Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:35:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8743 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #50 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 01:57:53 pm »

VAI TRÒ CỦA CỤC THAM MƯU MIỀN
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng LÊ BỬU TUẤN
Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân khu 7


Bước vào giai đoạn 1967-1968, với vai trò là cơ quan tham mưu, chỉ huy cấp chiến dịch, chiến lược, Cục Tham mưu Miền đã chủ động tham mưu, đề xuất cho Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang B2 kiên quyết giữ vững tinh thần tiến công cách mạng, xây dựng, củng cố và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn; tổ chức và điều chỉnh chiến trường, phân bổ lực lượng trên từng hướng tiến công, bảo đảm giữ vững quyền chủ động chiến lược, phát huy hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra đúng kế hoạch. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Cục Tham mưu Miền đã tổ chức có hiệu quả mạng lưới nắm địch, nghiên cứu và phân tích tình hình địch - ta một cách toàn diện, giúp cho Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền chỉ huy, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thống nhất trên toàn chiến trường, giành thắng lợi to lớn, làm thay đổi cục diện chiến tranh.

1. Nắm và đánh giá tình hình địch - ta, tham mưu cho Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường và lực lượng chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân ở B2

Hội nghị tháng 6-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: Thắng lợi Đông - Xuân 1966-1967 của ta là thắng lợi có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị đề ra chủ trương đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam lên bước phát triển mới, với nội dung chủ yếu là chuyển hướng trọng tâm tiến công từ vùng rừng núi, nông thôn vào các đô thị sào huyệt đầu não của địch, giáng cho địch một đòn quyết định, giành thắng lợi to lớn, tạo nên sự chuyển biến nhảy vọt.

Để chuẩn bị cho cuộc tiến công vào đô thị chủ yếu là Sài Gòn, Bộ Chỉ huy Miền đã giao cho các cơ quan giúp Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các tiểu đoàn mũi nhọn. Cơ quan tham mưu khẩn trương xây dựng kế hoạch tiến công địch trên cơ sở "Kế hoạch X" trước đây1.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Chỉ huy, bên cạnh việc tham mưu chỉ đạo các đơn vị địa phương chiến đấu đánh địch trong mùa mưa, tháng 7-1967, Cục Tham mưu đã thành lập một bộ phận chuyên trách xây dựng "Kế hoạch X" do đồng chí Trần Văn Danh phụ trách. Trong một thời gian ngắn, Phòng Quân lực, Quân huấn đã xây dựng xong tổ chức, biên chế lực lượng, trang bị và tài liệu huấn luyện kỹ, chiến thuật tác chiến trong thành phố cho các tiểu đoàn mũi nhọn. Cục cũng đã cử cán bộ trực tiếp xuống căn cứ Lò Gò theo dõi các tiểu đoàn mũi nhọn huấn luyện. Tuy phải tập trung theo dõi, tổng hợp tình hình hoạt động của các quân khu trong đợt hoạt động Hè - Thu 1967 và triển khai kế hoạch tiến công địch tại Lộc Ninh, Bù Đốp đầu mùa khô 1967-1968, nhưng đến tháng 9-1967, Cục Tham mưu đã hoàn thành dự thảo kế hoạch 5 mũi tiến công vào Sài Gòn - Gia Định và các mục tiêu đánh chiếm trong nội đô Sài Gòn; phân công các tổ trinh sát bằng nhiều phương thức tiếp cận nghiên cứu các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn.

Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên chiến trường B2 (Nghị quyết Quang Trung). Ngày 4-11-1967, Trung ương Cục miền Nam tổ chức hội nghị mở rộng quán triệt Nghị quyết Quang Trung. Tại hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Thái được bổ nhiệm làm Tư lệnh Miền. Trên cơ sở giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu miền Đông cũng như yêu cầu thực tế của chiến trường, cấp trên quyết định thành lập 6 phân khu, từ phân khu 1 đến phân khu 5, mỗi phân khu có từ 2 đến 4 tiểu đoàn mũi nhọn, trang bị gọn nhẹ, hình thành 5 mũi tiến công vào Sài Gòn. Phân khu 6 là phân khu nội đô chỉ huy lực lượng biệt động thành, tự vệ thành, quần chúng cách mạng tiến công các mục tiêu đầu não của địch và nổi dậy giành chính quyền.

Để bảo đảm cho tổng tiến công giành thắng lợi, Cục Tham mưu phải triển khai gấp nhiều công việc do Bộ Chỉ huy Miền yêu cầu. Tuy đã có sự chuẩn bị trước, nhưng từ thủ trưởng cơ quan đến các trợ lý của Cục đều chưa hình dung hết khối lượng và tính chất công việc. Mặc dù vậy, do chủ động khắc phục khó khăn nên kế hoạch tổng tiến công của lực lượng vũ trang B2 và kế hoạch tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định vẫn liên tục được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện. Theo đó, Phân khu 1 gồm: Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn Gò Môn, Tiểu đoàn 4 đặc công, tăng cường Trung đoàn 16 có nhiệm vụ tiến công hướng bắc - tây bắc Sài Gòn; Phân khu 2 gồm Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269, Tiểu đoàn Bình Tân, Tiểu đoàn 12 đặc công, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn pháo vác vai, 2 đội trinh sát, tiến công hướng tây nam; Phân khu 3 gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An, Tiểu đoàn Phú Lợi 2, Tiểu đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn pháo Kiến Tường, Tiểu đoàn đặc công, tiến công hướng nam; Phân khu 4 gồm Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn đặc công được tăng cường, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9, tiến công hướng đông bắc; Phân khu 5 gồm Tiểu đoàn 3 Dĩ An và Trung đoàn Đồng Nai tiến công từ hướng bắc; Phân khu 6 phụ trách nội đô, gồm 3 cụm biệt động, tiến công các mục tiêu đã được phân công. Lực lượng còn lại của Sư đoàn 9 tiến công quân trường Quang Trung, Trung tâm viễn thông Quán Tre, ngăn chặn không cho Sư đoàn 25 địch về ứng cứu cho Sài Gòn. Sư đoàn bộ binh 5, được tăng cường Tiểu đoàn đặc công, Trung đoàn pháo binh 724, lực lượng vũ trang Biên Hòa, tiến công sân bay Biên Hòa, Bộ Tư lệnh dã chiến 2 Mỹ và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3. Kế hoạch được Quân ủy và Trung ương Cục thông qua vào cuối tháng 12-1967.

Song song với chỉ đạo các đơn vị địa phương chuẩn bị tổng tiến công và nổi dậy, Đảng ủy Cục Tham mưu còn ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo Đảng bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xuống đường tiến công và nổi dậy. 100% cán bộ, đảng viên của Đảng bộ xung phong xuống đường chiến đấu. Các phòng, ban đã lập danh sách lực lượng làm nhiệm vụ ở Sở chỉ huy tiền phương, các phái viên theo từng mũi tiến công vào Sài Gòn và nhanh chóng triển khai nhiệm vụ. Những phòng phải triển khai lực lượng trên các hướng là Phòng Quân báo, Phòng Thông tin, Phòng Đặc công cơ giới và Phòng Quân lực.

Đầu tháng 1-1968, Cục Tham mưu Miền đã tiến hành thu thập và thể hiện được toàn bộ các mục tiêu quan trọng của địch bố trí trong các thành phố, thị xã ở Đông Nam Bộ. Các cụm trinh sát công khai dẫn nhiều đồng chí trong Bộ Chỉ huy Miền, chỉ huy các phân khu trực tiếp vào nội đô Sài Gòn quan sát mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát, Đặc ủy trung ương tình báo 2... Tiểu đoàn Trinh sát 46 triển khai Đại đội 2 tăng cường cho Sư đoàn 5 trinh sát nắm địch tại Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy và sân bay Biên Hòa, Đại đội 1 và Đại đội 3 xuống Bưng Còng (nam Bến Cát) phục vụ Bộ Chỉ huy tiền phương Bắc. Cùng thời gian, Cục Tham mưu Miền đã triển khai các cụm thông tin vô tuyến điện, các tổ thông tin vận động xuống Rạch Tra (Hóc Môn) triển khai mạng liên lạc phục vụ Tư lệnh tiền phương chỉ đạo, chỉ huy Phân khu 1 và Sư đoàn bộ binh 9 triển khai nhiệm vụ. Phòng Thông tin cung cấp khí tài và điều động nhân viên kỹ thuật giúp đỡ các phân khu thành lập ban thông tin, mỗi phân khu có 1 đài 15W, các tiểu đoàn mũi nhọn được trang bị tổ thông tin vô tuyến điện đủ theo biên chế. Để chuẩn bị cho tổng tiến công, một ngày mạng thông tin toàn Miền phát hàng trăm bức điện, triển khai hàng trăm kilômét dây hữu tuyến điện đi các hướng. Do chấp hành nghiêm quy chế bảo mật, tổ chức chôn dây thông tin và ngụy trang khéo léo, nên địch gần như không phát hiện được gì cho đến trước giờ tổng tiến công.

2. Vừa chỉ đạo, vừa tham mưu cho Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo, điều chỉnh, bổ sung lực lượng, mục tiêu và rút kinh nghiệm trong quá trình Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân ở B2

Đêm 30 rạng 31-1-1968, các đội biệt động thành tiến công vào 6 mục tiêu chiến lược (Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn, Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh hải quân, Tòa Đại sứ Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất), trong đó có 4 mục tiêu ta đã chiếm toàn bộ hoặc một phần trong nhiều giờ (Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Đài Phát thanh Sài Gòn, cổng số 4 căn cứ Bộ Tổng Tham mưu). Từ 5 giờ sáng ngày 31-1 đến hết ngày 1-2, các tiểu đoàn mũi nhọn trên 5 hướng tổ chức đánh chiếm các mục tiêu được phân công và đánh địch phản kích. Nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt tại cổng số 4 Bộ Tổng Tham mưu, tại ngã ba Cây Thị, chợ Bàn Cờ, cầu Tham Lương, trường đua Phú Thọ. Do các đơn vị tăng viện không đến kịp và bị địch ngăn chặn nguồn tiếp viện từ phía sau, các tiểu đoàn mũi nhọn phải lùi ra ngoài vùng ven đô. Riêng hướng Phân khu 2, Phân khu 3 còn một bộ phận của Tiểu đoàn Bình Tân, Tiểu đoàn 267, 16, 269 trụ lại chiến đấu đến ngày 7-1-1968. Hiệp đồng với lực lượng đánh nội đô, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Trung đoàn 16, Tiểu đoàn Phú Lợi đồng loạt tiến công các mục tiêu sân bay Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, thị xã Thủ Dầu Một, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tiêu diệt và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

 Tổng tiến công đồng loạt trên nhiều hướng, đánh nhiều mục tiêu, đánh trực tiếp vào cơ quan đầu não chỉ đạo, chỉ huy chiến tranh của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân vào Sài Gòn đã giành thắng lợi lớn về quân sự và chính trị. Tại Quân khu 8, Quân khu 9, đồng loạt tiến công ở các trọng điểm trong đêm 31-1, các đơn vị Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 504 của Quân khu 8 tiến công thành phố Mỹ Tho; Tiểu đoàn bộ binh của tỉnh Bến Tre tiến công thị xã Bến Tre. Tại thành phố Cần Thơ, Quân khu ủy Khu 9 đã trực tiếp chỉ đạo 3 tiểu đoàn tập trung của tỉnh (Tây Đô, 303, 309) và lực lượng biệt động tiến công vào thành phố Cần Thơ. Các đơn vị của ta đánh chiếm được nhiều mục tiêu tại Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, gây cho địch nhiều thiệt hại. Mỹ, ngụy bàng hoàng trước đòn đánh bất ngờ của ta. Ngày 17-2-1968, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ phải cay đắng báo cáo với Tổng thống Mỹ rằng: "Cuộc tấn công ban đầu của Việt cộng đã gần thành công ở hàng chục điểm. Để tránh thất bại chỉ có thể có những biện pháp phản ứng kịp thời" .
Tuy bị bất ngờ, choáng váng những giờ đầu nhưng sáng ngày 31-1, Mỹ, ngụy đã tổ chức lực lượng phản kích quyết liệt vào các mũi tiến công của ta. Các đội biệt động Thành bị thương vong, tổn thất đến 80% quân số. Hướng tiến công của Phân khu 1, Phân khu 4 và Sư đoàn 5 bị mất liên lạc với Bộ Chỉ huy tiền phương. Phần lớn các tiểu đoàn mũi nhọn thọc sâu vào nội đô không còn giữ được liên lạc với cấp trên. Các đơn vị phải độc lập chiến đấu trong sự phản kích quyết liệt của địch.

Trong những ngày ác liệt, cán bộ, chiến sĩ Cục Tham mưu đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh bám sát các hướng. Khi chiến sự xảy ra, Cục đã cử cán bộ tác chiến trực tiếp xuống những đơn vị mất liên lạc để nắm tình hình, trực tác chiến kịp thời tổng hợp tình hình chiến trường báo cáo Bộ Chỉ huy Tiền phương. Để bảo đảm thông tin, Cục đã tổ chức triển khai 3 phương tiện thông tin để phục vụ chỉ huy. Địch đánh phá ác liệt, đường dây hữu tuyến điện đứt nhiều lần nhưng các tổ, trạm thông tin vẫn kiên cường khắc phục, đã có 2 tổ đài 15W bị trúng bom, hầu hết các đài 2W đi tăng cường cho các tiểu đoàn mũi nhọn đều hy sinh, nhưng tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ không hề giảm. Các cơ quan còn lại của Cục đã phối hợp với cơ quan của Cục Chính trị làm công tác động viên chiến trường, củng cố bổ sung quân, cấp phát vũ khí trang bị để các đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Từ đêm 19-2 đến 7-3-1968, lực lượng vũ trang B2 thực hiện cao điểm 2 của đợt 1 tổng tiến công và nổi dậy, với các mục tiêu: sân bay Tân Sơn Nhất, khu kho Hạnh Thông Tây, kho Nhà Bè, Biệt khu Thủ đô, khám Chí Hòa và một số mục tiêu tại quận 5, 7, 8. Do tính bất ngờ không còn, địch tăng cường phòng thủ nhiều tuyến quanh Sài Gòn nên hầu hết các đơn vị của ta không thọc sâu được vào trong nội đô, mà chỉ thực hiện pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất 3 lần vào các đêm (17-2, 24-2, 2-3) và pháo kích vào Biệt khu Thủ đô, kho xăng An Nhơn, Nha Cảnh sát đô thành. Cao điểm 2 đã gây cho địch một số thiệt hại nhưng về phía ta lực lượng bị tổn thất lớn.

Kết thúc đợt 1 tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Chỉ huy Miền đánh giá bên cạnh những thắng lợi có ý nghĩa to lớn về chính trị, quân sự gây chấn động trong nước và quốc tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại chiến trường B2 còn bộc lộ những điểm yếu. Đó là hướng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng Khu 8, Quân khu 10 hoạt động quân sự chưa tương xứng với yêu cầu của tổng tiến công và nổi dậy. Tại trọng điểm Sài Gòn - Gia Định ngay khi nổ súng, chỉ huy tiền phương, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền không nắm được đầy đủ tình hình phía trước, các đơn vị cũng không giữ được liên lạc các cánh và đơn vị bạn. Vì vậy, việc chỉ huy, điều động chi viện cho nhau trong chiến đấu rất hạn chế. Những hạn chế này là do sự thiếu sót trong công tác tham mưu, ta không lường hết được các tình huống cần giải quyết trong cuộc tiến công quy mô lớn.

*
*        *

Trong giai đoạn cách mạng mới, tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp khó lường. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", "bạo loạn lật đổ" nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tình hình trên đặt ra cho quân đội ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề, Bộ Tham mưu Quân khu 7 cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tốt các bài học kinh nghiệm của Cục Tham mưu Miền trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Đồng thời, với vai trò là cơ quan trung tâm chỉ huy, hiệp đồng của lực lượng vũ trang Quân khu 7, Bộ Tham mưu Quân khu 7 cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

1- Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu về công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ đột xuất khác; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tổ chức biên chế tinh gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao; nâng cao chất lượng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng các tuyến phòng thủ và khu vực phòng thủ các cấp trên địa bàn Quân khu 7.

2- Luôn luôn cảnh giác, nắm chắc tình hình địch, bạn, ta một cách toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Tham mưu là phải tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng, bày mưu kế khôn khéo, tổ chức chỉ huy thông suốt, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù... Để thực hiện tốt lời dạy của Bác, Bộ Tham mưu Quân khu cần phải nắm chắc diễn biến tình hình khu vực và trên thế giới, ý đồ chiến lược của các nước lớn, các khối, nhất là các nước có biên giới với địa bàn Quân khu 7, các tổ chức hoạt động trên địa bàn Quân khu. Đồng thời, thực hiện tốt Nghị định số 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ phối hợp chặt chẽ với công an và cơ quan chức năng thường xuyên nắm chắc tình hình, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, tham mưu xử lý kịp thời, chính xác ngay từ cơ sở, không để mắc mưu tạo cớ, không để bị động, bất ngờ.

3- Tổ chức quán triệt nghiêm túc các chỉ lệnh, mệnh lệnh, kế hoạch, chương trình, nội dung huấn luyện, nhất là Nghị quyết 765 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện. Nội dung huấn luyện được tiến hành toàn diện, coi trọng cả huấn luyện chính trị, quân sự, điều lệnh, huấn luyện chuyên ngành và huấn luyện thể lực cho bộ đội. Trong đó, đặc biệt coi trọng duy trì nghiêm chế độ huấn luyện tại chức, tập huấn, bồi dưỡng các nội dung về tham mưu tác chiến cấp chiến dịch.

4- Xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan Bộ Tham mưu Quân khu vững mạnh toàn diện, tổ chức biên chế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, đơn vị quán triệt, thực hiện nghiêm chỉ thị, quy định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và của Bộ Tư lệnh Quân khu về xây dựng nền nếp chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật; duy trì nghiêm túc chế độ làm việc, nền nếp công tác. Bộ Tham mưu làm tốt chức năng tham mưu cho Bộ Tư lệnh Quân khu nhiều chủ trương, biện pháp xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật đối với lực lượng vũ trang Quân khu; kiểm tra, đôn đốc các đơn vị duy trì nghiêm kỷ luật.




-----------------------------------------------------------------
1. "Kế hoạch X" đã được Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo cơ quan Tham mưu Miền chuẩn bị từ cuối năm 1964, theo kế hoạch, ta tổ chức tiến công vào Sài Gòn trên 5 hướng.

2. Cụm Điệp báo chiến dịch do đồng chí Hoàng Đạo phụ trách đã trực tiếp đưa đồng chí Trần Đình Xu, Tư lệnh Phân khu 1 đi theo đường hợp pháp vào trinh sát các mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh Sài Gòn về căn cứ an toàn. Xem Lịch sử Phòng Quân báo Miền, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 03:01:56 pm »

TỔ CHỨC, BẢO ĐẢM THÔNG TIN LIÊN LẠC
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng KHÚC ĐĂNG TUẤN
Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc


Cách đây 50 năm, cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, từ ngày 30-1 đến ngày 31-3-1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trên ba vùng chiến lược và giành được thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đó, cùng với quân và dân cả nước, trực tiếp là quân và dân miền Nam, bộ đội thông tin liên lạc đã phát huy cao độ ý chí quyết chiến, quyết thắng, khắc phục khó khăn, gian khổ, vượt qua những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ngay từ những ngày đầu tháng 1-1968, Cục Thông tin liên lạc đã được Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị "Tăng cường khả năng bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy từ Bộ đến các chiến trường được vững chắc hơn theo yêu cầu mới". Quán triệt chỉ thị của trên, Cục Thông tin liên lạc đã chỉ đạo, chỉ huy xây dựng lực lượng, triển khai củng cố các tổng trạm thông tin của Bộ, kể cả các tổng trạm dự bị cách xa Hà Nội.

Về xây dựng lực lượng: Trong tình hình cả nước có chiến tranh, Cục Thông tin liên lạc xác định phương châm xây dựng lực lượng là: "Vừa chiến đấu, vừa xây dựng" yêu cầu bảo đảm đủ số lượng nhưng hết sức chú trọng chất lượng; nhất là công tác huấn luyện. Cục còn chỉ đạo các đơn vị xác định nội dung, phương pháp và thời gian huấn luyện cho phù hợp. Đối với các đơn vị chưa có nhiệm vụ chiến đấu sau giai đoạn huấn luyện tập trung thì phối hợp với bộ đội binh chủng hợp thành để diễn tập. Các đơn vị đang phục vụ chiến đấu phải kết hợp huấn luyện với thực tế công tác. Trong hoàn cảnh nào, nội dung huấn luyện cũng phải bám sát nhiệm vụ của đơn vị, thực tế chiến đấu cũng như yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy trong tác chiến. Trước yêu cầu phải có đủ số lượng cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị và nhân viên kỹ thuật để bổ sung cho các đơn vị mới thành lập và tăng cường cho chiến trường, ngày 21-5-1965, Trường Sĩ quan thông tin trực thuộc Cục Thông tin liên lạc được thành lập có nhiệm vụ tổ chức những lớp đào tạo cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị sơ cấp ngắn hạn (3 tháng, 6 tháng); cán bộ trung cấp kỹ thuật (1 năm) tập trung vào những nội dung cần thiết nhất. Tiếp đó, đến tháng 3-1967, Trường Kỹ thuật thông tin cũng được thành lập với nhiệm vụ đào tạo cán bộ và nhân viên kỹ thuật trung cấp. Đến năm 1968, các trường đã đào tạo, bồi dưỡng được trên 2.000 cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị, nhân viên kỹ thuật, kịp thời bổ sung cho các chiến trường. Trong 4 năm (1965-1968) Cục đã tăng cường cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam 1.836 cán bộ và nhân viên kỹ thuật, 37 cơ công sơ cấp, 45 trung cấp kỹ thuật, 32 đài trưởng và 880 báo vụ, 11 tiểu đoàn, 3 đại đội thông tin.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, cũng như quản lý lực lượng thông tin trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 31-1-1968, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc. Đây là một sự kiện lớn đánh dấu bước ngoặt lịch sử của Binh chủng trên con đường tiến lên xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Ngay sau khi thành lập, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Binh chủng đã nhanh chóng kiện toàn các cơ quan giúp việc như tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; xây dựng các chế độ công tác, nhằm thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ được giao.

Về hệ thống thông tin: Đối với thông tin vô tuyến điện, Bộ Tư lệnh chủ trương tăng cường số lượng máy mới có độ nhạy cao và công suất lớn ở các trung tâm thu phát vô tuyến điện; sử dụng vô tuyến điện sóng ngắn bảo đảm liên lạc để Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo, chỉ huy kịp thời đến Bộ Chỉ huy Miền, các quân khu, tỉnh đội, vượt cấp tới một số sư đoàn, trung đoàn đánh vào các căn cứ quan trọng của địch tại Sài Gòn, Huế, Cần Thơ... Đài phát điện chung và hệ thống đài canh của Bộ, của các quân khu, Miền được tổ chức chặt chẽ và liên tục bảo đảm liên lạc và hiệp đồng cho các đơn vị trong khi cơ động chiến đấu. Vô tuyến điện sóng cực ngắn là phương tiện chủ yếu bảo đảm tốt cho chỉ huy đánh địch trong thành phố, thị xã... nhất là các đơn vị đặc công, biệt động luồn sâu đánh hiểm.

Thông tin hữu tuyến điện, vô tuyến điện tiếp sức, đặt thêm các máy tải ba nhiều kênh ở tổng trạm của Bộ và các trạm cơ vụ đi các hướng, nhất là đường trục vào chiến trường miền Nam. Cán bộ được tăng cường trực tiếp từng phiên ca trong các trạm máy, kiểm tra duy trì các chế độ và điều hành chặt chẽ ở từng trạm, từng tổng trạm và trên các trục từ Bộ đi các đơn vị, nhất là trục hữu tuyến điện và vô tuyến điện tiếp sức đi Trị - Thiên, Tây Nguyên vào chiến trường miền Nam. Ở chiến trường Trị - Thiên và Tây Nguyên, Cục Thông tin liên lạc đã xây dựng tuyến dây trần, vô tuyến điện tiếp sức từ Bộ Tổng Tham mưu đến trạm cơ vụ A72 (Quảng Bình); giao cho Trung đoàn 134 triển khai tuyến dây trần từ trạm cơ vụ A72 (Quảng Bình) vào Quân khu Trị - Thiên dài hơn 300km, đồng thời thay thế các máy tải ba ít kênh bằng các máy nhiều kênh, tổ chức hàng trăm trạm cơ vụ bảo đảm thông tin cho mặt trận Đường 9 - Khe Sanh và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.

Thông tin chuyển đạt đã bảo đảm vận chuyển kịp thời công văn, tài liệu... từ Hà Nội vào các quân khu, mặt trận ở miền Nam theo tuyến vận tải 559. Ở chiến trường miền Nam, thông tin chuyển đạt kết hợp với thông tin nhân dân được tổ chức chặt chẽ và làm tốt nhiệm vụ chuyển đạt công văn, chỉ thị, báo cáo, dẫn đường, đưa đón cán bộ ra, vào vùng địch kiểm soát.

Về cơ sở vật chất kỹ thuật: Cục Thông tin liên lạc chỉ đạo các đơn vị thông tin ở miền Bắc sử dụng hết sức tiết kiệm phương tiện khí tài hiện có, dành dây máy tốt nhất cho các đơn vị thông tin ở chiến trường miền Nam. Một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật thông tin có chất lượng tốt được khẩn trương chuyển vào chiến trường sớm hơn dự kiến để kịp bảo đảm cho chiến đấu (từ năm 1965 đến năm 1968 đã chuyển vào chiến trường miền Nam 2.692 máy vô tuyến điện các loại, 843 tổng đài, 12.058 máy điện thoại, 137 tổ máy phát điện quay tay). Nhờ những cố gắng trên, cơ quan thông tin các mặt trận đã kịp thời bổ sung lượng tiêu hao, trang bị cho những đơn vị mới thành lập, một phần cho lực lượng vũ trang địa phương và có một phần lực lượng dự bị cho các hoạt động tiếp sau.

Về tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc: Ở Mặt trận Sài Gòn - Gia Định, sau đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, các đơn vị biệt động, đặc công ta nhanh chóng thọc sâu vào các mục tiêu được phân công. Tuy bị máy bay lên thẳng, máy bay trinh sát địch phát hiện, bắn xối xả vào đội hình, nhưng các chiến sĩ bộ đàm vẫn bám sát đơn vị để giữ liên lạc (chiến sĩ Phạm Thái Hòa bị bom địch hất xuống bờ sông, tay phải bị thương, đã tự băng bó và tiếp tục giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy sư đoàn. Chiến sĩ Trần Văn Can ba lần bị thương vẫn không chịu rời máy, kiên quyết bám trụ bên cầu để giữ liên lạc). Do địch phản kích quyết liệt, trong khi đó Sở chỉ huy phải di chuyển liên tục nhưng để đảm bảo thông tin thông suốt, liên lạc vô tuyến điện phải tiến hành trên xuồng ở sông Sài Gòn, mỗi ngày chỉ có một phiên làm việc vào 12 giờ đêm, sau đó lại cất giấu máy và chuẩn bị chiến đấu.

Trong đợt 2 (từ ngày 1 đến ngày 12-3-1968), Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương kiên quyết giữ vững bàn đạp từ ngoại ô nối liền với những khu vực đã chiếm ở nội thành (như Phú Thọ Hòa, phía bắc cầu chữ Y...), sử dụng các Sư đoàn bộ binh 9 (thiếu), Sư đoàn bộ binh 7, Đoàn đặc công 117 và các đơn vị biệt động đánh từ Long An sang hướng Bà Quẹo. Để đảm bảo hoạt động cho các lực lượng, cơ quan thông tin đã tổ chức hai đài 102E, sáu tổ đài PRC25, một phân đội hữu tuyến điện và thông tin chuyển đạt đi theo Sở chỉ huy tiền phương (đặt tại khu vực Mành Manh, sông Vàm Cỏ Đông). Hữu tuyến điện được tổ chức từ Sở chỉ huy đến Sư đoàn bộ binh 7. Thông tin chuyển đạt sử dụng chiến sĩ người địa phương thông thuộc địa hình ở khu vực tác chiến để bảo đảm liên lạc. Mở màn đợt 2, các đơn vị thông tin đã phục vụ cho pháo binh ta bắn phá vào 16 vị trí địch trong nội thành. Máy bộ đàm đi theo các mũi tiến công đã giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy tiền phương. Tổ thông tin gồm chiến sĩ bộ đàm Dương Tuấn Nghĩa và chiến sĩ chuyển đạt Lưu Phước Lượng của Sư đoàn 9 đã phối hợp với tổ trinh sát đặc công trụ bám nhiều ngày trên tầng 5 của một ngôi nhà ở góc đường Phú Nhuận, theo dõi địch và báo cho pháo binh ta bắn rất chính xác. Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 đánh vào ngã tư Bảy Hiền, điện đài bị lạc, cơ quan thông tin đã kịp thời đưa một máy K63 xuống và chọn điểm cao đặt máy, bảo đảm liên lạc tốt với Sở chỉ huy chiến dịch và liên lạc hiệp đồng chặt chẽ với Sư đoàn 7 ở vòng ngoài.

Các phân đội thông tin thuộc Sư đoàn 7, 9, Đoàn đặc công 117 vừa giữ vững liên lạc, vừa dũng cảm chiến đấu với địch, đã bảo đảm cho chỉ huy nhiều trận đánh giành thắng lợi lớn; điển hình là trận đánh chìm hai tàu trên sông Lòng Tàu, diệt 250 tên địch, phá hủy 20 máy bay lên thẳng và 5.000 viên đạn pháo.

Trong đợt 3, Sở chỉ huy tiền phương di chuyển lên Bắc Tây Ninh, sử dụng Sư đoàn 9 làm lực lượng chủ yếu đánh địch tiến công lên Tây Ninh. Việc tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc lúc này lấy vô tuyến điện sóng ngắn là chủ yếu. Một tổ vô tuyến điện gồm ba chiến sĩ mang theo một máy Sinen làm việc ở bộ phận quân báo trụ bám ở ấp Bảo Công, xã An Ninh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Địch càn quét rất ác liệt, tổ đài phải xuống hầm bí mật tránh địch nhiều lần nhưng vẫn bảo đảm an toàn cả về máy và người, giữ vững liên lạc với Sở chỉ huy tiền phương. Trong một đợt càn quét, địch tìm được hầm, anh em đã đội nắp hầm nhảy lên ném lựu đạn tiêu diệt địch và thoát vây.
Ở Quân khu 9, để bảo đảm cho Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị hoạt động trong vùng địch tạm chiếm, từ năm 1967 theo chủ trương chung của Quân khu, cơ quan thông tin đã cử cán bộ xuống cơ sở tham gia phát động phong trào chiến tranh du kích, xây dựng xã, ấp chiến đấu kết hợp với xây dựng mạng lưới thông tin nhân dân từ ấp, xã lên huyện, tỉnh.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trọng điểm của tiến công quân sự là thành phố Cần Thơ (hướng chủ yếu) và các thị xã Rạch Giá, Cà Mau, Chương Thiện. Từ Sở chỉ huy tiền phương, quân khu đã tổ chức vô tuyến điện sóng ngắn kết hợp với sử dụng hệ thống giao liên của Khu ủy để liên lạc với các trung đoàn 1, 2 chủ lực và với các tỉnh, thành. Do được chuẩn bị chu đáo nên mệnh lệnh tổng tiến công được chuyển kịp thời đến các đơn vị, góp phần bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ cho cuộc tổng tiến công. Khi Sở chỉ huy tiền phương quân khu di chuyển xuống phía nam thành phố Cần Thơ, các điện đài sóng ngắn ở Sở chỉ huy được đặt trên xuồng nhưng vẫn tiếp tục bảo đảm liên lạc chặt chẽ với các đơn vị. Trước các đợt phản kích quyết liệt của địch, Trung đoàn 1 chủ lực của Quân khu trụ bám đánh địch. Đại đội thông tin trung đoàn đã giữ vững liên lạc với cấp trên và với các tiểu đoàn, dũng cảm chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ Sở chỉ huy, bảo vệ đài, trạm thông tin.

Ở Quân khu 8, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Quân khu có nhiệm vụ đánh vào thành phố Mỹ Tho (hướng chủ yếu), căn cứ Đồng Tâm, Long An và bắc đường số 4. Đại đội thông tin 250 Quân khu đảm nhiệm tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc bảo đảm cho Sở chỉ huy tiền phương Quân khu chỉ huy các trung đoàn 1, 2 chủ lực và các tỉnh đội bằng vô tuyến điện sóng ngắn, kết hợp với sử dụng hệ thống giao liên của Khu ủy. Đại đội thông tin vừa phục vụ chiến đấu tốt, vừa tham gia chiến đấu chống càn. Trong trận đánh địch tiến công vào Sở chỉ huy tiền phương Quân khu (2-1968), một bộ phận của đại đội thông tin với 8 khẩu AK đã diệt gọn 1 đại đội biệt kích ngụy gồm 85 tên.
Ở Quân khu 5 và Mặt trận Tây Nguyên, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tổ chức hệ thống thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện sóng ngắn, kết hợp với hệ thống giao liên, chỉ huy các đơn vị đánh trúng vào các mục tiêu chủ yếu ở ba thị xã lớn là Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột và tiến công đồng loạt các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, các thị xã Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hòa, giành thắng lợi to lớn.

Ở Mặt trận Trị - Thiên, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Tiểu đoàn Thông tin 813 Mặt trận được giao nhiệm vụ tổ chức thông tin liên lạc từ Sở chỉ huy tiền phương Mặt trận đến Trung đoàn 6 chủ lực đánh vào thành phố Huế. Mặc dù không được nghiên cứu địa hình trước, nhưng phân đội hữu tuyến điện đã vận dụng phương pháp đơn vị đi tới đâu rải dây theo tới đó, kết hợp sử dụng một máy PRC-25 bám sát trung đoàn hành quân liên lạc qua đài chuyển tiếp đặt trên điểm cao Hòn Vượn, đã bảo đảm cho Sở chỉ huy tiền phương liên lạc hữu tuyến điện, vô tuyến điện sóng cực ngắn thông suốt với Trung đoàn. Đại đội thông tin Trung đoàn đã tổ chức, sử dụng hữu tuyến điện, vô tuyến điện sóng cực ngắn kết hợp với thông tin chuyển đạt bảo đảm cho chỉ huy chặt chẽ các cánh quân phát triển sâu vào nội thành. Đây là lần đầu tiên bộ đội thông tin liên lạc triển khai đường dây trong một thành phố lớn ở miền Nam, đạt hiệu suất sử dụng cao.

Tại Mặt trận Quảng Trị, đêm 30 Tết, lực lượng thông tin của Quân khu đi theo Sở chỉ huy Mặt trận gồm một trung đội vô tuyến điện trang bị hai máy vô tuyến điện sóng ngắn, một tiểu đội hữu tuyến điện xuống khu vực Hải Lăng, kết hợp với trung đội thông tin chuyển đạt lót sẵn, triển khai hệ thống thông tin liên lạc bảo đảm cho chỉ huy các đơn vị đánh vào căn cứ La Vang, quận lỵ Hải Lăng và thị xã Quảng Trị. Mặc dù quân địch phản kích quyết liệt, kết hợp với máy bay và các loại pháo từ ngoài biển, từ căn cứ Ái Tử và thị xã bắn phá dữ dội, nhưng nhờ tổ chức, sử dụng vô tuyến điện sóng ngắn 15W nên thông tin liên lạc giữa các đơn vị và với Sở chỉ huy Mặt trận vẫn bảo đảm tốt.

Bên cạnh nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bộ đội thông tin liên lạc còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế - duy trì liên lạc vững chắc cho chỉ đạo, chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội Pathét Lào giành thắng lợi to lớn.

Tháng 1-1968, phối hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của ta, quân đội Pathét Lào cùng với quân tình nguyện Việt Nam đã mở chiến dịch Nậm Bạc nhằm khôi phục và củng cố vùng giải phóng Tây Bắc Thượng Lào. Để đảm bảo thông tin cho hướng hoạt động này, cơ quan thông tin Quân khu Tây Bắc được sự giúp đỡ của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc và sự hiệp đồng tích cực của bộ đội thông tin Đoàn 959 đã cùng với bạn tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ huy chiến dịch. Tiểu đoàn thông tin Sư đoàn bộ binh 316 quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng chủ yếu của chiến dịch được trang bị đầy đủ theo tổ chức biên chế, có điện đài 15W trang bị đến tiểu đoàn bộ binh, đã cùng với bạn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc bảo đảm cho chỉ huy các đơn vị ta và bạn nổ súng tiến công đồng loạt các cụm cứ điểm địch ở Nậm Bạc và chuyển sang truy quét địch phá vây rút chạy. Sau 16 ngày đêm chiến đấu (từ ngày 6-12 đến ngày 27-1-1968), chiến dịch đã giành thắng lợi hoàn toàn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.000 địch (có hơn 2.000 tên bị bắt sống), giải phóng trên một vạn dân, thu nhiều vũ khí. Qua chiến dịch này, bộ đội thông tin liên lạc của ta và bạn đã thu được nhiều kinh nghiệm về tổ chức, sử dụng thông tin liên lạc ở địa hình rừng núi trong một chiến dịch tiến công đánh cụm cứ điểm và đánh địch rút chạy; qua đó, củng cố thêm một bước tinh thần liên minh đoàn kết chiến đấu, giúp bạn nhanh chóng xây dựng lực lượng để có thể tự lực đảm nhiệm công tác bảo đảm thông tin liên lạc trong các chiến dịch sau.

Cùng với thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam Xuân Mậu Thân 1968 và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế đối với nước bạn Lào, Binh chủng Thông tin đã có sự trưởng thành trên nhiều mặt như: chính trị, tư tưởng, tổ chức, bảo đảm thông tin liên lạc, xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong suốt quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Bộ Tư lệnh Thông tin đã thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

Một là, quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong tình hình và nhiệm vụ mới, xây dựng quyết tâm, ý chí chiến đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ giữ vững thông tin liên lạc cho lãnh đạo chỉ huy các mặt trận giành thắng lợi. Toàn Binh chủng đã dấy lên phong trào thi đua "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" và nhiều hành động thiết thực như: "Dây là ruột, cột là xương, liên lạc là mạch máu"... có ý nghĩa, nội dung thiết thực, đạt hiệu quả cao.

Hai là, làm tốt công tác chuẩn bị các mặt, nhất là lực lượng, phương tiện thông tin kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Binh chủng đã tập trung xây dựng lực lượng, đặc biệt là đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị và nhân viên kỹ thuật, chi viện cho các đơn vị ở miền Bắc và chiến trường miền Nam.

Công tác bảo đảm phương tiện thông tin cho các mặt trận ở chiến trường miền Nam được tiến hành tích cực và khẩn trương. Binh chủng đã chỉ đạo các đơn vị thông tin miền Bắc sử dụng hết sức tiết kiệm phương tiện khí tài hiện có, dành dây máy tốt cho các đơn vị thông tin ở chiến trường miền Nam. Do đó các mặt trận đã có thêm nhiều phương tiện thông tin (kể cả các loại phương tiện thông tin mới) để bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Ba là, binh chủng chỉ đạo, sử dụng phương tiện thông tin phù hợp trong từng giai đoạn ở các mặt trận. Tăng cường kiểm tra duy trì nền nếp chế độ công tác thông tin liên lạc ở từng trạm, từng tổng trạm và trên trục từ Bộ đi vào chiến trường. Nhờ đó, các đơn vị trên chiến trường miền Nam, miền Trung, Tây Nguyên, các đơn vị quân chủng, tỉnh thành trong cả nước đã tổ chức và bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, nhất là bảo đảm thông tin liên lạc cho chỉ đạo, chỉ huy thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam, cũng như thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Lào.

Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở miền Nam, cũng như thắng lợi đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nước bạn Lào có những đóng góp quan trọng của bộ đội thông tin liên lạc. Tháng 11-1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên dương: "Bộ đội thông tin liên lạc hiệp đồng chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng vẻ vang". Những thành tích đó đã được Bộ Tổng Tham mưu nhận xét trong Hội nghị chủ nhiệm thông tin toàn quân năm 1969: "Bộ đội thông tin liên lạc đã đóng góp vào thắng lợi to lớn của năm 1968, đặc biệt là thắng lợi to lớn, toàn diện, vững chắc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam mùa Xuân 1968".

Trong giai đoạn hiện nay, Binh chủng Thông tin liên lạc đã tham mưu cho Bộ Quốc phòng đầu tư nhiều trang thiết bị thông tin hiện đại cho các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng, tỉnh thành trong cả nước như: Trang bị tổng đài kỹ thuật số, mạng truyền số liệu MISTEN, thông tin vệ tinh, các xe thông tin cơ động... Để kế thừa và phát huy truyền thống của bộ đội thông tin liên lạc anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng, cán bộ, chiến sĩ thông tin toàn quân phải không ngừng học tập, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực chuyên môn; khai thác thành thạo trang bị khí tài, vươn lên làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến; đoàn kết, hiệp đồng xây dựng Binh chủng Thông tin hiện đại. Thực hiện thành công chiến lược hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc quân sự, bảo đảm thông tin liên lạc kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn cho Đảng, Nhà nước, quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #52 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 03:13:24 pm »

CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng TRẦN HỮU TÀI
Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 7


Sau thắng lợi đánh bại các cuộc hành quân mùa khô của Mỹ (1965-1966, 1966-1967), Trung ương Đảng nhận định: Địch đã thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" và đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến dịch. Trước tình hình đó, Trung ương chỉ đạo quyết tâm chiến lược mới là: "Khẩn trương tranh thủ thời gian, tạo mọi điều kiện, thời cơ giành thắng lợi liên tục, toàn diện và ngày càng lớn". Năm 1967, Cục Chính trị Miền triển khai đợt sinh hoạt chính trị trong các lực lượng vũ trang nhằm quán triệt chỉ thị của Quân ủy Trung ương về thực hiện cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Tổ chức Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn miền Nam (năm 1967) trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, phong tặng 471 cán bộ, chiến sĩ toàn miền Nam là Anh hùng lực lượng vũ trang và Chiến sĩ thi đua; nhiều địa phương, đơn vị, tập thể và cá nhân được khen thưởng, phong tặng danh hiệu Anh hùng, Huân chương giải phóng và cờ mang dòng chữ "Trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời, chiến thắng vẻ vang". Riêng quân và dân miền Đông Nam Bộ được phong tặng 20/47 1 Anh hùng lực lượng vũ trang toàn miền Nam . Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua đã tạo động lực, niềm tin, sức mạnh mới làm dấy lên tinh thần đoàn kết, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tạo ra phong trào thi đua sôi nổi "Học tập thành tích các anh hùng, dũng sĩ, thi đua giết giặc lập công", được triển khai toàn diện trong quân và dân miền Đông Nam Bộ.

Thực hiện Chỉ thị của Trung ương về "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", ngày 25-10-1967, Trung ương Cục ra Nghị quyết "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" trên chiến trường B2 (Nghị quyết Quang Trung); chiến trường miền Đông Nam Bộ được xác định là hướng trọng điểm của chiến dịch. Để chuẩn bị cho "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", tháng 12 - 1967, Bộ Chỉ huy Miền quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập 6 phân khu (1, 2, 3, 4 ,5 ,6) còn lại ba tỉnh độc lập trực thuộc Quân ủy Miền (Biên Hòa U1, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tây Ninh) 2. Ngày 2-1-1968, tại căn cứ Ba Thu huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, Trung ương Cục triển khai kế hoạch "tổng công kích, tổng khởi nghĩa"; Đảng ủy các phân khu tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chặt chẽ và thống nhất từ trên xuống; chỉ đạo Phòng Chính trị nắm chắc tình hình, chủ động khẩn trương hướng dẫn các nội dung công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị lực lượng vũ trang miền Đông, nổi bật đó là:

Về công tác tư tưởng: Khẩn trương tổ chức hội nghị bàn về công tác đảng, công tác chính trị trước và trong tổng công kích; xác định nhiệm vụ hàng đầu là làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chỉ đạo tổ chức quán triệt thực hiện cuộc vận động "ba dân chủ" trong đơn vị, quán triệt đến mọi cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí, phát huy bản chất giai cấp công nhân quyết tâm chiến đấu sắt đá, kiên cường, tiến công địch mãnh liệt, dồn dập và liên tục; phát động phong trào thi đua "tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt"; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp, hiệp đồng tác chiến đánh bại các cuộc hành quân của địch; phát động phong trào quần chúng, thanh niên và sinh viên thi đua xung phong "xuống đường giải phóng quê hương".

Về xây xựng Đảng: Các phân khu chỉ đạo các đơn vị tổ chức học tập Nghị quyết của Trung ương Cục và nghị quyết của Phân khu ủy về thực hiện "tổng công kích, tổng khởi nghĩa"; các chi bộ, đảng bộ phải tiến hành đợt sinh hoạt kiểm điểm 1 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng "chi bộ ba tốt", "đảng viên ba tốt", củng cố kiện toàn cấp ủy chi bộ, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ trước khi bước vào thực hiện "tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Tổ chức rà soát sắp xếp đủ cán bộ cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu, dự kiến số lượng cán bộ thay thế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; tổ chức tập huấn cán bộ về chỉ huy chiến đấu trong địa hình đô thị và tiến công mục tiêu trong thành phố. Các phân khu đều xây dựng được các tiểu đoàn, đại đội và bộ đội quận, huyện.

Lãnh đạo kiện toàn, sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các phân khu: Chấp hành Nghị quyết của Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định khẩn trương tổ chức kiện toàn, sắp xếp lại cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tăng cường cho các phân khu :

Phân khu 1, đồng chí Trần Đình Xu (Ba Đình) làm Tư lệnh phân khu; đồng chí Tư Trường làm Chính ủy. Phân khu 2, đồng chí Lê Văn Nhỏ làm Tư lệnh; đồng chí Võ Trần Chí làm Chính ủy. Phân khu 3, đồng chí Huỳnh Công Thân là Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Văn Chính (Chín Cần) làm Chính ủy. Phân khu 4, đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh; đồng chí Đoàn Công Chánh (Sáu bảo) làm Chính ủy. Phân khu 5, đồng chí Nguyễn Chí Sình làm Tư lệnh; đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu) làm Chính ủy (sau tiến công đợt 2, đồng chí Nguyễn Văn Bứa làm Tư lệnh). Phân khu 6, đồng chí Trần Hải Phụng làm Tư lệnh; đồng chí Võ Văn Thạnh làm Chính ủy. Sau tiến công đợt 2, kiện toàn lại đồng chí Trần Bạch Đằng làm Bí thư, Nguyễn Thái Sơn làm Phó Bí thư, Trần Hải Phụng làm Chỉ huy trưởng, Võ Văn Thạnh làm Chính ủy, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) làm Phó Chỉ huy trưởng, kiêm Tham mưu trưởng phân khu ủy.
 
Đồng thời, tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang các cấp tỉnh, huyện; lực lượng du kích xã được xây dựng phát triển mạnh mẽ và xác định đây là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.

Lãnh đạo lực lượng vũ trang tham gia các đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa: Chiến dịch Mậu Thân được thực hiện thành 3 đợt (đợt 1 trong tháng 1 và tháng 2; đợt 2 trong tháng 5 và tháng 6; đợt 3 trong tháng 8 và tháng 9-1968).

Đợt 1, vào hồi 23 giờ ngày 30-1-1968 tại Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6, sau khi giao nhiệm vụ cho các đội biệt động, đồng chí Võ Văn Thạnh nhắc lại lời thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" và trịnh trọng đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các phân khu chỉ đạo các lực lượng phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích chuẩn bị tinh thần tiến công vào các mục tiêu; Phân khu nội đô vừa thực hiện nhiệm vụ đánh địch vừa vận động quần chúng tham gia vào chiến dịch. Thực hiện theo hiệp đồng đến giờ "G", các lực lượng Phân khu 2 đã nổ súng đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất; Phân khu 6 nổ súng tấn công vào trung tâm đầu não của đối phương là: Bộ Tổng Tham mưu; Dinh Độc Lập; Đài Phát thanh Sài Gòn; Đại sứ quán Mỹ và Bộ Tư lệnh hải quân Mỹ. Cuộc chiến trên các hướng diễn ra rất ác liệt, ta đã tiêu diệt nhiều lực lượng, phương tiện của địch; Mỹ tăng cường thêm lực lượng, ta gặp nhiều khó khăn do lực lượng còn mỏng so với yêu cầu nhiệm vụ; việc nắm địch và hiệp đồng với các lực lượng còn những hạn chế, nên ta hy sinh tương đối nhiều, đặc biệt, gần 80% các chiến sĩ biệt động Thành hy sinh và bị bắt . Tuy nhiên, với kết quả đợt 1 đạt được, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 6 đánh giá: "Đợt 1 đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm thay đổi nhanh chóng tương quan lực lượng giữa ta và địch..., mở ra cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, đặt cơ sở vững chắc đưa tổng công kích, tổng khởi nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn".

Kết thúc đợt 1, chiến trường Đông Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, các phân khu (1, 4, 5, 6) bị tổn thất lớn, một số đơn vị cán bộ, chiến sĩ xuất hiện tư tưởng dao động, ngán ngại khó khăn, thiếu tin tưởng vào thắng lợi. Cơ quan chính trị các phân khu tiếp tục đề xuất kiện toàn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ; tiếp tục quán triệt định hướng chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ; quán triệt Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục, ngày 4-2-1968, về "phát huy thắng lợi đã giành được, tiếp tục công kích cao điểm 2"; tiếp tục động viên cán bộ, chiến sĩ, vận động phong trào quần chúng thực hiện tiến công đợt 2 và làm tốt công tác binh vận trong chiến đấu. Đêm 5-5-1968 đợt 2 bắt đầu, các lực lượng tiến công vào các trung tâm đầu não của địch: Dinh Độc Lập, Nha Cảnh sát, Tân Cảng; các đội tự vệ vũ trang của Thành đoàn, tự vệ vũ trang tiến công vào trụ sở hành chính Quận 5; Phân khu 5 thọc sâu vào quận 6, 8 và Nhà máy điện. Quân và dân phối hợp chặt chẽ, chiến đấu anh dũng, tiêu diệt, tiêu hao được nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch; vừa chiến đấu vừa thông báo, thông tin kết quả thắng lợi, từ đó củng cố niềm tin, tinh thần chiến đấu ngày càng cao và hiệu quả tốt. Ngày 18-6-1968, đợt 2 kết thúc, ta đã đạt được mục tiêu và tiếp tục gây chấn động dư luận trong nước cũng như trên thế giới, làm lung lay ý chí của giới cầm quyền Mỹ.

 Tháng 8-1968, Bộ Chính trị chủ trương tiến hành "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" đợt 3, mục đích là làm cho địch bị thất bại nặng nề, buộc chúng phải tìm giải pháp chính trị chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tuy nhiên, sau đợt 2, Mỹ - chính quyền Sài Gòn huy động lực lượng lớn tổ chức phòng ngự mạnh quanh Sài Gòn, đồng thời chúng thực hiện các cuộc hành quân bình định, kiểm soát chặt chẽ vùng ven đô, hành quân càn quét ở vùng trung tuyến, sử dụng phi pháo, B52 đánh phá hủy, diệt các căn cứ của ta ở vùng rừng, núi. Căn cứ vào đặc điểm chiến trường, Quân ủy Miền báo cáo Bộ Chính trị những khó khăn tại mặt trận Sài Gòn - Gia Định và đề nghị cho chuyển hướng trọng điểm tiến công từ nội đô ra trung tuyến, và được chấp nhận. Để giảm bớt những khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang các phân khu, tháng 7-1968, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Cán sự đảng T7 và Bộ Tư lệnh T7, trực tiếp chỉ đạo các đơn vị vũ trang ở chiến trường phía đông Sài Gòn gồm các tỉnh Biên hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long Khánh, do đồng chí Lương Văn Nho làm Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Ngọc Tân làm Chính ủy.

Cùng với việc thành lập Ban Cán sự đảng T7, Trung ương Cục quyết định thành lập Thành ủy Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, Thường vụ Thành ủy trực tiếp lãnh đạo Phân khu 6 đảm nhiệm toàn bộ quân khu nội ô Sài Gòn. Công tác cán bộ đòi hỏi cần phải nhanh chóng ổn định để thực hiện đợt 3; sắp xếp, bố trí kiện toàn Phòng Chính trị của Bộ Tư lệnh T7 và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, mỗi phòng được biên chế thành 5 ban (Tuyên huấn, Tổ chức, Cán bộ, Dân vận, Bảo vệ an ninh), quân số khoảng 25 đồng chí.

Bộ Tư lệnh T7 và Thành ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo Phòng Chính trị nắm chắc tình hình và làm tốt công tác truyên truyền, thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, hướng dẫn các đơn vị mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, niềm tin thắng lợi; khắc phục tư tưởng hoài nghi, dao động, cho rằng địch mạnh, nhưng chưa thấy hết khả năng to lớn của cách mạng; khắc phục những hạn chế của cấp ủy đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị để quyết tâm giành thắng lợi lớn. Phát động phong trào thi đua diệt Mỹ và phong trào xây dựng "chi bộ ba tốt" và làm tốt công tác động viên khen thưởng trong quá trình chiến đấu với các danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ", "Dũng sĩ diệt xe cơ giới Mỹ". Tích cực làm tốt công tác dân vận, đã huy động được hơn 6.000 dân công đào đường, phá giao thông trên tỉnh lộ 2 và quốc lộ 15, đồng thời vận động các tầng lớp quần chúng tham gia vào tổng khởi nghĩa trên khắp các địa bàn.

Các lực lượng miền Đông Nam Bộ phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực Miền thực hiện tác chiến, tiến công trên địa bàn Tây Ninh, Bình Long, Dầu Tiếng; Sư đoàn 5 phối hợp với Sư đoàn 9 tiêu diệt nhiều tiểu đoàn địch và phá hủy hàng trăm xe quân sự, làm phá sản kế hoạch "quét giữ" và "bình định" của Mỹ. Dù vậy, thắng lợi của ta cũng chưa đủ làm thay đổi tình hình trên chiến trường B2 nói chung và ở Đông Nam Bộ nói riêng. Giai đoạn này, lực lượng cách mạng của ta hết sức khó khăn; Mỹ, ngụy tăng cường điều động và chi viện lực lượng, đẩy mạnh kế hoạch cấp tốc "bình định" để chiếm lại các vị trí đã mất. Trước tình hình đó, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền cùng các đơn vị chủ lực phải di chuyển về căn cứ bên kia biên giới Campuchia; các đơn vị của Bộ Tư lệnh T7, Phân khu 2 và Sài Gòn - Gia Định phải trụ lại chiến đấu rất ác liệt, vô cùng khó khăn và gian khổ. Các lực lượng được tiếp tục quán triệt nhiệm vụ quan trọng là: "Làm cho các cấp nhận rõ hơn nữa tính chất mới của giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa là liên tục tiến công, liên tục nổi dậy, kết hợp cao điểm với thường xuyên, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn". Riêng các khu và phân khu cần nắm vững thời cơ, kiên quyết tiến công giành thắng lợi to lớn cho Đông Xuân, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Sau khi được quán triệt sâu sắc chỉ thị của Trung ương Cục và Quân ủy Miền, hoạt động giai đoạn 2 của đợt 3 thực hiện với khí thế sôi nổi; bộ đội chủ lực tiếp tục thực hiện được những trận đánh xuất sắc; lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định và các phân khu vừa tiến công vừa đánh phản kích giữ các địa bàn, tạo được những cao điểm của tiến công, hạn chế được một phần lấn chiếm của địch. Đợt 3 đã giành được những thắng lợi to lớn nhất từ trước tới nay; đã thực hiện được nhiều trận đánh, tiêu diệt được nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch. Góp phần củng cố, phát triển thế chủ động tiến công và bao vây địch, cho thấy chủ trương chuyển hướng tiến công chủ yếu ra vòng ngoài đô thị là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tế của chiến trường.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã để lại kết quả và kinh nghiệm cho lực lượng vũ trang miền Đông như sau:

Ưu điểm: Cấp ủy, chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ luôn nắm chắc quan điểm, phương châm lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy Miền; kịp thời đề xuất chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ đúng, sát thực tế. Triển khai thống nhất từ trên xuống một cách toàn diện có trọng tâm, trọng điểm. Phương pháp, hình thức, nội dung tiến hành công tác đảng, công tác chính trị thực hiện linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nhiệm vụ và sát tình hình thực tế. Cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy các cấp luôn theo sát, nắm vững tư tưởng trong từng giai đoạn; triển khai tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là trong từng giai đoạn khó khăn. Kịp thời giải quyết tư tưởng, củng cố kiện toàn tổ chức, xốc lại lực lượng trên từng hướng, mũi, đơn vị bị tổn thất; giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự thắng lợi của cách mạng; chống tư tưởng dao động, hoài nghi trong cán bộ, chiến sĩ, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ. Kịp thời kiện toàn cấp ủy, tổ chức biên chế, sắp xếp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong khi chiến trường có nhiều thay đổi. Coi trọng công tác chính sách trong chiến đấu, công tác vận động nhân dân địa bàn chiến đấu; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với công tác binh vận, địch vận, làm tan rã lực lượng địch, tạo sự tin tưởng của các tầng lớp nhân dân hướng về cách mạng, giải quyết hậu quả chiến đấu.

Sau tổng tiến công đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời rút kinh nghiệm, chống chủ quan, đơn giản, củng cố ý chí quyết tâm; chấn chỉnh củng cố tổ chức, bình xét khen thưởng, điều chuyển thương binh, quản lý chặt chẽ bộ đội, chống hữu khuynh tiêu cực, bạc nhược, dao động khi địch phản công.

Nhược điểm: Việc nhận định, đánh giá tình hình, lường trước sự việc còn hạn chế, mơ hồ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa thường xuyên; việc phổ biến chủ trương, quyết tâm chiến lược của Đảng chưa kỹ, nhận thức giữa lý thuyết và thực tế còn khoảng cách xa, biểu hiện đó là "khi học Nghị quyết của Trung ương thấy địch mỏng như lá lúa, về chiến trường thấy địch dày hơn da trâu", từ đó xác định mục tiêu không rõ ràng, không biết còn tổng công kích, tổng khởi nghĩa nữa hay không? Đó là vấn đề ở một số cán bộ, đảng viên, làm giảm động lực và niềm tin vào sự thắng lợi. Chưa kịp thời động viên trong quá trình chiến đấu, do một phần lực lượng cán bộ chính trị còn thiếu, mỏng. Chỉ đạo kết hợp đấu tranh trên các mặt quân sự - ngoại giao, binh vận còn hạn chế. Công tác vận động quần chúng chưa cao nên lực lượng quần chúng ở các vùng trọng điểm đô thị tham gia còn ít so với dự định, chưa đạt như mong muốn chiến lược của Đảng là tổng công kích và tổng khởi nghĩa.

Từ thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, phải thường xuyên nắm vững quan điểm chiến lược của Đảng, tình hình chiến trường; đặt niềm tin vào chính nghĩa của cách mạng, đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo toàn điện, thống nhất và quyết tâm giành thắng lợi trong thực hiện nhiệm vụ. Phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức trong đấu tranh cách mạng, đặc biệt sức mạnh quần chúng của các tầng lớp nhân dân trong việc kết hợp thực hiện chiến lược "tổng công kích và tổng khởi nghĩa".

Hai là, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ một cách đầy đủ; giáo dục phải gắn với thực tiễn, tạo niềm tin và ý chí, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Ba là, phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng tổ chức đảng; công tác đảng phải tiến hành thường xuyên, nhạy bén, sáng tạo; phát động các nội dung, phong trào thi đua tạo khí thế trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, thường xuyên nghiên cứu tình hình chiến trường, mạnh dạn đề xuất những nội dung, giải pháp sát, đúng, kịp thời trong thực hành tác chiến và chuyển mục tiêu chiến lược; khẩn trương kiện toàn cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong các nhiệm vụ; chỉ huy chiến đấu kiên quyết, tiến công liên tục để giành ưu thế.





-----------------------------------------------------------------
1. Anh hùng gồm: Nguyễn Văn Lên, Tô Văn Dực, Nguyễn Văn Tăng, Nguyễn Văn Lịch, Phạm Văn Cội, Nguyễn Thị Hạnh. Dũng sĩ diệt Mỹ gồm: Ông Ngang, Nguyễn Thị Tiệp; tập thể, đơn vị địa phương được tuyên dương "Củ Chi đất thép thành đồng", "Long An trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc". Xem Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2000).

2. Địa bàn Phân khu 1 gồm: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Phú Nhuận, Trảng Bàng. Phân khu 2: Quận 5, 6, 10, 11, Bình Chánh, các huyện phía tây bắc của Long An. Phân khu 3: các quận 2, 4, 8, Nhà Bè, Cần Đước, Cần Giuộc. Phân khu 4: Thủ Đức, Long Thành, Nhơn Trạch, Thạnh Mỹ Tây, Q 1, Q 9. Phân khu 5: Lái Thiêu, Dĩ An, một phần Bắc Thủ Đức, Phú Nhuận, Bình Hòa. Phân khu 6 là địa bàn nội ô Sài Gòn. Xem Lịch sử Đảng bộ Quân khu 7 (1945-2005), tr.282.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #53 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 03:25:03 pm »

PHÁT HUY KHÍ THẾ "THÁC ĐỔ, TRIỀU DÂNG"
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968
TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY



Đại tá, TS. NGUYỄN NHƯ TRÚC
Trưởng phòng Tuyên truyền - Cổ động, Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị


Chiến thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đi vào lịch sử như một biểu tượng của trí tuệ và khí phách dân tộc Việt Nam, là mốc son đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, khắc ghi sự phát triển cao về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng, Bác Hồ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 như một cơn "sóng thần" ập vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cả Mỹ và quân đội Sài Gòn đều bất ngờ, không lường định được sức mạnh, thời gian, không gian, cường độ, lực lượng, khả năng phối hợp và địa điểm, mục tiêu... của cuộc tổng tiến công. Về mặt chiến lược, đế quốc Mỹ đã thua cuộc từ mùa Xuân năm 1968; sau một tháng, tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam, bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố ba điểm: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ hai... Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ - chiến lược chiến tranh quan trọng nhất được Mỹ công phu chuẩn bị và đánh giá cao trong chiến lược toàn cầu "phản ứng linh hoạt" vào thập niên 60 của thế kỷ XX. Đến tháng 5-1968, Mỹ phải bắt đầu khởi động quá trình đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Trong những đoàn quân hùng mạnh tiến lên phía trước, khí thế mỗi chiến sĩ ta đều mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước, niềm tin, hy vọng và ý chí quyết thắng để cho đất nước hoàn toàn giải phóng, giang sơn thu về một mối, đồng bào Nam, Bắc được sum họp một nhà. Khí thế đó được biểu hiện bằng tinh thần quyết chiến, quyết thắng, không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược, quyết tâm hoàn thành xuất sắc bất cứ nhiệm vụ nào; bằng việc quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khóa III (tháng 1-1968): "Trong quá trình tổng công kích và tổng khởi nghĩa, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc: Tập trung lực lượng quân sự và chính trị đến mức cao nhất, chiến lược chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ; phải biết giành thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng thắng lợi; kiên quyết chống trả và bẻ gẫy các cuộc phản công của địch và truy kích địch đến cùng để giành thắng lợi cao nhất" . Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt... Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã minh chứng cho tinh thần bất diệt, cho khí thế hào hùng của cả dân tộc Việt Nam và thắng lợi đó đã tạo nên một hơi thở mới, một làn gió mới trong mỗi người dân, người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Có được khí thế "thác đổ, triều dâng" đó là do chúng ta đã biết tận dụng thế chiến lược, nắm chắc thời cơ và có phương pháp tiến hành công tác tư tưởng sinh động, đúng lúc, kịp thời, ngắn gọn, hiệu quả; kết hợp chặt chẽ giữa động viên và hướng dẫn hành động cụ thể, giữa vấn đề tư tưởng với vấn đề tổ chức; biết nắm đúng và tập trung đúng vào đối tượng. Nhờ vậy, chúng ta đã có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, có năng lực hành động giỏi, thần tốc, táo bạo, bất ngờ, có cách đánh đột kích mạnh, tiến công nhanh, giành thế áp đảo; sự chỉ huy linh hoạt, sáng tạo, tạo nên một sức mạnh phi thường nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của địch, lập nên chiến công kỳ diệu, góp phần giành toàn thắng của cuộc kháng chiến.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; thắng lợi đó là sự hội tụ của nhiều nhân tố, nhưng trước hết đó là sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tài giỏi của Đảng, biết kết hợp chủ nghĩa anh hùng cách mạng với trí tuệ của con người Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khí thế "thác đổ, triều dâng" được thể hiện đầy đủ nhất và sinh động nhất. Đây là một cuộc động binh và huy động quần chúng có quy mô lớn nhất từ trước tới thời điểm đó với phương thức tiến công đồng loạt cả quân sự, chính trị, binh vận, thực hiện ba mũi giáp công trên cả "ba vùng chiến lược" để tạo nên hiệu lực tổng hợp như một "đòn sét đánh". Với cuộc động binh đó, ta đã chuyển hướng từ lối tác chiến thông thường sang lối đánh mới, linh hoạt, sáng tạo trong lựa chọn hướng, mục tiêu chiến lược. Nhờ có sáng tạo và linh hoạt, ta đã đưa được hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược vào ngay trong sào huyệt địch, trong lúc địch có cả một mạng lưới an ninh và tình báo rộng khắp.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một đòn quyết định đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, mở ra bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến. Bước ngoặt lịch sử đó không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang có những thuận lợi, nhưng cũng không ít những thách thức. Để phát huy những bài học từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi của một quá trình đánh giá đúng tình hình, có tầm nhìn chiến lược, kiên định mục tiêu cơ bản và lâu dài của dân tộc, của cách mạng; phân tích đúng tình hình, tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ để đề ra được những chủ trương, chỉ đạo chiến lược sáng tạo và sắc bén. Vận dụng bài học đó vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải nắm chắc quy luật và truyền thống "dựng nước đi đôi với giữ nước" của dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hết sức sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Phải xác định rõ: Mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Coi sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định; lấy ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng vững mạnh làm điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Xây dựng chí căm thù giặc sâu sắc; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng quả cảm, ý chí quyết chiến, quyết thắng, trí thông minh, sáng tạo, truyền thống chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thứ hai, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yếu tố chính trị - tinh thần.

Chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; xây dựng lòng tin và nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, sự đồng thuận xã hội phát huy sức mạnh tổng hợp và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động làm ly tán lòng dân, phá hoại thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Xây dựng, phát huy tốt yếu tố chính trị - tinh thần của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là nhân tố làm chuyển hóa so sánh lực lượng để "lấy ít địch nhiều", "lấy nhỏ thắng lớn". Đó là nét độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam và cần nhân lên trong điều kiện mới. Phát huy yếu tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy tinh thần yêu nước, quả cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu, trí thông minh, sáng tạo, truyền thống chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thứ ba, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn sự kiện lịch sử Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Vì vậy, để phát huy bài học đó, ngay từ thời bình phải chăm lo xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, phát triển vững chắc về kinh tế, ổn định về xã hội. Trên cơ sở tạo thế bố trí chiến lược chung của cả nước, chú trọng vào các khu vực phòng thủ then chốt, các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế ngay trong từng dự án cũng như trong quy hoạch của từng địa phương và tổng thể cả nước. Chăm lo, bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí nhằm củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, hiện đại, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Theo đó, chúng ta phải thường xuyên xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội và các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nhằm bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án "Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong tình hình mới", gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện tốt phong trào Thi đua quyết thắng cùng các cuộc vận động, nhất là cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ".

Sau 50 năm nhìn lại, khí thế "thác đổ, triều dâng" trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là vô cùng sâu sắc và có ý nghĩa chiến lược. Đó không chỉ là bài học lịch sử, mà còn là động lực to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 này là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống, nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và hiện thực của nó trong bối cảnh cách mạng mới. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục phát huy khí thế "thác đổ, triều dâng" cùng những bài học kinh nghiệm, quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X trong thời kỳ hội nhập, phát triển.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #54 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 03:30:40 pm »

PHỐI HỢP TÁC CHIẾN GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tổ chức quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cách đây 50 năm, Đảng ta đã huy động nhiều lực lượng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng loạt tại hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát, chiếm đóng ở miền Nam, giành thắng lợi to lớn, tạo ra bước ngoặt chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với kết cục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài viết này chỉ đề cập sự phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

1. Chuẩn bị lực lượng mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Trước thời cơ cách mạng xuất hiện, tháng 6-1967, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua quyết tâm chiến lược, trong đó xác định giành thắng lợi quyết định, dự kiến trong năm 1968 và khẳng định, ta phải đánh cho Mỹ buộc phải thua về quân sự, tạo chuyển biến nhảy vọt cho cục diện chiến tranh cách mạng ở miền Nam thay đổi hẳn có lợi cho ta.

Trong điều kiện ở miền Nam địch có hơn một triệu quân (gồm 542.000 quân Mỹ, 57.800 quân các nước đồng minh của Mỹ và 650.000 quân Sài Gòn), Trung ương Đảng chủ trương: Nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh vượt bậc, làm thay đổi hẳn lực lượng so sánh giữa ta và địch. Đồng thời chỉ rõ: "Nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc trong thời gian trước mắt là phải bảo đảm... chi viện cho miền Nam, phục vụ tốt nhất cho cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi" .

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14, trên cả hai miền Nam - Bắc đều khẩn trương làm công tác chuẩn bị mọi mặt. Ngay sau khi Bộ Chính trị thông qua quyết tâm chiến lược giành thắng lợi quyết định (dự kiến trong năm 1968), từ giữa năm 1967, Quân ủy Trung ương đã trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc chuẩn bị lực lượng, đặc biệt là huấn luyện, nâng cao trình độ của lực lượng chủ lực đánh tiêu diệt lớn quân địch. Khối lực lượng chủ lực của Bộ (các sư đoàn 308, 304, 320, 312) được kiện toàn về tổ chức biên chế, bổ sung vũ khí trang bị. Sau lớp tập huấn của Bộ (7-1967) về phối hợp tác chiến hiệp đồng binh chủng, các đơn vị chủ lực mở đợt sinh hoạt chính trị và tập huấn quân sự cho cán bộ các cấp. Tiếp đó, các sư đoàn chủ lực và một số đơn vị binh chủng đẩy mạnh huấn luyện về phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, nâng cao trình độ chiến đấu trong thành phố, thị xã, sẵn sàng cơ động vào chiến trường miền Nam khi có lệnh.

Thực hiện nhiệm vụ chi viện lực lượng cho miền Nam đánh Mỹ, đến cuối năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật hành quân vào các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ, nâng tổng số lực lượng vũ trang ta ở miền Nam tăng lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, không kể lực lượng dân quân, du kích, tự vệ .

Ở miền Nam, thực hiện kế hoạch chuẩn bị lực lượng cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã được Bộ Chính trị thông qua, từ tháng 10-1967, các chiến trường chú trọng củng cố, phát triển lực lượng vũ trang tại chỗ, thành lập thêm các đơn vị: Trung đoàn Quyết Thắng (Đông Nam Bộ), Trung đoàn 401 đặc công (Khu 5), Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 và 2 tiểu đoàn (Quân khu Cool, Tiểu đoàn 307 và một lữ đoàn (Quân khu 9).

Khối lực lượng chủ lực Miền có 3 sư đoàn bộ binh (9, 5, 7), Đoàn pháo binh 69 (tương đương sư đoàn) được tăng cường Trung đoàn 88 bộ binh (Mặt trận Tây Nguyên), Trung đoàn 568 và 6 tiểu đoàn bộ binh cùng một số đơn vị binh chủng hành quân từ miền Bắc vào, được gấp rút củng cố, huấn luyện nâng cao trình độ chiến đấu sát với thực tế chiến trường.

Căn cứ vào nhiệm vụ trên giao, các chiến trường khẩn trương điều động, bố trí lực lượng áp sát các mục tiêu, sẵn sàng chiến đấu. Ở miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm tổng tiến công, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập "Khu trọng điểm" gồm Sài Gòn và một số huyện thuộc các tỉnh lân cận. Khu trọng điểm gồm 6 phân khu, trong đó lực lượng Phân khu 6 (các quận nội thành) có 11 đội biệt động , hoạt động trên 3 hướng (đông, nam, bắc), có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu đầu não của địch như: Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh Sài Gòn, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh hải quân, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Biệt khu Thủ đô... Lực lượng của 5 phân khu (1, 2, 3, 4, 5) có 3 trung đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, hình thành 5 hướng (bắc và tây bắc, tây và tây nam, nam, đông, đông bắc) có nhiệm vụ tiếp ứng các đơn vị đặc công, biệt động chiếm lĩnh các mục tiêu trong nội đô Sài Gòn.

Lực lượng ở vùng ven và vành đai Sài Gòn có 3 sư đoàn bộ binh (9, 5, 7), Đoàn 69 pháo binh (thiếu) chủ lực Miền được tăng cường Trung đoàn 88 bộ binh (Mặt trận Tây Nguyên) và một số lực lượng thuộc các đơn vị binh chủng kỹ thuật có nhiệm vụ tiến công các căn cứ của địch ở vòng ngoài, kìm giữ và ngăn chặn không cho chúng cơ động vào ứng cứu Sài Gòn.

Tại chiến trường Trị - Thiên, lực lượng chủ lực Quân khu Trị - Thiên có Trung đoàn 6 bộ binh được tăng cường 3 trung đoàn: Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304), Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324), Trung đoàn 8 (Sư đoàn 325 C) và 4 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 15 đội biệt động thành và một số đơn vị binh chủng. Khu ủy và Quân khu ủy Trị - Thiên xác định: Thành phố Huế là trọng điểm của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Lực lượng tiến công vào thành phố Huế gồm có 3 trung đoàn (6, 8, 9), 2 tiểu đoàn (802, 810) bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, chia làm 2 cánh: Cánh Bắc (hướng chính) và cánh Nam (hướng phối hợp) đánh vào nội thành và đánh địch phản kích từ ngoài vào thành phố. Lực lượng vũ trang ở các địa phương có 5 đoàn (4, 5, 6, 7 và 31), đảm nhiệm từng hướng tiến công trên địa bàn quân khu.

Trên địa bàn Quân khu 5, Bộ Tư lệnh Quân khu chia chiến trường thành 4 hướng tiến công (Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên - Khánh Hòa, Tây Nguyên), trong đó Quảng Nam - Đà Nẵng là hướng chủ yếu, thành phố Đà Nẵng là trọng điểm. Lực lượng trực thuộc Mặt trận 4 (Đà Nẵng) có Trung đoàn 31 (thiếu) và 3 tiểu đoàn bộ binh, Trung đoàn 575 pháo hỏa tiễn ĐKB, chia thành các tiểu đoàn mũi nhọn (bộ binh, đặc công), cùng biệt động thành phố và tự vệ mật đánh chiếm các mục tiêu then chốt ở nội thành. Ở vòng ngoài, lực lượng chủ lực Quân khu 5 (Sư đoàn 2 bộ binh) đánh chiếm quận lỵ Duy Xuyên, khu trung tuyến Gò Nổi, đường 104, dãy Dương Thông, chia cắt giữa Đà Nẵng và Chu Lai. Lực lượng vũ trang trên hướng Bình Định có Sư đoàn 3 bộ binh, Tiểu đoàn 407 đặc công (Quân khu 5); hướng Phú Yên - Khánh Hòa có 2 trung đoàn (10, 20) bộ binh; hướng Tây Nguyên có Sư đoàn 1, 3 trung đoàn (24, 33, 95) bộ binh và lực lượng vũ trang địa phương tiến công quân sự, kết hợp nổi dậy của quần chúng để giành chính quyền.

Đồng bằng sông Cửu Long tuy không phải là trọng điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục vẫn chỉ đạo các quân khu 8, 9 bố trí lại lực lượng vũ trang phù hợp từng địa phương. Lực lượng Quân khu 8 có 5 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội đặc công, 4 đại đội công binh và một số đại đội binh chủng cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công trọng điểm 1 - thành phố Mỹ Tho và trọng điểm 2 - thị xã Bến Tre. Lực lượng vũ trang Quân khu 9 có 4 tiểu đoàn (303, 307, 309, Tây Đô), một số đội đặc công đảm nhiệm tiến công trọng điểm 1 - thành phố Cần Thơ và 3 tiểu đoàn (306, 308, 857), bộ đội địa phương huyện Châu Thành tiến công trọng điểm 2 - thị xã Vĩnh Long.

Trong khi đó, lực lượng vũ trang Quân khu 6 có 2 tiểu đoàn 840 và 842 bộ binh, một số đơn vị đặc công và lực lượng vũ trang thị xã có nhiệm vụ tiến công thị xã Phan Thiết; đồng thời 2 tiểu đoàn 145 và 186 bộ binh phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động thị xã và tỉnh Tuyên Đức tiến công thành phố Đà Lạt.

Như vậy, đến đầu năm 1968, trên tất cả các chiến trường ở miền Nam, mọi công tác chuẩn bị của quân và dân ta, trong đó việc chuẩn bị các lực lượng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 về cơ bản đã hoàn thành, bảo đảm bí mật. Các lực lượng vũ trang miền Nam sẵn sàng chờ giờ G để phối hợp tiến công đồng loạt, bất ngờ vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, nhất là các trung tâm đầu não chính trị, quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy, quyết tâm giành thắng lợi cao nhất.

2. Phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 
 
Trong lúc quân Mỹ và quân Sài Gòn phải tập trung sức lực đối phó với chủ lực Quân giải phóng miền Nam tại Khe Sanh, từ đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 - theo lịch miền Nam), các lực lượng vũ trang ta ở miền Nam bất ngờ, đồng loạt tiến công, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, trọng điểm là các thành phố lớn Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng.

Theo kế hoạch, Sài Gòn là trọng điểm lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, bởi đây là trung tâm đầu não chính trị, quân sự, chỉ đạo toàn bộ bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại miền Nam. Ở nội thành, lực lượng biệt động đồng loạt, bất ngờ tiến công vào Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, Đại sứ quán Mỹ. Phối hợp với lực lượng biệt động, lực lượng vũ trang, bán vũ trang của các ngành, các giới đánh địch tại chỗ và phát động quần chúng nổi dậy, giành quyền làm chủ ở một số khu vực nội thành; đồng thời, lực lượng vũ trang của các phân khu 1, 2, 3, 4 và 5 ở các vùng ven đô và lân cận tiến công đánh chiếm một số mục tiêu địch.

Ở vòng ngoài, lực lượng chủ lực Miền (các sư đoàn 5, 9, 7) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh vào các Sở chỉ huy, kho tàng, căn cứ xuất phát tiến công của địch như: Bộ Chỉ huy dã chiến 2 Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn, Sở chỉ huy Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn, sân bay Biên Hòa, kho Long Bình... ngăn chặn và kìm chế không cho địch đưa lực lượng từ ngoài vào ứng cứu nội thành. Sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa lực lượng bộ đội đặc công, biệt động tiến công vào 6/9 mục tiêu quan trọng của địch trong nội thành, cùng với những đòn tiến công mạnh mẽ của lực lượng chủ lực Miền và lực lượng vũ trang địa phương đánh táo bạo, hiểm hóc vào các Sở chỉ huy, căn cứ địch ở vùng ven Sài Gòn đã làm rối loạn hậu phương của chúng, gây tiếng vang lớn trong nước, làm chấn động cả nước Mỹ và lan rộng ra thế giới.

Cùng thời gian này, tại các thành phố lớn Huế, Đà Nẵng cũng như nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ khác trên toàn miền Nam, do công tác chuẩn bị và trình độ phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương, do so sánh lực lượng địch mạnh hơn ta, cũng như phản ứng quyết liệt của Mỹ và quân đội Sài Gòn, nên diễn biến và hiệu quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta ở từng nơi cũng có mức độ khác nhau.

Tại thành phố Huế, trọng điểm thứ hai của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, theo kế hoạch, 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, sau khi lực lượng pháo binh bắn đồng loạt vào các vị trí địch, lực lượng vũ trang ta trên hai cánh Bắc và Nam đồng loạt đánh vào 40 mục tiêu địch trong và ngoại thành Huế. Ở cánh Bắc, lực lượng chủ lực (Đại đội 1 và 2 thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 9 bộ binh) phối hợp với bộ đội đặc công, tiến đánh đồn Mang Cá, sân bay Tây Lộc. Trong khi đó, một bộ phận lực lượng chủ lực khác (đại đội 3 và 4) tiến công đánh chiếm khu Cột Cờ và toàn bộ khu Đại Nội. Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được kéo lên trên cột cờ, báo hiệu ta đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Phối hợp với đòn tiến công đánh chiếm nội thành, lực lượng chủ lực (các tiểu đoàn 806, 816 thuộc Trung đoàn 9 bộ binh) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công các vị trí địch ở vòng ngoài (An Hòa, Đốc Sơ, La Chữ, Quế Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ), gây cho địch một số thiệt hại.

Ở cánh Nam, do đường hành quân xa, lại bị địch phục kích ngăn chặn, nên lực lượng chủ lực ta (gồm tiểu đoàn 815 và 818 thuộc Trung đoàn 9 bộ binh, tiểu đoàn 840 và 810 bộ binh thuộc Đoàn 5), tiến công vào nội thành chậm so với kế hoạch đề ra. Bộ phận lực lượng chủ lực này đã phối hợp với bộ đội đặc công tiến công đánh chiếm Đài Phát thanh, Trường Quốc học Huế, Trường Đồng Khánh, Tòa tỉnh trưởng... Ở vòng ngoài, một bộ phận lực lượng của Trung đoàn 9 bộ binh còn lại phối hợp với đặc công tiến công địch ở Tam Thai, Nam Giao, khu nhà thờ Phước Quả, các trại Lê Lợi, Quang Trung, gây cho địch thiệt hại nặng. Kết quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở Huế giành thắng lợi lớn. Mặt trận Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố ra đời và Ủy ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế được thành lập.

Đối với Đà Nẵng, trọng điểm thứ ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, sau khi lực lượng pháo binh ta bắn phá các sân bay Đà Nẵng, Nước Mặn và lực lượng biệt động, tự vệ đánh chiếm một số mục tiêu ở nội thành ngày 30-1, thì ở phía bắc, lực lượng bộ binh (Trung đoàn 31), công binh và lực lượng vũ trang Khu 1 tiến công đồn Nhất và đánh chiếm thị trấn Nam Ô. Ở phía nam, lực lượng đặc công (Tiểu đoàn 89) và lực lượng vũ trang Khu 2 tiến công Sở chỉ huy Trung đoàn 51 quân Sài Gòn. Ở nội thành, lực lượng Tiểu đoàn 1 bộ binh đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1 bị chặn lại. Trong khi đó, lực lượng chủ lực (Sư đoàn 2 bộ binh), do nhận được lệnh hoãn ngày nổ súng, nên rút về tuyến sau. Vì thế, kế hoạch phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong và ngoại vi Đà Nẵng không thực hiện được.

Phối hợp với ba trọng điểm lớn Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng, lực lượng vũ trang ta trên các chiến trường tiến công vào nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, căn cứ, sân bay, kho tàng địch. Ở miền Đông Nam Bộ, lực lượng bộ đội chủ lực, đặc công, biệt động tiến công sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, Bộ Chỉ huy dã chiến 2 của Mỹ ở Biên Hòa; Tòa hành chính Thủ Dầu Một, Dinh Tỉnh trưởng, Ty Cảnh sát trong thị xã An Lộc và thị trấn Phước Bình.

Tại Quân khu 8, các lực lượng bộ binh, pháo binh, đặc công, biệt động phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công các thị xã Mỹ Tho, Bến Tre và một số căn cứ của địch. Ở Quân khu 9, các lực lượng bộ binh, pháo binh phối hợp với biệt động tiến công hai trọng điểm thành phố Cần Thơ và thị xã Vĩnh Long. Phối hợp với đòn tiến công quân sự ở các thị xã, thành phố, tại nhiều vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng vũ trang địa phương tiến công hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phá ách kìm kẹp của địch ở nhiều xã, ấp, giành quyền làm chủ.

Tại Tây Nguyên, các lực lượng vũ trang ta được lực lượng chính trị của quần chúng hỗ trợ, tiến công làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) trong 6 ngày, làm chủ một phần các thị xã Kon Tum, Pleiku và chiếm giữ căn cứ Tân Cảnh. Ở đồng bằng Khu 5, lực lượng vũ trang địa phương đồng loạt tiến công vào các thành phố Quy Nhơn, Nha Trang; các thị xã Hội An, Tuy Hòa và 40 thị trấn. Ở Quân khu 6, lực lượng vũ trang ta tiến công thị xã Phan Thiết, thành phố Đà Lạt, gây cho địch một số thiệt hại.

Nhìn chung, trong những ngày đầu Tổng tiến công và nổi dậy, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp tác chiến, đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng của địch ở hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam, tiêu hao một phần sinh lực địch, phá hủy một số phương tiện chiến tranh của chúng, hỗ trợ quần chúng nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ.

Sau một thời gian củng cố tổ chức, chấn chỉnh lại lực lượng, từ ngày 17-2, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta trên toàn miền Nam lại đồng loạt tiến công vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ và nhiều căn cứ quân sự của địch. Tại Huế, lực lượng chủ lực ta ở nội đô được tăng cường khá đông, nhưng địch tập trung phản kích quyết liệt và dùng máy bay ném bom, bắn phá dồn ta vào trong thành nội. Ở cánh Nam, chỉ có một bộ phận nhỏ lực lượng ta ở khu Tam Giá đánh nhỏ, kìm chân địch, còn đại bộ phận lực lượng chủ lực phải rút ra vùng ven sông An Cựu, Vân Dương. Trong khi đó, hoạt động tác chiến của ta ở Đường 9 - Khe Sanh và các nơi khác không đủ sức mạnh để phân tán lực lượng địch. Những cố gắng của lực lượng chủ lực ta ở cánh Bắc chỉ tiêu hao một bộ phận nhỏ lực lượng địch, không tạo được sự chuyển biến tình hình. Địch phản kích dữ dội, dồn lực lượng ta về phía tây. Trước tình hình đó, ngày 25-2-1968, toàn bộ lực lượng ta được lệnh của Khu ủy Trị - Thiên và chỉ huy Mặt trận Huế đã bí mật rút khỏi thành phố ra phía ngoài an toàn.

Trong khi đó, tại Sài Gòn, do lực lượng chủ lực ta không tiến vào được nội đô, nên bộ phận lực lượng đặc công, biệt động và các tiểu đoàn mũi nhọn chiến đấu bên trong lâm vào tình thế đơn độc, lực lượng bị tiêu hao, phải rút ra vùng ven củng cố, tiếp tục chiến đấu. Sau hơn một tuần phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong nội thành và vùng ven đô, gây cho địch một số thiệt hại, lực lượng ta gặp khó khăn. Địch tập trung lực lượng phản kích dữ dội, gây cho ta tổn thất lớn. Trước tình hình đó, ngày 28-2-1968, ta kết thúc cuộc Tổng tiến công ở Sài Gòn.

Cùng thời gian này, ở Nam Bộ, các lực lượng vũ trang ta phối hợp tác chiến ở 11 thị xã, 17 thị trấn, 7 sân bay; ở Tây Nguyên, ta phối hợp tác chiến trong hơn 100 trận; ở cực Nam Trung Bộ, lực lượng ta phối hợp tác chiến ở hai trọng điểm là thị xã Phan Thiết và thành phố Đà Lạt... Những ngày đầu tháng 3-1968, ta còn tiến công một số thị xã, thị trấn, song nhìn chung, áp lực phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta giảm dần, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn miền Nam kết thúc.

Trong điều kiện so sánh lực lượng, địch hơn hẳn, ta khó có thể thực hiện đánh tiêu diệt lớn quân địch, thì việc tổ chức phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, chủ yếu là lực lượng chủ lực (bộ binh, pháo binh), lực lượng tinh nhuệ (đặc công, biệt động) và lực lượng vũ trang địa phương đánh thẳng vào trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch ở các thành phố lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ, kết hợp với nổi dậy của quần chúng là một quyết định sáng suốt, táo bạo của Đảng ta.

Dù còn một số hạn chế, nhưng quá trình phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, nhất là phối hợp tác chiến trong các thành phố trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có ý nghĩa hết sức quan trọng và để lại những bài học kinh nghiệm quý giá. Đó là việc chuẩn bị về lực lượng, về nghệ thuật phối hợp tác chiến giữa các lực lượng của ta đánh đồng loạt, bất ngờ vào hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát, chiếm đóng; là sự phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong nội thành và phối hợp tác chiến giữa các lực lượng ngoại thành với các lực lượng nội thành. Đây là cơ sở quan trọng để cho quân đội ta nói riêng, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam nói chung tiếp tục kế thừa, phát triển cả về lý luận và thực tiễn, nâng cao hiệu quả phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong những trận đánh lớn có ý nghĩa chiến dịch, chiến lược, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Chính vì vậy, sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cần tiếp tục được nghiên cứu, kế thừa và vận dụng sáng tạo trong công tác xây dựng, đào tạo và huấn luyện bộ đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh chiến đấu hoàn thành tốt chức năng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2020, 03:27:09 pm »

CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968



Đại tá, TS. ĐỖ NGỌC TUYÊN
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Vào thời khắc Giao thừa 50 năm trước đây - Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã đồng loạt nổi dậy tiến công địch, giành thắng lợi to lớn. Bài viết này tập trung làm rõ những hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chủ yếu trong Tết Mậu Thân 1968.

Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy.

Đảng ta xác định nhiệm vụ trung tâm trước mắt của Đảng là tập trung toàn lực lãnh đạo, chỉ đạo cuộc "tổng công kích, tổng khởi nghĩa" cho đến toàn thắng. Vì vậy, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" đẩy chiến tranh xâm lược lên nấc thang cao nhất, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 27-1-1967) họp, tán thành chủ trương của Bộ Chính trị: "động viên và đoàn kết toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh bại cuộc "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại của chúng ở miền Bắc nước ta, đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn" ; chỉ rõ: "Ở miền Nam,... giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện và thời cơ cho các đợt hoạt động lớn tiếp theo, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương".

Tiếp theo, trong các tháng 2, 5, 6 - 1967, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Trung ương Cục miền Nam đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị đánh giá tình hình, nhiệm vụ quân sự cũng như xác định chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta lên bước phát triển mới. Cũng trong các tháng 5, 6, Trung ương Cục và Thường vụ Trung ương Cục đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị về công tác quân sự, xây dựng Đảng, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, giáo dục, tuyên truyền vận động quần chúng. Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ Chính trị về tổng công kích, tổng khởi nghĩa (10-1967), căn cứ vào quyết tâm, chủ trương chiến lược của Đảng, ngay cuối tháng 10, Trung ương Cục ra Nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa (mật danh Nghị quyết Quang Trung). Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền, với tinh thần rất khẩn trương, đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang và các địa phương đẩy mạnh tiến công địch, gấp rút chuẩn bị chiến trường, lực lượng theo yêu cầu tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Đầu tháng 11-1967, Tổng cục Chính trị điện chỉ đạo Cục Chính trị Miền phương hướng, nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị năm 1968, nhấn mạnh: "triệt để chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, kiên quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng và công tác, giành thắng lợi lớn nhất trên chiến trường và trong bất cứ tình huống nào".

Tháng 12-1967, Quân ủy Miền ra chỉ thị về công tác chính trị, nội dung tập trung vào giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm đánh và thắng Mỹ; thực hiện tốt đường lối quân sự, phương châm đấu tranh và sáu phương thức tác chiến 1; chỉ rõ công tác đảng, công tác chính trị phải toàn diện, nhưng nắm chắc ba khâu: công tác tư tưởng, công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ, hướng vào thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng; nhấn mạnh "dù hoàn cảnh nào cũng đạp bằng mọi trở ngại, với dũng khí phi thường, kiên quyết đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn".

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 đã thống nhất chủ trương của Bộ Chính trị (12-1967), khẳng định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta... là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sau nhiều tháng nghiên cứu, trao đổi, Quân ủy Trung ương báo cáo với Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh phương hướng, mục tiêu, cách sử dụng lực lượng tổng tiến công và nổi dậy, đặc biệt là chọn được cách đánh thật hiểm, thật đau, đạt tới hiệu lực chiến lược làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta, đó là: Hướng sức mạnh chủ yếu của chiến tranh cách mạng vào thành thị, nhất loạt đánh vào thành phố, thị xã, thị trấn, trung tâm đầu não của địch và kết hợp công kích quân sự với khởi nghĩa quần chúng. Đồng thời phân tán, kéo chủ lực địch ra các chiến trường ta đã chuẩn bị để nghi binh, thu hút, giam chân và tiêu hao, tiêu diệt lớn quân Mỹ, làm cho chúng không phán đoán được ý định chiến lược của ta, tạo điều kiện cho các địa phương, nhất là thành thị thực hành tiến công và nổi dậy.

Thứ hai, khẩn trương sắp xếp, kiện toàn cấp ủy, chỉ huy, cán bộ và biên chế, trang bị.

Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thống nhất, chặt chẽ trên toàn miền Nam tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi, công tác tổ chức tập trung chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức; sắp xếp và kiện toàn cấp ủy, chỉ huy, đội ngũ cán bộ và tổ chức biên chế, trang bị. Xây dựng các kế hoạch tiến công quân sự và nổi dậy; tiến hành công tác dân vận, binh địch vận, thương binh, tử sĩ; chấp hành chính sách trong chiến đấu; bổ sung, thay thế trong quá trình chiến đấu; phát triển đảng viên, đoàn viên... để khi tổng tiến công và nổi dậy diễn ra dựa vào đó thực hiện.

Trên cơ sở các quyết nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thành lập Binh chủng Đặc công (19-3-1967); các bộ tư lệnh binh chủng Ra đa, Tên lửa, Không quân thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân (24-3-1967). Ngày 19-5-1967, Bộ Chính trị quyết định bộ máy lãnh đạo của Đảng ở miền Nam 2. Sau khi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mất 3, tháng 10-1967, Bộ Chính trị kiện toàn lại tổ chức lãnh đạo, chỉ huy ở miền Nam 4. Cũng trong tháng 10-1967, để thực hiện nhiệm vụ tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu 1 miền Đông và Quân khu 4 Sài Gòn - Gia Định để thành lập Khu trọng điểm; chia khu này thành 6 phân khu. Về mặt quân sự, thành lập hai bộ chỉ huy tiền phương 1 và 2 (còn gọi là Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Nam) để phụ trách các mũi phía nam, tây nam, lực lượng nội thành và các mũi phía đông, bắc, các đơn vị chủ lực Miền. Toàn bộ lực lượng vũ trang chiến đấu trên mặt trận Sài Gòn - Gia Định được chia lại thành ba khối (biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn, chủ lực Miền).

Cũng trong tháng 10-1967, nhằm bảo đảm thông suốt việc tiếp tế vũ khí, lương thực cho lực lượng vũ trang, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần khu vực tương đương 5 trung đoàn. Trước đó (tháng 5-1967), Trung ương Cục đã thành lập Đoàn 70 trực thuộc Cục Hậu cần Miền để đảm đương nhiệm vụ đón nhận hàng chi viện của Trung ương cho chiến trường B2; kết hợp với các đoàn hậu cần khác tạo ra mạng lưới hậu cần liên hoàn từ Chiến khu Đ xuống đến Bình Dương - Biên Hòa, Bà Rịa để đảm bảo cho lực lượng chủ lực Miền, quân khu hoạt động. Phục vụ cho đòn tiến công vào đô thị, Phòng Quân báo, Phòng Thông tin Miền gấp rút sưu tầm bản đồ các thành phố, thị xã; điều tra, nghiên cứu các mục tiêu; đưa đón cán bộ chỉ huy vào, ra nội thành các thành phố, thị xã; chuẩn bị lực lượng trinh sát dẫn đường và tổ chức mạng thông tin, liên lạc bảo đảm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy...

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, địa bàn tác chiến và lực lượng quân sự, chính trị ở các hướng chiến trường, khu, mặt trận được tổ chức lại và tăng cường: Khu 5 chia thành bốn hướng tiến công (Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định, Tây Nguyên, Phú Yên - Khánh Hòa) với tỉnh Quảng Đà là chiến trường chính và thành phố Đà Nẵng là trọng điểm; thành lập trung đoàn đặc công đầu tiên để đánh chiếm thị xã Quảng Ngãi. Ở Trị - Thiên 5, Bộ Chính trị quyết định thành lập Quân khu Trị - Thiên - Huế trực thuộc Trung ương về Đảng, trực thuộc Quân ủy Trung ương về quân sự và bổ nhiệm các đồng chí chủ trì, chủ chốt về chính trị, quân sự của Quân khu. Tăng cường lực lượng, chia Quân khu làm ba mặt trận (thành phố Huế, phía bắc, phía nam) với thành phố Huế là mặt trận chủ yếu. Ngay tại Huế, cũng chia thành hai cánh (cánh Bắc, cánh Nam) và kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt.

Ở miền Bắc, cuối tháng 7 -1967, Quân ủy Trung ương mở lớp tập huấn cho 150 cán bộ trung, cao cấp thuộc các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng và các binh đoàn cơ động về tình hình, nhiệm vụ mới và nhiều vấn đề trong tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Tháng 8, Bộ Quốc phòng đề nghị Chính phủ điều động 100 sinh viên khoa tiếng Anh năm thứ 3 và thứ 4 vào quân đội. Từ tháng 8-1967, đảng ủy và chỉ huy các sư đoàn dự bị chiến lược (304, 308, 312, 320) gấp rút kiện toàn tổ chức, lực lượng, biên chế, trang bị vũ khí; huấn luyện nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng. Lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biển, giao thông vận tải, công binh... chấn chỉnh tổ chức, tăng cường số lượng, hoàn chỉnh thế trận nhằm bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường 6. Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Đoàn 559 mở rộng hệ thống đường, tăng lực lượng và phương tiện, cải tiến phương pháp vận chuyển, bảo vệ vận chuyển.

Tháng 9, Hội đồng Chính phủ tổ chức Hội nghị phòng không nhân dân để rút kinh nghiệm công tác phòng không, duy trì và bảo đảm sinh hoạt, sản xuất trong điều kiện địch đánh phá ác liệt. Công tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ 7. Lực lượng Đài Phát thanh và Thông tấn xã Giải phóng, Ban Huấn học được Thường vụ Trung ương Cục tăng cường. Các bộ phận tuyên huấn được giữ nguyên và tăng cường về nhân lực, phương tiện hoạt động.

Ngày 6-12-1967, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 để lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị tác chiến tiêu diệt địch, nghi binh chiến lược và thu hút, kìm giữ một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động quân Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho các trọng điểm tiến công và nổi dậy, trực tiếp là Trị - Thiên, Huế.

Thứ ba, bảo vệ an toàn tuyệt đối con người, vũ khí trang bị và những vấn đề cơ mật về ý đồ, chủ trương chiến lược, kế hoạch tác chiến.

Để đáp ứng nhu cầu chiến trường, lực lượng động viên vào quân đội nhiều, dồn dập, đa dạng thành phần nhưng công tác kiểm tra, tuyển lựa vẫn được tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất lượng chính trị. Tuy địch đẩy mạnh các hoạt động tình báo, gián điệp, chiến tranh tâm lý nhưng công tác đấu tranh đã vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn của chúng. Mọi chủ trương, kế hoạch chiến lược cơ mật; các hoạt động chiến đấu, hành quân, trú quân, vận chuyển, sơ tán kho tàng, cơ quan... được bảo đảm bí mật, an toàn.

Tháng 9-1966, Tổng cục Chính trị ban hành Chỉ thị số 106/CT-H về "Một số vấn đề về công tác bảo vệ đối với các đơn vị chiến đấu ở chiến trường miền Nam", chỉ ra những đặc điểm, khó khăn và chỉ rõ những công việc mà lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ bảo vệ các cấp phải tiến hành nhằm giữ bí mật, an toàn cho bộ đội. Tháng 11-1967, Bộ Tổng Tham mưu phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường kế hoạch nghi binh chiến lược 8. Cũng trong tháng 11, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 42/CT-H về tăng cường công tác giữ bí mật quân sự. Đầu tháng 12, theo yêu cầu của chiến trường, đoàn cán bộ Cục bảo vệ của Tổng cục Chính trị vào chỉ đạo công tác bảo vệ ở Mặt trận Trị - Thiên (B4) và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5). Ngoài ra, công tác bảo vệ còn tập trung bảo vệ ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, quân đội; tiềm lực quốc phòng và các cơ quan đầu não, kho tàng, căn cứ, nơi đóng, trú quân; ý đồ chiến lược, chủ trương chiến dịch, phương án tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang; chống tình báo, gián điệp... với trọng tâm, trọng điểm là bảo vệ ý đồ, chủ trương chiến lược, kế hoạch tác chiến.

Để giữ bí mật tuyệt đối, chủ trương và kế hoạch tác chiến thật chỉ được phổ biến cho các chiến trường trực tiếp bằng miệng thông qua các phái viên của Bộ Tổng Tư lệnh hoặc cán bộ chủ chốt ở chiến trường phái ra Hà Nội nhận lệnh. Trước ngày mở màn chiến dịch một tháng, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền mới trực tiếp truyền đạt quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng cho các bí thư khu ủy và nhắc các khu ủy chỉ đạo làm tốt công tác bảo vệ.

Nhằm xây dựng quyết tâm chiến đấu cụ thể với từng hướng chiến trường, lực lượng tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tuyến trước và tuyến sau, các đơn vị coi trọng quán triệt tình hình, nhiệm vụ trên chiến trường, làm rõ thắng lợi và sự phát triển chính trị, quân sự của ta; thất bại của địch trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Nhận thức rõ đây là thời cơ tốt để quân, dân ta giáng cho đế quốc Mỹ một đòn thật nặng làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" và các kế hoạch, biện pháp chiến tranh, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên giai đoạn cao nhất. Về thời cơ cụ thể, làm rõ việc ta tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Nguyên đán là thời điểm kẻ thù bất ngờ và sơ hở nhất; cách đánh của ta là một cách đánh mà địch chưa hề thấy và không thể nghĩ tới.

Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua, tạo động lực cho Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt.

Sau khi có nghị quyết, chỉ thị của Đảng, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, Quân ủy và Cục Chính trị Miền chỉ đạo các khu ủy, quân khu ủy, các đơn vị lực lượng vũ trang triển khai đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng về cuộc vận động "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Đồng thời, tích cực tiến hành công tác chính trị tư tưởng, tập trung vào vạch rõ tội ác mà Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn gây ra đối với nhân dân cả nước; bản chất hiếu chiến của đế quốc Mỹ; cổ vũ mọi người phát huy truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi".

Để động viên quân và dân cả nước dốc sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tháng 1-1967, Đảng và Nhà nước tổ chức Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước trên miền Bắc trong các lĩnh vực và Đại hội thi đua các đội Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự, căn dặn các đại biểu "ra sức học tập, cố gắng tiến bộ, tiến bộ nữa, tiến bộ mãi, phải khiêm tốn, không được kiêu ngạo..."; "Các cháu nào đã là anh hùng, thì phải cố gắng tiến nữa, các cháu nào chưa là anh hùng thì phấn đấu để trở thành anh hùng" . Giữa tháng 9, Trung ương Cục và Quân ủy Miền tổ chức Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ hai, trong điện gửi Đại hội, Người khẳng định: "Năm 1965, Đại hội anh hùng miền Nam lần thứ nhất là Đại hội đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của giặc Mỹ. Đại hội anh hùng lần này là Đại hội của những người sẽ đánh thắng "chiến tranh cục bộ" của chúng" . Những hoạt động quan trọng này không chỉ thể hiện sự quan tâm, động viên to lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn góp phần tạo ra động lực cách mạng mạnh mẽ, cổ vũ và động viên mọi người phấn đấu làm tròn mọi nhiệm vụ.

Thứ năm, quan tâm công tác binh, địch vận và chính sách.

Thực hiện chủ trương đánh địch bằng hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh, kết hợp ba mũi giáp công và đấu tranh ngoại giao, bốn bám, sáu phương thức tác chiến của Đảng, trong quá trình chuẩn bị, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, công tác binh địch vận được tiến hành liên tục, khẩn trương với nhiều nội dung và bằng nhiều hình thức. Trong đó, đã đẩy mạnh kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh địch vận và sử dụng tốt nhất lực lượng ta, đồng thời kêu gọi binh lính quân đội Sài Gòn khởi nghĩa; đưa cán bộ binh địch vận về các vùng trọng điểm, bám sát đối tượng, dự kiến đúng tình huống, xây dựng các phương án, kế hoạch chủ động đối phó khi địch tan rã hàng loạt hoặc có ly khai, binh biến lớn, có nhiều tù binh, hàng binh; vận động tổ chức lực lượng quần chúng, gia đình binh sĩ quân đội Sài Gòn là cơ sở của cách mạng nổi dậy. Tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và rải truyền đơn để tranh thủ, trung lập một số đơn vị quân Mỹ, Nam Triều Tiên; nêu rõ chính sách tám điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đối với sĩ quan, binh lính, cảnh sát; chính sách 4 điểm đối với nhân viên chính quyền Sài Gòn. Đưa ra chủ trương ngừng tấn công quân sự trong dịp Tết để tạo điều kiện cho binh lính quân đội Sài Gòn bỏ ngũ, phân tán lực lượng. Vận động một số tề xã, tề ấp, cảnh sát, nhân dân tự vệ tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực cho các trọng điểm...

Công tác chính sách đã bám sát chủ trương của Đảng, những hoạt động trên các chiến trường, tập trung vào khắc phục mọi khó khăn để củng cố hậu phương và chi viện cho tiền tuyến; tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân miền Bắc; đồng thời động viên sức người, sức của đến mức cao nhất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả hai miền; động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân chịu đựng thiếu thốn để chi viện cho tiền tuyến, bảo đảm cho miền Nam giành được thắng lợi quyết định. Xây dựng các kế hoạch bảo đảm; thương binh, liệt sĩ; cứu chữa, vận chuyển, điều trị, điều dưỡng thương binh... để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh quy mô lớn.

Thông qua các hoạt động, công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta 9, giáng một đòn quyết định làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, mở đầu quá trình đi xuống về chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh kết quả, thắng lợi đạt được, công tác đảng, công tác chính trị ở một số hướng, một số nơi cũng còn có những khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị vật chất, tinh thần và cách đánh; đánh giá tình hình, nhất là về lực lượng chính trị của quần chúng ở thành thị và khả năng, phản ứng của địch; xác định mục tiêu, kế hoạch công kích quân sự và hiệp đồng tác chiến của các lực lượng, các chiến trường, giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng...

Những thành công và hạn chế của công tác đảng, công tác chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 không chỉ là những kinh nghiệm quý cho lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động quân sự, xây dựng lực lượng, phát triển nghệ thuật quân sự, đặc biệt là lãnh đạo, chỉ đạo, thực hành tác chiến trong thành phố, mà còn góp phần làm phong phú, phát triển lý luận, thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị và làm tiền đề cho những thắng lợi sau này để giành thắng lợi trọn vẹn trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.




-----------------------------------------------------------------
1. Sáu phương thức tác chiến là: 1- Đẩy mạnh hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực tập trung trong những chiến dịch vừa và lớn, dưới hình thức tiến công hoặc chủ động phản công địch; 2- Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao; 3- Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não; 4- Triệt phá các đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, tạo thế bao vây, chia cắt địch; 5- Đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị; 6- Tác chiến kết hợp với binh biến; triển khai công tác binh vận, ngụy vận trên quy mô chiến lược.

2. Theo đó, Quân ủy Miền do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư; Phó Bí thư là các đồng chí Trần Văn Trà, Trần Độ; Ủy viên là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đồng Văn Cống, Nguyễn Hữu Xuyến, Lê Đức Anh, Nguyễn Thị Định và Anh Thi (hậu cần). Bộ Chỉ huy Miền do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Bảy Linh) làm Chính ủy; đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh; Phó Chính ủy là đồng chí Trần Độ; Phó Tư lệnh là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Đồng Văn Cống, Nguyễn Hữu Xuyến, Lê Đức Anh, Nguyễn Thị Định.

3. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, từ trần tại Hà Nội ngày 6-7-1967.

4. Thường vụ Trung ương Cục là đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đáng, Phạm Văn Xô, Trần Nam Trung, Hoàng Văn Thái, do đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Bí thư Trung ương Cục; Phó Bí thư là các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đáng, Hoàng Văn Thái; Quân ủy Miền do đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư; Phó Bí thư là đồng chí Nguyễn Văn Linh và Hoàng Văn Thái; các ủy viên gồm: Phạm Văn Xô, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Lê Văn Tưởng; Thường trực Quân ủy Miền là đồng chí Hoàng Văn Thái, Phạm Văn Xô, Trần Độ, Lê Đức Anh, Lê Văn Tưởng. Bộ Chỉ huy Miền do đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy; Phó Chính ủy là các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Trần Độ; Tư lệnh là đồng chí Hoàng Văn Thái; Phó Tư lệnh là các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hữu Xuyến, Đồng Văn Cống; Tham mưu trưởng là đồng chí Lê Đức Anh; Chủ nhiệm Chính trị là đồng chí Lê Văn Tưởng; Chủ nhiệm Hậu cần là đồng chí Nguyễn Văn Thi.

5. Trước đây là một phân khu của Quân khu 5, tháng 2-1966, Quân ủy Trung ương quyết định tách phân khu Trị Thiên - Huế khỏi Quân khu 5.

6. So với năm 1965, đến cuối năm 1967, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo cao xạ tăng từ 2,5 đến 4,7 lần; số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần, các trận địa ra đa, cảnh giới tăng 2 lần. Các lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu cũng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.

7. Trong năm 1967, số quân rời miền Bắc vào chiến trường miền Nam chiến đấu tăng gần 1,5 lần so với năm 1966. Từ quý II năm 1967 đến quý I năm 1968, 155.000 quân đã được đưa vào miền Nam.

8. Nhằm mục đích đó, một bản kế hoạch tác chiến giả đã được gửi cho các cấp lãnh đạo, chỉ huy tại các chiến trường miền Nam. Sau này, trong hồi ký Tường trình của một quân nhân, tướng Oétmolen cho biết vào tháng 11-1967, họ đã thu được một tài liệu quan trọng về kế hoạch quân sự năm 1968 của đối phương ở một địa điểm gần Đắc Tô. Tài liệu đó là bản kế hoạch tác chiến giả của ta. Đây chính là một trong những căn cứ để Mỹ nhận định sai về chủ trương chiến lược của ta trong Tết Mậu Thân 1968.

9. Diệt và làm tan rã 150.000 tên địch, trong đó có hàng nghìn lính Mỹ và chư hầu, phá hủy 34% vật tư dự trữ chiến tranh của Mỹ ở miền Nam, phá 4.200 "ấp chiến lược", giải phóng thêm 1,4 triệu dân.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #56 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2020, 03:37:01 pm »

HẬU PHƯƠNG ĐỐI VỚI
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh


Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng đã sớm xác định miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam, sớm định hướng xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây là quyết tâm đúng đắn, là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tại Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 1-1959), Đảng xác định đúng đắn phương pháp cách mạng miền Nam, đồng thời chỉ rõ: "Miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa một mặt là theo quy luật phát triển khách quan của xã hội miền Bắc, vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân miền Bắc. Mặt khác là tích cực gánh vào phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng cả nước" .

Trong quá trình xây dựng hậu phương, Đảng và Chính phủ đã phát động trong toàn quân, toàn dân nhiều cuộc vận động chính trị, các phong trào thi đua yêu nước. Những phong trào này có tác dụng tốt, tạo nên niềm cổ vũ và động viên tinh thần to lớn cho toàn dân ở hậu phương thi đua hoàn thành nhiệm vụ. Đảng và Nhà nước tiến hành động viên toàn bộ nền kinh tế, đồng thời tranh thủ tối đa sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa để phục vụ cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trên đồng ruộng, trong nhà máy khẩu hiệu hành động lúc này là "Tất cả vì đồng bào miền Nam ruột thịt", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Mỗi người làm việc bằng hai"...

Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam xác định động viên kinh tế cục bộ, tiến hành huy động lực lượng và vũ khí, trang bị, hậu cần tại chỗ là chủ yếu; đồng thời, tích cực, chủ động tiếp nhận sự hỗ trợ về vũ khí từ miền Bắc gửi vào. Thực hiện chủ trương này, Đoàn 559 và 759 lần lượt được thành lập có nhiệm vụ tổ chức vận tải vũ khí, trang bị bằng cả đường biển và đường bộ cho chiến trường miền Nam. Tổng kết thời kỳ 1962-1965 cho thấy, 83% vũ khí được sản xuất, huy động tại chỗ; 13% được vận chuyển từ miền Bắc vào . Đầu năm 1962, đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được mở, nhờ đó khối lượng hàng hóa đưa vào Nam càng nhiều hơn. Cũng trong năm 1962, đường vận tải trên biển từ miền Bắc vào đến Rạch Giá (miền Tây Nam Bộ) được mở, chiến sĩ Đoàn 759 đã chuyển vào Nam 1.430 tấn vũ khí. Từ năm 1961-1963, miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 4 vạn cán bộ, chiến sĩ, 165.000 khẩu súng, 7.000 tấn lương thực, 34 tấn thuốc men và 2.000 tấn vật tư khác .

Muốn hậu phương vững mạnh, không thể thiếu tiềm lực kinh tế. Xây dựng hậu phương về kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định để đảm nhận vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến. Việt Nam thường tiến hành chiến tranh trong điều kiện lâu dài, tự lực cánh sinh là chính nên càng phải coi trọng chuẩn bị hậu phương về kinh tế để chăm lo mọi mặt cho chiến sĩ "thực túc thì binh cường", đồng thời chuẩn bị vũ khí, đạn dược phục vụ cho tiền tuyến. Kinh tế hậu phương có phát triển mới đủ điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân ở hậu phương, duy trì và bồi dưỡng được sức dân trong điều kiện chiến tranh ác liệt kéo dài. Từ năm 1965, miền Bắc đã xây dựng được 18.600 hợp tác xã bậc cao, gần 700 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc/hécta/năm; 90% hàng tiêu dùng thiết yếu và một phần tư liệu sản xuất do các ngành công nghiệp trong nước bảo đảm; hệ thống giao thông vận tải, bưu điện được mở rộng và nâng cấp thêm phương tiện, máy móc thiết bị mới .

Số lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương cũng như dân quân tự vệ ở miền Bắc không ngừng tăng nhanh. Bộ đội được huấn luyện và chuyển vào chiến đấu trong chiến trường, dân quân tự vệ được huấn luyện theo định kỳ, đảm nhận vai trò nòng cốt trong bảo đảm trật tự trị an, phục vụ chiến đấu tại các địa phương. Cùng với việc tập trung xây dựng lực lượng thường trực, hậu phương miền Bắc cũng đồng thời xây dựng lực lượng hậu bị: năm 1962 có gần 1 triệu người đăng ký ngạch dự bị. Vũ khí trang bị từng bước được hiện đại.

Những năm 1961-1965, trên toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua "mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tổng số bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu tăng 14 lần so với năm 1960 là 17.427 người, vũ khí và phương tiện chiến tranh chuyển vào Nam là 3.435 tấn, tăng 10 lần so với năm 1960 . Với những thành tựu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng lực lượng vũ trang của miền Bắc đã tạo điều kiện cho hậu phương miền Bắc liên tục chi viện cho miền Nam với quy mô và mức độ ngày càng tăng. Phát huy vai trò của hậu phương chiến lược, miền Bắc đã không ngừng vươn lên chi viện sức người sức của cho chiến trường.

Nếu tính cả thời kỳ từ năm 1965-1972, hậu phương miền Bắc đã chi viện cho miền Nam 614.051 súng bộ binh, 35.599 súng B40, B41; 1.785 khẩu DKZ, 8.494 cối, 559 khẩu pháo hỏa tiễn, 75 pháo 122 ly và 130 ly, 2.086 súng máy cao xạ, 195 pháo cao xạ 37 ly, 113 xe tăng, 50 xe bọc thép, 6.600 máy vô tuyến điện, 12.565 máy hữu tuyến điện, 1.002 ô tô vận tải kéo pháo, 93 xe xích kéo pháo . Riêng năm 1968, từ miền Bắc đã đưa vào miền Nam 14 vạn quân, gấp 3 lần năm 1965; 7 vạn tấn hàng, gấp 8 lần năm 1965 .

Riêng trong năm 1968, ngành giao thông vận tải đã có hơn 120.000 người trong biên chế chính thức, chưa kể hàng chục vạn thanh niên xung phong được huy động để phục vụ trên khắp các tuyến đường từ hậu phương ra tiền tuyến. Miền Bắc đã huy động trên 267 triệu ngày công theo chế độ dân công thời chiến để bảo đảm giao thông, làm trận địa, sửa chữa sân bay, bến cảng, vận chuyển vật chất, thương bệnh binh... Số lượng xe ô tô vận tải cung cấp cho quân đội để bảo đảm cho chiến trường miền Nam chiếm 70% tổng số ô tô vận tải cả nước. Mức huy động lương thực chiếm 20% tổng sản lượng lương thực của miền Bắc. Với những cố gắng phi thường đó, để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hậu phương miền Bắc chuyển giao cho chiến trường gần 100.000 tấn vật chất, khối lượng này gấp hàng chục lần so với giai đoạn 1961-1964 .

Qua số liệu thống kê và thực tế cho thấy, để có được lương thực chi viện cho tiền tuyến miền Nam, 1 tấn lương thực từ hậu phương miền Bắc khi vào đến chiến trường Trị - Thiên thì hậu phương miền Bắc đã phải chuẩn bị 12 tấn, đó là chưa kể đến sự hy sinh xương máu của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến làm công tác vận chuyển . Để vận chuyển hàng hóa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, hậu phương miền Bắc đã tập trung củng cố phát triển hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy... huy động tất cả khả năng giao thông vận tải để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm vận chuyển kịp thời, đầy đủ. Chỉ tính riêng đường Hồ Chí Minh - tuyến đường vận chuyển chiến lược chi viện từ miền Bắc vào Nam, qua 15 năm xây dựng và chiến đấu, đường Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành tuyến hậu cần chiến lược, phát huy tác dụng tối đa và tích cực đối với chiến trường miền Nam. Với trên 16.000 km đường bộ, 1.400 km đường ống, hơn 6.000 xe vận tải các loại, một khối lượng rất lớn lương thực, vũ khí, xăng dầu, trang bị đã được vận chuyển về chiến trường.

Nhằm tổng động viên cao độ toàn quân, toàn dân cho cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng ban hành các nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo các mặt công tác: Nghị quyết số 119-NQ/TW, ngày 7-5-1965, về công tác giao thông vận tải; Chỉ thị số 99-CT/TW, ngày 8-6-1965, về công tác vận động phụ nữ; Chỉ thị số 102-CT/TW, ngày 3-7-1965, về công tác giáo dục tư tưởng chính trị; Chỉ thị số 105-CT/TW, ngày 29-7-1965, về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới... Đặc biệt, ngày 25-9-1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 181-NQ/TW về công tác vận động thanh niên: "Các cấp ủy Đảng, các ngành và Đoàn Thanh niên cần làm cho thanh niên có tinh thần quyết chiến quyết thắng, không sợ gian khổ hy sinh, sẵn sàng hiến thân vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trên cơ sở đó mà động viên hăng hái tòng quân, tích cực xây dựng dân quân tự vệ, giữ gìn trật tự trị an, phòng không nhân dân và phục vụ chiến đấu" .

Ở miền Bắc có các phong trào "Phụ nữ ba đảm đang", "Thanh niên ba sẵn sàng" (chỉ trong 4 tháng từ tháng 2 đến tháng 5-1965, có 2,5 triệu thanh niên miền Bắc tình nguyện ghi tên "Ba sẵn sàng"; trong 3 tháng từ tháng 3 đến tháng 5-1965 có 1,7 triệu phụ nữ miền Bắc ghi tên tình nguyện "Ba đảm đang") ; "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Trên các tuyến giao thông của hậu phương miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền Nam là phong trào "Xe chưa qua, nhà không tiếc", trên đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn có phong trào "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến". Đây không chỉ là những khẩu hiệu có sức động viên cổ vũ rất lớn, mà còn là phương hướng hành động của hàng chục triệu quần chúng hậu phương miền Bắc sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh vì miền Nam thân yêu, vì độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần "cả nước ra trận", "toàn dân đánh Mỹ, cứu nước".

Tháng 7-1966, Hội đồng Quốc phòng đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công bố Lệnh động viên cục bộ và Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước của Bác, cổ vũ mạnh mẽ tuổi trẻ hăng hái gia nhập lực lượng vũ trang, tòng quân cứu nước. Thời kỳ 1965-1968, quá nửa lực lượng và gần 80% vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật sử dụng trên chiến trường miền Nam là do hậu phương miền Bắc đưa vào; 888.641 lượt thanh niên miền Bắc vượt núi băng rừng vào miền Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Riêng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, hậu phương miền Bắc đã động viên 311.749 thanh niên vào bộ đội, bổ sung cho chiến trường miền Nam 141.081 người .

Nhờ có phương thức động viên kinh tế linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn đất nước, Đảng và Chính phủ đã tập trung được sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp để vận hành nền kinh tế và huy động các nguồn lực kinh tế trong nước và quốc tế đáp ứng cho các nhu cầu chiến đấu và sinh hoạt của quân, dân. Chính cơ chế kinh tế này đã tạo ra khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực kinh tế của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ cho nước ta.

Cùng với hậu phương chiến lược miền Bắc, hậu phương tại chỗ miền Nam cũng đã góp phần không nhỏ tiến tới giành thắng lợi cho chiến trường qua việc tiếp tế vận chuyển lương thực, vũ khí ra tiền tuyến. Đặc biệt, riêng trong năm Mậu Thân 1968, để bảo đảm thắng lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước mắt là hoàn thành nhiệm vụ đợt 1 vào mùa Xuân (bắt đầu từ 30-1 đến 25-2-1968), nhân dân miền Nam trên khắp các vùng giải phóng và ngay cả trong vùng địch tạm chiếm sôi nổi phục vụ chiến trường để bộ đội kịp giờ nổ súng đồng loạt. Tích trữ lương thực, thực phẩm, cất giấu vũ khí, chuẩn bị tiếp tế được tiến hành chu đáo. Hơn 1.100 tấn gạo đã được chuẩn bị sẵn sàng ở vùng đồng bằng cùng với 700 dân công được huy động phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 .

Với hậu phương tại chỗ miền Nam, Trung ương Cục đã chỉ đạo các cơ quan hậu cần, kỹ thuật sử dụng linh hoạt nhiều phương thức, vừa tiếp nhận một cách hiệu quả sức người, sức của được đưa từ miền Bắc vào, vừa khai thác được nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật tại chỗ, trong lòng địch cũng như ở các nước trong khu vực, tăng cường tiềm lực cho hậu phương tại chỗ miền Nam, phục vụ chiến trường. Chẳng hạn, nhiều loại lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, phương tiện được mua từ trong vùng địch chiếm đóng hoặc từ Campuchia, Thái Lan chuyển về chiến khu phục vụ cho kháng chiến. Riêng ngành quân giới miền Đông Nam Bộ thu mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị để sản xuất vũ khí và xây dựng kho tàng trị giá 863.311.142 đồng (tiền chế độ Sài Gòn) và 240.065.982 ria (tiền Campuchia). Cùng với hoạt động mua bán, đã diễn ra các hoạt động thu lượm vũ khí, trang bị, bom mìn lép của địch với một khối lượng rất lớn để sản xuất súng, mìn, lựu đạn... đánh địch. Theo thống kê, từ năm 1962 đến năm 1975 các chiến sĩ hậu cần miền Nam đã thu về chiến lợi phẩm là 23.149 tấn vũ khí, sản xuất 1.533 tấn vũ khí và hàng ngàn xe các loại .

Như vậy, công tác hậu cần cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được Trung ương Đảng, Chính phủ và toàn quân, toàn dân chuẩn bị chu đáo và gấp rút, tranh thủ được thời cơ chiến lược. Ngay trong tháng 11-1967, miền Nam đã được hậu phương miền Bắc giao gấp 3.270 tấn hàng các loại; riêng mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nhận đủ 1.800 tấn, chiến trường Lào nhận đủ 500 tấn, súng chống tăng B40 và súng máy phòng không 12,7 ly chuyển từ hậu phương miền Nam vào đã được trang bị ngay cho các lực lượng chiến đấu . Kết quả vận chuyển trong tháng 11-1967 cao hơn các năm trước khẳng định bước tiến về công tác tổ chức chỉ huy vận tải, vận chuyển cơ giới theo đội hình chiến thuật. Đến giữa tháng 1-1968, việc chuẩn bị hậu cần cho nhiệm vụ "chiến lược mới" hoàn thành để ngày 30-1-1968, quân và dân ta tổng tiến công nổi dậy đồng loạt trên khắp các chiến trường, đặc biệt là tiến công và nổi dậy ở hầu hết các đô thị miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi, có một vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược chiến tranh của Mỹ và có ảnh hưởng quốc tế to lớn. Chính tướng Oétmolen về sau đã phải thừa nhận: "Đây là một khúc ngoặt của cuộc chiến tranh... Khúc ngoặt đi đến thất bại" . Thắng lợi đó thể hiện sự chỉ đạo sắc bén, tài tình của Đảng là phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, chuẩn bị hậu cần chu đáo, sự chi viện lớn lao và có ý nghĩa quyết định của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến giành được thắng lợi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #57 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2020, 03:46:27 pm »

CÔNG TÁC HOA VẬN VÙNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



NGUYỄN THỊ LỆ
Ủy viên Ban Thường vụ,
Trưởng ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh


Trong mọi giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử của đất nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc luôn kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kỷ niệm 50 năm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyền tự hào về sự tiếp nối truyền thống của các thế hệ trong gìn giữ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, ngay tại trung tâm đầu não, thủ phủ của chính quyền Sài Gòn, sự đoàn kết gắn bó, anh dũng chiến đấu, không tiếc máu xương của cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định, trong đó có sự đóng góp to lớn của người Hoa, đã khẳng định thế trận lòng dân, tinh thần đoàn kết toàn dân có khả năng tạo ra sức mạnh phi thường, làm chuyển biến tình hình cục diện, tạo bước ngoặt mới mang tính quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Công tác chuẩn bị lực lượng, vận động tập hợp người Hoa

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, cục diện chiến trường miền Nam diễn ra quyết liệt, Bộ Chính trị quyết định giao Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuẩn bị các bước cho cuộc tiến công vào tất cả đô thị, nơi tập trung lực lượng quân sự, chính trị chủ yếu của địch. Trước tình hình nhiệm vụ mới, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã xác định một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi cho cuộc tổng tiến công này, đó chính là phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, sức mạnh của lòng dân, tập hợp khối đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng cách mạng để bước vào cuộc chiến. Công tác tuyên truyền vận động quần chúng lúc bấy giờ được thực hiện sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, trong các giới, các dân tộc, tôn giáo.

Đầu năm 1967, công tác vận động cách mạng trong đồng bào người Hoa đã chính thức chuyển sang một giai đoạn mới, mang tính chất toàn diện và rộng khắp chứ không giới hạn trong lực lượng công nhân, lao động như trước đây. Để đáp ứng yêu cầu công tác vận động quần chúng người Hoa ở đô thị, Đặc khu Ủy Sài Gòn - Gia Định (T4) đã quyết định chuyển Ban Cán sự công vận người Hoa thành phố thành Đảng ủy kiêm Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Gia Định (gọi tắt là Ban Hoa vận T4). Ban Hoa vận T4 đã quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, vận dụng tài tình đường lối đấu tranh chính trị, thể hiện được phương châm và nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự nội thành, đó là: phát huy tối đa tính sáng tạo của cơ sở; triển khai tiến công địch một cách linh hoạt, cơ động, táo bạo, bí mật, bất ngờ; lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, dồn kẻ địch vào thế phải bị động đối phó. Với đặc thù rất riêng, Ban Hoa vận T4 dưới sự chỉ đạo của Khu ủy đã vận dụng đường lối đấu tranh chính trị của Đảng, tập hợp, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng trong khắp các thành phần, tầng lớp đồng bào người Hoa.

Ban Hoa vận T4 đã thành lập 5 ban cán sự trực thuộc gồm: Ban Cán sự quân sự, Ban Cán sự công vận, Ban Cán sự học vận, Ban Cán sự xóm lao động và Ban Cán sự tư sản vận - kinh tài. Ngoại trừ Ban Cán sự tư sản vận - kinh tài, cả 4 ban cán sự còn lại đều có đội vũ trang và đội vũ trang tuyên truyền. Ngoài ra, Ban Hoa vận T4 còn thành lập 2 bộ phận chuyên môn là Ban Tuyên huấn kiêm công tác xuất bản báo chí chữ Hoa và bộ phận căn cứ Hoa vận T4. Chỉ trong thời gian ngắn, các ban cán sự nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng, củng cố tổ chức lãnh đạo, thể hiện vai trò là cầu nối giúp Đảng ủy lãnh đạo phong trào sâu sát và nhạy bén hơn; phát huy được tính sáng tạo trong đấu tranh của các tổ chức hạt nhân trực thuộc.

Dưới sự nỗ lực hoạt động của các đồng chí trong Ban Cán sự công vận, phong trào cách mạng trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động là người Hoa đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn đấu tranh liên tục từ thấp đến cao, từ lẻ tẻ đến những cuộc vận động rộng lớn trong toàn thành phố; từ những xí nghiệp có công nhân người Hoa đứng lên đấu tranh đến sự đoàn kết với những xí nghiệp có công nhân người Kinh và hình thành nên một phong trào chung của giai cấp công nhân thành phố, đánh thẳng vào cơ quan đầu nào của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ban Cán sự công vận, cùng với các cán bộ cách mạng người Hoa tiêu biểu 1 và những lực lượng tích cực trong công nhân người Hoa đã trực tiếp chiến đấu, thâm nhập vào các tổ chức hợp pháp của địch để hoạt động, nhất là các nghiệp đoàn ngành dệt, nhựa, pha lê, cơ khí, in ấn, nhà hàng...

Ở các nhà máy tập trung đông công nhân người Hoa đều có chi bộ đảng và tổ chức chi hội công nhân giải phóng lãnh đạo, dẫn dắt công nhân, lao động là người Hoa tham gia các phong trào đấu tranh của công nhân, lao động với nhiều hình thức phong phú. Có khi là sự nổi dậy của công nhân nhiều quận, gắn kết với nhau trên nhiều địa bàn; có khi xảy ra riêng lẻ tại một quận hoặc trong từng nhà máy, xí nghiệp. Từ những cuộc đấu tranh đó, phong trào dần lớn mạnh đưa đến sự ra đời của các nghiệp đoàn như: Nghiệp đoàn Xà bông Trương Văn Bền, Nghiệp đoàn Chợ Bình Tây, Nghiệp đoàn Rượu Bình Tây, Nghiệp đoàn Pin Viễn Đông. Song song với phong trào đấu tranh của công nhân tại nội thành, cùng với Ban Hoa vận Trung ương Cục, Ban Hoa vận T4 đã vận động hàng trăm thanh niên, công nhân người Hoa vào vùng giải phóng, tăng cường cho lực lượng chủ lực của Khu và Miền.

Với sự nỗ lực hoạt động tích cực, đến cuối năm 1967 đã có một số chi bộ trực thuộc Ban Cán sự xóm lao động bám chắc ở các địa bàn có đông đồng bào Hoa là lao động nghèo cư trú. Các ban cán sự học vận, quân sự, tư sản vận - kinh tài đều phát triển lực lượng, có chi bộ đảng trực thuộc.

Công tác hậu cần, tuyên huấn được Ban Hoa vận T4 đẩy mạnh hoạt động, giữ liên lạc thông suốt, bí mật, an toàn trong suốt giai đoạn nổi dậy, góp phần vào việc phổ biến các tài liệu, tin tức, đưa chủ trương, chỉ thị của Đảng đến với các chiến sĩ và đồng bào ở vùng Sài Gòn - Gia Định. Ban Hoa vận T4 xây dựng được lực lượng giao liên mà các chiến sĩ hầu hết là các đồng chí nữ rất khéo léo, dũng cảm, ngoan cường, mưu trí trong chuyển tải một khối lượng lớn vũ khí, chất nổ từ vùng căn cứ vào nội đô. "Trong điều kiện kẻ địch kềm kẹp, kiểm soát rất gắt gao, những chiến sĩ hậu cần vừa kiên trì, vừa mạo hiểm, vẫn lần lượt chuyển từng khẩu súng ngắn, từng quả lựu đạn từ vùng căn cứ cách mạng vào thành phố rất an toàn. Có chiến sĩ, tay bồng con nhỏ, tay xách giỏ bí rợ, thức ăn, sữa uống cho cháu bé, nhưng trong ruột quả bí lại là một quả lựu đạn, lúc khác là khẩu súng ngắn, đã băng đồng hàng chục cây số để ra lộ đón xe. Hắc Muối - thuộc bộ phận hậu cần của Ban quân sự - có chồng bị tật nguyền, bản thân có mang gần đến ngày sinh, vẫn liên tục cải trang, vào căn cứ chuyển từng ký thuốc nổ vào thành phố" .

 Đặc biệt, một số đồng chí sáng tạo, tìm tòi, nghiên cứu chế tạo chiếc thùng xe tải hai đáy, chuyển súng đạn từ Lộc Ninh về Sài Gòn một cách an toàn mà quân địch không hề hay biết. Góp gió thành bão, bộ phận hậu cần của Ban Cán sự quân sự đã góp dần được một số vũ khí để cung cấp cho các đơn vị vũ trang Hoa vận nội thành 6 tấn thuốc nổ và một số súng AK, cối 60 ly và B40 . Nhiều người Hoa đã tự nguyện dùng ngay căn nhà của mình làm nơi cất giữ vũ khí, che giấu cán bộ, làm điểm hẹn, nơi huấn luyện quân sự cho chiến sĩ. Có cơ sở lộ tung tích, bị địch bắt giam, bị tra khảo đánh đập dã man vẫn tuyệt đối trung thành với cách mạng, kiên quyết không khai báo nơi cất vũ khí ngay trong nhà mình.

Trên mặt trận báo chí và giáo dục, những lực lượng yêu nước trong người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã có những hoạt động khá sôi nổi, từ những truyền đơn vận động bà con người Hoa đến bản tin giải phóng dành riêng cho bà con người Hoa trực tiếp xuất bản tại Sài Gòn, như Tân Việt Hoa, báo Công Nhân (sau đổi tên thành báo Giải phóng) in bằng chữ Hoa đã phát hành hàng ngàn số đến tay bạn đọc (tờ báo này là tiền thân của báo Sài Gòn Giải phóng tiếng Hoa hiện nay).

Cũng như tất cả cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở nội thành bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng Hoa vận hầu hết đều tự lực trang trải mọi chi phí hoạt động, một số nhờ vào sự đùm bọc của các cơ sở.

Đồng bào người Hoa trong tổng tiến công và nổi dậy

Để chuẩn bị cho đợt Tổng công kích Mậu Thân 1968, Ban Hoa vận chủ trương cho các ban cán sự đề ra kế hoạch hành động của riêng mình, phát huy tính sáng tạo, nhạy bén của từng đơn vị; Ban Hoa vận chỉ tập trung chỉ đạo phối hợp kế hoạch và trực tiếp ở các địa bàn, các mục tiêu tấn công then chốt và phân công lực lượng nội thành bám sát địa bàn, bố trí một số người có trách nhiệm hướng dẫn cánh quân Tây Nam tiến vào Thành phố.

Ban Hoa vận T4 tiến hành sắp xếp lại tổ chức, điều động tăng cường cán bộ, chiến sĩ cho 4 ban cán sự là quân sự, công vận, xóm lao động và học vận; lên sơ đồ xây dựng phương án tác chiến cho từng mục tiêu, xây dựng thêm nhiều lực lượng, bổ sung thêm lực lượng giao liên, đáp ứng yêu cầu hậu cần chuyển tải, phân phối vũ khí, chất nổ đã tiếp nhận cho các đơn vị thuộc Ban Hoa vận T4 trong nội thành.

Đúng giờ theo kế hoạch, lực lượng vũ trang và chính trị Hoa vận theo mục tiêu và địa bàn đã phân công đồng loạt tiến công địch tại các khu vực. Đơn vị vũ trang cánh Hoa vận có nhiệm vụ đánh chiếm 9 điểm lớn, trong đó có bốt Bà Hòa (đường Hồng Bàng), bốt Ngô Quyền (Quận 5) là cơ quan mật vụ khét tiếng ác ôn của ngụy trên địa bàn Quận 5. Các đội vũ trang của cánh Hoa vận đã phát động quần chúng nổi dậy làm chủ tạm thời được một số khu vực. Đáng chú ý, mở đầu cuộc tấn công đánh vào bốt Bà Hòa và bốt Ngô Quyền để giải phóng những cán bộ chiến sĩ bị địch giam cầm, đánh chiếm Tòa hành chính Quận 5, cờ Mặt trận Giải phóng lần đầu tiên tung bay trên bầu trời Chợ Lớn. Các đội vũ trang người Hoa tổ chức đánh trả nhiều đợt tiến công của hàng trăm tên lính dù, cảnh sát, biệt kích có xe tăng yểm trợ đánh vào các vùng căn cứ "lõm" của nhân dân ta. Các đội vũ trang còn đánh sập các tòa báo bằng chữ Hoa phản động, tiến công vào Tòa hành chính và Ty Cứu hỏa Quận 6... Tại địa bàn Chợ Lớn, đội vũ trang Hoa vận đã thực hiện 36 trận đánh tiêu diệt nhiều sinh lực và cơ sở vật chất của địch.

Lực lượng Hoa vận được đông đảo bà con người Việt, người Hoa hết lòng đùm bọc che chở và giúp đỡ. Ban Cán sự xóm lao động vận động đồng bào lao động người Hoa tích cực nổi dậy và tiến công vũ trang vào các lực lượng Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Với phương châm tự lực, tìm địch mà diệt, lấy vũ khí địch để tự trang bị cho ta, các chi bộ, các đội công tác đã dấy lên phong trào thi đua đánh địch đều khắp, táo bạo và bất ngờ ngay trên đường phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại khu vực Chợ Thiết, nhân dân ta ở khu vực Phó Cơ Điều, trong đó có nhiều đồng bào người Hoa, đã vùng dậy diệt ác ôn, giành chính quyền, xây dựng căn cứ "lõm" ngay ở nội thành, tổ chức các đội vũ trang chiến đấu bảo vệ khu vực này. Ở khu vực ba Lò - Lò Gốm, Lò Siêu, Lò Gạch (nay thuộc Quận 6), nhân dân nổi dậy xây dựng căn cứ lõm và tổ chức cất giấu vũ khí. Ở khu vực Bình Thới, Phú Thọ (nay thuộc Quận 11), khu Cầu Tre, Vườn Lài (nay thuộc Quận Tân Bình), nhân dân và bà con người Hoa đã đánh đuổi quân lính và chính quyền địa phương, lập ra chính quyền cách mạng, tuyển chọn hàng trăm thanh niên người Hoa đưa ra vùng ven để huấn luyện quân sự, thành lập những đơn vị vũ trang tham gia các trận tiến công vào nội đô Sài Gòn.

Cánh Ban Cán sự học vận phối hợp hành động bằng nhiều hình thức sôi nổi, tập trung các hoạt động tuyên truyền đa dạng với nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là rải truyền đơn trên xe chuyên chở công nhân, các chợ, rạp chiếu bóng; treo cờ Mặt trận Giải phóng, thả bong bóng có treo truyền đơn, trương khẩu hiệu ngay tại các trường Hoa văn và ở nhiều nhà máy có đông công nhân người Hoa.

Tuy lực lượng cách mạng bị tổn thất, nhưng khí thế cách mạng lại dâng cao hơn bao giờ hết. Khâm phục và học tập những tấm gương gan dạ, chiến đấu chẳng ngại hy sinh của các chiến sĩ, đồng bào người Hoa càng gắn bó chặt chẽ hơn với cách mạng, sẵn sàng tham gia và đưa con em vào vùng giải phóng, gia nhập bộ đội. Lực lượng của ta vì thế càng được củng cố và phát triển ngày càng mạnh, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:

"Vì độc lập, tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị con người,
Vì muôn đời hoa lá xanh tươi,
Ta quyết thắng, giành mùa xuân đẹp nhất"
2.

Thật khó để kể hết những mất mát, hy sinh của đồng bào người Hoa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bởi trong cuộc chiến đấu đó, 235 chiến sĩ người Hoa đã hy sinh, trong đó có 74 liệt sĩ thuộc lực lượng Hoa vận; biết bao cán bộ, chiến sĩ Ban Hoa vận, những chiến sĩ, học sinh, sinh viên, công nhân, lao động người Hoa bị thương, bị địch bắt, tù đày. Bao máu xương của cán bộ, chiến sĩ, quần chúng nhân dân là người Hoa hòa vào máu xương của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc khác, thấm đẫm trên từng mảnh đất Sài Gòn - Gia Định, càng làm thắm đỏ màu cờ Quân giải phóng.

Lịch sử mãi mãi ghi nhận những công lao đóng góp, sự hy sinh của các thế hệ, các tầng lớp nhân dân các dân tộc, trong đó có đồng bào người Hoa trong cuộc tiến công Xuân Mậu Thân 1968 nói riêng và công cuộc giải phóng dân tộc nói chung. Những đóng góp của đồng bào người Hoa đã được Đảng và Nhà nước trân trọng và ghi công. Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 4 tập thể và 8 danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng; Ban Hoa vận Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; cán bộ và đồng bào người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh được tặng thưởng Huân chương Độc Lập hạng Nhất. Ngoài ra, còn có 25 cán bộ, chiến sĩ người Hoa được tặng Huân chương Độc lập; hơn 200 cá nhân được tặng Huân chương Kháng chiến và hơn 300 cá nhân được tặng huân, huy chương kháng chiến các loại...

Bài học kinh nghiệm được rút ra từ công tác vận động người Hoa ở Sài Gòn - Gia Định tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bài học về đề ra chủ trương, chính sách phù hợp, đi sâu vào đồng bào người Hoa, kiên trì quan điểm tin tưởng và dựa vào quần chúng, luôn bám sát quần chúng, bám sát địa bàn để vận động, tổ chức lực lượng; xây dựng lực lượng Ban Hoa vận tổ chức thực hiện quan điểm đoàn kết cộng đồng trong người Hoa với các dân tộc anh em khác, tạo được lòng tin yêu đối với quần chúng, được quần chúng đùm bọc, che chở, bảo vệ ngay trong tình hình căng thẳng nhất cũng như sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi của cán bộ, nổi dậy phối hợp cùng với lực lượng vũ trang tạo thành sức mạnh cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Bài học này tiếp tục được Đảng ta vận dụng và phát triển trong chuẩn bị lực lượng và thế trận lòng dân, để cán bộ chiến sĩ, nhân dân Sài Gòn - Gia Định cùng cả nước, vì cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối.

Năm mươi năm đã trôi qua, những kinh nghiệm về công tác Hoa vận trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục là bài học quý báu để Ðảng bộ, chính quyền thành phố vận dụng trong công cuộc xây dựng và phát triển thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.



-----------------------------------------------------------------
1. Gồm các đồng chí: Lâm Tư Quang, Dư Huệ Liên, Quách Lan Anh, Ngô Tú Thanh, Mã Lê Trân, Khổng Quế Kình, Lư Yến Linh.

2. Tố Hữu: Bài ca Xuân 68.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #58 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2020, 04:41:52 pm »

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH
TẾT MẬU THÂN 1968




TS. LÊ HỮU PHƯỚC
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Với quyết tâm "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định", sau Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong hai ngày 30-6 và 1-7-1967, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam: "Phải tiến công mạnh về quân sự và chính trị vào các thành phố và thị trấn, các trung tâm chính trị... tạo điều kiện tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa... Chiến trường quyết định thứ nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn và miền Đông Nam Bộ".

Tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa (Nghị quyết Quang Trung), quyết định lấy miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn làm trọng điểm tiến công và nổi dậy, hướng tiến công chủ yếu là Sài Gòn. Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập Khu trọng điểm và 6 phân khu; đồng thời xác định nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, góp phần cùng toàn Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam, hai mũi tiến công và nổi dậy trên địa bàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) vào Tết Mậu Thân 1968, đã giáng một đòn thôi động bất ngờ vào sào huyệt của đối phương, góp phần đặc biệt quan trọng tạo nên bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ghi lại dấu ấn độc đáo và những nét son tươi thắm trong lịch sử chiến tranh cách mạng của cả nước và của vùng đất "Thành đồng Tổ quốc".

Đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đầu não của đối phương

Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954 cho đến trước Tết Mậu Thân 1968, nét nổi bật trong phong trào cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định là đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức, quy mô và mức độ khác nhau. Đấu tranh vũ trang giới hạn trong các hoạt động trừ gian, diệt ác của lực lượng đặc công, biệt động nội thành và những đợt pháo kích không thường xuyên vào các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn ở vùng ven. "Thủ đô Sài Gòn" vẫn được đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu xem là hậu cứ an toàn. Cho đến tháng 11-1967, phía Mỹ vẫn tự tin nhận định: "Cộng sản" chưa đủ mạnh để tạo thắng lợi quân sự, chưa có khả năng bước sang giai đoạn tổng phản công, chỉ có khả năng bảo tồn lực lượng chờ khi Mỹ rút sẽ tổng tiến công vào quân đội Sài Gòn.

Vào thời điểm đầu năm 1968, lực lượng đối phương bảo vệ ba vòng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có khoảng 4 sư đoàn bộ binh Mỹ, 4 sư đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn, 8 tiểu đoàn dù và thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn an ninh thủ đô, 20 vạn bảo an - dân vệ - cảnh sát dã chiến, hàng ngàn học viên quân sự và hàng vạn thanh niên chiến đấu... Tính chung trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trước thời điểm tổng công kích - tổng khởi nghĩa, số đơn vị chủ lực cơ động Mỹ và quân đội Sài Gòn tương đương 9 sư đoàn (không kể lực lượng Sư đoàn 1 kỵ binh bay và các đơn vị quân chủng kỹ thuật của Mỹ); trong khi khối chủ lực cơ động Quân giải phóng chỉ có 3 sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9), 1 sư đoàn pháo và một số trung đoàn độc lập. Xét về tương quan lực lượng, phía Mỹ và quân đội Sài Gòn hoàn toàn áp đảo về quân số, chưa kể ưu thế vượt trội về trang bị vũ khí và hệ thống bố phòng tại các cơ quan đầu não, các vị trí trọng yếu.

Chính vì vậy, những trận đánh "xuất quỷ nhập thần" của khối Biệt động Thành tiến công 6/9 mục tiêu đầu não - trong đó có 5 mục tiêu trọng yếu nhất tại trung tâm thành phố Sài Gòn mở đầu đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã gây kinh hoàng cho chế độ Mỹ - ngụy và làm chấn động dư luận trong cũng như ngoài nước. Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ... những vị trí tưởng chừng bất khả xâm phạm đều bị tập kích và uy hiếp nặng nề, có nơi lực lượng vũ trang cách mạng đã giành được quyền làm chủ. Phối hợp cùng Biệt động Thành, các tiểu đoàn mũi nhọn thuộc các phân khu cũng nhanh chóng cơ động lực lượng tiếp cận địa bàn được phân công đảm trách.

Bảy ngày cao điểm tập kích chiến lược của đợt 1 Mậu Thân đã buộc tướng Oétmolen - Tư lệnh Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV), Tư lệnh Lục quân quân đội Mỹ phải thừa nhận: "Đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề; họ đã đưa chiến tranh vào các thành phố, đô thị, đã gây thương vong và thiệt hại nghiêm trọng cho chúng ta". Báo chí Mỹ và báo chí Sài Gòn cho rằng "chiến tranh đã vào tận giường ngủ" của Đại sứ Bâncơ, của tướng Oétmolen, của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Đặc biệt, trận tập kích Tòa Đại sứ Mỹ trở thành cú sốc mạnh mẽ đối với cả nước Mỹ, như nhận định của nhà báo Ôbơđophơ: "Sứ quán Mỹ là nơi mà lá cờ sao và vạch của Hoa Kỳ chính thức cắm trên đất Việt Nam, đó là trung tâm tượng trưng cho nỗ lực của người Mỹ. Khi được tin sứ quán Mỹ bị tiến công, mọi người đều hiểu rằng, Việt cộng đang tiến công vào trái tim của nước Mỹ ở giữa Sài Gòn".

Đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đối phương, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ngay từ đợt 1 cũng đồng thời "đưa chiến tranh vào lòng nước Mỹ". Tổng thống Giônxơn thừa nhận, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã "bị một đòn choáng váng". Cựu tổng thống Aixenhao cho rằng: Chưa bao giờ gặp phải tình trạng đáng buồn như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ, bị chia rẽ sâu sắc vì cuộc chiến tranh (phát biểu ngày 27-3-1968). Hồi ký của tướng Taylo viết: "Những quan chức trong Bộ Quốc phòng Mỹ cảm thấy rằng cuộc tiến công của đối phương năm 1968 chứng minh là Mỹ không bao giờ có thể đạt được thành công ở Việt Nam bằng những phương tiện quân sự. Lần đầu tiên trong lịch sử 200 năm của mình, quân đội Mỹ đã bị đánh bại trong một trận quyết chiến chiến lược, dẫn đến hậu quả đặt Mỹ vào vị trí thua trận trong một cuộc chiến tranh. Những trận tiến công của đối phương được báo chí Mỹ tường thuật bằng những tít lớn, đã được chiếu trên truyền hình Mỹ và đã làm cho dân chúng Mỹ, quan chức Mỹ kinh hoàng". Nhà báo Ôbơđophơ cho biết thêm ý kiến của một số tướng lĩnh và chính khách khác của Mỹ, như: "Cuộc tiến công Mậu Thân chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát gì được đất nước này", "Tết Mậu Thân đã đập tan cái mặt nạ của những ảo tưởng từng che đậy không cho Mỹ nhìn thấy hoàn cảnh thực của mình" ...

Hệ quả trực tiếp của đợt 1 Mậu Thân là hàng loạt nhân vật quan trọng trong chính giới và quân đội Mỹ hoặc bị thay thế, hoặc bị triệu hồi về nước như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mắc Namara, Tư lệnh Oétmolen... Ngay cả Tổng thống Mỹ Giônxơn cũng buộc phải tuyên bố không ứng cử vào nhiệm kỳ thứ hai. Tiếp đó, giới lãnh đạo Mỹ buộc phải xét lại toàn bộ đường lối tiến hành chiến tranh ở Việt Nam, xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bằng việc đưa chiến tranh vào tận sào huyệt đối phương, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, quân và dân miền Nam đã tạo ra "một cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng, khiến cho Mỹ - ngụy không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới" .

Tích cực nổi dậy, phối hợp và hỗ trợ tiến công

Thực hiện "Nghị quyết Quang Trung" của Trung ương Cục miền Nam, tháng 10-1967, Khu trọng điểm được thành lập bao gồm Khu Sài Gòn - Gia Định (cũ) và một phần địa bàn các tỉnh tiếp giáp. Khu trọng điểm chia thành 6 phân khu, với hai Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc và Nam. Bộ Tư lệnh tiền phương Bắc trực tiếp chỉ huy các mũi tiến công từ phía bắc, tây bắc và phía đông, đông bắc thành phố, gồm các Phân khu 1, 4, 5 và lực lượng chủ lực Miền. Bộ Tư lệnh tiền phương Nam chỉ huy các mũi phía nam và một phần tây nam, gồm các phân khu 2, 3, 6; đồng thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở nội thành.

Tuy số quần chúng cốt cán trong nội thành chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong cộng đồng dân cư, nhưng phong trào đấu tranh công khai đã phát triển khá mạnh ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định từ nhiều năm trước. Mặt khác, cách mạng đã xây dựng được nhiều cơ sở và nắm được nhiều tổ chức quần chúng như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Lực lượng Bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Nghiệp đoàn ký giả...

Với niềm tin quần chúng sẵn sàng tham gia nổi dậy giành quyền làm chủ khi lực lượng vũ trang cách mạng tiến công địch, Khu ủy chỉ đạo và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ chức, từng đoàn thể, từng bộ phận. Ban Tuyên huấn có nhiệm vụ tuyên truyền phát động quần chúng đấu tranh trên mặt trận dư luận - tư tưởng, đưa người vào các cơ quan báo, đài để có thể ra báo công khai khi có điều kiện. Ban Công vận giao lại cơ sở thuộc các ngành nghề cho quận, huyện lãnh đạo để khởi nghĩa ở địa bàn dân cư; riêng bộ phận Công vận nội thành trực tiếp lãnh đạo nổi dậy tại các nơi quan trọng như Nhà đèn Chợ Quán, Xí nghiệp Hỏa xa, Cư xá Đô Thành, xóm lao động Chuồng Bò... Ban Phụ vận làm nòng cốt nổi dậy ở các phường, khóm, chợ, khu lao động... Ban Hoa vận có nhiệm vụ vận động đồng bào người Hoa nổi dậy và bố trí dẫn đường cho cánh quân Tây Nam đánh vào thành phố. Ban Trí vận hướng dẫn các cơ sở trong đội ngũ công chức, tư chức xuống đường hỗ trợ mũi tiến công quân sự. Đặc biệt, lực lượng của Thành đoàn Thanh niên được chia thành ba bộ phận: Đội vũ trang biệt động làm "thê đội 2" cho các đội biệt động của Quân khu, có nhiệm vụ tấn công các mục tiêu chiến lược và mục tiêu quan trọng; lực lượng chính trị vũ trang làm nhiệm vụ tuyên truyền vũ trang, phát động quần chúng nổi dậy; lực lượng chính trị công khai làm công tác đối ngoại và tập hợp, vận động các tầng lớp trí thức, nhân sĩ, chức sắc tôn giáo...

Kế hoạch chuẩn bị nổi dậy tuy chưa thật chu toàn, nhưng đều được các tổ chức, các đoàn thể khẩn trương thực hiện với quyết tâm cao nhất. Tiếc rằng, "phần lớn các lực lượng chính trị, vũ trang của các đoàn thể quần chúng không nhận được thông báo về giờ hành động ("giờ G"), hoặc người đi nhận lệnh gặp trắc trở không về kịp" . Dù vậy, diễn biến thực tế của đợt 1 Mậu Thân đã cho thấy khí thế nổi dậy và ý chí kiên cường của quần chúng cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong điều kiện hết sức khó khăn, bất lợi.

Bước sang đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy (từ 5-5 đến 18-6-1968), chấp hành chỉ đạo của cấp trên, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định quyết tâm thực hiện ba mục tiêu chính: 1- Chiếm lĩnh các khu vực đông dân cư trong thành phố, xây dựng chính quyền cách mạng, tiêu diệt sinh lực địch; 2- Phát động cao trào chiến tranh du kích, hình thành thế liên hoàn nội - ngoại thành, giữ vững thế tiến công; 3- Phát triển lực lượng chính trị, lực lượng quân sự với những bước nhảy vọt.

Rút kinh nghiệm đợt 1, Khu ủy (chủ yếu là Ban Cán sự Phân khu 6) đề ra kế hoạch cụ thể phát động khởi nghĩa, thành lập ban lãnh đạo khởi nghĩa song song với ban chỉ huy quân sự. Các ban, ngành, đoàn thể được phân công nhiệm vụ rõ ràng, kết hợp chặt chẽ với lực lượng cơ sở ở các quận, phường. Do đó, trong đợt 2, "những hoạt động vũ trang và chính trị của các lực lượng Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận, An ninh vũ trang, Tuyên huấn đã có nhiều thành tích nổi bật" .

Dù không còn yếu tố bất ngờ, các mũi vũ trang vẫn lập nhiều chiến công ở Đài Truyền hình, cầu Phan Thanh Giản, khu vực Thị Nghè, đường Minh Mạng... Phối hợp với tiến công quân sự, các đội tuyên truyền nội đô phát động quần chúng nổi dậy làm chủ ở nhiều khu vực thuộc Quận 5 (đánh chiếm Tòa hành chính và một số công sở, diệt ác, làm chủ các khu vực Lò Gốm, Lò Gạch, Lò Siêu, Khóm 1 phường Trang Tử, Khóm 6 phường Phú Lâm). Những nơi các tiểu đoàn mũi nhọn không vào được (như các quận 1, 2, 3, Phú Nhuận...) vẫn có các đội tuyên truyền vũ trang và cơ sở tại chỗ diệt ác trừ gian, phá cơ sở kinh tế của địch, đốt xe quân sự, phá cầu, rải truyền đơn, căng biểu ngữ, tổ chức họp đồng bào... Cơ sở quần chúng trong công nhân, lao động, học sinh, sinh viên, phụ nữ... tích cực tham gia tiếp tế, tải thương, dẫn đường cho lực lượng vũ trang... Đồng thời, quần chúng cách mạng còn hưởng ứng treo cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, xé bỏ cờ Việt Nam Cộng hòa, tờ khai gia đình của chính quyền Sài Gòn... Nhờ sự nổi dậy và hỗ trợ của quần chúng, lực lượng vũ trang cách mạng đã bám trụ chiến đấu nhiều ngày tại nội thành.

Ở vùng ven, "tổng cộng có trên 8.000 quần chúng tham gia bao vây đồn bốt, gần 12.000 lượt người đấu tranh chính trị, trên 4.000 gia đình rời bỏ ấp chiến lược trở về ruộng vườn cũ làm ăn"2. Những hoạt động bền bỉ, kiên cường đó góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của tổng tiến công và nổi dậy.

"Thế trận lòng dân" trong tổng tiến công và nổi dậy

Trong hoàn cảnh tương quan lực lượng cách mạng - phản cách mạng quá chênh lệch (nhất là trong đợt 2 và đợt 3 Mậu Thân 1968), càng thấy rõ hơn ý nghĩa và giá trị của những đóng góp, hy sinh, của tấm lòng son sắt kiên trung mà người dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dành cho cách mạng. Trong những ngày chiến sự diễn ra cam go, ác liệt, đồng bào các phường, các quận nội thành hết lòng che chở, chăm lo cho cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ đưa chiến tranh vào sào huyệt địch. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, khi còn là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, từng nêu rõ: "Nếu chúng ta biết rằng một cái hầm nuôi giấu cán bộ, cất chứa vũ khí đào ngay trong lòng thành phố vừa khó khăn, vừa nguy hiểm đến chừng nào đối với bản thân và gia đình người dân dưới chế độ phát xít Mỹ - ngụy, thì chúng ta mới hiểu tầm vóc cách mạng của nhân dân sống trong lòng địch".

Ở vùng ven, vùng ngoại thành, nhân dân sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thương binh với con số thương vong không ít lần vượt xa dự kiến. Ở quận Củ Chi, đồng bào xã Nhuận Đức nhận nuôi 700 thương binh, đồng bào xã Bình Mỹ nuôi toàn bộ thương binh của cánh quân đánh vào Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn. Ở Gò Vấp, Ban Chỉ huy Trung đoàn Đồng Nai và 15 thương binh nặng của Phân khu 1 được nhân dân che chở, chăm sóc và đưa ra căn cứ an toàn... Lòng dân đã kết thành những lá chắn thép để nuôi giấu, bảo vệ cho lực lượng vũ trang với quân số lên đến sư đoàn, binh đoàn trong cả ba đợt tổng tiến công và nổi dậy.

Bên cạnh đó, hình ảnh những đoàn nam nữ dân công - biểu tượng của hậu cần nhân dân phục vụ chiến đấu - càng tô đậm thêm "thế trận lòng dân" trong Mậu Thân 1968. Trên cửa ngõ tây nam Sài Gòn, từng đợt từ 300 đến 700 dân công nối tiếp nhau lên đường phục vụ tổng tiến công. Trên đồng bưng xã Vĩnh Lộc (Bình Chánh), khi đoàn nữ dân công 33 người ngã xuống vì bị trực thăng Mỹ phát hiện, lập tức hàng trăm người dân trong khu vực tình nguyện thay thế làm nhiệm vụ. Đó là những biểu tượng của mặt trận đấu tranh chống phá bình định, làm thất bại ý đồ kìm kẹp, khống chế trái tim, khối óc của người dân mà đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn ráo riết thực hiện. Cũng chính nhờ "thế trận lòng dân", nên tuy "chúng ta có mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình...; đề ra yêu cầu chưa thật sát với thực tế; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay...; không đánh giá hết âm mưu của địch trong kế hoạch bình định nông thôn...", làm cho cách mạng gặp rất nhiều khó khăn nhưng phong trào cách mạng trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng tạo ra bước ngoặt chuyển sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #59 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2020, 04:45:45 pm »

CỦ CHI - ĐẤT THÉP THÀNH ĐỒNG, LÁ CỜ ĐẦU
CỦA PHONG TRÀO DU KÍCH CHIẾN TRANH



TRƯƠNG VĂN THỐNG
Thành ủy viên, Bí thư Huyện ủy huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh


Cách đây vừa tròn 50 năm, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta tiến hành một chiến dịch quân sự lớn, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - đó là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Bộ Chính trị đã đánh giá: Mậu Thân 1968 là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pari, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh.

Ngày 17-9-1967, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng toàn miền Nam lần thứ hai. Tại Đại hội này, Củ Chi được phong tặng danh hiệu "Đất thép thành đồng" và phần thưởng Huân chương Thành đồng hạng Ba; phong và truy phong 5 chiến sĩ danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bốn chữ vàng "Đất thép thành đồng" mà quân, dân Củ Chi được phong tặng được khắc ghi bằng những chiến công oanh liệt của những tập thể và cá nhân, của sự hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Từ việc đẩy mạnh đấu tranh chính trị và vũ trang, bước đầu là diệt ác, phá kìm, phá ấp chiến lược, làm mất hiệu lực nhiều ấp, đến đánh thắng các trận càn Crimp (bóc vỏ trái đất), những cuộc hành quân quy mô lớn như Xiđa Phôn tấn công khu tam giác sắt Củ Chi - Trảng Bàng - Dầu Tiếng.

Phong tặng danh hiệu "Đất thép thành đồng" cho quân, dân Củ Chi là sự ghi nhận, khích lệ niềm vinh dự, tự hào, động viên tinh thần cho quân, dân Củ Chi và các lực lượng vũ trang cách mạng ở địa phương nỗ lực, hăng say chiến đấu đánh cho "Mỹ cút, ngụy nhào", góp phần cùng với toàn Miền làm nên sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vang dội, ghi dấu mốc son trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Nói đến Củ Chi là nói đến chiến tranh du kích và những kinh nghiệm, khả năng đánh Mỹ của chiến tranh nhân dân địa phương được rút ra từ Đại hội "Dũng sĩ diệt Mỹ", đó là:

1- Ai cũng đánh được Mỹ.
2- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.
3- Nhiều đánh được, ít cũng đánh được, một người, một tổ đều đánh được.
4- Ở đâu cũng đánh được Mỹ, chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch là đánh được.
5- Ngày cũng đánh được, đêm cũng đánh được.
6- Địch phản công là cơ hội để diệt chúng.
7- Đánh ở phía trước, đánh trong hậu cứ địch. Đánh đều khắp, làm cho địch bị động, bối rối càng dễ đánh hơn.
8- Đánh địch trong ấp chiến lược và cả ngoài xã, ấp chiến đấu.
9- Có khả năng thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay, biệt kích.
10- Đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả bằng binh vận làm cho địch tan rã nhanh chóng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng chiến tranh nhân dân, lực lượng du kích trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ không chỉ có thanh niên trai tráng, mà còn có lực lượng nữ du kích, có cả những người trung niên tham gia, các em thiếu niên và người lớn tuổi. Họ vốn là những nông dân chân chất, hiền lành, nhưng đứng trước cảnh nước mất, nhà tan, nhìn đồng bào vô tội bị kẻ thù giết hại dã man, khiến lòng căm thù, uất hận trào dâng, biến họ thành những "dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy". Du kích Củ Chi chính là nhân dân, nhân dân cũng chính là du kích. Ngày cày cấy, đêm vót chông, đào địa đạo, giặc càn quét thì cầm súng, ôm mìn chiến đấu, phục kích tiêu diệt kẻ thù hung bạo.

Đội nữ du kích Củ Chi ra đời năm 1965 đã sát cánh cùng lực lượng du kích các xã trên địa bàn huyện cầm súng bảo vệ quê hương, với phương châm "bám thắt lưng địch mà đánh", là minh chứng hùng hồn của tinh thần "Một tấc không đi, một ly không rời", kiên cường bám trụ chiến đấu, góp phần đẩy lùi nhiều cuộc hành quân càn quét, tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, Củ Chi là hậu phương lớn, du kích chiến tranh ở Củ Chi có vai trò rất quan trọng, là lực lượng tiên phong phá đồn, bốt, tua, mở đường cho chủ lực ta thọc sâu vào nội thành; phá cầu, phá đường chuẩn bị cho nội tuyến bên trong. Du kích Củ Chi góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong gian khó đã xuất hiện nhiều tấm gương mưu trí, dũng cảm, sáng tạo như: liệt sĩ Phạm Văn Cội - xã đội trưởng Nhuận Đức, quận Củ Chi trí dũng song toàn, chỉ huy giỏi, lãnh đạo tốt, lá cờ đầu của phong trào thi đua diệt Mỹ; liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch - chiến sĩ trinh sát, bộ đội địa phương, 18 tuổi đời, một tuổi quân luôn trung thành và tâm niệm "Sống thì làm cách mạng đến cùng, nếu cần hy sinh thì hy sinh cho xứng đáng". Đồng chí dũng cảm tấn công địch đến hơi thở cuối cùng, bị thương gãy nát cả hai chân vẫn mưu trí dẫn dắt địch đến rồi dùng lựu đạn diệt 2 tên Mỹ và 8 lính đánh thuê Pắc Chung Hi, nêu tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng; đó là các chiến sĩ biệt động Bành Văn Trân, Nguyễn Văn Tăng đã chủ động, dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, linh hoạt chiến đấu táo bạo ngay trong lòng địch, làm cho kẻ thù khiếp sợ; chiến sĩ du kích Củ Chi Tô Văn Đực với quyết tâm diệt địch và ý thức tự lực cánh sinh cao đã sáng tạo trong tự tạo vũ khí mìn giật, mìn tự tạo để diệt địch; thanh niên nam nữ vốn chân chất, hiền lành đã tham gia du kích, đào địa đạo, cầm súng phục kích tiêu diệt quân thù, thành dũng sĩ diệt Mỹ.

Để tồn tại dưới bom pháo kẻ thù, 250 km đường ngầm trong lòng đất đã được quân dân Củ Chi đào suốt 30 năm, nối xã này với xã kia, đưa cuộc sống vào lòng đất. Địa đạo, các giao thông hào, ụ chiến đấu, hầm chông, bãi trái... ngăn bước quân thù, bảo vệ cuộc sống chiến đấu của người dân Củ Chi trong lòng đất thép anh hùng. Kế thừa truyền thống của cha ông, Củ Chi đã phát huy sức mạnh của nhân dân trong đánh Mỹ, không phải lực lượng vũ trang mới tiêu diệt địch, mà ngay bất cứ người dân thường nào, già, trẻ, gái, trai, thiếu niên đều đánh được địch; linh hoạt trong cách đánh bằng chính vũ khí của mình, dùng vũ khí địch đánh địch. Những quả mìn gạt, mìn cán tự tạo của các chiến sĩ quân giới từ những quả bom chưa nổ trong số 500.000 tấn bom đạn mà Mỹ đã đổ xuống vùng đất này đã giúp du kích Củ Chi lập nên nhiều chiến tích lẫy lừng. Nhà nhà, người người trở thành dũng sĩ diệt xe tăng. "Lòng dân nổi dậy - ngày xuống đường - đêm không ngủ. Đạp rào gai - che họng súng. Liều thân mình cho Tổ quốc tồn sinh". Từ lòng đất, du kích Củ Chi thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh tan hàng trăm trận càn của địch với đầy đủ các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Xây dựng vành đai diệt Mỹ nhiều tầng, nhiều lớp, thực hiện phong trào thi đua diệt Mỹ liên tục, làm cho đội quân xâm lược nhà nghề tinh nhuệ nhất của địch (Sư đoàn 1 - Anh Cả đỏ, Sư đoàn 25 - Tia chớp Nhiệt đới) phải kinh hoàng, góp phần cùng lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn và cả nước làm suy sụp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Quân và dân Củ Chi phối hợp nhịp nhàng cả ba mũi quân sự, chính trị, binh vận, đẩy mạnh tiến công địch đều khắp toàn huyện. Vùng giải phóng Củ Chi ngày càng mở rộng, hình thành thế vây lấn địch, tinh thần chiến đấu của địch sa sút nhanh chóng, lâm vào thế phòng ngự co cụm. Bám trụ để đánh địch là truyền thống của quân và dân Củ Chi, người cán bộ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải bám trụ trong tư thế chiến đấu, bám trụ để lãnh đạo, đưa tiếng nói của Đảng về với nhân dân. Yêu cầu bám trụ là duy trì sự có mặt của lực lượng cách mạng để quần chúng tin tưởng, một số mẹ bộc bạch: "Tụi bây, lâu lâu, đi qua đi lại, tao thấy tụi bây, tin là có cách mạng được rồi".

Nhìn lại mấy mươi năm kiên cường giữ đất, "hứng bom, đội pháo" bảo vệ xóm làng, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân Củ Chi đã thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng sáng ngời, nêu tấm gương hy sinh quả cảm "bất cứ giá nào cũng giữ đất Củ Chi" và cùng với cán bộ, chiến sĩ của Sài Gòn - Gia Định, của các tỉnh bạn chi viện giữ vững tay súng, từng bước đẩy lùi quân địch, mở rộng vùng giải phóng tiến đến ngày toàn thắng.

Qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua, tại Củ Chi "đất thép thành đồng", những người dân bình thường trở thành người lính, từ người lính cầm súng bảo vệ xóm làng trở thành những vị tướng chỉ huy xông pha trận mạc như: Thiếu tướng Tô Ký, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Lâm, Thiếu tướng Trần Mân, Thiếu tướng Nguyễn Văn Chia, Thiếu tướng Cao Long Hỷ, Thượng tướng Phan Trung Kiên...

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, một số bài học kinh nghiệm được rút ra là:

Thứ nhất, lãnh đạo phải xuất phát từ thực tiễn, vận dụng đúng đắn, linh hoạt đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng, từ đó đề ra phương châm, nhiệm vụ và có biện pháp thực hiện cụ thể, sát hợp với vị trí và đặc điểm của Củ Chi.

Thứ hai, thực hiện tốt tư tưởng tiến công liên tục, tinh thần làm chủ, làm chủ để tiếp tục tiến công.

Thứ ba, thực hiện tốt bài học "Dân là gốc"; gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; phối hợp nhịp nhàng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.

Thứ tư, tổ chức hậu cần tại chỗ, tiếp nhận tốt sự chi viện to lớn về sức người, sức của của đồng bào cả nước cho công cuộc kháng chiến.

 Tự hào truyền thống "Đất thép thành đồng", quê hương Củ Chi anh hùng, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân Củ Chi càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xây dựng huyện Củ Chi sớm trở thành huyện văn hóa nông thôn mới, giàu đẹp, văn minh, nghĩa tình.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM