quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, quần chúng nổi dậy chiếm trụ sở, bắt tề, phá hàng rào ấp chiến lược.

Trong đợt cao điểm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, từ ngày 31-1 đến 15-3-1968, quân và dân Khu 6 đã loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên địch (gần 8.800 tên bị diệt, 2.200 tên đào, rã ngũ); diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, 1 chi đoàn xe bọc thép, 22 đại đội và 37 trung đội; bức rút 37 đồn bốt, phá hủy nhiều ấp chiến lược; bắn rơi và phá hủy 60 máy bay, đánh hỏng 126 xe quân sự (có 37 xe bọc thép); phá hủy 9 kho xăng dầu, 5 kho vũ khí, đánh sập 52 cầu cống, cắt đứt và làm gián đoạn từng lúc hầu hết các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn. Phối hợp với quân sự, quần chúng nhân dân đã nổi dậy giải phóng 20 xã, 102 ấp với 50.000 dân.

Tuy khả năng có hạn, nhưng Khu 6 đã chấp hành nghiêm chỉ thị của trên cố gắng phối hợp tốt với cao điểm Tổng tiến công nổi dậy trong toàn miền Nam, cùng một lúc tiến công vào hai thị xã lớn, đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày, nhiều khu vực và mục tiêu quan trọng. Tuy không dứt điểm được nhưng đã gây thiệt hại nặng, làm cơ quan đầu não cấp tỉnh của địch có lúc bị tê liệt, rối loạn. Kế hoạch bình định nông thôn của địch bị đánh mạnh, hệ thống kìm kẹp nhiều nơi bị tan rã, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Qua đó góp phần cùng toàn miền Nam làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Tuy vậy, cuộc Tổng tiến công có những hạn chế như: công tác tổ chức và chuẩn bị còn thiếu sót; sự chỉ đạo ở một số địa phương chưa thật khẩn trương, quyết liệt nên chưa đạt được mục tiêu đề ra ban đầu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Khu 6 đã đi vào lịch sử, với truyền thống khắc phục khó khăn, tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, vượt qua khó khăn, thử thách, không ngại hy sinh, kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, tích cực đánh theo yêu cầu, quyết giành thắng lợi.




-----------------------------------------------------------------
1. Tháng 11-1946, các chiến khu đổi thành khu.
2. Lâm Viên, Đồng Nai Thượng hiện nay là tỉnh Lâm Đồng và một phần tỉnh Đồng Nai.
3. Năm 1963, đồng chí Nguyễn Minh Châu thay làm Tư lệnh Quân khu 6.
4. Do chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập năm 1958 trên cơ sở đô thị Đà Lạt và các quận Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương.
5. Đêm 21-1-1968, cơ yếu nhận lệnh từ Trung ương Cục, trong lúc đồng chí Bí thư Khu ủy đi Tuyên Đức, Tư lệnh Quân khu được phân công trực đang đi Bắc Bình. Ngay trong đêm, liên lạc xuống cơ quan Tỉnh ủy Bình Thuận báo cho đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận về cơ quan Khu nhận lệnh. Sáng ngày 29-1, lệnh của Miền mới chuyển đến các tỉnh và đơn vị, chiều ngày 29-1, đồng chí Tư lệnh Quân khu về đến cơ quan, kế hoạch cụ thể mới bắt đầu triển khai.
6. Chậm một ngày so với toàn Miền (đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, tức đêm mùng 1 rạng sáng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân).
7. Theo dự định, sau khi ăn Tết xong, Quân khu sẽ sử dụng đơn vị này phối hợp với bộ đội địa phương đánh diệt một cứ điểm cách Phan Thiết khoảng 50 km về hướng đông bắc. Vì thế trong khi chưa biết được thông tin cũng như ngày giờ cụ thể của cuộc Tổng tiến công, đơn vị đã hành quân, vừa ăn Tết, nhằm kịp thời chuẩn bị tiếp cận mục tiêu cho nhiệm vụ được giao.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #75 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 03:25:00 pm »

QUÂN VÀ DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968


THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY BÀ RỊA - VŨNG TÀU


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và một phần địa bàn tỉnh Đồng Nai) là cửa ngõ phía bắc Sài Gòn. Với vị trí quan trọng đó, kẻ thù đã tập trung mọi nỗ lực để xây dựng địa bàn thành tuyến phòng ngự vững chắc, lá chắn cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn.

Sau hơn hai năm tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", lực lượng địch trên địa bàn tỉnh gồm: 3 Lữ đoàn quân Mỹ (Lữ đoàn dù 173, 2 Lữ đoàn bộ binh 199, 314), Trung đoàn thiết giáp số 11 tại căn cứ Suối Râm - Long Khánh, các cụm pháo ở Gia Ray, Sông Thao, Trảng Bom, Suối Dĩa. Quân đồng minh có: 1 trung đoàn quân Thái Lan ở Long Thành, Nhơn Trạch; 1 chiến đoàn quân Úc, Tân Tây Lan đóng ở Bà Rịa. Quân chủ lực ngụy có: 5 tiểu đoàn bộ binh (thuộc Sư đoàn 18 bộ binh), 46 đại đội bảo an, 5 tiểu đoàn lính dù và lính thủy đánh bộ, 7 đại đội trợ chiến, 2 tiểu đoàn biệt động quân, chưa kể lực lượng cảnh sát dã chiến, phòng vệ dân sự... Tương quan lực lượng giữa ta và địch là khá chênh lệch; do đó, nhiệm vụ của quân và dân Bà Rịa - Long Khánh hết sức nặng nề và khó khăn.

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968, tháng 10-1967, Trung ương Cục đã bố trí lại chiến trường, giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập Khu trọng điểm gồm 6 phân khu, tổ chức thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn; các huyện Long Thành và Nhơn Trạch thuộc tỉnh Long - Bà - Biên được sáp nhập với Thủ Đức và Quận 1 (Sài Gòn) để thành lập Phân khu 4. Địa bàn còn lại thành lập tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (bao gồm: thị xã Cấp (Vũng Tàu), thị xã Bà Rịa và thị xã Long Khánh; các huyện: Long Đất, Xuyên Mộc, Xuân Lộc, Định Quán, Cao Su), do đồng chí Lê Đình Nhơn (Chín Lê) làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Phạm Văn Hy (Tư Hy), Nguyễn Trọng Cát (Ba Đắc) làm Phó Bí thư. Lực lượng vũ trang tỉnh lúc bấy giờ có các đơn vị bộ đội tập trung gồm: Tiểu đoàn 445, 440; cấp huyện có các đại đội bộ binh như C41 (Châu Đức), C25 (Long Đất), C51 (Xuyên Mộc); các đơn vị biệt động thị xã Bà Rịa, Vũng Tàu, Long Khánh. Ban Chỉ huy Tỉnh đội Bà Rịa - Long Khánh gồm có đồng chí Đặng Hữu Thuấn (Út Đặng) là Tỉnh đội trưởng; các đồng chí Phạm Lạc (Tư Lạc) và Đỗ Văn Chương (Ba Liên) là Tỉnh đội phó.

Tháng 11-1967, theo sự chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã chỉ đạo các địa phương tăng cường xây dựng và củng cố lực lượng, xây dựng cơ sở nội tuyến, đẩy mạnh công tác binh địch vận, chuẩn bị địa bàn và các điều kiện cần thiết cho một cuộc tiến công toàn diện, rộng lớn. Đồng thời, thành lập Đoàn 30 làm nhiệm vụ vận tải vũ khí từ sông Đồng Nai về các căn cứ của tỉnh và cung cấp cho các đơn vị (chủ yếu là đạn cối và súng bộ binh). Đến cuối năm 1967, phong trào cách mạng ở tỉnh có những bước chuyển biến mới; lực lượng vũ trang tỉnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chỉ huy và cơ sở cách mạng được tôi luyện và trưởng thành trong chiến đấu, sẵn sàng đón đợi thời cơ chiến lược.

Trong hai ngày 26 và 27-1-1968, tại căn cứ Tỉnh đội ở phía bắc Suối Sách - Sông Ray, đồng chí Nguyễn Ngọc Tân (Hai Lực), đặc phái viên của Trung ương Cục về truyền đạt chỉ đạo của Trung ương Cục và thông qua kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy trên địa bàn tỉnh. Theo đó, tỉnh đã bố trí lại chiến trường và lực lượng; phân công cán bộ phụ trách các địa bàn trọng điểm; riêng các đơn vị bộ đội tập trung tỉnh (Tiểu đoàn 445, Tiểu đoàn 440) làm nòng cốt tiến công quyết liệt vào cơ quan đầu não của địch tại thị xã, thị trấn; tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân nổi dậy, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ.

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã ban hành Nghị quyết lãnh đạo, trong đó nêu rõ: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh nỗ lực phi thường, quyết tâm cao độ, thực hiện nhiệm vụ tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên toàn chiến trường bằng 3 mũi giáp công mạnh mẽ... phương thức tiến công và nổi dậy là: Kết hợp đánh bên trong và đánh bên ngoài; tiến công đồng loạt, nhưng có trọng điểm; tập trung lực lượng và các mục tiêu then chốt; đánh đòn quyết định làm rung chuyển hệ thống địch trên toàn tỉnh; trọng tâm tiến công và nổi dậy là làm chủ hai thị xã Bà Rịa, Long Khánh" và quyết định thành lập 2 ban chỉ huy tiền phương bao gồm:

Ban Chỉ huy tại Mặt trận thị xã Bà Rịa do đồng chí Lê Đình Nhơn (Chín Lê), Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy; đồng chí Đặng Hữu Thuấn (Út Đặng), Tỉnh đội trưởng là Chỉ huy trưởng Mặt trận; đồng chí Phạm Văn Hy, Phó Bí thư Tỉnh ủy làm Phó Chính ủy. Tiểu đoàn bộ binh 445 (bộ đội tỉnh) có nhiệm vụ tiến công vào Tỉnh đoàn bảo an, Dinh tỉnh trưởng, khu tiếp vận, tiểu khu quân sự, trại giam, các đồn chốt; lực lượng biệt động thị xã Bà Rịa có nhiệm vụ tiến công vào bộ máy tề ngụy và bốt xã Long Hương, hỗ trợ cho phong trào quần chúng diệt ác, phá kìm.

Ban Chỉ huy tại Mặt trận thị xã Long Khánh do đồng chí Lê Sắc Nghi, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Chính ủy Mặt trận; đồng chí Phạm Lạc, Tỉnh đội phó là Chỉ huy trưởng Mặt trận. Tiểu đoàn bộ binh 440 có nhiệm vụ: làm nòng cốt tiến công làm chủ thị xã Long Khánh, các huyện Xuân Lộc, Định Quán; phối hợp với lực lượng vũ trang các huyện và Đội biệt động thị xã Long Khánh đánh chiếm các cứ điểm, đồn chốt ở các vùng phụ cận, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Đồng thời, Tỉnh ủy quyết định giải thể Ban Cán sự huyện Xuyên Mộc, thành lập lại Huyện ủy Xuyên Mộc nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng trên địa bàn. Đồng chí Sáu Lùn giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Dương Văn Đông (Ba Bộ) là Phó Bí thư, đồng chí Bảy Thùng là Huyện đội trưởng.

Đêm 30 và ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968, cả miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy. Tại Bà Rịa: rạng sáng mùng 2 Tết (chậm hơn 1 ngày so với kế hoạch), Tiểu đoàn 445 hành quân cấp tốc từ căn cứ Núi Dinh về Bà Rịa, triển khai tiến công đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã như Tỉnh đoàn bảo an, Dinh tỉnh trưởng và một số mục tiêu quan trọng khác. Địch phản kích dữ dội ở khu vực Nhà đèn, nhưng bộ đội Tiểu đoàn 445 đã chiến đấu dũng cảm, bảo vệ chỉ huy sở, giữ vững trận địa.

Đội biệt động thị xã Bà Rịa đã nổ súng đánh chiếm trụ sở xã Long Hương, phối hợp với lực lượng an ninh vũ trang phát động quần chúng nổi dậy, truy lùng bọn ác ôn. Tuy nhiên, ta không chiếm được bốt Long Hương và giải phóng xã như yêu cầu đặt ra. Lực lượng vũ trang các huyện Long Đất, Châu Đức, Cao Su đã nổ súng tiến công đánh chiếm các mục tiêu: chi khu Long Lễ, thị trấn Đất Đỏ, Dinh Quận trưởng Long Điền, chi thông tin; đồn điền Ông Quế, Hàng Gòn, An Lộc, Cẩm Mỹ.

Tại thị xã Long Khánh: Tiểu đoàn 440 (bộ đội tỉnh), Đại đội K8 (Xuân Lộc) và Đội biệt động thị xã Long Khánh tiến công đánh chiếm các mục tiêu: Khu 33 chiến thuật, trụ sở CIA (Mỹ), Tòa hành chính tỉnh Long Khánh (của chính quyền Sài Gòn), sân bay dã chiến, Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 18. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng chênh lệch, quân địch phản kích quyết liệt, bộ đội ta bị thương vong nhiều, phải rút về căn cứ để củng cố lực lượng.

Kết thúc đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân địch trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Long Khánh bị tổn thất nặng nề. Đây là thắng lợi to lớn của quân và dân toàn tỉnh: Lần đầu tiên tổng tiến công và nổi dậy ở tỉnh lỵ và các chi khu, quận lỵ trong tỉnh; phát huy sức mạnh ba mũi giáp công, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, đưa chiến tranh vào tận "hang ổ" của Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Qua đó, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Đợt 2 (từ ngày 5-5 đến ngày 18-6-1968), thực hiện chỉ đạo của Trung ương Cục và Ban Cán sự T7 1, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Long Khánh thực hiện đợt tiến công thứ hai vào các thị trấn Long Điền, Đất Đỏ, cứ điểm đồi Con Chim (yếu khu Cẩm Mỹ), tổ chức chốt chặn, đánh địch phản kích. Trong trận đánh đồi Con Chim, bộ đội bắn cháy 16 xe tăng M.41 của Trung đoàn thiết giáp số 11 (Mỹ). Bộ đội các huyện Long Đất, Châu Đức chiến đấu dũng cảm, bảo vệ vững chắc căn cứ Minh Đạm, căn cứ Suối Thề và một số địa bàn trọng yếu của tỉnh.
Kết thúc đợt 2, Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh đã tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm, đánh giá tình hình nhiệm vụ và đề ra phương hướng công tác trong tình hình mới. Hội nghị khẳng định: ưu điểm lớn nhất của quân và dân tỉnh là đã "Quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh cách mạng của Đảng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết thi hành mệnh lệnh của cấp trên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào". Tuy nhiên, công tác kiểm tra và chuẩn bị cho quần chúng nổi dậy chưa được chu đáo; tư tưởng "lạc quan tếu" về một khả năng "dứt điểm" trong đợt 1 đã làm ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân (do bị tổn thất, hy sinh, bị địch khủng bố...). Vì vậy, Tỉnh ủy chỉ đạo: "Tiếp tục tiến công tiêu diệt sinh lực địch, nhưng phải chuẩn bị cơ sở quần chúng thật chu đáo, phải củng cố xây dựng lại các cơ sở bí mật, tránh bộc lộ lực lượng bên trong. Khi có thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang tỉnh làm nòng cốt, kết hợp đấu tranh vũ trang với nổi dậy của quần chúng để giành quyền làm chủ"; nhiệm vụ của quân và dân trong tỉnh là khẩn trương củng cố lại căn cứ địa, củng cố tổ chức biên chế, lực lượng và xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân địa phương phát triển vững chắc, khôi phục thế và lực của cách mạng trên địa bàn tỉnh.

Từ cuối năm 1968, Mỹ và chính quyền Sài Gòn điều chỉnh chiến lược, triển khai thực hiện chương trình "bình định cấp tốc" nhằm giành lại những địa bàn xung yếu, đánh bật các cơ sở cách mạng, củng cố bộ máy cơ sở hạ tầng của chúng; trọng điểm bình định của chúng là tập trung ở các vùng xung yếu, đông dân, vùng ven đô, dọc theo các trục lộ quan trọng. Riêng tại tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Mỹ và quân đội Sài Gòn điều về 11 đoàn bình định (mỗi đoàn có từ 30 đến 60 tên), phối hợp với các đơn vị như: Lữ đoàn dù 2, Sư đoàn bộ binh 18, Chiến đoàn Hoàng gia Úc. Tại Vùng 3 chiến thuật, lực lượng bảo an tiểu khu, kết hợp cảnh sát dã chiến tiến hành các cuộc hành quân bình định. Kể từ đây, quân và dân Bà Rịa - Long Khánh tập trung mọi nỗ lực, phá tan âm mưu bình định cấp tốc của Mỹ và quân đội Sài Gòn, duy trì thế đấu tranh chính trị, binh vận cho quần chúng, làm tan rã lực lượng phòng vệ dân sự, khôi phục thế và lực của cách mạng.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục, Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, trực tiếp là Tỉnh ủy Bà Rịa - Long Khánh, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã dũng cảm chiến đấu, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân và dân toàn miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh.

Tròn nửa thế kỷ đã trôi qua, tinh thần tiến công cách mạng, không ngại hy sinh gian khổ; lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 mãi mãi là truyền thống tốt đẹp, là những kinh nghiệm quý báu để quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay vận dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




-----------------------------------------------------------------
1. Tháng 6-1968, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chỉ đạo khu trọng điểm gồm các tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Biên Hòa, Tây Ninh, quyết định thành lập Ban Cán sự T7 và Bộ Chỉ huy tiền phương Quân khu 7 để chỉ đạo Bà Rịa - Long Khánh và Phân khu 4.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #76 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 03:34:52 pm »

QUÂN VÀ DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY LÂM ĐỒNG


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Lâm Đồng 1 là hậu phương của địch, nơi chúng có ưu thế gấp nhiều lần so với ta về lực lượng, phương tiện, hỏa lực, sức cơ động. Nhiều cơ sở đào tạo, cung cấp nhân lực cho quân đội và chính quyền Sài Gòn được tập trung xây dựng và hoạt động.

Về phía ta, đây là chiến trường gây cơ sở, xây dựng, cất giấu lực lượng, mở rộng căn cứ cách mạng, xây dựng và bảo vệ hành lang chiến lược Bắc - Nam, làm bàn đạp xuất phát đánh địch trên các hướng, nhằm tạo thế, lực cho phong trào cách mạng địa phương vừa đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam.

Đầu năm 1968, sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, đồng chí Trần Lê, Bí thư Khu ủy Khu 6 triệu tập các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng và Tuyên Đức họp Hội nghị ở Lán Tranh (nay thuộc huyện Lâm Hà) để phổ biến Nghị quyết Khu ủy và giao nhiệm vụ cho từng tỉnh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy. Các đồng chí cán bộ Khu ủy và Quân khu ủy trực tiếp chỉ đạo các địa bàn, nhất là hai trọng điểm Đà Lạt và Phan Thiết (Bình Thuận). Khu ủy điều hai tiểu đoàn 186 và 145 đang hoạt động tại Lâm Đồng lên tăng cường cho chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức.

Nhận được chỉ thị của Khu ủy, Tỉnh ủy Lâm Đồng triển khai kế hoạch, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Do lực lượng vũ trang của tỉnh phần lớn chi viện cho chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức nên Tỉnh uỷ chủ trương rút một số thanh niên ở các cơ quan và du kích căn cứ thành lập hai đại đội bộ đội địa phương; huy động dân công vùng căn cứ làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí; thành lập Ban chỉ đạo tiền phương, chọn Di Linh làm trọng điểm, quyết tâm làm chủ đoạn đường từ đèo B’Lao đến đèo Chuối (Quốc lộ 20) để cô lập thị xã B’Lao, đồng thời chỉ thị cho cơ sở bên trong nắm tình hình, khi có thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.

Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, lực lượng vũ trang của tỉnh và các huyện đồng loạt tiến công vào thị trấn Di Linh, thị xã B’Lao và một số ấp chiến lược dọc Quốc lộ 20. Do lực lượng ta ít, thời gian chuẩn bị gấp nên khi địch phản kích quyết liệt, các đơn vị phải rút ra trụ lại vùng nông thôn.

Ngày 18-3-1968, các đại đội 210, 212 của tỉnh và đại đội 742 (K3) phục kích đánh Đại đội 407 thám kích có cố vấn Mỹ chỉ huy ở đồi Nguyên Ngọc, diệt gần 100 tên địch, bắt sống hai tên cố vấn Mỹ. Cùng thời gian trên, đội biệt động thị xã B’Lao và đơn vị 715 đặc công tiêu diệt trung đội dân vệ ở ấp An Lạc, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ... Qua đợt tiến công, tuy lực lượng ít và chưa thực hiện được nhiệm vụ của Tỉnh ủy đề ra, nhưng quân và dân Lâm Đồng đã đánh địch trên nhiều địa bàn, buộc chúng phải giãn lực lượng để đối phó, góp phần chia lửa cùng chiến trường Đà Lạt - Tuyên Đức.

Sau Tết Mậu Thân 1968, tại Lâm Đồng, địch đẩy mạnh bình định nông thôn để giành dân, chiếm đất. Hệ thống kìm kẹp và bộ máy chính quyền Sài Gòn ở cơ sở được tăng cường và củng cố hơn trước. Trong các ấp chiến lược, ngoài lực lượng kìm kẹp công khai còn có tổ chức hoạt động chìm để nắm dân và theo dõi các hoạt động của ta. Chúng tiến hành phân loại từng đối tượng, kiểm soát chặt chẽ những gia đình có người thân tham gia cách mạng, tạo ra sự ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân, hòng cắt đứt sự liên lạc giữa lực lượng bên ngoài với cơ sở cách mạng và nhân dân ta trong vùng chúng kiểm soát.

Trước những âm mưu và thủ đoạn mới của địch, Tỉnh uỷ chủ trương chuyển hướng hoạt động, các đội công tác được củng cố và tăng cường thêm lực lượng để bám dân, với phương châm "Bám dân đến đâu thì trụ lại đến đó, kiên quyết không cho địch tái chiếm". Rút kinh nghiệm qua hai đợt tiến công đầu mùa Xuân 1968, trong đợt hoạt động Hè - Thu, lực lượng vũ trang tỉnh nhanh chóng củng cố tổ chức, xác định quyết tâm thực hiện nhiệm vụ tấn công tiêu diệt địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.

Trong năm 1968, với khí thế liên tục tấn công, quân và dân trong tỉnh đã đánh địch hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên, làm thất bại những mục tiêu cơ bản trong kế hoạch bình định và chiến lược "quét và giữ" của Mỹ - quân Sài Gòn khiến trong vùng chúng kiểm soát không còn nơi nào là an toàn và bất khả xâm phạm.

Đến cuối năm 1968, vùng căn cứ đã thành lập được chính quyền ở căn cứ Bắc và Nam (tương đương cấp huyện), 17 hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, 11 ban chấp hành nông hội, 11 ban chấp hành thanh niên và 10 ban chấp hành phụ nữ xã. Hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở từng bước đi vào nền nếp và sát phong trào hơn trước.

Vùng căn cứ đã thật sự trở thành hậu phương trực tiếp, là nơi cung cấp sức người, sức của cho phía trước đánh địch. Đó là điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương phát triển mạnh mẽ, vững chắc.

Tại tỉnh Tuyên Đức, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, Khu uỷ chọn thị xã Đà Lạt làm trọng điểm 2 (thị xã Phan Thiết là trọng điểm 1). Do thời gian chuẩn bị khẩn trương và điều kiện cơ động gặp nhiều khó khăn, nên đến ngày nổ súng tấn công, hai tiểu đoàn tăng cường vẫn chưa cơ động đến vị trí tập kết. Trước tình hình đó, Đảng ủy Mặt trận quyết định: dù bất cứ giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ Khu ủy giao, các đơn vị bộ đội địa phương huyện được điều động gấp lên tăng cường cho các hướng tấn công vào Đà Lạt, còn ở vùng nông thôn do các đội công tác đảm nhận, cán bộ Tỉnh ủy được phân công xuống các hướng trực tiếp chỉ đạo.

Trong những ngày lực lượng vũ trang tiến công địch, các cơ sở cốt cán bên trong Đà Lạt đã vận động quần chúng ở nhiều phường, ấp nổi dậy phá bộ máy kìm kẹp của địch. Ở những nơi lực lượng vũ trang bám trụ, mặc dù địch phản kích ác liệt, dùng máy bay ném bom, bắn phá, nhưng đồng bào đã dũng cảm vượt qua bom đạn để tiếp tế cho bộ đội, tải thương, nắm tình hình hoạt động của địch báo cho các đơn vị. Trong cuộc chiến đấu này, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân. Một số đồng chí đã được kết nạp vào Đảng ngay tại địa bàn hoạt động và có nhiều người đã anh dũng hy sinh.

Mặc dù có sự chuẩn bị, nhưng địch vẫn bị bất ngờ trước các hoạt động tiến công liên tục của ta, chúng tăng cường đến Đà Lạt 1 tiểu đoàn Cộng hòa, 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 biệt đoàn cảnh sát phối hợp với lực lượng tại chỗ tổ chức phòng thủ xung quanh thị xã và các vị trí quan trọng.

Bước sang đợt 2, các đơn vị vẫn tập trung tấn công vào Đà Lạt. Trước tình hình địch tăng cường lực lượng phòng giữ và phản kích quyết liệt, nên Đảng ủy Mặt trận và Tỉnh ủy Tuyên Đức chủ trương đưa phần lớn lực lượng ra hoạt động ở vùng nông thôn, nhằm kéo địch trong thị xã ra ngoài để tiêu diệt, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá kìm, giành quyền làm chủ.

Qua hai đợt hoạt động cao điểm Xuân 1968, quân và dân tỉnh Tuyên Đức đã phối hợp với hai tiểu đoàn của Khu ủy đánh 180 trận. Kết hợp với hoạt động quân sự, các đơn vị còn tổ chức trên 100 cuộc míttinh với gần 5.000 lượt người tham gia, phát động quần chúng diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ ở 6 ấp.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị (4-1968) về việc tiếp tục mở đợt tấn công và nổi dậy mùa Hè 1968, Tỉnh ủy chọn huyện Đức Trọng làm địa bàn trọng điểm, đồng thời dùng lực lượng đặc công, biệt động đánh vào một số vị trí quan trọng của địch ở Đà Lạt; sử dụng hỏa lực mạnh bắn vào sân bay Cam Ly, Trường Võ bị và các trận địa pháo của địch. Sau những đợt tổng tiến công, nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam, từ giữa năm 1968, Mỹ - ngụy thực hiện chiến lược "quét và giữ", nhằm đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã, thị trấn và giành lại những vùng nông thôn bị mất. Ở Tuyên Đức, địch tập trung lực lượng phản kích, đánh phá phong trào cách mạng quyết liệt hơn trước. Càn quét, đánh phá đến đâu chúng gom dân vào các ấp chiến lược, củng cố bộ máy kìm tại chỗ, tiến hành nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đánh phá cơ sở cách mạng bên trong. Chúng đẩy mạnh bao vây kinh tế, cho máy bay bắn phá, rải chất độc hóa học ở những khu vực sản xuất và hậu cứ của ta.

Trong đợt hoạt động Thu - Đông 1968, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về lương thực, vũ khí, nhưng theo chủ trương chung, lực lượng vũ trang trong tỉnh vẫn liên tục tấn công địch ở quận lỵ, tiêu diệt bộ máy kìm tại chỗ và xây dựng cơ sở cách mạng bên trong.

Qua một năm liên tục tiến công địch, phong trào cách mạng tỉnh Tuyên Đức đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Quân và dân trong tỉnh đánh địch trên 500 trận, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Hoạt động quân sự có tác động hỗ trợ cho phong trào diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ của quần chúng. Điểm nổi bật của phong trào là vừa đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị, binh vận, vừa chú trọng xây dựng thực lực cách mạng tại chỗ, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.

Thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968 mà Lâm Đồng đạt được bắt nguồn trước hết từ đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài giỏi của Trung ương Đảng, của Khu ủy, của Liên tỉnh 3 và sự chi viện, giúp đỡ to lớn về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, của tình đoàn kết chiến đấu chung một chiến trường của Đảng bộ, quân và dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Những bài học kinh nghiệm về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng được vận dụng vào thực tiễn địa phương đã làm rõ tính chủ động, sáng tạo của Lâm Đồng, cụ thể là:

Nhân tố hàng đầu bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng là việc xây dựng hệ thống tổ chức lãnh đạo. Mở phong trào đến đâu hình thành tổ chức lãnh đạo đến đó. Qua rèn luyện thử thách, Đảng bộ Tỉnh đã không ngừng được xây dựng, củng cố và trở thành hạt nhân lãnh đạo, là bộ tham mưu có kinh nghiệm của phong trào cách mạng, được nhân dân tin yêu, gắn bó và đùm bọc.

Đảng bộ tỉnh luôn rất coi trọng và quán triệt nguyên tắc trong xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang cách mạng. Lâm Đồng không phải là địa bàn hoạt động của các đơn vị chủ lực lớn, nên việc xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh lớn mạnh có ý nghĩa rất quan trọng. Lực lượng vũ trang Lâm Đồng vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từng bước trưởng thành ba thứ quân, phối hợp chặt chẽ các lực lượng, đánh địch cả phía trước và phía sau, vừa bảo vệ vững chắc căn cứ cách mạng, vừa đánh vào hậu phương và căn cứ của địch trong đô thị, hỗ trợ nhân dân vùng địch tạm chiếm nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Lực lượng vũ trang Tỉnh đã thực sự là nòng cốt của chiến tranh nhân dân, xứng đáng với lòng tin yêu, quý mến của nhân dân, viết nên truyền thống "Trung thành vô hạn - Đoàn kết kỷ cương - Tự lực tự cường - Quyết chiến quyết thắng".

Quán triệt và thực hiện sáng tạo quan điểm tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính. Do điều kiện địa lý tự nhiên khắc nghiệt, đi lại khó khăn, lại xa sự chỉ đạo, chi viện của Trung ương nên chiến trường Cực Nam Trung Bộ nói chung, tỉnh Lâm Đồng nói riêng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các lực lượng cách mạng luôn nêu cao quyết tâm chủ động khắc phục khó khăn, kiên trì bám chiến trường, bám dân, bám phong trào, vừa đánh địch, vừa xây dựng và phát triển lực lượng, vừa sản xuất tại chỗ. Không có nơi nào, lúc nào lực lượng cách mạng thoát ly khỏi địa bàn công tác ngay cả ở những địa bàn, thời điểm khó khăn nhất.

Đồng thời với việc vận dụng linh hoạt phương châm, phương thức công tác đô thị phải luôn thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng gắn với xây dựng vùng căn cứ cách mạng vững mạnh. Vùng cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn Lâm Đồng là những vùng rất mới, nơi hành lang và căn cứ cách mạng được xây dựng. Lợi dụng đặc điểm này, địch dùng mọi âm mưu, thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo đồng bào, gây chia rẽ giữa các dân tộc. Vì vậy, trong vận động, tuyên truyền phải làm cho nhân dân hiểu rõ chính sách của Đảng, luôn lấy đoàn kết để tạo nên sức mạnh, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản, tương trợ là mối quan hệ thiết yếu giữa các dân tộc. Mọi hành động và thái độ đối xử của cán bộ, chiến sĩ đều phải thực sự chân thành mới tập hợp được quần chúng tự giác làm cách mạng. Để xây dựng căn cứ vững mạnh, Đảng bộ Tỉnh luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc. Những cán bộ, đảng viên là người tại chỗ đã phát huy được vai trò lãnh đạo trong các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, là lực lượng nòng cốt trong việc vận động đồng bào thực hiện các phong trào cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn các đội vũ trang tuyên truyền đã vận động hơn 10.000 đồng bào tham gia cách mạng, xây dựng các vùng căn cứ phía Nam và phía Bắc đường 20 (tỉnh Lâm Đồng cũ), phía Tây Bắc tỉnh Tuyên Đức (cũ). Vùng căn cứ của Tỉnh đã trở thành hậu phương trực tiếp vững chắc, là nơi cung cấp sức người, sức của cho phía trước đánh địch.

Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của quân và dân tỉnh Lâm Đồng đạt được, bắt nguồn trước hết từ đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy 5, Khu ủy 6, Liên tỉnh 3, sự chi viện, giúp đỡ to lớn về sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc, của tình đoàn kết chiến đấu chung một chiến trường của Đảng bộ và quân dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên.




------------------------------------------------------------------
1. Tỉnh Lâm Đồng lúc bấy giờ là 2 tỉnh: Lâm Đồng (cũ) gồm các huyện: Bảo Lâm, Di Linh, Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên và tỉnh Tuyên Đức gồm thị xã Đà Lạt và các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương, Lâm Hà, Đam Rông hiện nay.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #77 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 04:07:28 pm »

MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ BẢO ĐẢM TÁC CHIẾN
BIỆT ĐỘNG TẠI SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tá TRẦN HUY ĐỊNH
Trưởng ban Lịch sử quân sự - Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7


Sài Gòn là thành phố lớn nhất miền Nam, nơi tập trung các cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn nên được bảo vệ rất cẩn mật. Vùng ven đô và nội thành, địch triển khai mạng lưới an ninh, cảnh sát, do thám, dân vệ. Khu trung tuyến do lực lượng biệt động quân tinh nhuệ bảo vệ. Tuyến phòng thủ vòng ngoài giáp các tỉnh phụ cận, do quân Mỹ và chư hầu án ngữ, phối hợp với lực lượng chủ lực và tổng trừ bị, cùng các loại phương tiện chiến tranh hiện đại, thực hiện hành quân tìm diệt, gom dân vào ấp chiến lược quanh các đồn, chốt và trục giao thông. Thực hiện chủ trương chiến lược "đưa chiến tranh vào lòng địch", việc bảo đảm cho các lực lượng Biệt động tác chiến tại Sài Gòn - Gia Định, đặc biệt là vũ khí trang bị trong suốt cuộc kháng chiến nói chung cũng như trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn đòi hỏi một quá trình chuẩn bị lâu dài, công phu, bí mật.

Một là, dựa vào dân, xây dựng lõm chính trị tạo chỗ đứng chân bí mật, liên hoàn, vững chắc ngay trong sào huyệt kẻ thù.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các lõm chính trị ở đô thị (chủ yếu tập trung tại Sài Gòn) gắn liền với phong trào đấu tranh cách mạng tại miền Nam. Các lõm chính trị thường hình thành tại các khu dân cư lao động nghèo gần các cơ quan đầu não, đồn bốt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Dựa vào dân, các lõm chính trị này trở thành căn cứ cách mạng tồn tại ngay trong lòng địch và ngày càng phát triển hoàn chỉnh từ tổ chức đảng, chính quyền cách mạng cho đến lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị... trong đó có nhiều cơ sở của lực lượng biệt động.

Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã dựa vào quần chúng, bám chắc cấp ủy và lực lượng vũ trang địa phương, chấp nhận mọi hy sinh, kiên trì "ba hóa" bao gồm "hợp pháp hóa, nghề nghiệp hóa, quần chúng hóa". Đến cuối năm 1967, các đơn vị bảo đảm đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, có 11 cơ sở ém vũ khí và phương tiện di chuyển, 13 cơ sở khác có hầm chứa vũ khí cho các mục tiêu chiến lược. Từ 19 lõm chính trị, ta tạo nên khoảng 400 điểm ém quân. Tiêu biểu là các lõm ở các ấp Bác Ái, cầu Bông (Gia Định), khu lao động Bàn Cờ (Quận 3), khu Xóm Chùa, Tân Định (Quận 1)... Một số cơ sở có hầm trú ém quân và vũ khí... phục vụ các trận đánh quan trọng như hầm tại số 287/70 Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) do Trần Văn Lai (Mai Hồng Quế) xây dựng; hầm tại số 438/58 đường Lê Văn Duyệt (Cách mạng Tháng Tám) do vợ chồng Lê Tấn Quốc (Bảy rau muống) xây dựng; hầm tại số 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) cách Đài Phát thanh Sài Gòn không đầy 100 mét, do Trần Phú Cương (Năm Mộc) xây dựng...

Do lực lượng biệt động không có tổ chức cơ quan và phân đội hậu cần, nên công tác bảo đảm phải dựa vào cơ sở mật trong nội đô. Các cơ sở mật có nhiệm vụ đảm bảo tài chính, vũ khí, phương tiện đi lại... cho hoạt động tác chiến biệt động. Đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên phải đối mặt với nguy hiểm. Người của cơ sở mật phải tạo "vỏ bọc" để tự mưu sinh và tự đảm bảo cho hoạt động chiến đấu. Khi cần thiết, cơ sở mật được cơ quan kinh tài của địa phương hoặc của các tổ chức quần chúng chi viện về tài chính. Tháng 9-1964, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Ban Bảo đảm chiến đấu cho biệt động Thành, gồm hai đội mang mật danh là A20 và A30 1. Việc lựa chọn cán bộ, chiến sĩ biệt động đưa vào các đội A20 cũng như A30 được Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiến hành rất cẩn trọng theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, do đích thân Tư lệnh Quân khu duyệt từng người. Các đồng chí đó đều phải là những cán bộ, đảng viên trung kiên, đã có quá trình thử thách trong lao tù, đã từng chịu đựng mọi thủ đoạn tra tấn của địch. Tất cả đều phải có nghề nghiệp ổn định, đã tạo được "vỏ bọc" vững chắc, sống hợp pháp trong thành phố. Đây là hai tiêu chuẩn đầu tiên và cũng là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất để lựa chọn những người làm nhiệm vụ này. Ngoài ra, các đồng chí đều đã từng trực tiếp chiến đấu hoặc tham gia phục vụ chiến đấu và là những cán bộ, chiến sĩ giỏi làm công tác vận động quần chúng. Khi được chọn vào A20 hoặc A30, những người này tạm rút khỏi các hoạt động chiến đấu trực tiếp.

Ngoài việc xây dựng cơ sở mật để phục vụ chiến đấu theo từng nhiệm vụ, từng đợt hoạt động, ta còn thường xuyên xây dựng mạng lưới hậu cần trong nhân dân, tổ chức lượng dự trữ phù hợp ở từng khu vực theo hướng lâu dài để khi cần là bảo đảm được. Khai thác thế trận hậu cần nhân dân đối với lực lượng biệt động có 2 cách: một là, thông qua cấp ủy, cơ quan quân sự, kinh tài địa phương móc nối với các cơ sở quần chúng để thu mua; hai là, dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân với nhiều hình thức như trực tiếp nuôi dưỡng, giúp tiền, giúp vật chất, chăm sóc khi ốm đau, cấp cứu điều trị khi bị thương, che giấu bảo vệ khi hoạt động giữa lòng địch...

Đặc biệt trong việc tổ chức mua sắm, sử dụng phương tiện đi lại và chiến đấu phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người sử dụng, không để địch phát hiện những sơ hở của thủ tục sở hữu, từ đó làm lộ tung tích chủ phương tiện. Các phương tiện cũng phải phù hợp "mốt" với từng lứa tuổi, từng thời gian... bảo đảm không để địch phát hiện dấu hiệu khác thường. Tổ chức mua sắm phương tiện cho công tác chuẩn bị chiến đấu khi có thời cơ chiến lược phải được tiến hành hết sức căn cơ; phải do những người, những cơ sở có "vỏ bọc" vững chắc làm chủ sở hữu phương tiện.

Hai là, xây dựng căn cứ hậu cần - kỹ thuật hoàn chỉnh ở các bàn đạp vùng ngoại ô, tạo chỗ dựa vững chắc cho cơ sở trong nội đô.

Để bảo đảm cho tác chiến biệt động phải có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ ngoài vào trong. Ngoài việc xây dựng cơ sở ở nội đô còn phải xây dựng bàn đạp vững chắc ở các căn cứ vùng ven. Những bàn đạp này thuộc vùng căn cứ du kích nên có cách tiến hành xây dựng riêng, khác hẳn với những yêu cầu và cách tiến hành xây dựng trong vùng tranh chấp, nhất là ở vùng địch kiểm soát hoàn toàn. Bàn đạp phải được xây dựng sát ven đô, gần với chiến trường nội đô, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, nối liền giữa cơ quan chỉ đạo ở bên ngoài với các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở bên trong.

Kinh nghiệm cho thấy, ở Sài Gòn, địch rất chú trọng đánh phá vùng ven. Chúng thường xuyên dùng nhiều lực lượng càn quét, áp dụng nhiều thủ đoạn, nguy hiểm nhất là mạng lưới mật báo, gián điệp. Nếu ta không tích cực tạo các bàn đạp vững chắc ở vùng ven, đặc biệt là vùng sâu, vùng yếu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chỗ đứng và thế đứng của lực lượng chi viện cho các cơ sở ở bên trong. Chính vì vậy, dù địch đánh phá khốc liệt nhưng yêu cầu đặt ra đối với lực lượng bảo đảm là phải tạo được thế đứng áp sát đô thị. Vừa tạo thế đứng ở bên ngoài ấp chiến lược, vừa chuẩn bị cơ sở ngay bên trong ấp chiến lược. Ở những vùng mà nhân dân bị địch xáo trộn, kìm kẹp chặt, cần phải kiên quyết tạo lõm chính trị; phát triển cơ sở quần chúng cảm tình và dần dần hình thành chỗ đứng, thế đứng vững chắc. Đối với các bàn đạp ở vùng tranh chấp hoặc dựa lưng vào vùng giải phóng thì tập trung tạo nhiều cửa ngõ, mở nhiều tuyến đường dự phòng khi bị địch đánh phá càn quét thường xuyên thì tổ chức giao thông, liên lạc vào nội đô bằng các hành lang và tuyến đường dự phòng đó. Phải kết hợp chặt chẽ với địa phương, với các lực lượng khác để bảo vệ và mở rộng bàn đạp; tổ chức chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu tốt góp phần cùng địa phương đưa thế và lực cách mạng lên cao. Khi phong trào vùng ven phát triển, từng bước giành quyền làm chủ ở ấp xã thì thế đứng và chỗ đứng của bàn đạp sẽ càng thêm vững chắc.

Chú trọng xây dựng, đào tạo cán bộ tại bàn đạp có tinh thần bám trụ, có ý chí tiến công địch. Các lực lượng này phải biết tự xoay sở, linh hoạt trong công tác. Trước hết phải là những cán bộ giỏi về công tác vận động quần chúng mới bám được phong trào, bám địa bàn lâu dài.
Ba là, xây dựng tuyến hành lang vận chuyển bí mật, thông suốt và hệ thống kho hầm trú giấu trong nội đô an toàn, vững chắc, thuận tiện.
Các trục lộ đều là tuyến giao thông cơ bản, quan trọng cho cả ta và địch. Vì vậy, Mỹ - quân đội Sài Gòn thường xuyên dùng lực lượng càn quét, đánh phá hành lang hai bên các trục lộ nhằm đẩy lực lượng và cơ sở cách mạng ra xa, biến trục lộ thành con đường chỉ dành riêng cho nhu cầu quân sự, kinh tế, giao thông của chúng. Khi địch phát hiện ta sử dụng những trục lộ này thì chúng tăng cường kiểm soát, đánh phá... trọng điểm là các đoạn đường xuyên qua vùng có hoạt động của ta. Trên các con sông, Mỹ - quân đội Sài Gòn thiết lập đội giang cảnh, trạm kiểm soát lưu động, trạm kiểm soát cố định. Các đoạn sông qua vùng có chiến sự, chúng dùng thuốc độc hóa học phát quang và máy bay trinh sát, vũ trang bắn phá bừa bãi vào các loại ghe xuồng không phải trong đoàn vận chuyển của chúng.

Nếu chiến tranh phát triển sâu vào trung tâm đầu não của địch thì sự đối phó của chúng càng tinh vi, quyết liệt. Trong khi đó, nhiệm vụ và phương thức tác chiến của lực lượng biệt động đòi hỏi khối lượng vũ khí nhiều hơn, tin tức chính xác và nhanh chóng hơn, cán bộ chỉ đạo sát thực tế hơn; bởi vậy, công tác vận chuyển, xây dựng hầm chứa, kho chứa và công tác giao liên cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Về công tác vận chuyển: Phải luôn luôn nắm vững hoạt động của địch trên các tuyến đường vận chuyển, hiểu rõ được hoạt động của từng sắc lính, hành động của chúng lúc kiểm tra, thậm chí hiểu được cá tính những tên thường đi lại hoặc đứng kiểm tra ở các trạm kiểm soát ra vào thành phố.

Phải phát huy tính sáng tạo trong công tác ngụy trang, hóa trang. Luôn luôn rút kinh nghiệm, cải tiến cho phù hợp với từng loại hàng hóa, từng tuyến đường và đặc điểm sinh hoạt của từng địa phương. Tùy tình hình mà thay đổi thích hợp, nhưng phải bảo đảm yêu cầu "quần chúng không chú ý, địch không nghi ngờ". Quá trình vận chuyển phải luôn luôn cải tiến về kỹ thuật, ngụy trang, thay đổi giờ giấc, lộ trình; táo bạo nhưng không mạo hiểm; vững chắc nhưng linh hoạt, mưu trí. Thường chọn người có vỏ bọc thích hợp như lái xe, người đi buôn, chủ hãng vận tải... Thực tế cho thấy, để đưa vũ khí vào thành phố, công tác nghi trang, ngụy trang đóng vai trò quyết định. Hình thức ngụy trang phải phù hợp với hàng hóa sản xuất ở khu vực, phù hợp với nghề nghiệp của người giữ kho vũ khí trong nội đô (thuộc A30). Ngụy trang phải bảo đảm đồng bộ loại vũ khí cho mỗi hầm trong mỗi lần vận chuyển. Để giữ bí mật, bảo vệ an toàn cho những người xây hầm giữ vũ khí, theo chỉ thị của Khu ủy, mỗi hầm chỉ tiếp nhận hàng một lần. Tạo được cách ngụy trang và nghi trang ở mức cao sẽ bảo đảm thành công, giúp người vận chuyển thêm bình tĩnh khi phải đối phó với kẻ thù. Việc này đòi hỏi những người chuyên làm nhiệm vụ ngụy trang, nghi trang phải hết sức sáng tạo, có trình độ chuyên môn "bậc thầy". Các kỹ xảo ngụy trang và người làm công tác ngụy trang, nghi trang phải được giữ gìn, bảo vệ bằng các biện pháp bảo mật cao nhất. Những người làm công tác này chỉ trực tiếp tiếp xúc với Tư lệnh Quân khu, Trưởng ban bảo đảm, đội trưởng và chính trị viên A20. Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, A20 tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo 3 chặng cơ bản. Ở cả ba chặng trên, tuyệt đại bộ phận vận chuyển (kể cả các chiến sĩ thuộc A20) đều không biết mình chuyên chở thứ hàng gì. Ở khâu cuối, người nhận vũ khí (thuộc A30) và người chở vũ khí đến (thuộc A20) cũng không được giáp mặt nhau, không biết giao cho ai, nhận của ai.

Để bảo đảm vận chuyển đến đích và an toàn đòi hỏi phải có sự hiệp đồng chặt chẽ, chính xác hoàn toàn bằng ký, tín hiệu giữa các tuyến, giữa người vận chuyển và người nhận. Hệ thống ký, tín hiệu do người chỉ huy cao nhất phát ra. Đây là sự hiệp đồng chiến đấu giữa A20 và A30, giữa hai đội này với Ban bảo đảm và Quân khu, tạo nên sự ăn ý giữa cuối tuyến hai và đầu tuyến ba (thuộc A20) nối liền cuối tuyến ba và người phụ trách cất giấu vũ khí (thuộc A30). Vũ khí được giao ở các địa điểm thích hợp do người nhận lựa chọn, địa điểm thường ở trước nhà gia đình cơ sở của người nhận, theo thời gian đã định và có ký, tín hiệu đã hiệp đồng.

Ngoài cách tổ chức trên, các lực lượng biệt động (nhất là biệt động cấp quận và của các đoàn thể) vẫn dùng giao liên hoặc bản thân chiến đấu viên vận chuyển hàng bằng đường bộ hoặc đường sông. Cách thức vận chuyển chủ yếu là ngụy trang theo phương tiện, theo đồ nghề của mình. Cách này chủ yếu chỉ chuyển các vũ khí nhẹ và gọn.

Về xây dựng hầm chứa và kho chứa: Xây dựng hầm chứa, kho chứa ở nội thành để cất giấu các loại vũ khí, trang bị phục vụ các yêu cầu chiến đấu là một việc làm hết sức phức tạp, nguy hiểm đến tính mạng con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến yêu cầu bí mật của hoạt động biệt động. Nó đòi hỏi người chỉ đạo phải có tầm nhìn xa, bao quát, phục vụ cả đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh liên tục thường xuyên, đánh khi có thời cơ chiến dịch, chiến lược.

Xây dựng hầm chứa, kho chứa có liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu, đến ý đồ chiến lược cho nên phải căn cứ vào nhiệm vụ quân sự ở nội thành, căn cứ vào phương thức tác chiến của từng lực lượng mà tính toán đến vị trí, cấu trúc, quy mô kho, số lượng các phương tiện vận chuyển, số lượng các cơ sở.

Quy luật hình thành, phát triển của một cơ sở kho cũng giống như quy luật hình thành và phát triển của lực lượng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, phải thông qua vận động và quần chúng tham gia hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Công tác xây dựng hầm, kho chứa phải lấy xây dựng con người là cơ bản, nhưng về biện pháp tổ chức lại là khâu quan trọng, quyết định sự thành bại. Bởi vì có tổ chức chu đáo, tinh vi mới che mắt được địch. Biện pháp tổ chức phải được tính toán chi tiết, cẩn trọng từ khâu vận chuyển, đến việc bốc vác hàng đưa vào kho, hầm chứa... một hành động sơ xuất là có thể ảnh hưởng đến cả tổ chức.

Đồng chí Ba Mủ (tức Đỗ Văn Căn) là đảng viên, năm 1954 được gài lại hoạt động đơn tuyến ở Nghiệp đoàn thợ bạc, khi được giao nhiệm vụ đã cùng vợ là Nguyễn Thị Cúc và 5 con bán nhà ở Tân Định đến mua căn nhà 183/4 đường Trần Quốc Toản (Quận 10) ngay sát Biệt khu thủ đô, trước cửa cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ và đồng minh (ICCS). Theo lệnh trên, đồng chí bỏ nghề thợ bạc, chuyển sang nghề cán mủ cao su nhằm tạo nên "vỏ bọc" hợp pháp để gần một năm sau (10-1965) vận chuyển hơn một tấn vũ khí được giấu trong các bành mủ về cất giữ ở căn hầm do đồng chí xây dựng ngay cửa ra vào (nơi hằng ngày vợ chồng, con cái dùng làm chỗ ăn, ngủ, tiếp khách). Quá trình đào hầm và vận chuyển cất giấu vũ khí, vợ con Ba Căn không hề hay biết, mặc dù cả hai vợ chồng đều cùng trong một đội biệt động. Mãi sau này chị Cúc mới được cấp trên thông báo cho biết vị trí chính xác của căn hầm. Sau đợt 2 của cuộc Tổng tiến công, đồng chí Ba Căn bị địch bắt, song căn hầm vũ khí vẫn được đồng chí Cúc bảo vệ an toàn 2. Bản thân đồng chí Cúc cũng xây một căn hầm khác chứa vũ khí dưới đáy của bể cá cảnh ở căn nhà thứ hai do đồng chí đứng tên.

Về công tác giao liên: Giao liên là một bộ phận đặc biệt quan trọng của công tác chỉ huy, bảo đảm cho hoạt động tác chiến biệt động. Nó giữ mối quan hệ từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong và ngược lại. Giao liên phục vụ cho chỉ đạo các mặt công tác được nhanh chóng, bí mật, chính xác. Tận dụng mọi khả năng hợp pháp của quần chúng mà tổ chức hệ thống giao liên hợp pháp.

Giao liên hợp pháp là phương thức liên lạc trực tiếp, cơ động, không phức tạp về kỹ thuật, lại có thể tuyển chọn, sử dụng rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Hoạt động trong lòng địch, người nào có điều kiện hợp pháp đều có khả năng làm công tác giao liên. Nhưng địch cũng phát hiện và nắm được phương thức hoạt động của ta trong đô thị, chúng biết rõ ta chỉ huy, chỉ đạo từ bên ngoài vào nội đô thông qua công tác giao liên. Do đó, địch tập trung đánh vào khâu giao liên bằng nhiều thủ đoạn. Chúng theo dõi ta từ các cửa ngõ, những nơi nghi có bàn đạp của ta. Khi bắt được người nào thì chúng mua chuộc dụ dỗ, khống chế khai thác ngay để tiến công lại ta. Vì vậy, một số cơ sở bị vỡ, bị tổn thất dây chuyền là do khâu giao liên.

Giao liên hợp pháp có thể chia làm 2 loại: giao liên thoát ly và giao liên tại nghiệp. Giao liên thoát ly có nhược điểm ra vào khó khăn dù có giấy tờ giả; còn giao liên tại nghiệp đã "ba hóa", trong tình huống địch kiểm soát gắt gao vẫn có thể hoạt động. Giao liên tại nghiệp có nhiều ưu điểm, vì số này xuất thân từ trong quần chúng, hợp pháp, dễ đi lại và hoạt động hiệu quả, lâu dài. Trong nội đô, tổ chức sử dụng giao liên tại nghiệp là hình thức chủ yếu và phổ biến.

Như vậy, qua một số bài học chủ yếu nói trên cho thấy công tác bảo đảm tác chiến biệt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng thực chất là công tác hậu cần - kỹ thuật được tiến hành trong điều kiện tác chiến đặc biệt. Đây là hoạt động tổng hợp của cả ba mặt công tác lớn: chính trị, quân sự và hậu cần - kỹ thuật được tiến hành trong bước phát triển mới của thế trận hậu cần nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong quá trình tổ chức bảo đảm, chính nhờ dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh to lớn của "thế trận lòng dân", cho nên lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định mới có thể duy trì thường xuyên và mở rộng các hoạt động tác chiến ngay trong sào huyệt kẻ thù; giành những thắng lợi quyết định làm chấn động cả nước Mỹ. Những kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo, thực hành bảo đảm cho tác chiến biệt động tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi còn nguyên giá trị để chúng ta kế thừa, vận dụng và phát triển trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




------------------------------------------------------------------
1. Đội A20 chuyên lo tổ chức vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào thành phố do đồng chí Đỗ Tấn Phong (Ba Phong) làm Đội trưởng, đồng chí Dương Long Sang (Hai Sang) làm Chính trị viên. Còn Đội A30 chuyên lo xây dựng hầm cất giấu vũ khí, do đồng chí Ngô Thành Vân (Ba Đen) làm Đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Trí (Hai Trí) làm Chính trị viên.

2. Căn hầm chứa vũ khí này dự kiến để đánh Biệt khu thủ đô trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Nhưng do cánh quân đánh mục tiêu này bị địch chặn ở vòng ngoài, không vào được nội đô nên kho vũ khí không dùng đến và tiếp tục được giữ gìn để phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #78 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2020, 04:33:19 pm »

QUÂN VÀ DÂN ĐÀ NẴNG TRONG
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968



ĐẶNG VIỆT DŨNG
Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với Sài Gòn, Huế, thành phố Đà Nẵng được xác định là một địa bàn trọng điểm, hướng công kích chủ yếu. Trong tham luận này, để có góc nhìn khách quan khoa học, qua các tư liệu lịch sử hiện đang được lưu trữ tại Thành ủy Đà Nẵng và tài liệu của chính quyền Sài Gòn được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh), chúng tôi làm rõ vai trò to lớn của quân và dân Đà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà.

Liên tiếp hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chiến lược "tìm và diệt" với hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định", từ "gờm sợ Mỹ", lực lượng vũ trang và du kích Đà Nẵng và Quảng Đà đã sáng tạo nhiều cách đánh Mỹ hiệu quả, lập được nhiều chiến công; thế và lực của phong trào cách mạng trong tỉnh không ngừng được tăng lên. Tính đến cuối năm 1967, với phong trào "toàn dân đánh Mỹ", "toàn tỉnh là một vành đai", triệt để thực hiện khẩu hiệu "Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch"..., quân và dân Quảng Đà đã góp phần làm cho Mỹ - chính quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng bị động, lúng túng.

Với những thắng lợi về quân sự và chính trị trong hai năm trực tiếp đối đầu với quân Mỹ, tháng 7-1967, Bộ Chính trị nhận định: Ta đã đánh bại một bước rất cơ bản của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, thế và lực của ta có những tiến bộ cho phép đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Tháng 10-1967, Khu ủy khu 5 quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà 1 nhằm kết hợp chặc chẽ và phát huy cao độ sự hỗ trợ giữa ba vùng chiến lược, giữa ba mũi giáp công chính trị - quân sự - binh địch vận, trong đó tập trung chủ yếu cho đô thị Đà Nẵng 2, trực tiếp là phục vụ cho Xuân Mậu Thân 1968 theo chủ trương của Trung ương Đảng.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, các ngành, các cấp của mỗi địa phương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đào hầm bí mật để phục vụ cho lực lượng chủ lực ở trên cứ về ém quân đánh vào Đà Nẵng. Nhiều gia đình tại Hội An, Điện Bàn, Đại Lộc và nhất là Hòa Vang đã làm phên đôi, đào hầm chôn cất vũ khí, nuôi giấu cán bộ, bộ đội; thực hiện quyên góp vàng, bạc, tiền, gạo... cho tổng tiến công; đồng thời, hàng ngàn thanh niên nam, nữ khắp Quảng Đà đã hăng hái tham gia tải đạn, đưa vũ khí từ A Sờ, A Lưới (Thừa Thiên - Huế) về phục vụ tổng tiến công. Riêng "trong tháng 8-1967, hàng nghìn dân công có cả những cụ già, em bé trong vùng Mỹ đóng quân, trong trại tập trung cùng tham gia phục vụ tiền tuyến. Nhân dân vùng Đông của Duy Xuyên sát bên đồn địch đã bảo đảm đưa hàng nghìn bộ đội qua sông, nhân dân vùng Đông huyện Điện Bàn, thị xã Hội An đã cất giấu một lực lượng lớn bộ đội và phục vụ tốt toàn bộ công tác hậu phương ngay giữa vùng Mỹ đóng... Từ lòng yêu nước nồng nàn, nhân dân đã dốc tài sản đóng góp cho kháng chiến, có em bé đã cởi cả khuyên vàng đóng góp quỹ nuôi quân, có người bị nhốt trong trại tập trung vẫn tìm cách đem gạo nuôi du kích" ; "Tùy theo từng xóm, nếu xóm nào dân theo ta nhiều và ở xa địch thì đến tối cán bộ mới vào, vận động bà con tập trung lại rồi nói chuyện; còn những nơi gần đồn địch thì cơ sở của ta đến từng nhà rỉ tai, tuyên truyền miệng là chính. Mọi công việc được tiến hành bí mật, lặng lẽ nhưng cũng hết sức khẩn trương, sôi nổi. Bên trong các khu dồn, chi bộ hợp pháp của ta cũng đã xây dựng được các trung đội đấu tranh chính trị mà nòng cốt là các gia đình binh sĩ ngụy".

Trong công tác chuẩn bị cho đòn tiến công chiến lược, khi nhân dân vùng nông thôn tập trung đảm bảo hậu cần, thành lập các đội quân đấu tranh chính trị để sẵn sàng "nhập thị" thì nhân dân thành phố có vai trò to lớn trong việc đưa, nuôi giấu, che chở các đồng chí lãnh đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà vào nội đô, trực tiếp chỉ đạo việc nổi dậy. Điều đáng nói là, chuẩn bị cho một chiến dịch lớn, huy động đến hàng chục nghìn người tham gia, song yếu tố bí mật tại chiến trường Quảng Đà vẫn được giữ vững đến phút chót, kẻ địch không tài nào biết được. Báo cáo mật của chính quyền Sài Gòn lúc đó về Đà Nẵng cho thấy đối phương không hề phát hiện được công tác chuẩn bị ở Đà Nẵng: "Tại duyên hải Trung phần, Quân giải phóng đang có chủ trương cô lập các đô thị, phong toả giao thông trên quốc lộ 1A và đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, đáng lưu ý là các khu vực phía nam của Thừa Thiên Huế, chung quanh Đà Nẵng, ranh giới Nam Tín và Phú Yên". Ngoài ra, để đánh lạc hướng địch, ta thực hiện nhiều trận đánh nghi binh và "mở đợt hoạt động mạnh ở các khu vực Đại Lộc, Điện Bàn (Quảng Nam) và Phù Cát (Bình Định)".

Về lực lượng quân sự, để chuẩn bị cho tổng tiến công, tháng 7-1967, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 thành lập Mặt trận 4 Quảng Đà nhằm thống nhất chỉ huy ba thứ quân (lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng Đà, Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị chủ lực của Quân khu 5). Đồng chí Hồ Nghinh, Ủy viên Khu ủy Khu 5, được cử làm Chính ủy; Đại tá Võ Thứ được cử làm Tư lệnh Mặt trận. Trước Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Trương Chí Cương, Phó Bí thư Khu ủy, trực tiếp làm Bí thư Đặc Khu ủy Quảng Đà, đồng chí Hồ Nghinh và đồng chí Trần Thận làm Phó Bí thư. Bộ Tư lệnh Quân khu 5 cử đồng chí Nguyễn Chánh (Bình), Phó Tư lệnh Quân khu 5, làm Tư lệnh Mặt trận 4. Đồng thời, Quân khu bổ sung cho Mặt trận 4 hai trung đoàn pháo 575, 577 và Trung đoàn bộ binh 31. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa kết nghĩa đưa Tiểu đoàn đặc công Lam Sơn (D91) vào trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Quảng Đà.

Đà Nẵng là một thành phố, là một căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nên kế hoạch tiến công, nổi dậy được đề ra cũng khác với các địa phương khác. Tinh thần chỉ đạo của Đặc Khu ủy Quảng Đà là: "Đánh vào Đà Nẵng nhằm làm tê liệt và thiệt hại nặng các cơ sở hậu cần, trận địa pháo, sân bay; chiếm lĩnh một số điểm khống chế thành phố; cắt đứt các đường giao thông vào thành phố. Sử dụng một bộ phận bộ binh phối hợp với biệt động thành đánh chiếm một số mục tiêu chủ chốt trong thành phố và trụ lại để hỗ trợ quần chúng bên ngoài vào và bên trong nổi dậy chiếm lĩnh các mục tiêu quân sự, chính trị, cướp chính quyền của địch". Theo đó, lực lượng nổi dậy tại Đà Nẵng gồm có lực lượng tại chỗ và từ nông thôn tiến vào, trong đó, lực lượng xung kích từ nông thôn được chia làm ba cánh, phân thành 6 mũi có trang bị súng, dao, mác, gậy vào thành phố với ba nhiệm vụ: khởi nghĩa, binh vận và vũ trang tác chiến trên đường đi. Đặc Khu ủy Quảng Đà đưa một số cán bộ trung kiên, am hiểu tình hình vào đứng chân tại nội thành để chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ binh vận được tung vào Đà Nẵng và cơ sở binh vận của ta đưa "tối hậu thư" tấn công tư tưởng Hoàng Xuân Lãm - Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1, trước khi Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra.

Theo kế hoạch, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được xác định là vào đêm giao thừa theo niên lịch miền Nam, tức là vào đêm 29 rạng 30-1-1968 3 . Song, chiều 29 Tết, Khu ủy Khu 5 và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nhận được lệnh của Bộ Tổng Tham mưu lui thời gian nổ súng lại 24 giờ để phối hợp toàn Miền 4. Nhận được lệnh của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Đặc Khu ủy Quảng Đà và Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 lệnh hỏa tốc cho các địa phương, đơn vị, hoãn giờ nổ súng một ngày. Tuy nhiên, chỉ có Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu 5 (đơn vị có nhiệm vụ đánh địch ở phía nam thành phố) và Khu 2 - Hòa Vang nhận được lệnh, còn các nơi khác thì không đến kịp. Vì vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Đà Nẵng đã nổ ra theo kế hoạch đã định từ trước.

Tại thành phố Đà Nẵng, lúc 2 giờ 20 phút ngày 30-1-1968, ta pháo kích vào sân bay Nước Mặn phát lệnh tiến công và nổi dậy. Thành phố Đà Nẵng và các vùng phụ cận rung chuyển trong tiếng đạn pháo. Lực lượng bộ binh của Mặt trận 4 triển khai đội hình chiến đấu, nhanh chóng làm chủ cửa ngõ phía bắc và phía nam của thành phố. Ta đánh chiếm một trong ba cao điểm của quân Mỹ ở núi Phước Tường, phá nát khu rađa, khu thông tin, làm rối loạn hệ thống phòng ngự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở phía tây thành phố 5. Tuy nhiên, mũi chủ công chính diện đánh vào thành phố đã vấp phải sự phản kháng dữ dội của địch và bị tổn thất nặng. Đơn vị R20 (Tiểu đoàn 1 Quảng Đà) được giao nhiệm vụ đánh Sở chỉ huy Quân đoàn 1 của địch, nhưng bị địch phát hiện không thể vượt sông Cẩm Lệ. Chỉ có Trung đội 1 (có 57 chiến sĩ) thuộc Đại đội 1 của R20 và một trung đội của Khu 3 Hòa Vang vượt qua sông, vào tại khu vực chùa Bà Quảng (Hòa Cường). Khi pháo của ta dội vào sân bay Nước Mặn phát lệnh tiến công, 57 chiến sĩ đã anh dũng vượt qua cửa các lớp rào, đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1. Mồng một Tết Mậu Thân, Hãng AFP đã loan tin: "Tại Đà Nẵng, căn cứ liên hợp thủy - hải - lục quân hùng mạnh của Hoa Kỳ đã bị cộng quân pháo kích dữ dội cả đêm, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 cũng bị tấn công dữ dội... những cuộc pháo kích đã làm tê liệt hoạt động của các trực thăng và máy bay chiến đấu của Mỹ". Báo cáo của Phạm Văn Sơn - Trưởng Quân sử, P5 Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, tổng thuật tình hình tiến công Tết Mậu Thân của Quân giải phóng trên khắp đô thị miền Nam đã đề cập diễn biến tại Đà Nẵng như sau: "Lúc 1 giờ 40 phút, Quân giải phóng tấn công, pháo kích và đột nhập vào Tổng hành dinh Quân đoàn 1 của chính quyền Sài Gòn. Cũng trong đêm này, Quân giải phóng đột nhập vào chi khu Hội An, pháo kích thị xã Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước cách Đà Nẵng chừng 4 km".

Phối hợp với mũi tiến công quân sự, với quyết tâm "Thiệu - Kỳ không đổ, không giỗ, không tết", các cánh quân khởi nghĩa vùng căn cứ Hòa Vang - Điện Bàn tiến vào Đà Nẵng. Ở cánh Khu 3 Hòa Vang, ta huy động được 7.400 quần chúng, phân thành 15 đại đội, trong đó có 8 đại đội xung kích vùng cát Hòa Vang - Điện Bàn vượt qua nhiều ấp chiến lược, đồn bốt, từ các hành lang đầy bom đạn và pháo địch tiến về tụ quân tại bàn đạp Trung Lương. Vào lúc 5 giờ sáng mồng một Tết, khi có lệnh vượt sông vào thành phố, cả cánh quân khởi nghĩa đổ ra bờ sông Cẩm Lệ. Ta huy động 100 chiếc thuyền và 3 ca nô để chở quân khởi nghĩa qua sông nhưng bị quân đội Sài Gòn đóng tại ấp chiến lược Cồn Dầu nổ súng ngăn chặn. Bọn thủy quân lục chiến Mỹ đóng tại Non Nước đã nã pháo, kết hợp đưa máy bay, xe tăng và bộ binh đến chặn đường tiến công của quân khởi nghĩa. Cánh Khu 2 Hòa Vang, ngoài 3.000 quần chúng vào trước nội thành, ta đã huy động đội quân xung kích 3.000 người tiến vào thành phố. Do Khu 2 nhận được lệnh hoãn "giờ G" nên phần lớn quần chúng dừng lại và chuyển sang phá ấp chiến lược của địch tại các địa phương vùng ven. Cánh A, B Điện Bàn, ngoài hàng nghìn quần chúng đã vào Đà Nẵng trước Tết, 4.600 quần chúng được phân thành 22 đại đội tiến vào thành phố, nhưng vừa xuất quân thì nhận lệnh hoãn giờ khởi nghĩa. Ở khu vực trung tâm thành phố lúc 6 giờ sáng mồng Một Tết, tại chùa Tỉnh giáo hội Phật giáo Đà Nẵng, cán bộ và cơ sở ta huy động 400-500 học sinh và quần chúng tổ chức biểu tình, nhưng liền sau đó cảnh sát chính quyền Sài Gòn đến đàn áp và giải tán, bắt một số cốt cán của ta.

Trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ở Quảng Đà, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 tên địch, gồm quân đội Sài Gòn, quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên, phá hủy và bắn rơi 192 máy bay, đánh cháy 40 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 49 khẩu pháo và nhiều kho tàng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại Đà Nẵng nói riêng, Quảng Đà nói chung đã huy động được một lực lượng lớn và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tiến công tiêu diệt giặc của quân và dân ta. Dù Đà Nẵng là vùng nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, song quân và dân ta đã bất chấp hy sinh, gian khổ, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, hỗ trợ đắc lực cho kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam.

Dù chưa đạt so với yêu cầu, song, quân và dân Đà Nẵng đã góp phần cùng toàn miền Nam và cả nước giáng một đòn nặng nề vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Ngày 31-3-1968, chính quyền Mỹ chính thức tuyên bố ngừng mọi hoạt động bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với Chính phủ ta. Với quyết định này, chính quyền Mỹ đã mặc nhiên thừa nhận sự thất bại quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam và sự phá sản hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đây là một thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện mà cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 mang lại.

Tuy nhiên, trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà và Bộ Chỉ huy quân sự Mặt trận 4 đã không quán triệt sự chỉ đạo của trên: "Vùng 1 chiến thuật là trọng điểm tiến công quân sự của ta trong toàn miền Nam. Đà Nẵng là thành phố quan trọng, đồng thời là căn cứ liên hiệp của Mỹ, cho nên không thể coi nhẹ công kích quân sự được". Do lệnh khởi nghĩa không đồng bộ nên các mũi tiến công quân sự của ta đều không vào được thành phố, lực lượng biệt động tại chỗ không đủ sức hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, trong lúc đó, các cánh quân khởi nghĩa từ vùng ven kéo vào nội thành bị địch chặn lại, cuộc nổi dậy của nhân dân trong thành phố bị địch đàn áp, giải tán. Lực lượng của ta bị nhiều tổn thất. Tiểu đoàn 1 Quảng Đà (đơn vị R20) bị tổn thất nặng, chỉ còn một số chiến sĩ. Hàng trăm cán bộ cơ sở, quần chúng hy sinh và bị địch bắt. Đảng bộ xã Hòa Hải của Khu 3 Hòa Vang (nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) gồm 100 đảng viên, chỉ còn 20 đồng chí. Đảng bộ xã Hòa Long (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn) có 60 đảng viên chỉ còn 4 đồng chí. Có xã, lực lượng du kích chỉ còn sống đôi ba người. Hai đồng chí Ủy viên Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà: Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức, đồng chí Nguyễn Minh Huy - Phó ban đấu tranh chính trị - cùng với nhiều đồng chí, đồng bào đã hy sinh trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy này.

Qua Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cho chúng ta những bài học quý báu: Thứ nhất, bài học về chuẩn bị chiến trường, đánh giá thực lực giữa ta và địch. Cụ thể là, đối với Đà Nẵng, sự chỉ đạo của ta trong Xuân Mậu Thân nặng về bài học kinh nghiệm nổi dậy làm chủ thành phố 76 ngày đêm năm 1966, với việc phát động quần chúng xuống đường, lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch, làm binh biến ly khai, coi nhẹ tấn công vũ trang đánh địch. Bài học này, đã được Đặc Khu ủy Quảng Đà vận dụng hiệu quả trong giai đoạn cách mạng từ năm 1968 đến thắng lợi mùa Xuân năm 1975. Thứ hai, bài học về sự tin dân, hiểu dân, sống trong dân, chiến trường trong dân. Chỉ có tin dân, dựa vào dân, đi vào trong dân mới có thể thực hiện được nhiệm vụ giữ dân, giành dân, giành quyền làm chủ về tay nhân dân; mới xây dựng được lực lượng cơ bản của cách mạng. Điều này thể hiện rõ trong phương châm "Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch, cấp trên bám cấp dưới" của Đặc Khu ủy Quảng Đà. Bài học này được Đặc Khu ủy Quảng Đà phát huy tạo thành một nguồn sức mạnh to lớn, nhất là kinh nghiệm đánh vào các cơ quan đầu não của địch nằm sâu trong lòng thành phố trong những lần tiến công đánh chiếm và giải phóng thành phố Đà Nẵng sau này.




------------------------------------------------------------------
1. Đặc khu Quảng Đà chia Đà Nẵng thành 3 quận (Quận I, Quận II, Quận III), chia Hòa Vang thành 3 khu (Khu I, Khu II, Khu III), đồng thời tiến hành tổ chức củng cố các cấp ủy địa phương và đơn vị. Trên chiến trường miền Nam lúc bấy giờ chỉ có hai đặc khu: Đặc Khu Sài Gòn - Gia Định và Đặc khu Quảng Đà. Điều này thể hiện Trung ương Đảng và Khu ủy khu 5 đã nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò, tính chất quan trọng chiến lược của hai nơi này.

2. Cách mạng có hai vấn đề đô thị và nông thôn: Liên Xô: Đô thị và nông thôn; Trung Quốc: nông thôn bao vây thành thị. Ở Việt Nam, vừa nông thôn vừa thành thị, hai nơi đều là chiến lược, nhưng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì trung tâm là thành phố; nông thôn là "tay chân", đô thị là "tim óc", đâm vào "tim óc" địch sẽ chết.

3. Cuối năm 1967, Chính phủ ta đổi lịch theo múi giờ Hà Nội (múi giờ thứ 7), theo đó, đêm giao thừa giữa lịch mới của miền Bắc và lịch cũ ở miền Nam (tính theo múi giờ thứ 8 ) cách nhau một ngày. Mùng Một Tết Mậu Thân ở miền Bắc nhằm ngày 29-1-1968 và ở miền Nam là ngày 30-1-1968.

4. Theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, "ngày N" được lùi lại 24 giờ, tức chuyển từ đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 sang đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức là vào đêm mồng Một rạng mồng Hai Tết Mậu Thân theo lịch miền Nam).

5. Ở hướng bắc, Trung đoàn 31 bộ binh (thiếu), Tiểu đoàn 487 đặc công, Đại đội công binh Hải Vân, Đại đội 1 bộ binh địa phương và du kích Khu 1 Hoà Vang tiến công một loạt chốt điểm từ đồn Nhất, trận địa tên lửa phòng không trên đèo Hải Vân đến Nam Ô. Phân đội đặc công nước đánh tàu Lôri ở vịnh Đà Nẵng. Ở hướng tây, Tiểu đoàn 35 đặc công của Quân khu 5 tập kích khu rađa, thông tin trên núi Phước Tường. Ở phía nam, Tiểu đoàn 489 đặc công và bộ đội, du kích Khu 2 Hòa Vang tiến công Trung đoàn 52 quân đội Sài Gòn ở Miếu Bông, bãi xe cơ giới Cẩm Bình, đánh chiếm Cầu Đỏ và một số vị trí ở Nam sông Cẩm Lệ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #79 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2020, 08:45:57 am »

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK



THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY ĐẮK LẮK


Với thắng lợi liên tiếp trong hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967, thế và lực của ta ngày càng phát triển; cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đứng trước những triển vọng lớn.

Trong bối cảnh đó, tháng 6-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp nhận định: địch đã thất bại một bước cơ bản trong cuộc "chiến tranh cục bộ", đang lúng túng, bị động cả về chiến lược, sách lược... Còn về ta: cả về thế và lực đã có nhiều tiến bộ. Ta cần chuẩn bị đánh cho địch một đòn quyết định, giành thắng lợi lớn, tạo sự chuyển biến nhảy vọt, buộc Mỹ phải thua về quân sự.

Tiếp theo, tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp, trên cơ sở phân tích tình hình, đánh giá âm mưu cơ bản và thất bại của địch trong năm 1967, khả năng của chúng sắp tới; đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của ta, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: chuyển cuộc chiến tranh của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Bộ Chính trị xác định: nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.

Trên cơ sở hạ quyết tâm chiến lược, cuối tháng 12-1967, Tây Nguyên được phổ biến quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và thống nhất: Động viên toàn thể lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc nỗ lực vượt bậc, tiến công liên tục, toàn diện và triệt để, thực hiện bằng được quyết tâm chiến lược của Đảng, đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường và sẵn sàng ứng phó một cách chủ động, mạnh mẽ nếu chiến tranh kéo dài.

Để thống nhất chỉ đạo và chỉ huy, phối hợp giữa hai lực lượng và ba thứ quân trên chiến trường, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận mở hội nghị liên tịch với các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, cùng bàn bạc cách phối hợp hoạt động giữa chủ lực và địa phương, giữa tiến công và nổi dậy. Mục tiêu chính được xác định là 3 thị xã: Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kon Tum.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương, của Khu uỷ 5 và Mặt trận Tây Nguyên, cuối năm 1967, Tỉnh uỷ Đắk Lắk họp bàn kế hoạch khẩn trương chuẩn bị các mặt cho đợt hoạt động, tập trung vào chiến trường trọng điểm là thị xã Buôn Ma Thuột. Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy cuộc tiến công và nổi dậy, ở tỉnh đã thành lập Ban Chỉ huy chung do đồng chí Trương Cao Dũng, Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Bốn Đạo (Nguyễn Xuân Nguyên), Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy. Ở thị xã Buôn Ma Thuột tổ chức hai ban chỉ huy ở cánh Nam và cánh Bắc. Ban Chỉ huy chung đã xác định nhiệm vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Đắk Lắk như sau:

1- Tích cực phối hợp với chiến trường tiêu diệt nhiều sinh lực địch trước ngày tổng tiến công và nổi dậy nhằm thu hút địch ra ngoài thị xã, ghìm chân chúng ở đó đồng thời đánh phá kho tàng, một số cơ quan đầu não, làm tan rã hệ thống tổ chức quân đội và chính quyền Sài Gòn; tập dượt và phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh diệt ác, mở rộng cơ sở chính trị trong và chung quanh thị xã.

2- Triệt để chấp hành giờ nổ súng tiến công địch, huy động toàn bộ lực lượng quân sự, chính trị, binh vận tiến công vào trọng điểm thị xã Buôn Ma Thuột, nhằm tiêu diệt một số mục tiêu trong hệ thống phòng thủ chủ yếu của địch, trọng điểm là các cơ quan đầu não chính quyền và quân đội địch từ cấp tỉnh đến cấp xã, chiếm công sở, phương tiện thông tin, đài phát thanh, làm tê liệt hệ thống thông tin của địch. Đánh chiếm thị xã và các ấp chung quanh, hỗ trợ quần chúng cùng lực lượng vũ trang bao vây tiêu diệt đầu sỏ ác ôn, động viên các lực lượng vũ trang kiên quyết bám trụ thị xã và phát triển thắng lợi ra toàn tỉnh.

Cuối năm 1967, trên chiến trường Đắk Lắk, địch có 2 tiểu khu, 11 quận lỵ, chi khu, 22 cứ điểm; về lực lượng có 2 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn thiết giáp cùng với lực lượng Sư đoàn bộ binh 23, khoảng 6.000 quân. Bảo an có 1 chiến đoàn và 8 đại đội, thám báo 9 đại đội, cảnh sát 5 đại đội và 250 đại đội dân vệ... Quân Mỹ có 450 cố vấn và 1 đại đội công binh đang làm Đường 14.

Lực lượng của ta có Trung đoàn 33 và 2 tiểu đoàn chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên vừa được bổ sung. Bộ đội địa phương tỉnh có 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội bộ binh, các đội trợ chiến, công binh vận tải và các phân đội thông tin trinh sát, bộ đội huyện mỗi nơi có 1 trung đội. Thị xã Buôn Ma Thuột có hai trung đội xung kích ở cánh Bắc và cánh Nam. Du kích toàn tỉnh có khoảng 1.200 người.

Trong thị xã Buôn Ma Thuột, cơ sở chính trị của ta khá mạnh, có trên 200 trung kiên cốt cán, các đội tự vệ mật hoạt động diệt ác, trừ gian trong nội thị. Về chi bộ Đảng, cuối năm 1967, nội thị có 1 chi bộ, 3 đảng viên sống hợp pháp. Lúc chuẩn bị tổng tiến công ta đưa vào thêm 6 cán bộ, đảng viên bất hợp pháp và kết nạp thêm 7 đảng viên mới, thành lập thêm 3 chi bộ, lập đội vệ quốc tử, đội phát động quần chúng, đội binh vận, đội giao liên dẫn đường cho bộ đội và đón dẫn các đoàn biểu tình từ ngoài vào. Ta cũng chuẩn bị một số hầm bí mật trong các cơ sở nội tuyến để giấu cán bộ chỉ đạo và thương binh, chuẩn bị 20 tấn gạo ở căn cứ bàn đạp và trong nội thị. Cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch lúc này cũng khá đông, ta có cơ sở ở Sư đoàn bộ binh 23, ở khu kho Mai Hắc Đế, ở khu thiết giáp, khu pháo binh và một số nơi khác. Nhìn chung, công tác chuẩn bị trong thị xã làm tốt, đảm bảo được yếu tố bí mật, bất ngờ cho đến giờ nổ súng. Ở các huyện nông thôn, ta phát động quần chúng tổ chức lực lượng nổi dậy thành từng trung đội, đại đội có cán bộ nòng cốt chỉ đạo, động viên nhân dân chuẩn bị lương thực phục vụ cho đợt hoạt động.

Ngoài ra, ta có tổ chức các hoạt động nghi binh để kéo theo sự chú ý đối phó của địch ra vùng ven như tiến công vào quận lỵ Lạc Thiện (22-11-1968); ở Buôn Hồ, lực lượng của ta đánh vào các ấp buôn Trinh, buôn A Nua, ấp Cuôr Đăng và phục kích đánh địch ở đèo Hà Lan trên Đường 14. Những hoạt động nghi binh của ta đã kéo sự chú ý đối phó của địch ra vùng ven, tạo điều kiện cho lực lượng của ta áp sát vào thị xã nhưng vẫn đảm bảo được tính bất ngờ.

Cuộc tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột bắt đầu vào lúc 0 giờ 45 phút ngày 30-1-1968. Ở cánh Nam, Tiểu đoàn 301, bộ đội địa phương tỉnh tiến công vào Ty Ngân khố và phát triển đánh sang Tòa hành chính, đánh chiếm và làm chủ hai mục tiêu này trong 3 ngày Tết. Sáng mồng 1 Tết, bộ phận của tiểu đoàn này tiến công vào tiểu khu bảo an, tuy nhiên mục tiêu này địch có công sự kiên cố, hỏa lực mạnh nên ta không làm chủ được. Cũng trong thời gian này một đại đội của tỉnh có cơ sở dẫn đường đã đánh vào nhà lao Buôn Ma Thuột để giải thoát cho các đồng chí, đồng bào đang bị địch giam giữ.

Ở cánh Tây Nam, Tiểu đoàn 39 tiến công dồn dập vào Đài phát thanh Buôn Ma Thuột và trường huấn luyện, tiêu diệt 1 đại đội bảo an, bắt sống 3 tên Mỹ và làm chủ được hai mục tiêu này.

Mũi tiến công quan trọng nhất ở cánh Nam là Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 33 nhận nhiệm vụ đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 23 và tiếp nối liên lạc với cánh Bắc trong thị xã nhưng trên đường tiếp cận mục tiêu gặp địch phải tác chiến kéo dài, người dẫn đường bị thương nên không liên lạc được với cánh Bắc.

Ở cánh Bắc, đêm 30 Tết, lực lượng của ta đã tiến công vào thị xã nhưng không liên lạc được với cánh Nam theo kế hoạch hiệp đồng. Trưa ngày mồng 1, địch đưa xe tăng ra phản kích quyết liệt, buộc quân ta ở cánh Bắc phải rút lui. Tối mồng 2 Tết, lực lượng của ta đánh vào khu pháo binh, tiêu diệt một số địch nhưng không dứt điểm được.

Trước sức tiến công dồn dập, đồng loạt và bất ngờ của ta, các cứ điểm của địch hoảng hốt không kịp phản ứng. Mười phút sau địch mới chống trả quyết liệt bằng máy bay lên thẳng, bắn phá ác liệt vào khu thiết giáp. Trong những ngày 1, 2, 3 Tết, địch dùng bộ binh và máy bay bắn phá ác liệt vào các khu dân cư trong nội thị. Ta phát triển tiến công giành giật với địch từng mục tiêu trong thị xã. Trưa ngày 3, địch dùng máy bay đổ các trung đoàn 45 và 53 xuống sân bay Buôn Ma Thuột để phản kích, đánh chiếm lại các mục tiêu đã mất trong thị xã. Sau ngày mùng 4 Tết, địch đổ Lữ đoàn 173 dù Mỹ ở Pleiku vào để hỗ trợ quân đội Sài Gòn, lực lượng của ta chuyển sang đánh địch ở vùng ven. Lực lượng vũ trang các huyện cũng đồng loạt tiến công địch ở Buôn Hồ, Phước An, Lắk, Tây Cheo Reo.
 
Trong lúc lực lượng vũ trang tiến công thị xã thì ở một số đường phố trong thị xã Buôn Ma Thuột, quần chúng đã xuống đường chiếm các trụ sở ở thôn ấp, xé cờ và khẩu hiệu của địch, treo cờ cách mạng và rải truyền đơn, lùng bắt bọn ác ôn, kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Tại chùa Khải Đoan, sáng mùng 1 Tết, gần 7.000 đồng bào đã tập trung trước sân nghe tuyên truyền, giải thích đường lối cách mạng. Tại nhà thờ trung tâm thị xã và vườn cao su cổng số 3, trên 5.000 đồng bào cũng tập trung biểu dương khí thế cách mạng.

Ở nông thôn, quần chúng các huyện Buôn Hồ, Bắc Buôn Ma Thuột, Lắk kéo về thị xã Buôn Ma Thuột. Cánh Bắc có trên 6.000 người, phần lớn là đồng bào các dân tộc huyện Tây Cheo Reo, Buôn Hồ kéo ra Đường 14 đến buôn Cuôr Đăng thì bị địch chặn lại, chúng xả súng vào đoàn người. Trước tình thế đó, cán bộ lãnh đạo đã quyết định chuyển đồng bào về phía Từ Cung để củng cố lực lượng. Ở cánh Nam có 2.500 người, có cả đồng bào Kinh và Thượng ở huyện Lắk và vùng ven Buôn Ma Thuột kéo về Ea Kao thì bị địch chặn lại.

Cánh đông nhất và đấu tranh quyết liệt nhất là ở phía Đông, với trên 9.000 người gồm đồng bào Kinh ở các khu dinh điền giải phóng và đồng bào các dân tộc Krông Bông - vùng căn cứ kháng chiến của tỉnh theo Đường 21 tiến về thị xã, trên đường đi có nhiều đồng bào hai bên đường gia nhập thêm. Đến cách thị xã khoảng 9 km thì bị địch chặn lại đàn áp khốc liệt, đồng bào sôi sục căm thù, người trước ngã xuống, người sau xông lên trước làn đạn của địch. Cuộc chiến đấu của đồng bào với bọn khát máu đã diễn ra quyết liệt, địch đã gây thương vong trên 200 người, đoàn biểu tình không tiến vào thị xã được.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân như một đòn sét đánh đối với đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chỉ tính riêng trong đợt tiến công và nổi dậy đợt 1, quân và dân trong tỉnh đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 tên địch, bắt sống 85 tên, trong đó có 3 tên Mỹ, đánh quỵ 1 tiểu đoàn và 1 đại đội, bắn cháy 13 xe M113, phá hủy 19 máy bay, 150 xe quân sự, 12 kho xăng dầu, bom đạn, thu nhiều vũ khí, đạn dược của địch. Đánh chiếm và làm chủ một số vị trí quan trọng của địch trong thị xã từ 3 đến 5 ngày. Ở nông thôn, ta phá ấp chiến lược, trên 5.000 dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Đắk Lắk, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 thực sự là cuộc huy động lực lượng có quy mô lớn, có ý nghĩa "tập dượt" cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 sau này. Tuy hoạt động quân sự chưa đạt yêu cầu cao, chưa thực hiện được kế hoạch hiệp đồng giữa cánh Nam và cánh Bắc; đòn tiến công quân sự của ta chưa đủ mạnh để áp đảo địch, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy kéo vào thị xã; địch còn khả năng điều quân phản kích gây tổn thất lớn cho lực lượng quần chúng; nhưng thắng lợi của Tết Mậu Thân với trình độ tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy và ý chí quyết tâm, với tinh thần chiến đấu hy sinh dũng cảm, kiên cường, bất khuất của quân và dân các dân tộc trong tỉnh, sẽ mãi mãi là bản anh hùng ca bất diệt mà Đảng bộ, quân và dân Đắk Lắk đã góp phần vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM