Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:03:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8573 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #40 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:28:21 am »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
THẤT BẠI CỦA MỸ VÀ BƯỚC CHUYỂN CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM



Đại tá, TS. LÊ HỒNG ĐIỆP
Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân khu 7


Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng địch - ta và nhận thấy thế "tiến thoái lưỡng nan" về chiến lược của Mỹ khi thời điểm vận động tranh cử Tổng thống Mỹ đang đến gần, cuối năm 1967, Bộ Chính trị quyết định phải tạo một bước nhảy vọt thông qua chọn hướng chiến lược hiểm, dùng cách đánh mới, giáng một đòn bất ngờ, thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Thực hiện chủ trương của Đảng, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào hầu hết các thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn và các căn cứ quân sự, hậu cần, Sở chỉ huy lớn của địch trên toàn miền Nam. Đây là cuộc ra quân với quy mô lớn, toàn diện và có khí thế cách mạng cao nhất kể từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến lúc bấy giờ và cũng là lần đầu tiên ta tiến công táo bạo, bất ngờ vào sào huyệt của kẻ thù. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã tác động nhiều mặt đến nước Mỹ.

Thứ nhất, nó đã làm lung lay ý chí xâm lược, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.

Đòn Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một chiến thắng lịch sử có tác động mạnh mẽ đến cục diện chung của cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ tại Việt Nam. Đây là một bất ngờ lớn làm Mỹ choáng váng. Sau sự kiện Mậu Thân 1968, ngày 1-3-1968, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara, một trong những kiến trúc sư của chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam phải từ chức vì không tìm thấy lối ra cho cuộc chiến. Ngày 25-3-1968, Tổng thống Mỹ triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia để xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá tình hình và xu hướng của cuộc chiến ở chiến trường miền Nam, cũng như tại chính trường nước Mỹ, Tổng thống Giônxơn phải đi đến những quyết định:

- Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra và tìm giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh.
- Từ bỏ chiến lược "tìm và diệt" thay bằng chiến lược "quét và giữ".
- Từng bước thực hiện "phi Mỹ hóa chiến tranh", giảm dần sự dính líu trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy, thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chuyển sang chiến lược phòng ngự và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Thứ hai, làm rúng động xã hội Mỹ, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới.

Đòn Tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 như một "quả bom" nổ giữa chính trường nước Mỹ, đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ, khiến cho chính quyền Mỹ choáng váng. Qua sự kiện Tết Mậu Thân, công chúng Mỹ nhận thấy mình đang bị Chính phủ lừa dối. Do đó, phong trào phản đối chiến tranh ngày càng lên cao. Nhiều người trong chính giới Mỹ cũng bắt đầu đề nghị xem xét lại chính sách của Mỹ với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 27-2-1968, Crokite, phóng viên của Hãng truyền hình CBS Mỹ đến Sài Gòn tận mắt xem xét tình hình đã bình luận: "Giờ đây, có lẽ điều chắc chắn hơn bao giờ hết là cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam sẽ đi vào bế tắc" và nói thêm rằng "chỉ còn một cách để người Mỹ thoát khỏi vũng lầy là thương lượng với Hà Nội" . Quan trọng hơn, Tết Mậu Thân đã tác động mạnh vào nội tình nước Mỹ, tạo nên bước ngoặt trong chính sách của chính quyền Mỹ đối với cuộc chiến tranh. Trước khi sự kiện Tết Mậu Thân xảy ra, có lẽ chưa bao giờ người dân nước Mỹ được chứng kiến cảnh "Việt cộng" tiến công đồng loạt vào hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Đúng như nhận định của Mắcxoen Taylo, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Giônxơn trong cuốn Hồi ký Thanh gươm và lưỡi cày xuất bản năm 1972: "Ngày 31-1-1968, quân địch (tức Quân giải phóng) tiến công và chỉ trong vòng 2 ngày họ đã tiến vào 5 đô thị lớn, 39 tỉnh lỵ và nhiều thành phố. Những trận tiến công của họ đã được báo chí Mỹ tường thuật dưới dạng những hàng tít lớn, được chiếu trên các màn ảnh vô tuyến truyền hình và đã làm cho phần lớn dân chúng Mỹ và một số quan chức kinh hoàng. Phải rất lâu họ mới hoàn hồn và trong một số trường hợp sự hoàn hồn đó mãi mãi không bao giờ được khôi phục lại hoàn toàn" .

Quả vậy, nhờ có sự kiện "Tết", qua phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền hình, lần đầu tiên, những hình ảnh tàn phá, chết chóc của chiến tranh đã len lỏi vào hàng triệu gia đình người Mỹ. Đặc biệt, với việc "Việt cộng" tiến công Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đã gây một chấn động lớn làm thay đổi hoàn toàn nhận thức của người dân Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Nếu trước đó, họ còn tin vào những thông báo lạc quan, thì nay, với những gì được nhìn thấy trên truyền hình, họ cho rằng "Việt cộng mạnh hơn nhiều" so với những tuyên bố trước đây của Tổng thống Giônxơn và tướng Oétmolen, Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968, người dân và không ít chính giới Mỹ đặt ra hàng loạt câu hỏi: Sự tàn phá, chết chóc do bom đạn Mỹ gây ra ở Việt Nam nhằm đạt mục đích gì? Chồng con họ hy sinh và tàn phế có phải vì lợi ích chính đáng của nước Mỹ không? Thái độ chung của người Mỹ đều cho rằng: "Tham gia vào công việc ở Việt Nam là một sai lầm". Lòng tin của quần chúng đối với Tổng thống đương nhiệm bị giảm sút mạnh.

Trước thực tế đó, Quốc hội Mỹ phải xem xét lại toàn bộ chính sách và chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Dư luận Mỹ và phần lớn nghị sĩ Quốc hội, quan chức cao cấp trong chính quyền và giới tài phiệt nhận thức rõ: Mỹ không thể giành chiến thắng ở miền Nam; Mỹ cũng không giành lại quyền chủ động trên chiến trường cho dù tăng quân và tiền của.

Không chỉ tác động vào chính trường nước Mỹ, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân còn tác động mạnh mẽ vào dư luận quốc tế. Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ, giúp đỡ mạnh mẽ sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao. Bạn bè quốc tế tiếp xúc với cán bộ Việt Nam đều khen ngợi, cảm phục. Sức ép quốc tế đòi Mỹ xuống thang tăng mạnh. Lãnh đạo nhiều nước như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Thụy Điển,... cùng nhiều nhân vật quốc tế, trong đó có Tổng thư ký Liên hợp quốc U Than đều đồng loạt lên tiếng yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom, thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân 1968 có tác động sâu sắc và toàn diện vào nội tình nước Mỹ. Nội bộ nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, chính giới phân hóa, tiếng nói của phái chủ hòa trong Quốc hội và chính quyền ngày càng mạnh mẽ, sức ép quốc tế cũng tăng. Chính quyền Giônxơn lâm vào thế bị bao vây và khủng hoảng trầm trọng. Nhân dân thế giới hướng về Việt Nam với tinh thần mến phục và đẩy mạnh phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Thứ ba, thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và cách mạng của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy chiến tranh du kích phát triển mạnh ở miền Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 với trọng điểm Sài Gòn là thắng lợi to lớn cả về chính trị lẫn quân sự. Việc các đội biệt động Quân giải phóng đánh vào những trọng điểm, đặc biệt là Đại sứ quán Mỹ đã làm cho chính quyền Mỹ hết sức choáng váng, nhụt ý chí xâm lược và phải nghĩ đến những biện pháp kết thúc cuộc chiến. Với nhân dân Sài Gòn và các đô thị khác ở Nam Bộ, Mậu Thân đã giúp những người bấy lâu bị khống chế tin tức và sự xuyên tạc của địch, được tận mắt nhìn thấy những chiến sĩ Quân giải phóng bằng xương bằng thịt, với rất nhiều thiện cảm và ấn tượng tốt đẹp. Họ cũng đã nhận rõ âm mưu xuyên tạc của các cơ quan tuyên truyền, chiến tranh tâm lý của địch về người chiến sĩ cách mạng. Xét về khía cạnh này, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là bằng chứng chân thực, sống động nhất khiến cho quần chúng thành thị cùng các tầng lớp nhân dân nhiều địa phương toàn Miền hiểu rõ hơn mục đích cách mạng dưới ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Với lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chiến tranh du kích ở miền Nam đã phát triển lên một tầm cao mới.

Đánh giá về vấn đề này, Bộ Chỉ huy Miền khẳng định: trong năm 1969, chiến tranh du kích ở miền Nam "hoạt động mạnh mẽ, đều khắp, đánh trúng, đánh sâu vào sào huyệt của địch; giữ thế trận liên tục tiến công ở thành thị và các vùng gần thành thị, làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh chính trị, diệt ác, phá kìm, bước đầu làm thất bại âm mưu "bình định cấp tốc"; vận dụng nhiều cách đánh sáng tạo có hiệu suất chiến đấu cao".

 Quả vậy, sau sự kiện Mậu Thân 1968, chiến tranh du kích ở miền Nam liên tiếp mở trên 10 đợt tiến công đồng loạt. Du kích tiến công từng đợt trên phạm vi rộng lớn gồm nhiều tỉnh, thành phố. Đó là điều kiện khiến địch bị phân tán, dễ lộ chỗ yếu. Du kích đồng thời đánh bất ngờ vào hầu hết các thành thị, thị trấn, cơ quan hành chính, Sở chỉ huy quân sự, kho tàng, đường giao thông của địch. Hiệu quả tiến công của du kích cao hơn lúc nào hết. Từ tháng 6 đến tháng 11-1969 chiến tranh du kích đã tiêu diệt 80.000 quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân các nước đồng minh.

Ở Sài Gòn, du kích hoạt động khắp 8 quận nội thành. Du kích đánh vào các sân bay, bến cảng, kho tàng... Đó là các đòn đánh rất hiểm vào sâu trong lòng địch. So với năm 1968 thì năm 1969 số trận tiến công, mức tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh địch của chiến tranh du kích ở các thành thị tăng gấp 3 lần và tăng gấp 5 lần ở Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre cùng các thị xã, thị trấn khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính trong 3 tháng (8, 9, 10 - 1969), ở thành phố Cần Thơ, du kích mở 30 trận tiến công, diệt 750 tên địch.

Thứ tư, mở ra cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, làm suy yếu địch, tạo thế và lực cho ta trong quá trình đấu tranh đi đến thắng lợi cuối cùng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã mở ra cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, trong đó chiến trường Nam Bộ là một trọng điểm lớn. Đối với địch, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, nhất là trong đợt Tết Nguyên đán đã đánh cho chúng những đòn bất ngờ và gây cho chúng những tổn thất lớn về sinh lực và vật lực. Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài Gòn thú nhận, trong 2 tháng (tháng 2 và 3 - 1968), quân đội Sài Gòn bị tổn thất 20.977 quân (trong đó chết là 4.954), quân Mỹ và đồng minh tổn thất 24.013 quân (trong đó chết là 4.124).

Không chỉ gây tổn thất lớn cho địch, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 còn tạo thế và lực mới cho các lực lượng vũ trang nhân dân càng đánh càng mạnh, chất lượng, hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Điển hình là Chiến dịch Tây Ninh (từ ngày 17-8 đến 21-9-1968). Trên một địa bàn tương đối hẹp, với một lực lượng có hạn, Quân giải phóng miền Nam đã tiêu diệt hơn 14.000 tên địch (trong đó có 10.000 lính Mỹ, tương đương với số địch bị diệt trong cuộc hành quân Gianxơnxiti), phá hủy 1.355 xe quân sự; bắn rơi 85 máy bay; bắn chìm 19 xuồng chiến đấu. "Riêng ở Tây Ninh, bình quân mỗi ngày trong hơn một tháng, ta diệt 400 tên địch, 40 xe quân sự, 4 đại bác và súng cối hạng nặng, 2 máy bay; cứ 2 ngày ta diệt 1 tiểu đoàn địch".

 Thắng lợi trên chiến trường tạo nên thế và lực mới cho cách mạng miền Nam: ta có thế tiến công toàn diện, liên tục, đồng loạt trên các chiến trường; có thế phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, ba mũi giáp công, trên cả ba vùng. Quan trọng hơn là sau Tết Mậu Thân 1968, ta đã củng cố được niềm tin tất thắng trong lòng dân. Đồng thời, ta tạo ra thế của mặt trận chống Mỹ, cứu nước với sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa và của nhân dân thế giới ngày càng mạnh mẽ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã thu được những thắng lợi to lớn và căn bản trên tất cả các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao. Trên cơ sở thế và lực mới, quân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu, vượt qua mọi gian khổ, ác liệt, hy sinh tạo ra những điều kiện và thời cơ mới. Thực tế chiến trường đã chứng minh rằng, chỉ một thời gian ngắn sau đó ta đã tạo được thế trận chủ động, giáng đòn liên tiếp gây nhiều thất bại cho địch trong mùa khô 1971-1972 và sau đó tháng l-1973 buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, chấp nhận thất bại, rút quân Mỹ về nước, đúng như Thượng tướng Trần Văn Trà đã khẳng định: "Không có Tết Mậu Thân thì không có ngày 30-4-1975".

Âm hưởng thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân vẫn vang vọng mãi, là niềm tự hào về sự sáng tạo độc đáo trong cuộc chiến tranh nhân dân thời đại Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại một sự kiện lớn đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc. Đó cũng là dịp để chúng ta giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và phát huy tinh thần tiến công cách mạng trong mỗi con người, từng việc làm cụ thể, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #41 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:33:34 am »

CÁCH ĐÁNH ĐỘC ĐÁO, SÁNG TẠO
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. PHẠM ANH TUẤN
Trưởng ban Sau đại học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một chiến công rất oanh liệt và có vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta‏.‏ Đây là một thắng lợi đã tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Thành công lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự của ta trong Tết Mậu Thân 1968 là đã tìm ra và thực hiện thành công cách đánh mới, một cách đánh độc đáo, sáng tạo vượt ra ngoài dự đoán và mọi sự tính toán trước đó của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, vượt lên mọi tư duy quân sự đơn thuần.
 
Trong lịch sử dân tộc ta đã có những cuộc tiến công lớn, những trận quyết chiến chiến lược chống giặc ngoại xâm, dưới tài thao lược của những người lãnh đạo kiệt xuất, nhân dân ta đã vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Kể từ khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, đến trước cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mở đầu năm 1858, trong hơn 9 thế kỷ, dân tộc ta tiến hành 7 cuộc kháng chiến thắng lợi 1. Tùy theo so sánh lực lượng và hoàn cảnh cụ thể của mỗi cuộc kháng chiến, tổ tiên ta đều có nghệ thuật đánh giặc đặc sắc, tìm ra cách đánh độc đáo, sáng tạo thể hiện trong các trận quyết chiến chiến lược giành thắng lợi kết thúc chiến tranh.

Cách đánh mới trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là sự kế thừa, là bước tiếp nối đầy sáng tạo truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ đầu năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", đồng thời leo thang phá hoại miền Bắc. Trước những diễn biến mới, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (tháng 12-1965) đã phân tích và khẳng định sức mạnh của Mỹ không phải là vô hạn. Ta có thể hạn chế những chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của Mỹ để giành thắng lợi. Trên cơ sở đánh giá đúng cả mặt mạnh và mặt yếu của địch, thế và lực của ta, Ðảng ta chỉ rõ: Cần tiếp tục giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến công, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp, để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục tiến lên.

Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Bộ Chính trị cho rằng Mỹ đang thất bại lớn, dù chúng có tăng quân cũng không thể khắc phục được, vì nội bộ mâu thuẫn sâu sắc và đang bị cô lập. Tuy nhiên, Mỹ còn rất ngoan cố, đang cố gắng tăng cường lực lượng để ổn định tình hình quân sự, chính trị ở Nam Việt Nam. Để đưa cách mạng miền Nam có bước phát triển nhảy vọt, đánh mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra bước ngoặt căn bản, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 14 đã thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa (sau này là tổng tiến công và nổi dậy) để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Cũng trong thời gian này, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế; hướng phối hợp quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn . Đánh thẳng vào các cơ quan đầu não quan trọng nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở nhiều thành phố, thị xã, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nhân dân để đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ thể hiện bước phát triển mới về cách đánh của ta.

Để chuẩn bị cho Tết Mậu Thân và thực hiện cách đánh mới, từ năm 1965 ta đã triển khai nhiều biện pháp, tiến hành mọi công tác chuẩn bị. Tính đến cuối năm 1967, ta đã thiết lập được 19 "lõm chính trị" ngay sát những mục tiêu trọng yếu của địch gồm: 325 gia đình cơ sở, 400 điểm ém quân, 12 kho vũ khí; thiết lập đường dây liên lạc và chuyển vũ khí vào gần các mục tiêu tiến công, sẵn sàng đón và đáp ứng thời cơ chiến lược. Ðây là thắng lợi lớn của phương châm đánh địch trên ba vùng chiến lược, là một trong những cơ sở quan trọng để Ðảng ta hạ quyết tâm đưa chiến tranh vào đô thị, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Thực hiện kế hoạch đã định, ngày 20-1-1968, ta mở màn chiến dịch Ðường 9 - Khe Sanh nhằm đánh lạc hướng, thu hút một bộ phận đáng kể quân cơ động của Mỹ; vây hãm, giam chân và tiêu hao chúng, tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy. Cùng thời điểm này, trên chiến trường nước bạn Lào, từ ngày 12 đến ngày 27 -1-1968, quân đội Pathét Lào và Quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch Nậm Bạc. Chiến thắng này là sự phối hợp nhịp nhàng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Ðêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, gồm 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn địch, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Trong đó, có những trận đánh gây chấn động lớn như trận đánh vào Dinh Ðộc lập, Bộ Tổng Tham mưu, Ðài Phát thanh Sài Gòn và Tòa Ðại sứ Mỹ và đặc biệt ta đã làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm. Tờ Thời báo Mỹ số ra ngày 9 -2-1968 gọi đây "chắc chắn là một hành động bất ngờ thần thánh, một lực lượng địch tản mát và không ai thấy được, bị săn đuổi khắp nơi, không lúc nào ngừng, bỗng dưng xuất hiện và đồng loạt tiến công ở hàng trăm trận địa trên khắp nước" .

Thành công lớn trong Tết Mậu Thân của ta là tìm ra cách đánh mới và giữ được bí mật cách đánh về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, không thể phán đoán nổi. Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch, tất cả thành phố, tỉnh lỵ đều bị đồng loạt tiến công, kể cả các vị trí trọng yếu như Bộ Tổng Tham mưu đến Biệt khu Thủ đô, từ Dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn đến Toà Đại sứ Mỹ. Đây là một cách đánh rất độc đáo, ta không chỉ tiến công tuần tự từ ngoài vào trong mà kết hợp từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, dưới nhiều hình thức (quân sự, chính trị, binh vận), bằng nhiều lực lượng (chủ lực, đặc công, biệt động, lực lượng tại chỗ...), kết hợp giữa tiến công và nổi dậy đồng loạt, rộng khắp trên toàn chiến trường miền Nam. Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (1968-1972) nhận định: Cách đánh của Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị trong chiến tranh từ trước đến nay mà lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, trong nước và ngoài nước. Cách đánh trong Tết Mậu Thân 1968 rất sáng tạo, trước hết là xác định về hướng tiến công chủ yếu, mục tiêu tiến công chủ yếu, ta nhằm vào các đô thị ở miền Nam. Đây là đòn tiến công bất ngờ lớn, khiến cho quân địch không kịp trở tay, làm cho giới lãnh đạo Mỹ phải sững sờ, choáng váng. Đòn tiến công của ta đã nhằm trúng vào các mục tiêu yết hầu, huyết mạch của địch, bao gồm các cơ quan đầu não trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn, các Sở chỉ huy, sân bay, bến cảng, kho tàng, căn cứ truyền tin, đầu mối giao thông, đặc biệt là đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam. Địch vẫn cho rằng bộ đội ta ít kinh nghiệm đánh thành phố và chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm kháng chiến, ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị, biến hậu phương và hậu cứ địch thành chiến trường của ta. Còn Rôbớt Kennơđi - Thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công.

Chọn thời điểm tiến công vào dịp Tết Nguyên đán - đúng đêm giao thừa, lúc mà địch dễ bộc lộ sơ hở, chủ quan và lơi lỏng nhất, các đơn vị quân đội Sài Gòn chỉ còn một nửa quân số thực hiện nhiệm vụ, khiến cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn vô cùng lúng túng trong việc ứng phó. Đồng thời, bước vào năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Vào thời điểm này, Mỹ đã qua 8 năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Chúng cũng đã từng mở hai cuộc phản cộng chiến lược lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể, trái lại chúng còn bị quân và dân miền Nam đánh cho thiệt hại nặng nề và thất bại hoàn toàn trong mục tiêu chiến lược "bẻ gãy xương sống Việt Cộng". Leo thang đánh phá miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng không xoay chuyển được tình thế. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 1/3 lực lượng hải quân, đã sử dụng hết lực lượng dự trữ dành cho một cuộc "chiến tranh cục bộ". Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Về phía ta, đây là lúc các lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó và ta đang nắm quyền chủ động trên chiến trường. Từ những phân tích đánh giá trên, Đảng ta đã khẳng định: "chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", tình hình đó cho phép chúng ta "có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định".

 Tết Mậu Thân 1968 giành được thắng lợi rất to lớn, đã trực tiếp đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt chiến lược quan trọng nhất của cuộc chiến tranh làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ. Nó đã làm cho Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, từ tiến công "tìm và diệt" qua phòng ngự "quét và giữ" để xuống thang chiến tranh, chuyển sang "phi Mỹ hóa" rồi "Việt Nam hóa chiến tranh" dần dần rút quân Mỹ về nước, ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra đến chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari và tiến tới kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào ngày 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

 Cách đánh độc đáo, sáng tạo trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng, đó là truyền thống dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng những kẻ thù lớn mạnh. Đó là truyền thống lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Cách đánh trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới, trong điều kiện mới truyền thống đánh giặc giữ nước và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam.
 



-----------------------------------------------------------------
1. Đó là các cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 980-981 và năm 1075-1077, chống quân Mông Cổ năm 1258, quân Nguyên năm 1285 và năm 1287-1288, chống quân Xiêm năm 1784-1785, chống quân Thanh năm 1788-1789.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #42 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:39:02 am »

NƯỚC MỸ THẬP NIÊN 60 THẾ KỶ XX VÀ CUỘC CHIẾN TRANH Ở VIỆT NAM



PGS.TS. TRẦN THIỆN THANH
Phó Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội


Nhìn tổng thể, trong thập niên 60 của thế kỷ XX, chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi "mục tiêu mang tính bá quyền về một hệ thống thế giới hội nhập đơn nhất"  do Mỹ chi phối, được Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ thông qua vào đầu năm 1950. Nếu cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), chính sách tái vũ trang Tây Đức của Mỹ (1950-1954)... là những minh chứng rõ ràng của sự thực thi chính sách này trong thập niên 50, thì cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ ở Việt Nam là điển hình cho chính sách nhất quán mà Mỹ thực hiện xuyên suốt hai thập niên 50 và 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 và tác động của sự kiện này đối với tình hình nước Mỹ cũng như thay đổi trong tương quan lực lượng giữa Mỹ và các lực lượng cạnh tranh với Mỹ đã làm thay đổi căn bản sự lựa chọn chính sách đối ngoại của Mỹ vào cuối những năm 60.

1. Sự suy giảm tương đối địa vị kinh tế, quân sự; những bất ổn về chính trị, xã hội trong nước và các thất bại trên chiến trường miền Nam Việt Nam - Tác nhân quan trọng dẫn đến sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ từ "chiến tranh đặc biệt" (1961-1965) sang "chiến tranh cục bộ" (1965-1968)

Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên cơ sở những điều kiện thuận lợi về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, thế mạnh về khoa học - kỹ thuật cũng như ưu thế mà nước Mỹ đã xác lập từ giai đoạn "đỉnh cao" trong những năm đầu hậu Chiến tranh thế giới thứ hai..., nền kinh tế Mỹ tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Trong những năm 1961-1965, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm của Mỹ là 5%, GDP trung bình hằng năm (tính theo giá trị hiện hành của đồng USD trong giai đoạn 1961-1965) đạt mức 647,3 tỷ USD, GDP theo đầu người trung bình hằng năm là 3.417,26 USD.

Tuy nhiên, so với những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong nửa đầu thập niên 60, ưu thế kinh tế, tài chính của Mỹ trong thế giới tư bản bị giảm sút với các biểu hiện: 1- Nhịp độ phát triển kinh tế của Mỹ so với Tây Âu và Nhật Bản bắt đầu chậm hơn, tỷ trọng công nghiệp giảm sút. Tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hằng năm trong những năm 1961-1965 cao hơn Anh, thấp hơn Pháp và chỉ xấp xỉ bằng 1/2 so với Nhật Bản. Tỷ lệ tăng trưởng hằng năm về sản lượng nội địa gộp (PIB theo khối lượng) của Mỹ trong những năm 1960-1970 là 3,8%, cũng chỉ cao hơn Anh (2,8%), trong khi thấp hơn Cộng hòa Liên bang Đức (4,7%), Pháp (5,6%) và Nhật Bản (11,2%) . 2- Tỷ giá của đồng USD bị suy yếu nghiêm trọng với tốc độ mất giá hằng năm trong giai đoạn 1960-1969 là 2,2% .

Trong khi đó, trải qua 1,5 thập kỷ kể từ năm 1950, mặc dù còn có những sai lầm và thiếu sót trong việc đề ra và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân cũng như tình trạng phát triển thiếu cân đối giữa các lĩnh vực kinh tế, nhưng Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành quốc gia công nghiệp hùng mạnh. Với vị trí là nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, hùng mạnh nhất, Liên Xô đã giúp đỡ tích cực và to lớn về vật chất và tinh thần cho các nước xã hội chủ nghĩa cũng như cho phong trào cách mạng thế giới.

Với sự tham gia tích cực của Liên Xô, sự mở rộng thành phần, gia tăng số nước tham gia với tư cách quan sát viên và thông qua Điều lệ năm 1959, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tiếp tục củng cố và hoàn thiện sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, phát triển sự liên hiệp quốc tế xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kỹ thuật, góp phần giảm sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Trong những năm 1951-1973, sản lượng công nghiệp của khối SEV so với toàn thế giới tăng từ 18% lên 33%, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm là khoảng 10%. Cùng với đó, những hoạt động của Tổ chức hiệp ước Vácsava 1 đã dẫn tới sự đối đầu về quân sự với Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) - một công cụ của chính sách mở rộng ảnh hưởng của Mỹ. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã dần tạo nên thế cân bằng chiến lược về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Sự phát triển của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và dân chủ cũng đặt ra những trở ngại trên con đường thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ. Ra đời từ phong trào phi thực dân hóa mạnh mẽ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đến những năm 60, các quốc gia độc lập non trẻ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh tiếp tục gia tăng về số lượng và phát triển mạnh mẽ ý thức liên kết đấu tranh. Biểu hiện tập trung là sự hình thành Phong trào Không liên kết vào tháng 9-1961. Chỉ trong vòng chưa đầy một thập niên, số thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết đã tăng từ 25 (Hội nghị Bengrát tháng 9-1961) lên 47 (Hội nghị Cairo 1964). Sự phát triển của Phong trào này trong đời sống chính trị thế giới đã hình thành nên "thế giới thứ ba" và trở thành lực lượng chính trị quan trọng mới nổi lên sau chiến tranh. Tỷ trọng tương ứng của "ba thế giới" tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa và "thế giới thứ ba" trong sản xuất công nghiệp và thương mại thế giới năm 1963 lần lượt là 62% (trong đó Mỹ 32%), 29% (trong đó Liên Xô 19%) và 9% (số liệu về công nghiệp); 63% (trong đó Mỹ 11%), 12% (trong đó Liên Xô 5%) và 25% (số liệu về thương mại).

Có thể nói, sự lớn mạnh của Liên Xô, thay đổi về tương quan sức mạnh quân sự giữa hai khối nước và vai trò ngày càng tăng của "thế giới thứ ba", trong đó có Cuba (chỉ cách Mỹ 144 km tính từ Phloriđa) đang tiến lên theo đường hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra thách thức đối với Mỹ và chi phối chính sách đối ngoại của nước này theo hướng thúc đẩy nhu cầu thắt chặt mối quan hệ với các đồng minh có ý nghĩa chiến lược ở từng khu vực và tiếp tục thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự nhằm hỗ trợ cho khối NATO, bao vây Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn sự phát triển của phong trào phi thực dân hóa tại các thuộc địa, lãnh thổ phụ thuộc của Mỹ. Những diễn tiến này cộng với tác động của sự kiện Trung Quốc thử quả bom hạt nhân đầu tiên tháng 10-1964 và phóng thử tên lửa đất đối đất mang đầu đạn hạt nhân có thể tới bất kỳ mục tiêu nào ở Đông Á vào hai năm sau đó, đã đưa Trung Quốc - nước có diện tích lớn hơn châu Đại Dương và gần bằng châu Âu, với kho vũ khí hạt nhân của mình thành tác nhân quan trọng đối với Hoa Kỳ trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược ở miền Nam Việt Nam, nhất là trong bối cảnh sức mạnh quân sự của Mỹ cũng giảm sút.

Diễn tiến của cuộc chiến tranh Việt Nam là một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy rõ sức mạnh quân sự của Mỹ đã phải lùi bước trước lòng yêu nước và sức mạnh của quân và dân Việt Nam. Liên minh "chống cộng" mà Mỹ xác lập với chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm trong những năm 1956-1960, cùng với đó là việc thực thi những biện pháp để gạt hẳn mọi ảnh hưởng còn lại của Pháp, củng cố thế lực của Mỹ và xây dựng chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam với những khoản chi khổng lồ cho đào luyện bộ máy, viện trợ ồ ạt về kinh tế, quân sự... một mặt khiến Mỹ dần nắm vai trò chủ đạo trong việc quyết định từ đường lối, chính sách đến các hoạt động cụ thể của chính quyền miền Nam và biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, mặt khác đã gây nên tình trạng bất ổn định sâu sắc ở miền Nam. Nhân dân miền Nam đã phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt mà đỉnh cao là phong trào Đồng khởi năm 1960. Trong cao trào Đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20-12-1960) đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Từ đây, phong trào cách mạng miền Nam có sự chuyển biến mới, từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh vũ trang. Đồng thời báo hiệu thời kỳ Mỹ nhúng sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" - một sự cụ thể hóa điển hình của chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" và sự gia tăng viện trợ, cố vấn Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1961-1965 đã thúc đẩy quân lực Nam Việt Nam phát triển nhanh chóng, gây không ít khó khăn cho lực lượng cách mạng miền Nam, nhưng trên thực tế, Mỹ đã không thực hiện được mục tiêu đánh bại phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam. Những thắng lợi của Quân giải phóng miền Nam trong trận Ấp Bắc (2-1-1963), chiến dịch Bình Giã (tháng 12-1964) từng bước đập tan hệ thống "ấp chiến lược" - biện pháp xương sống của Mỹ để ly khai lực lượng cách mạng với dân chúng. Sự sa lầy trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt" khiến chính quyền Kennơđi bắt đầu nhận lấy những chỉ trích và phản đối rằng cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam là phi nghĩa, bôi nhọ danh dự nước Mỹ. Sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền ở miền Nam Việt Nam ngày 11-6-1963 đã gây chấn động dư luận thế giới cũng như tạo ra phong trào phản đối sự lộng hành "gia đình trị" của Chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính sách "Chìm hoặc bơi cùng Ngô Đình Diệm"  của Mỹ bắt đầu thay đổi. Mỹ đã loại bỏ Diệm vào tháng 11-1963.

Trước các thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn tại miền Nam Việt Nam với hơn 10 cuộc đảo chính, thanh trừng lẫn nhau (từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965), Chính phủ Mỹ quyết định hủy bỏ kế hoạch Xtalây - Taylo và đưa quân đội sang trực tiếp tham chiến để giữ miền Nam khỏi rơi vào tay "cộng sản". Chiến lược "chiến tranh cục bộ" được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mỹ, quân của một số nước thân Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quân của chính quyền Sài Gòn. Khác với chiến lược "chiến tranh đặc biệt", lần này quân Mỹ giữ vai trò chủ lực và không ngừng tăng về số lượng và trang bị. "Những khoản chi phí trực tiếp cho chiến tranh cũng tăng lên hàng chục lần. Năm 1965 là 4,6 tỷ đôla. Năm 1966: 25 tỷ" . Năm 1967, năm mà Mỹ thực hiện bước leo thang cao nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, cũng là năm số binh lính Mỹ hoạt động ở nước ngoài đạt đỉnh cao với 1.228.538 người (chiếm 36% tổng lực lượng đang hoạt động). Trong đó, hơn 450.000 quân tham chiến ở Việt Nam. Năm 1968, trên chiến trường miền Nam có sự hiện diện của 537.377 quân Mỹ - chiếm gần 45% trong tổng số lính Mỹ đang hoạt động ở nước ngoài vào thời điểm đó. Đây cũng là lực lượng quân sự lớn nhất được triển khai ở nước ngoài không chỉ của Mỹ mà còn của bất kỳ quốc gia nào kể từ năm 1957 (và cho tới năm 2016).




---------------------------------------------------------------
1. Ngày 14-5-1955, các nước Anbani (rút khỏi tổ chức Vácsava năm 1961), Ba Lan, Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hunggari, Liên Xô, Rumani và Tiệp Khắc họp tại Vácsava thỏa thuận ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 5-6-1955 với thời hạn 20 năm (có thể gia hạn), đánh dấu sự ra đời của Tổ chức hiệp ước Vácsava (mang tính chất là một liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu) nhằm duy trì hòa bình, an ninh của châu Âu, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #43 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:41:31 am »

2. Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 cùng yêu cầu cấp thiết phải quay về củng cố kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và nắm lại đồng minh, tiếp tục kiềm chế Liên Xô - những nhân tố quyết định sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Mỹ: Học thuyết Níchxơn và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh"

Mặc dù đã leo lên mức thang cao nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng đến cuối năm 1967, Mỹ vẫn không thể đảo ngược được thế trận ở miền Nam. Mục tiêu giành thắng lợi quyết định trên chiến trường trong thời gian ngắn khi tiến hành cuộc tiến công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và lần thứ hai (1966-1967) của Mỹ không những thất bại mà còn khiến Mỹ phải đối diện với nguy cơ của một "Điện Biên Phủ" tại Khe Sanh trong năm 1967. Cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc cũng không đạt được kết quả như mong đợi là chặn đường tiếp viện từ các nước vào Việt Nam, ngăn miền Bắc chi viện cho miền Nam và hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc. Ngược lại, Mỹ bị thiệt hại nặng nề với hàng nghìn máy bay các loại bị quân và dân miền Bắc bắn rơi, nhiều phi công bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống.

Trong khi đó, tại nước Mỹ, nửa cuối thập niên 60 của thế kỷ XX nổi lên và tiếp diễn nhiều vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa nổi cộm. Hai mục tiêu cơ bản trong chính sách đối nội mà chính quyền Tổng thống L. Giônxơn tiếp tục theo đuổi (từ thời Tổng thống G. Kennơđi) gồm duy trì sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính quyền liên bang trong "cuộc chiến chống đói nghèo".

Với mục tiêu thứ nhất, Mỹ tiếp tục duy trì vị thế nền kinh tế số một thế giới. Năm 1967, Mỹ vẫn chiếm 47% tổng sản lượng công nghiệp thế giới, lớn hơn tổng sản lượng của các nước Tây Âu, Nhật và Canađa cộng lại (khoảng 43,3%) . Tuy nhiên, mức lạm phát của nền kinh tế bắt đầu tăng lên. Từ chỗ duy trì ở tỷ lệ khoảng 2% trong nửa đầu thập niên 60, năm 1967, con số này tăng thành 3%, rồi 4% năm 1968 .

Với "cuộc chiến chống đói nghèo", chương trình "Xã hội vĩ đại" một mặt làm dịu bớt phần nào tình trạng nghèo khổ cũng như khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội Mỹ, nhưng trên thực tế, tốc độ thực thi các đạo luật, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề quyền công dân diễn ra chậm chạp. Đại bộ phận người da đen vẫn chưa thể hòa nhập vào xã hội của người da trắng. Phong trào đấu tranh giành quyền bình đẳng cho phụ nữ, phong trào của người Mỹ gốc Mỹ Latinh và người da đỏ bản địa, phong trào của nhóm Cánh tả mới... đều dâng cao mạnh mẽ.

Trong bối cảnh đó, cuộc Tổng tiến công đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 và nổi dậy đồng loạt trong năm 1968 - đỉnh cao nhất  của quân và dân miền Nam trong quá trình đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ không chỉ là đòn giáng mạnh vào các nỗ lực chiến tranh của Mỹ, tạo ra bước chuyển mang tính quyết định, chấm dứt leo thang chiến tranh ở Việt Nam mà còn làm trầm trọng hơn những vấn đề nội tại ở chính nước Mỹ và "nới lỏng" hơn quan hệ giữa Mỹ với các đồng minh.

Việc lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Huế làm chủ thành phố gần một tháng; lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam tiến công thẳng vào những vị trí quan trọng của Mỹ tại Sài Gòn - nơi mà người Mỹ tin rằng đó phải là nơi "an toàn nhất" như Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh... trong đợt tiến công Tết Mậu Thân đã tác động mạnh đến quan điểm của đông đảo người Mỹ; rằng Mỹ sẽ không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Những thước phim chiếu trên truyền hình Mỹ ghi lại cảnh một sĩ quan quân đội Sài Gòn chĩa súng bắn vào đầu một người lính cách mạng miền Nam và bỏ mặc người lính nằm chết, máu chảy tràn trên đường phố Sài Gòn đã trở thành sự kiện tiếp theo gây chấn động mạnh và tạo ra bước ngoặt trong phong trào phản chiến ở Mỹ hơn bất cứ sự kiện đơn lẻ nào trước đó. Phong trào phản chiến không còn chỉ giới hạn ở hành động của một bộ phận sinh viên hay của số ít chính khách Mỹ mà có sự thay đổi cả về chất và lượng. Trong những tuần tiếp theo, nhiều tờ báo hàng đầu của Mỹ bắt đầu đăng tải những bài viết kêu gọi giảm leo thang chiến tranh. Tờ Time và Newsweek đã cho đăng những bài báo phơi bày sự thật chiến tranh và thúc giục Mỹ rút quân khỏi miền Nam. Các nhà bình luận trên truyền hình cũng bắt đầu bày tỏ nghi ngờ về các quyết sách của Mỹ. Tiêu biểu là bản tin đặc biệt kéo dài 30 phút phát trên đài CBS ngày 27-2-1968, Walter Cronkite - người dẫn chương trình đồng thời cũng là phóng viên chiến trường vừa trở về từ miền Nam Việt Nam gọi cuộc chiến tranh tại Việt Nam là cuộc chiến bế tắc, vô vọng và thúc giục Chính phủ Mỹ rút quân. Trong khi tỷ lệ phản đối cuộc chiến tranh tại Việt Nam tăng lên gấp đôi trong vòng vài tuần sau Tết Mậu Thân thì tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Giônxơn giảm xuống chỉ còn 35%, mức thấp nhất so với các tổng thống tiền nhiệm kể từ những ngày đen tối nhất của nội các Truman . Tháng 3-1968, Tổng thống Giônxơn, bất lợi bởi "khoảng cách tin cậy" giữa lời hứa và việc làm, đã phải tuyên bố ngừng ném bom vô điều kiện miền Bắc và quyết định không ra tái tranh cử tổng thống.

Cùng với phong trào phản chiến, cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ngày càng lan rộng. Sau vụ ám sát nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Máctin Luthơ King ngày 4-4-1968, nhiều cuộc bạo loạn đã bùng phát tại trên 60 thành phố của Mỹ. Con số 43 người thiệt mạng, trên 3.000 người bị thương và khoảng 27.000 người bị bắt giữ  đã phản ánh rõ nét nhất tình trạng bất ổn gắn với lý do chủng tộc trong suốt chiều dài lịch sử nước Mỹ. Vụ ám sát R.F. Kennơđi - ứng cử viên hàng đầu cho đề cử của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm 1968, đồng thời là chính khách nổi tiếng với quan điểm chống chiến tranh là sự kiện gây chấn động tiếp theo của một năm 1968 vốn đã đầy những sự kiện khiến nhiều nhà quan sát đi đến kết luận rằng nước Mỹ đang ở bên bờ của sự biến đổi xã hội mang tính căn bản.

Khi "cả thế giới đang quan sát" những gì diễn ra tại Mỹ (lời của những người biểu tình chống chiến tranh tại Công viên Grant trong thời gian diễn ra Đại hội của Đảng Dân chủ năm 1968), thì trong số những đồng minh của Mỹ: Chính phủ Pháp có thái độ phản đối cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam; chính sách ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam của Chính phủ Anh và Cộng hòa Liên bang Đức vấp phải sự phản đối từ nhiều tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và nhân dân tiến bộ ở trong nước. Tại Nhật Bản, phong trào "Liên minh thị dân vì hòa bình cho Việt Nam" (Beheiren, bắt đầu hoạt động từ năm 1965) tiến hành nhiều hoạt động phản chiến phong phú và liên tục, nhằm phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam... Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng toàn cầu của Mỹ là Liên Xô đã thu được những thành tựu to lớn, trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ).

Trong bối cảnh mâu thuẫn giữa một nền kinh tế đang chững lại, với những chi phí quân sự ngày càng tăng và sự bùng phát những cuộc nổi dậy ở trong nước, một học thuyết đối ngoại mới của Mỹ đã được đưa ra - Học thuyết Níchxơn (tháng 7-1969). Luận điểm chính của học thuyết này là: "Hoa Kỳ sẽ tham gia vào việc phòng thủ và sự phát triển của các đồng minh và bạn bè, nhưng Mỹ không thể - và sẽ không - vạch ra tất cả các kế hoạch, xây dựng mọi chương trình, thực hiện tất cả các quyết định và đảm nhận toàn bộ trách nhiệm phòng thủ ở thế giới tự do" . Theo nhận định của Mỹ, nguy cơ đe dọa lớn nhất với Mỹ lúc này không hẳn là chủ nghĩa cộng sản mà là tình trạng "mất trật tự", đặc biệt là những nhà cách mạng muốn "phá vỡ trật tự". Níchxơn và Cố vấn An ninh quốc gia Kítxinhgiơ tin rằng lợi ích của Mỹ có thể được bảo vệ bằng cách cùng với Nhật Bản, Trung Quốc và thậm chí là Liên Xô hợp tác với nhau, đặc biệt là trong việc chống lại các cuộc cách mạng. Vì vậy, cùng với việc đề ra chiến lược "Hòa dịu" với Trung Quốc và Liên Xô, vấn đề chia sẻ trách nhiệm với các đồng minh được Mỹ đặc biệt lưu tâm. Với cuộc chiến tranh ở Việt Nam, sự điều chỉnh chính sách đó được thể hiện ở việc thay thế chiến lược "chiến tranh cục bộ" bằng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" - thực chất vẫn là dựa vào sức mạnh về quân sự của Mỹ, nhưng tận dụng tối đa khả năng của quân đội Sài Gòn để chiến đấu thay thế quân đội Mỹ rút dần về nước.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #44 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 03:25:31 pm »

PHẦN THỨ HAI

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - Ý CHÍ VÀ SỨC MẠNH VIỆT NAM




QUÂN VÀ DÂN SÀI GÒN - GIA ĐỊNH VỚI CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
CHO CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Sài Gòn dưới chế độ Mỹ - ngụy là thành phố lớn nhất miền Nam, là "thủ đô" của Việt Nam Cộng hòa với hơn 3 triệu dân sinh sống ở 12 quận và 6 huyện ngoại thành. Đây là nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch, là căn cứ quân sự lớn của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á. Bởi vậy, được Mỹ và quân đội Sài Gòn bảo vệ rất cẩn mật, chúng tổ chức ra ba vành đai phòng thủ để ngăn chặn ta từ xa. Bộ binh cơ giới và trực thăng của Mỹ bảo vệ vòng ngoài. Lực lượng chủ lực của ngụy bảo vệ khu trung tâm. Vùng ven đô và trong nội thành là mạng lưới cảnh sát, quân cảnh, mật thám, mật báo viên, phòng vệ dân sự gồm hàng chục vạn tên.

Với sự kiểm soát chặt chẽ địa bàn bằng các hoạt động càn quét, lục soát, bắt bớ của địch, ta muốn tổ chức và duy trì thường xuyên các hoạt động chiến đấu ở nội đô, đặc biệt là việc chuẩn bị vũ khí cho kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy là một công tác cực kỳ phức tạp và khó khăn. Nhưng nếu không làm tốt công tác bảo đảm sẽ không thể duy trì và phát triển các cuộc chiến đấu ở nội thành, không thể thực hiện được chủ trương chiến lược "Đưa chiến tranh vào trong lòng địch" của Đảng ta.
 
Cuối năm 1964 đầu 1965, cục diện chiến trường đã xuất hiện khả năng giành những thắng lợi lớn. Để nắm chắc tình hình chiến trường, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Nguyễn Chí Thanh đến Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định cùng kiểm tra, chỉ đạo chuẩn bị kế hoạch tiến công quân sự vào một số mục tiêu quan trọng trong thành phố và kế hoạch huy động lực lượng kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng, nhằm làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Đó là kế hoạch của mùa khô 1964-1965, thường gọi là "Kế hoạch X".

 Tháng 4-1965, tại Suối Dây (Tây Ninh) Khu ủy Sài Gòn - Gia Định họp quán triệt Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 11 và triển khai nhiệm vụ theo "Kế hoạch X", mọi công tác được chuẩn bị tích cực, khẩn trương để đánh thắng địch ở mức cao nhất. Quân khu Sài Gòn - Gia Định được giao nhiệm vụ xây dựng một lực lượng biệt động mạnh, có tổ chức thống nhất, chuẩn bị các điều kiện bảo đảm để có thể cùng một lúc bất ngờ công kích chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn - Gia Định khi có thời cơ. Đoàn Biệt động F100 ra đời để đáp ứng nhiệm vụ ấy. Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền và Quân khu đã xác định 25 mục tiêu trọng điểm ở Sài Gòn và được xếp là "loại A" mà sau này 9 mục tiêu trong số đó được chọn là điểm tấn công vào mùa Xuân Mậu Thân 1968. Do vậy, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu đã chỉ đạo thành lập đơn vị A20 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí từ căn cứ ngoài vào nội thành, A30 là đơn vị cất giấu vũ khí tại các cơ sở nội, ngoại thành. Đồng thời xây dựng các "lõm căn cứ" ngay trong nội thành và vùng ven, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. "Kế hoạch X" đang được chuẩn bị gấp rút thì Mỹ đổ quân xây dựng căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ". Như vậy, phương án giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh trong thời kỳ "chiến tranh đặc biệt" cũng như "Kế hoạch X" không thực hiện được, nhưng công tác bảo đảm vẫn được tiếp tục để chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới khi có thời cơ.

Sau khi quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công mùa khô lần thứ 2 của Mỹ và quân đội Sài Gòn (Đông - Xuân 1966-1967) làm phá sản chiến lược hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" của chúng, tình thế đã mở ra triển vọng to lớn cho quân và dân ta đánh bại một bước chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Năm 1967, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về việc "Chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định... Để thực hiện thành công nghị quyết này, nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của cách mạng Việt Nam là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền Nam, Bắc đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng phương pháp Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định...".

Trung tuần tháng 10-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức Hội nghị mở rộng tại chiến khu Dương Minh Châu để quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục về Tổng tiến công và nổi dậy, trước mắt thực hiện tốt công tác chuẩn bị, bao gồm: Tổ chức lại chiến trường, bổ sung cán bộ cho các ngành, các giới, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng. Kiên trì phương châm tích cực chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định khi có thời cơ.

Trong điều kiện địch khủng bố, ngăn chặn hết sức quyết liệt thì việc bí mật tổ chức vận chuyển vũ khí vào ém sẵn trong thành phố là một công việc hết sức khó khăn và đầy nguy hiểm. Khâu này đòi hỏi không chỉ dựa vào lòng dũng cảm, trí thông minh của mỗi cán bộ, chiến sĩ và các cơ sở quần chúng, của hệ thống hành lang đã được xây dựng từ vùng giải phóng Củ Chi vào nội thành, mà còn đòi hỏi phải có năng lực chỉ huy hiệp đồng, phát huy sức mạnh của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan để linh hoạt tổ chức vận chuyển vượt qua các âm mưu, thủ đoạn ngăn chặn của địch.

Trên những hành lang chiến lược nối liền vùng căn cứ giải phóng và từ đất Campuchia vào nội thành Sài Gòn, A20, A30 đã xây dựng được các căn cứ xuất phát, cứ bàn đạp, căn cứ bản lề, những điểm nút giao liên, người đầu cầu, hành lang... tương đối vững chắc, an toàn. Đặc biệt tại các "bàn đạp" Thái Mỹ (Củ Chi), Bàu Mây Tịnh, Tịnh Phong (Trảng Bàng)... Khu ủy và đồng chí Trần Hải Phụng, đồng chí Tư Quỳ, Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) trong Bộ Chỉ huy Quân khu và các cán bộ cụm, đội thường xuyên có mặt làm việc với các đầu mối trong Sài Gòn và chỉ đạo các nhiệm vụ tiếp theo. Nhờ công tác tổ chức được tiến hành bí mật, khẩn trương, chu đáo với tinh thần sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ cách mạng của cán bộ, chiến sĩ biệt động nên đến cuối năm 1965, cả hai đội A20 và A30 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xây dựng được một hệ thống kho hầm bí mật chứa vũ khí sát các mục tiêu chiến lược của địch. Mỗi mục tiêu đều được "dành sẵn" từ 1 đến 3 hầm vũ khí chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân. Trong số các hầm vũ khí đó, trước hết phải kể đến:

Kho vũ khí ở nhà số 65 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quận 1) là hiệu may Quốc Anh của gia đình đồng chí Trần Phú Cương và vợ là Trần Thị Út là chiến sĩ biệt động phục vụ tiến công Đài Phát thanh Sài Gòn.

Kho nhà số 436/58 Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám - Quận 3) của gia đình đồng chí Lê Tấn Quốc (Bảy Rau Muống). Kho này kết hợp với kho đồng chí Trần Văn Lai phục vụ tiến công Dinh Độc Lập.

Hầm nhà số 287/70 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần - Quận 3) của gia đình đồng chí Trần Văn Lai (tức Mai Hồng Quế) phục vụ tiến công Dinh Độc Lập.

Hầm nhà số 348/38B ấp Bác Ái, xã Bình Hoà (nay là đường Phan Văn Trị, Phường 11, Quận Bình Thạnh) của gia đình đồng chí Trần Văn Miêng, vợ là Võ Thị Sang.

Hầm nhà số 248/27 Nguyễn Huỳnh Đức (nay là đường Huỳnh Văn Bánh, Quận Phú Nhuận) của gia đình bà Bùi Thị Lý xây dựng hai hầm phục vụ tiến công Bộ Tổng Tham mưu Sài Gòn.

 Hầm nhà số 281/26/29 Trương Minh Ký - Phú Nhuận (nay là Lê Văn Sĩ - Quận Tân Bình) của gia đình đồng chí Phan Văn Bảy, phục vụ tiến công Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn.

Hầm nhà số 59 Phan Thanh Giản, Đa Kao, Quận 1 (nay là đường Điện Biên Phủ) của gia đình bà Nguyễn Thị Huệ (Hai Phê) phục vụ tiến công Toà Đại sứ Mỹ.

Hầm nhà số 93/22 Cường Để (nay là đường Bùi Đình Túy, quận Bình Thạnh) của gia đình đồng chí Tô Minh Liêm (Mười Lợi) phục vụ tiến công Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn.

Hầm nhà số 183/4 đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2, Quận 10) của gia đình đồng chí Đỗ Văn Căn (Ba Mủ), cơ sở này chuẩn bị vũ khí đánh Biệt khu Thủ đô, nhưng không thực hiện được nên hầm vũ khí vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày giải phóng Sài Gòn năm 1975).

Hầm nhà số 8/4 Vườn Chuối, Quận 3 của gia đình đồng chí Lâm Thị Ẩn phục vụ trận đánh bắn cối 82 ly vào Tổng hành dinh tướng Oétmolen tại góc đường Nguyễn Du - Pasteur ngày 13-2-1967.

Hầm nhà số 62/1 đường Dương Công Trừng (nay là số 62/10B đường Nguyễn Thị Nhỏ, Quận Tân Bình) của gia đình đồng chí Nguyễn Nhật Hiểu, cơ sở này chứa súng đạn, chất nổ tấn công Đài Truyền hình Sài Gòn trong đợt 2 Mậu Thân.

Hầm ở Hương lộ 14 của gia đình đồng chí Trần Thị Bi, chứa khẩu cối 82 ly bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất tháng 7-1967.

Hầm nhà số 171 đường Bạch Đằng, Hàng Xanh, Quận Bình Thạnh của gia đình đồng chí Vũ Bá Tài, nơi trú đóng của 8 cán bộ, chiến sĩ cơ yếu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.

Đặc biệt, tiệm Phở Bình số 7 Yên Đỗ (nay là Lý Chính Thắng, Quận 3) của gia đình ông Ngô Toại là Sở chỉ huy tiền phương của Phân khu 6 ngay trước giờ xuất quân và trong đợt 1 có mặt các đồng chí Võ Văn Thạnh - Chính ủy Phân khu và Nguyễn Đức Hùng - Tham mưu trưởng - chỉ huy trưởng F100, phát lệnh tiến công đánh các mục tiêu ở nội đô Sài Gòn.

Số lượng vũ khí mỗi hầm gần 1 tấn, thông thường gồm: 350kg thuốc nổ TNT hoặc C4; 1 hộp kíp nổ; 10 khẩu AK và 3.000 viên đạn; 3 khẩu súng ngắn và 200 viên đạn; 2 khẩu B40 và 20 quả đạn; 20 quả mìn; 50 lựu đạn...

Việc xây dựng các căn hầm cùng với quá trình tiếp nhận, cất giấu, bảo vệ và bảo quản khối lượng vũ khí trong lòng địch là một chuỗi công việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi người thực hiện nhiệm vụ ngoài kinh nghiệm hoạt động bí mật, trí thông minh phải chấp nhận những gian khổ hy sinh. Các đồng chí phải tự mua vật liệu và xây cất. Phải giữ bí mật tuyệt đối cả với những người thân trong gia đình. Ngay bản thân các đồng chí xây xong hầm mới được biết sẽ dùng hầm để cất giấu vũ khí tại gia đình họ. Ngoài việc bảo vệ an toàn cho kho vũ khí, hằng ngày, hằng giờ họ phải sống và chiến đấu thầm lặng với kẻ thù. Những hầm cất giấu vũ khí này để đánh mục tiêu nào và sử dụng lúc nào thì không được biết. Có thể nói, mỗi căn hầm vũ khí được xây dựng trong nội đô đều là những kỳ công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để đưa vũ khí vào thành phố, công tác nghi trang, ngụy trang đóng vai trò quyết định, công tác không chỉ đòi hỏi che được mắt địch mà còn phải bảo đảm đồng bộ các loại vũ khí cho mỗi hầm trong mỗi lần vận chuyển. Để giữ bí mật, bảo vệ Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định chỉ thị mỗi hầm chỉ tiếp nhận một lần vũ khí.

Sau khi hoàn thành việc ngụy trang, nghi trang, đội A20 tổ chức vận chuyển vũ khí vào thành phố theo ba chặng cơ bản: Chặng thứ nhất: từ căn cứ giải phóng đến căn cứ bàn đạp (ở vùng giáp ranh); chặng thứ hai: từ căn cứ bàn đạp lên trục lộ giao thông (do địch kiểm soát); chặng thứ ba: di chuyển trên đường giao thông vào nội thành.

Ở cả ba chặng trên, tuyệt đại bộ phận lực lượng vận chuyển (kể cả các chiến sĩ thuộc Đội A20) đều không biết mình chuyên chở thứ hàng gì. Ở khâu cuối cùng, người nhận vũ khí (thuộc A30) và người chở vũ khí đến cũng không được phép giáp mặt nhau, không biết giao cho ai, nhận của ai.

Với cách tổ chức trên, hàng chục tấn vũ khí trong đó có cả ĐKZ, cối, B40, B41, AK và các loại thuốc nổ... đã được bí mật vận chuyển an toàn vào thành phố, ém sẵn cạnh các mục tiêu, hoàn toàn bất ngờ đối với địch. Người góp nhiều công sức cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này là đồng chí Nguyễn Văn Chiểu (Năm Chiểu) - Thư ký Công đoàn cao su giải phóng đồng thời là một chiến sĩ biệt động ưu tú. Chính đồng chí là người đứng ra môi giới thuê lại hàng chục đồn điền cao su ở Củ Chi, Bến Cát và phân công cho các đồng chí như: Sáu Ân, Sáu Mia, Tư Gia, Bảy Huệ... đứng ra tổ chức sản xuất, các đồng chí làm nhiệm vụ vận chuyển như đồng chí Ba Bảo, Năm Phùng (lái xe ô tô), Chín Ten, Mười Tùng (vận chuyển bằng xe bò), Chín Khổ (vận chuyển bằng đường sông)... là những người lập nhiều thành tích trong nhiệm vụ vận chuyển vũ khí.

Ngoài cách tổ chức trên, các lực lượng biệt động còn sử dụng lực lượng giao liên, hoặc tự chiến đấu viên vận chuyển vũ khí bằng đường bộ hoặc đường sông. Cách thức và phương pháp, chiến thuật vận chuyển chủ yếu là ngụy trang theo phương tiện, đồ nghề, hàng hóa. Cách này chủ yếu là vận chuyển các vũ khí nhẹ và gọn như lựu đạn, súng ngắn, thuốc nổ...

Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong thành phố, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức lực lượng thành ba khối: khối biệt động, khối các phân khu, khối đoàn thể. Trong đó, khối biệt động gồm cụm 345, cụm 679 và cụm 128 với hơn 100 chiến đấu viên, có nhiệm vụ tấn công vào các mục tiêu đầu não của địch như: Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân... Các lực lượng vũ trang phân khu được tăng cường thêm 15 tiểu đoàn chủ lực trong đó có Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Tiểu đoàn 7 Củ Chi, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 3 Gò Vấp - Hóc Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định,... có nhiệm vụ tiếp ứng cho các đơn vị biệt động chiếm lĩnh mục tiêu trong nội đô; khối chủ lực Miền có ba sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, một sư đoàn pháo binh, Trung đoàn bộ binh 88 và một số lực lượng thuộc các binh chủng khác có nhiệm vụ tấn công các căn cứ của địch và ngăn chặn không cho chúng về ứng cứu Sài Gòn.

Trước đó, thực hiện nhiệm vụ nổi dậy, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, ngay từ đầu năm 1967, Khu ủy đã cử nhiều cán bộ tăng cường vào đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm nghiên cứu mục tiêu, gây dựng cơ sở, in truyền đơn, khẩu hiệu... chuẩn bị cho tổng tiến công. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, đến đầu năm 1968, ta đã có gần 400 cơ sở cách mạng, "lõm chính trị" trong lòng đô thành Sài Gòn, điển hình như ở căn cứ Nhị Tỳ Quảng Đông, đường Trần Quốc Thảo (Quận 3), đường Cao Đạt (Quận 5), đường Minh Phụng, Cây Gõ (Quận 6), Trường đua Phú Thọ (Quận 11). Bên cạnh đó, từ tháng 6-1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định còn tổ chức lực lượng thanh niên thành ba nhóm chính: nhóm vũ trang, nhóm vũ trang tuyên truyền và nhóm chính trị công khai. Trong đó, nhóm vũ trang có nhiệm vụ làm "thê đội 2" cho lực lượng biệt động tấn công vào các mục tiêu quan trọng của địch trong nội đô; nhóm vũ trang tuyên truyền có nhiệm phát động quần chúng diệt ác phá kềm, kiểm soát các địa bàn cơ sở; nhóm chính trị công khai có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng thứ ba, các giới, tuyên truyền, vận động quần chúng nổi dậy tiếp ứng cho lực lượng vũ trang nhằm chiếm lĩnh các mục tiêu quan trọng đã định trước. Cùng với việc tổ chức thanh niên, lực lượng quần chúng yêu nước nhất là nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như: Trí vận, Hoa vận, Công vận, Phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai như Tổng hội Sinh viên, Tổng đoàn Học sinh, Phong trào dân tộc tự quyết, Nghiệp đoàn ký giả, Lực lượng Quốc gia tiến bộ, Hội Ái hữu nghệ sĩ, Nghiệp đoàn Giáo học tư thục Việt Nam, Nghiệp đoàn Giáo chức cách mạng, Hội Kỹ sư và Kỹ thuật gia Việt Nam... Đây chính là những đội quân chính trị hùng hậu để tham gia khởi nghĩa khi tổng tiến công nổ ra.

Nhờ làm tốt công tác tổ chức, đến trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, riêng trong nội thành Sài Gòn đã có 11 đội biệt động cấp thành phố, 50 đội biệt động cấp quận, huyện và của các đoàn thể, cùng với đó là hàng trăm cơ sở tồn tại ở hầu hết các quận, huyện. Điển hình như:

Khu vực Phú Nhuận có 50 cơ sở; Khu vực chợ Vườn Chuối (Quận 3) có 15 cơ sở; Xóm Chùa Tân Định: 30 cơ sở; Xóm lao động cầu Công Lý: 10 cơ sở; Khu vực Chí Hoà, Hoà Hưng: 30 cơ sở; Khu vực đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn: 10 cơ sở; Xóm lao động Bàn Cờ: 15 cơ sở... Các cơ sở này đã chuẩn bị hàng tấn lương thực, thực phẩm, mua sắm trang bị cho lực lượng biệt động và các lực lượng hoạt động trong nội đô gồm: 419 xe gắn máy các loại, 52 xe du lịch, 32 xe vận tải nặng và nhẹ, 2 xe bồn chở xăng, 500 xe đạp, 40 xích lô đạp, 23 xích lô máy, 28 xe lambro, 50 xe lambretta, 50 xuồng, 38 ghe máy, từ 3 đến 5 tấn, 2 ca nô, 15 đội cấp cứu, nuôi dưỡng thương binh và hàng trăm ký thuốc chữa bệnh...

Tính đến hạ tuần tháng 12-1967, công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cơ bản đã hoàn tất. Tài lực, vật lực và lực lượng ba thứ quân của thành phố cùng với lực lượng nổi dậy đều ở tư thế sẵn sàng đợi lệnh.

Để có được kết quả trên, trong suốt quá trình chỉ đạo, Khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định luôn bám sát sự chỉ đạo của Đảng, dựa vào nhân dân đã xây dựng lực lượng chiến đấu tại chỗ, hậu cần, kỹ thuật bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chính nhờ dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ nên các lực lượng biệt động mới có thể duy trì và mở rộng được hoạt động chiến đấu trong thành phố, khiến kẻ thù luôn mất ăn, mất ngủ. Đặc biệt những trận đánh của biệt động Sài Gòn vào các mục tiêu đầu não của địch trong đợt 1 của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm chấn động cả nước Mỹ. Những kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo công tác bảo đảm vũ khí cho biệt động thành chiến đấu là một mẫu mực trong thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng mà người tổ chức thực hiện trực tiếp là Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu, nhân dân và các chiến sĩ biệt động Sài Gòn - Gia Định đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #45 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 03:35:40 pm »

LỰC LƯỢNG AN NINH T4
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Trung tướng LÊ ĐÔNG PHONG
Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với quân và dân Khu Sài Gòn - Gia Định, lực lượng An ninh T4 đã chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần đánh bại cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Từ cuối năm 1967, Bộ Chính trị đã nhận định diễn biến cơ bản tình hình là ta ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động, tình hình cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang thời kỳ mới: thời kỳ giành thắng lợi quyết định, nếu địch không có thể phản công chiến lược thì ta tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Từ đó, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định hạ quyết tâm động viên mọi lực lượng với khí thế và nỗ lực cao nhất để thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn; phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, đánh đổ chính quyền các cấp của địch.

Quán triệt những chủ trương của Bộ Chính trị, Trung ương Cục, Khu ủy, An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định 1 đã khẩn trương sắp xếp và bố trí lực lượng chỉ đạo các bộ phận: điệp báo, bảo vệ chính trị, bảo vệ nội bộ, trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang... làm trong sạch địa bàn, bảo vệ khu căn cứ của ta, tăng cường mạng lưới thông tin liên lạc, nắm chắc tình hình các mục tiêu quan trọng. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, các ban, ngành an ninh phân khu đều có 2 bộ phận chỉ đạo: Bộ phận "xã hội hóa" ở nội đô, hoạt động công khai hợp pháp và một bộ phận ở căn cứ vùng ven hoặc vùng giải phóng.

Lúc này Ban lãnh đạo an ninh Sài Gòn - Gia Định được phân công về hai cánh quân chủ lực (cánh Nam và cánh Bắc). Các tiểu ban (B) trực thuộc An ninh khu theo sát Bộ Tư lệnh Tiền phương, còn đại bộ phận được tổ chức thành các tổ, đội tham gia tấn công vào nội thành.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trinh sát vũ trang nội đô đã khẩn trương phát triển lực lượng, tạo chỗ đứng chân cho lực lượng bên ngoài vào và phối hợp đánh các trận lớn hơn kể cả đánh phá các trụ sở của các cơ quan hành chính của địch, trụ sở các báo chí phản động, khách sạn, nhà hàng - nơi tập trung ăn uống của các phần tử gián điệp, phản động...
Bộ phận điệp báo cũng đã tiến hành xây dựng cơ sở bí mật 2, các hộp thư để phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Bộ phận kỹ thuật đã sản xuất nhiều giấy tờ, căn cước, giấy miễn hoãn quân dịch của địch cung cấp cho cán bộ vào nội thành hoạt động, cung cấp "giấy tờ hợp pháp" cho lực lượng biệt động để tiến vào các mục tiêu trước giờ nổ súng. Ta đã nghiên cứu, sản xuất được "thẻ căn cước bọc nhựa" giả 3 .

Lực lượng an ninh các phân khu đã tham gia tuyển chọn hàng ngàn tân binh, huy động hàng chục ngàn dân công ở các vùng giải phóng và các ấp chiến lược. Huy động quần chúng cách mạng ở Ba Thu (là căn cứ cách mạng của vùng Tây Nam Bộ, khoảng giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, nay thuộc xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An), Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ hỗ trợ các mũi tiến quân ở phía nam. Tổ chức hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí từ Ba Thu, Bến Lức (Long An) về Tân Tạo, Tân Nhật (Bình Chánh) cung cấp cho cánh quân chủ lực tiến vào nội đô Sài Gòn. Trực tiếp vận động nhân dân góp gạo, nấu bánh tiếp tế nuôi quân...

Cuối năm 1967, hầu hết Ban an ninh các cấp đã có kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công thị xã, thị trấn nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ở các vùng ven Bình Tân, Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè, Thủ Đức, v.v. vùng căn cứ giải phóng Củ Chi, lực lượng an ninh địa phương đã tham gia công tác bổ sung lực lượng, dân công, tàu thuyền đưa đón cán bộ, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược vào thành phố, các cán bộ điệp báo, trinh sát vũ trang bám trụ nội thành, giao liên vào nội thành xây dựng cơ sở, các hộp thư. Đây là mặt trận cam go, nguy hiểm khôn lường nhiều đồng chí giao liên đã hy sinh hoặc bị bắt, tù đày nhưng trong mọi hoàn cảnh, các chiến sĩ giao liên vẫn luôn đáp ứng được nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ tốt các trận đánh và dẫn đường cho quân ta tiến vào thành phố.

An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định tăng cường hoạt động cho các cánh Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Dĩ An, Nhà Bè, Bình Tân. Tại nhiều xã giải phóng có từ 3 đến 5 đồng chí làm công tác an ninh gồm, 1 trưởng ban phụ trách chung và trực tiếp làm công tác bảo vệ Đảng, xây dựng cơ sở mật trong tổ chức địch ở địa phương, 1 phó ban phụ trách phong trào và công tác bảo vệ chính trị, cùng 2 ủy viên hỗ trợ giúp đỡ an ninh ấp. Tăng cường một số bộ phận điệp báo, trinh sát vũ trang xuống các vùng xung yếu, từ đó lực lượng An ninh T4 và an ninh các phân khu đã góp phần tích cực trong công tác bảo vệ Đảng, các ban ngành đoàn thể cách mạng, bảo vệ kho tàng, di chuyển đóng quân và bảo vệ các mũi tiến công, các đường dây giao thông liên lạc, giữ vững và phát triển các lõm chính trị sát đô thị.

Phá vụ nội gián ở Thành Đoàn, tiêu diệt tên Nguyễn Xuân Chữ - Bộ trưởng Chiến tranh tâm lý chính quyền Sài Gòn. Trong trận chiến đấu với một trung đội Mỹ đánh vào ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, lực lượng điệp báo đã làm tốt vai trò cung cấp thông tin, dự báo quy mô tấn công của địch, để lãnh đạo Khu chỉ đạo lực lượng trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang cùng các lực lượng du kích chiến đấu ngoan cường tiêu diệt 27 tên địch, phá hủy 4 xe M113 4.

Tháng 12-1967, đồng chí Ba Mẫu phụ trách hậu cần trinh sát vũ trang đã tổ chức chuyển hàng trăm khẩu súng AK, K54, hàng tạ thuốc nổ và một số hỏa tiễn H12 từ căn cứ địa Củ Chi qua cầu Bến Lức đến Hàm Tử, đưa vào cất giấu ở chợ Hòa Bình (Quận 5). Trên khắp các nẻo đường thủy bộ, mọi phương tiện từ xe du lịch, xe honda, ghe thuyền, xe tải chở gỗ được ngụy trang chở vũ khí vào nội thành 5. Bên cạnh công tác vận chuyển vũ khí, lực lượng An ninh T4 đã tổ chức đưa đón nhiều cán bộ vào nội thành an toàn.

Phối hợp, hiệp đồng cùng với các đơn vị, mở màn cho đợt tấn công của lực lượng An ninh T4, bộ phận điệp báo đã điểm hỏa làm hiệu lệnh tấn công 6.

Phân đội an ninh vũ trang gồm 12 cán bộ, chiến sĩ, có nhiệm vụ bí mật đưa bộ phận Bộ Tư lệnh Tiền phương II luồn sâu vào trung tâm thành phố, dưới sự dẫn đường của nữ giao liên Đoàn Lệ Phong, luồn qua nhiều đồn bốt địch, bí mật áp sát trường đua Phú Thọ, chợ Thiếc an toàn. Tuy nhiên, do bị địch phát hiện, nên đoàn chỉ để lại phân đội an ninh vũ trang với nhiệm vụ kiềm chân và tiêu diệt địch, bảo vệ các đồng chí cán bộ chuyển ra khu vực an toàn. Hơn 7 ngày chiến đấu, 12 cán bộ, chiến sĩ phân đội An ninh vũ trang T4, đã anh dũng hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho Bộ Tư lệnh Tiền phương II 7.

Hai đội trinh sát vũ trang mới thành lập được giao nhiệm vụ phối hợp với các tiểu đoàn mũi nhọn đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn và Nha cảnh sát đô thành. Đội 1 gồm 15 đồng chí, được giao nhiệm vụ đi cùng các tiểu đoàn tiền phương 2 tấn công Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn 8 . Trên đường tiến quân từ sông Vàm Cỏ Đông vào nội thành, Đội 1 đụng độ với quân địch, diệt 37 cảnh sát. Mặc dù một số bị thương vong và bị bắt nhưng trong 3 đêm đã diệt 28 tên, 1 trung đội, đánh tiêu hao 1 đại đội địch. Đội 2 có 24 đồng chí, có nhiệm vụ tiến công Nha cảnh sát đô thành theo hướng Phú Thọ Hòa. Bị địch chặn lại, Đội đã phối hợp với các cánh quân khác (Đoàn 10) và lực lượng nổi dậy tại chỗ diệt ác trừ gian, trừng trị 25 cảnh sát mật vụ, diệt 1 đại đội địch, bắn cháy 8 xe M113, bắt rơi 2 trực thăng.

Phối hợp với các mũi tiến công, một đơn vị an ninh vũ trang do đồng chí Năm Nón chỉ huy phối hợp với lực lượng địa phương tiến vào quận 7, đánh địch ở Cầu Sập.

Một đơn vị trinh sát vũ trang do đồng chí Sáu Hạnh, Tư Hưng chỉ huy tiến công vào biệt thự số 80 Trương Minh Giảng (nay là Trần Quốc Thảo), quân ta đã tiêu diệt 11 cảnh sát, 2 biệt động quân, bắn cháy 1 xe bọc thép, 2 xe tuần tiễu. Mục tiêu ban đầu được xác định là nhà Nguyễn Văn Thiệu, nhưng do điều nghiên không chính xác (thực ra là Tòa Đại sứ Philíppin).

Qua đợt 1, lực lượng An ninh T4 đã diệt 348 sinh lực địch, trong đó 102 tên cảnh sát có nhiều nợ máu, góp phần phá thế kìm kẹp của địch, làm cho nội bộ địch hoang mang lo sợ. Riêng ở nội đô ta đã đánh 22 trận lớn nhỏ, cảnh cáo tại chỗ 35 tên, vận động rã ngũ 15 tên.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, phần lớn cơ sở điệp báo, an ninh khu vực, lực lượng trinh sát vũ trang bị lộ và bị bắt hàng loạt. Quán triệt chủ trương của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, số cán bộ an ninh hoạt động hợp pháp trong vùng địch kiên trì bám trụ, dựa vào quần chúng vừa đánh địch vừa củng cố, gây dựng lại tổ chức, từng bước tăng cường quân số và trang bị vũ khí, phương tiện công tác và chiến đấu. Nắm vững phương châm "đánh sâu, đánh hiểm, đánh trúng đối tượng", lực lượng trinh sát vũ trang nội đô và lực lượng điệp báo An ninh T4 đẩy mạnh công tác tấn công chính trị bằng cách gửi truyền đơn cho cảnh sát và khóm trưởng làm cho chúng hoang mang lo sợ, trút bỏ cảnh phục.

Tháng 5-1968, nhiều đơn vị vũ trang thuộc An ninh T4 đã phối hợp với các phân khu chiến đấu anh dũng tiếp tục tấn công nhiều mục tiêu trên toàn Khu Sài Gòn - Gia Định. Lực lượng an ninh các huyện cũng phối hợp với bộ đội địa phương và du kích tổ chức tấn công địch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy. Thông qua phong trào quần chúng "bảo mật phòng gian" kết hợp với nhiều biện pháp nghiệp vụ, lực lượng An ninh T4 đã phát hiện hàng trăm vụ nội gián, bắt và trừng trị nhiều tên.

Trên mặt trận liên lạc kỹ thuật, bộ phận cơ yếu ngày đêm giữ vững mạng liên lạc mật mã được thông suốt giữa an ninh Sài Gòn - Gia Định với Khu ủy và Trung ương Cục. Cán bộ cơ yếu an ninh Sài Gòn - Gia Định hoạt động và chiến đấu ở nhiều địa bàn khác nhau, đã mưu trí, dũng cảm bảo vệ tài liệu, mật mã bí mật an toàn. Công tác phòng gian bảo mật, đặc biệt là giữ bí mật về ý đồ chiến lược của Đảng được tuân thủ nghiêm ngặt; các kế hoạch bảo vệ tài liệu, bảo vệ tổ chức cán bộ được tiến hành ở tất cả các cấp.

Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng An ninh T4 cùng với quân và dân khu Sài Gòn - Gia Định đã tiêu diệt và làm tan rã một số lượng lớn sinh lực địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Lực lượng ta phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, thu được nhiều kinh nghiệm quý báu, nhất là trong việc đánh giá địch và ta. Vùng giải phóng được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố và phát triển. Từ đó tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam tiến tới thắng lợi cuối cùng.




---------------------------------------------------------------
1. Gọi tắt là An ninh T4 (tiền thân của lực lượng Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), được thành lập ngày 19-3-1961. Ngày 19-3-1961, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương nhanh chóng củng cố xây dựng lực lượng và phát triển bộ máy tổ chức an ninh để làm tham mưu cho Đảng và làm nòng cốt cho phong trào quần chúng. Ban bảo vệ an ninh được thành lập gồm có 4 bộ phận: bộ phận văn phòng, bộ phận nông thôn, bộ phận đô thị và bộ phận vũ trang. Năm 1962, các tiểu ban thuộc An ninh T4 được thành lập gồm 10B từ B1 đến B10.

2. Tháng 11-1967, Ban An ninh T4 đã điều động đồng chí Đỗ Thạnh (Ba Dũng) - Trưởng ban Điệp báo vào thành để xây dựng cơ sở bí mật như: Tư Bụng, Mười Hậu, Tư Trương tại Bình Thới (Quận 11). Điều động Sáu Tỳ vào thành để xây dựng hộp thư và một số đồng chí khác cũng vào thành; đồng chí Hai Phong xây dựng được 3 cơ sở an ninh mật, 5 tổ trinh sát vũ trang, 3 lõm chính trị, ngoài ra còn có nhiều cơ sở khác.

3. Lúc đầu địch dùng loại ép plastic trơn được bán rộng rãi trên thị trường; sau đó địch đổi thẻ căn cước bọc nhựa ép plastic có vân nổi, ta đã tổ chức móc nối mua loại plastic này ở Campuchia để làm giả. Đến 1969, địch đổi thẻ căn cước bọc nhựa plastic có hình những con rồng màu xanh (loại này được đặc chế, chỉ có bộ phận làm giấy căn cước cảnh sát Sài Gòn sử dụng) nhưng ta cũng làm giả được.

4. Cay cú trước thất bại với một lực lượng an ninh nội đô vừa mới được thành lập, ngày 8-1-1966, quân đội Mỹ - quân đội Sài Gòn huy động 12.000 quân, 600 pháo, cối, 600 xe cơ giới, số lượng lớn máy bay chiến đấu, tấn công vào căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, mặc dù tương quan lực lượng giữa ta và địch không cân bằng, nhưng lực lượng An ninh T4 đã phối hợp với quân và dân địa phương, chiến đấu tiêu diệt gần 100 tên địch, bắn rơi 11 máy bay, 1 xe M113...

5. Cán bộ nữ xin đi quá giang xe lính Mỹ chuyển thư từ, giả vợ chồng, tình nhân của tướng tá ngụy để chuyển thư, vũ khí trên những chuyến xe du lịch sang trọng... Các trạm giao liên điệp báo, trinh sát vũ trang dọc theo quốc lộ 22, từ Dĩ An dùng xe lam chở vũ khí vào nội đô, bên trong chất đầy rau quả, bên dưới là súng AK, AK báng gỗ, báng xếp, đạn dược. Nhiều chị em giao liên đi vào nội thành "tặng quà Tết cho bà con họ hàng" bằng những đòn bánh tét nhưng bên trong là thuốc nổ TNT, C4. Anh Tư Thông (cơ sở của đồng chí Hai Phong), lái ô tô từ nội thành ra nhận vũ khí, đạn dược chất nổ, rau quả ngụy trang ở trên xe. Xe chở hèm (bọc gói kín súng đạn nhét vào các thùng đựng hèm) từ Long Bình, Củ Chi về Sài Gòn; anh còn sử dụng xe Jeep biển số quân Mỹ với vai đại úy quân đội Sài Gòn, lợi dụng lúc nhá nhem tối qua các trạm gác an toàn.

6. Đồng chí Ba Dũng đã lập kế hoạch trừng trị tên Linh Quang Viên (Trung tướng Đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung ương tình báo Sài Gòn). Đúng 1 giờ kém 15 phút ngày mồng 2 Tết, tổ điệp báo đã bí mật vào cổng nhà tên Viên đặt chất nổ và kích nổ, tên Viên chạy ra cửa sau thoát chết, tiếng nổ phát ra làm hiệu lệnh tấn công cho lực lượng an ninh trong thành phố.

7. Phân đội an ninh vũ trang bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương II được Chính phủ truy tặng danh hiệu "Đơn vị anh hùng", riêng đồng chí Nguyễn Minh Hoàng, một chiến sĩ tiêu biểu đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng được truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang". Đơn vị trinh sát đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, 8 đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Hai, Quân khu T4 tặng cho cá nhân 25 bằng khen.

8 . Mục tiêu Tổng nha Cảnh sát được giao cho cụm biệt động 7 - 8 đánh chiếm trước khi quân chủ lực đến. Đến giờ G đơn vị này còn ở Tân Nhựt (Bình Chánh) nên ta không đánh được mục tiêu này trong Tết Mậu Thân.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #46 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 10:44:41 am »

NHÌN NHẬN VỀ THẾ TRẬN CÁCH MẠNG MIỀN NAM
SAU TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968,
MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA CHO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC



Trung tướng, PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẢI
Viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng
   


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bản hùng ca bất diệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là dấu ấn trong lịch sử giải phóng dân tộc. Sau 50 năm nhìn lại sự kiện lịch sử, chúng ta có thể rút ra nhiều vấn đề mang tầm chiến lược và những bài học sâu sắc vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thứ nhất, ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Vào thời điểm Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 và 31-1-1968), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đồng loạt nổ ra trên toàn chiến trường miền Nam, đặc biệt ở Sài Gòn, Huế và nhiều thị xã, thị trấn, các căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra trong bối cảnh quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và các nước đồng minh của chúng tham chiến với một lực lượng quân sự lớn lên tới trên 1.300.000 quân, có vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại, được phòng thủ vững chắc. Với tư duy chỉ đạo chiến lược táo bạo, bất ngờ, ta đã đánh thẳng vào các vị trí quan trọng nhất của địch như: Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn, tiến công làm chủ thành phố Huế và hầu khắp các vùng nông thôn rộng lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch, bao gồm cả các thành phố, tỉnh lỵ đều bị tấn công đồng loạt. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 không chỉ diễn ra một đợt mà diễn ra nhiều đợt, không chỉ tiến công tuần tự từ ngoài vào mà còn kết hợp từ trong ra, khiến địch bất ngờ, choáng váng.

Đây là một sự kiện lớn, đánh dấu mốc quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc chiến tranh nhân dân tổng lực của ta, giáng một đòn quyết định, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm rung chuyển nước Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân viễn chinh ra khỏi miền Nam, chấp nhận thương lượng để có thể kết thúc chiến tranh trong danh dự. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chúng ta đã huy động tổng lực từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng đặc công, biệt động..., được nhân dân hết lòng ủng hộ, tích cực phối hợp tham gia chiến đấu; kết hợp chặt chẽ giữa nổi dậy của quần chúng, sự chuẩn bị rất công phu của các lực lượng, giữ được bí mật tuyệt đối của các cấp, các địa phương, đơn vị, sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta để làm nên một kỳ tích "có một không hai" trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp giữa lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và nhỏ; thể hiện nghệ thuật đánh địch bằng mưu cao, kế hiểm. Đánh giá về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và sức mạnh của toàn dân đoàn kết quyết chiến, quyết thắng... giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc" . Bộ Chính trị đánh giá: "Thắng lợi của cuộc tiến công Tết Mậu Thân là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra một bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hoá" chiến tranh mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh" .

Thứ hai, nhìn nhận về thế trận cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Một là, "thế trận lòng dân" trong chiến tranh nhân dân của cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ cả ở trong nước và trên trường quốc tế sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Cuộc chiến tranh chống xâm lược mà Đảng và nhân dân ta tiến hành là cuộc chiến tranh nhân dân, vì vậy, thế trận quan trọng nhất của cuộc chiến tranh này là thế trận lòng dân. Có thể khẳng định, thế trận lòng dân vững mạnh và phát triển, thì dù kẻ thù to lớn đến đâu, sớm muộn sẽ thất bại và ngược lại. Điều quan trọng nhất là, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam tăng cao cả ở trong nước và trên trường quốc tế.

Xét về thế trận lòng dân ở trong nước, sau Tổng tiến công và nổi dậy, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành các hoạt động trả thù hết sức man rợ, hàng loạt cơ sở cách mạng, những người có cảm tình với cách mạng bị bắt bớ, tù đày và giết hại. Riêng ở Huế, hàng ngàn người bị chết và mất tích. Ở Sài Gòn và nhiều đô thị khác trên toàn miền Nam, nhiều chiến sĩ cách mạng bị tra tấn, tù đày và giết hại. Chúng tưởng rằng, bằng hành động dã man đó sẽ đè bẹp ý chí cách mạng vì độc lập, tự do của dân tộc, nhưng chính sự tàn bạo của kẻ thù, đã làm cho tình yêu quê hương, đất nước dâng cao trong lòng đồng bào miền Nam cũng như cả nước. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam không hề giảm sút, mà nó đang bốc cháy một cách âm thầm, mãnh liệt và sẽ bùng lên thiêu trụi hết bọn cướp nước và lũ bán nước, khi thời cơ đến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh rất hùng hồn cho điều đó, chỉ sau Xuân Mậu Thân 1968 có 7 năm, một khoảng thời gian không lớn. Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn được quan thầy Mỹ dày công xây dựng, là điều không thể tránh khỏi. Phải nhìn nhận một cách khách quan, khoa học như vậy, thì mới thấy được cái thế trận lòng dân vững chãi và đang lên của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Xét về thế trận lòng dân của cách mạng miền Nam trên trường quốc tế, có lẽ những người giàu trí tưởng tượng nhất cũng không thể hình dung được. Bởi lẽ, chỉ sau một đêm thôi, khi mà Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu... bị tấn công, cả nước Mỹ bàng hoàng, rúng động, Tổng thống Giônxơn trở thành tổng thống chiến tranh bị lên án mạnh mẽ. Tại Hoa Kỳ, các nhà bình luận có uy tín thi nhau bình luận bất lợi cho Hoa Kỳ. W. Lippman (Newsweek 11-3-1968) tiên đoán Hoa Kỳ sẽ thất bại tại Việt Nam. Đài truyền hình NBC trong một chương trình đặc biệt về Việt Nam ngày 10-3-1968 kết luận, bỏ mọi chuyện khác ra ngoài, đã đến lúc chúng ta phải quyết định có cần phải phá hủy Việt Nam để cứu Việt Nam không. Tuần báo Time viết: năm 1968 cho chúng ta thấy một sự thật là, chiến thắng - hay ngay cả một cuộc thương thuyết thuận lợi - không ở trong tầm tay của quốc gia mạnh nhất thế giới. Đêm ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố đơn phương ngừng dội bom phía trên vĩ tuyến 20, không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai, và kêu gọi Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị. Nhân dân Mỹ từ chỗ bị lừa gạt, ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược của quân đội Mỹ đối với Việt Nam đã phản chiến mạnh mẽ, nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, sức mạnh chính trị của đội quân xâm lược bị lung lay tận gốc rễ, vì thế sức mạnh quân sự giảm, đầu năm 1969, quân đội Mỹ bắt đầu rút quân về nước. Trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào, khi mà thế trận lòng dân được phát huy, thì cuộc chiến đó nhất định sẽ đi đến kết cục có lợi. Sự chuyển hóa nhanh chóng về thế trận lòng dân trên trường quốc tế, đã tạo thế, tạo lực cho cách mạng miền Nam, tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa căn bản về chất.

Hai là, thế trận quân sự của cách mạng miền Nam được củng cố và phát triển cả về xây dựng lực lượng và nghệ thuật quân sự.

Nét đặc sắc sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện tính bất ngờ, quyết đoán trong việc lựa chọn thời gian, không gian, chọn hướng tiến công, mục tiêu tiến công kết hợp với chỉ đạo và điều hành chiến tranh của Đảng ta tạo nên một hiện tượng "độc nhất vô nhị" hiếm có trong lịch sử chiến tranh. Lựa chọn địa bàn đô thị, thành phố là hướng công kích và khởi nghĩa chủ yếu, trong đó trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, nơi tập trung sinh lực cấp cao của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, sào huyệt đầu não, trung tâm chỉ huy. Về quy mô, đánh rộng khắp đồng loạt trên toàn chiến trường khiến địch không lường được. Đặc biệt chọn thời gian tiến công vào giữa đêm giao thừa - Tết Nguyên đán, thời điểm mà địch không ngờ tới. Giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng, sử dụng lực lượng quân sự tinh nhuệ (đặc công, biệt động) kết hợp mũi tiến công của lực lượng xung kích với những cuộc nổi dậy của quần chúng tại chỗ và vùng nông thôn kế cận, phối hợp quân sự và chính trị, thành thị và nông thôn. Đồng thời, ta thực hiện kéo chủ lực địch ra những chiến trường ta chuẩn bị để giam chân, tiêu diệt địch, làm chúng khó phán đoán ý định của ta, tạo điều kiện thuận lợi cho thành thị tiến công và nổi dậy.

Sự sáng tạo về nghệ thuật quân sự của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thể hiện trong cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược và cả trong lịch sử chiến tranh thế giới. Đó là sự vận dụng phương châm "ba vùng chiến lược", sử dụng hai lực lượng chính trị và quân sự để giành thắng lợi cả chính trị và quân sự, sáng tạo về hình thức tiến công đồng loạt để tạo hiệu ứng như một đòn "sét đánh". Thế trận chiến tranh nhân dân của ta cho phép có thể đánh địch ở cả những nơi chúng cho là "bất khả xâm phạm". Chúng ta đã chủ động cả về thời gian và không gian.

Ba là, tạo đột phá về ngoại giao.

Thế trận ngoại giao trước Tổng tiến công không tiến triển. Đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Pari rất khó khăn do ta chưa có các đòn đánh quân sự lớn. Đối với thế giới, một bộ phận dư luận chưa thực sự quan tâm, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của ta. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế trận ngoại giao của cách mạng miền Nam được cải thiện hơn nhiều. Thắng lợi của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đã tạo điều kiện cho thế trận ngoại giao phát triển. Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, thắng lợi trên bàn hội nghị ngoại giao chính là quyết định thắng lợi ở chiến trường.

Tại Hội nghị Pari, Mỹ phải thay đổi thái độ với chúng ta, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng có tiếng nói bình đẳng trong hội nghị. Hoạt động ngoại giao của ta đã làm cho nhân dân Mỹ bừng tỉnh, nhận thấy nước Mỹ đang lao vào cuộc chiến tranh đẫm máu, đang lún sâu vào đường hầm không lối thoát; cao trào chống chiến tranh ở Mỹ đã lan rộng và lên cao chưa từng có, phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển mạnh.

Bốn là, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, thế bố trí vùng chiến lược, lực lượng và hậu cần, kỹ thuật của cách mạng miền Nam có biến động lớn gặp nhiều khó khăn.

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các lực lượng vũ trang trên toàn miền Nam hình thành thế bố trí trên ba vùng chiến lược, đó là rừng núi, đồng bằng và đô thị. Chính thế bố trí chiến lược này đã tạo thế, tạo lực để quân ta tiến hành ba mũi giáp công làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam. Sự bộc lộ toàn bộ lực lượng trên tất cả các đô thị với quyết tâm dồn toàn lực lượng cho trận đánh cuối cùng, khi bị địch phản công đánh trả, thế bố trí chiến lược này bị phá vỡ. Với lực lượng, vũ khí, phương tiện lớn hơn gấp nhiều lần, quân địch đã đẩy lực lượng của ta ra khỏi các đô thị và vùng ven đô. Chẳng hạn, trên địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5, đế quốc Mỹ đã tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực của quân đội Sài Gòn, tổng cộng 90.000 quân cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Đứng trước tình hình này, Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra vòng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, các địa bàn còn lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài Gòn - Gia Định và các thành phố, thị xã khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu não của địch; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.

Về lực lượng, theo thống kê chính thức của Quân giải phóng miền Nam, cả năm 1968 ta loại khỏi vòng chiến đấu 630.000/1.300.000 quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh, tổn thất của ta sau 3 đợt tổng tiến công và nổi dậy là 113.000/300.000 quân. Lực lượng Biệt động Sài Gòn, có những tổ, đội hy sinh toàn bộ, đây là tổn thất rất lớn, bởi đó là lực lượng tác chiến tinh nhuệ nhất của ta hoạt động trong đô thị. Điều đó đòi hỏi phải có sự bổ sung kịp thời từ miền Bắc và tại chỗ, thì mới đáp ứng cho nhu cầu tác chiến của chiến dịch quân sự tiếp theo.

Sau Tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thu hẹp. Do các tổ chức chính trị ngầm chuyên vận động nhân dân đã bị lộ nên trong năm 1969, tại nhiều nơi trên chiến trường, Quân giải phóng bị mất nguồn tiếp tế từ nhân dân. Quân ta phải rút về nông thôn, rừng núi hoặc di chuyển sang biên giới các nước bạn Lào và Campuchia. Mặt khác, với việc chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, quân địch có điều kiện tập trung lực lượng đánh phá khốc liệt hơn các tuyến đường vận chuyển của ta, do đó việc cung cấp hậu cần, kỹ thuật từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam khó khăn hơn rất nhiều, nhất là khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Đó là những khó khăn mà chiến trường miền Nam phải vượt qua sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Thứ ba, một số bài học vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Một là, xây dựng "thế trận lòng dân" trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

Đây là bài học hàng đầu, bởi vì, thế trận lòng dân là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta, trong mọi thời kỳ. Nếu để mất thế trận lòng dân, thì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc không thành công. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhờ có thế trận lòng dân vững chắc và vượt ra khỏi biên giới quốc gia đã giúp chúng ta khắc phục mọi khó khăn, gian khổ đi đến thắng lợi cuối cùng vào mùa Xuân 1975. Công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đang đặt ra cho nước ta nhiều thách thức, khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ được hoàn thành khi thế trận lòng dân của đất nước và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế ngày càng vững chắc và mạnh mẽ.

Hai là, xây dựng thế bố trí lực lượng rộng khắp đủ mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bài học này hết sức quan trọng trong tình hình hiện nay, bởi vì, nền kinh tế nước ta đang phát triển nhanh cả về quy mô và trình độ. Điều đó đòi hỏi, phải xây dựng một nền quốc phòng toàn dân đủ mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bố trí lực lượng rộng khắp đủ mạnh đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc là một đòi hỏi mang tính thường xuyên, liên tục. Sự hẫng hụt về lực lượng trong các đô thị lớn ở miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, đó là khó khăn lớn cho toàn cục của cuộc chiến chống quân xâm lược. Trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao nếu xảy ra trong tương lai, tốc độ, quy mô tác chiến sẽ diễn ra rất nhanh và rộng lớn. Vì vậy, ngay từ trong thời bình cần có sự chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ về lực lượng nhằm giữ thế chủ động cho đất nước trước mọi tình huống có thể xảy ra.

Ba là, bố trí lực lượng bảo đảm hậu cần, kỹ thuật trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao bảo vệ Tổ quốc.

Bài học này giữ vị trí cực kỳ quan trọng, bởi vì, trong chiến tranh hiện đại, nhu cầu về hậu cần, kỹ thuật rất lớn, nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng trong thời bình, thì khi có chiến tranh xảy ra sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trong khi quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và chư hầu được cung cấp đầy đủ hậu cần, kỹ thuật thì quân đội ta trên chiến trường miền Nam bị hao hụt và thiếu thốn lại bị kẻ thù đánh phá ác liệt ngăn chặn mọi đường tiếp tế. Chính vì thế, bài học này vẫn giữ nguyên giá trị đối với chúng ta trong chuẩn bị và tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân công nghệ cao, bảo vệ Tổ quốc, nếu xảy ra trong tương lai.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đi vào chiều sâu lịch sử của dân tộc. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968-2018), cần nhìn nhận một cách khách quan, khoa học về nhiều mặt, trong đó có vấn đề về thế trận của cách mạng miền Nam sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Một mặt, nhằm tri ân sâu sắc những chiến công oanh liệt của cha anh, mặt khác rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #47 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 10:51:25 am »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
THAM GIA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng TRƯƠNG VĂN HAI
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã thể hiện sức mạnh, ý chí, quyết tâm cao độ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần làm nên những chiến công lịch sử 50 năm trước. Quá trình giành thắng lợi của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định được thể hiện qua những nội dung sau:

1. Tổ chức và xây dựng lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ chiến lược

Căn cứ ý định và phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định...", Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo quân và dân trên các chiến trường, đặc biệt là Mặt trận Sài Gòn - Gia Định ra sức chuẩn bị mọi mặt cho "Tết Mậu Thân" 1968. Trước tình hình đó, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức Hội nghị mở rộng để tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục, đề ra kế hoạch, mục tiêu Tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của Mặt trận là tiến công các căn cứ đầu não của địch tại Sài Gòn; phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành chính quyền; đồng thời, cùng với lực lượng của Phân khu và của Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân. Yêu cầu trước mắt là phải tổ chức lại chiến trường, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, thực hiện 2 nhiệm vụ chính.

Do tính chất đặc biệt quan trọng của Sài Gòn - Gia Định trong Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định, tổ chức lại chiến trường miền Đông theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Trên cơ sở 5 cánh trước đây, Sài Gòn - Gia Định và một phần của các tỉnh lân cận hình thành 5 phân khu, đồng thời là 5 mũi tiến công vào nội đô gồm: Phân khu 1, hướng tây bắc; Phân khu 2 và 3, hướng tây và tây nam; Phân khu 4, hướng đông bắc; Phân khu 5, hướng bắc; phân khu nội thành (Phân khu 6) phụ trách lực lượng Biệt động, Thành Đoàn, Công vận, Hoa vận, Phụ vận và các cơ sở Đảng ở các "lõm" chính trị. Trên các hướng của 5 phân khu, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh đơn vị địa phương và hoả lực của Miền.

Trung ương Cục thành lập 2 cơ quan: tiền phương Bắc và tiền phương Nam theo sát chỉ đạo Mặt trận Sài Gòn - Gia Định. Công tác hậu cần phục vụ các đơn vị chủ lực do Miền đảm nhiệm kết hợp với hậu cần tại chỗ của các phân khu, đơn vị, địa phương, trước ngày N của chiến dịch, các lực lượng đã vận chuyển xuống vùng trung tuyến, vùng ven, gạo, thực phẩm, vũ khí cho các đơn vị. Riêng lực lượng Biệt động đã chuẩn bị được gần 400 cơ sở, trong đó có nhiều điểm trú ém quân và hầm chứa vũ khí. Các địa phương ở vùng trung tuyến đã huy động hàng chục vạn ngày công vận tải hậu cần ra tuyến trước.

Nhiệm vụ của các đơn vị được phân công như sau:

Các đơn vị Biệt động mang bí số từ 1 đến 9 sau đó thành lập thêm đội Biệt động 11 làm nhiệm vụ đánh các mục tiêu ở nội đô và các đơn vị của lực lượng vũ trang Thành phố phối hợp với các đơn vị tiến công địch ở các hướng:

Ở hướng tây bắc (Phân khu 1), Tiểu đoàn Quyết Thắng 1, Tiểu đoàn Quyết Thắng 2, Tiểu đoàn 8 pháo binh phối hợp với Trung đoàn 16, Trung Đoàn 88, Tiểu đoàn đặc công 429, Sư đoàn 9 tiến công địch từ hướng tây bắc vào nội đô.

Ở hướng tây (Phân khu 2), Tiểu đoàn 6 Bình Tân phối hợp với Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269 của Quân khu 8 và các Tiểu đoàn 16, 12, Tiểu đoàn pháo binh của Quân khu 8 và 2 Đại đội trinh sát làm nhiệm vụ đánh địch ở hướng tây thành phố.

Ở hướng nam (Phân khu 3), Tiểu đoàn 5 Nhà Bè phối hợp với Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn pháo Kiến Tường (Long An) và Tiểu đoàn Phú Lợi tiến công địch ở hướng nam thành phố.

Ở hướng đông (Phân khu 4) Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 10 đặc công Rừng Sác và Trung đoàn 3, Trung đoàn 4, Sư đoàn 7 của Miền tiến công địch ở hướng đông thành phố.

Ở hướng bắc (Phân khu 5) Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, các đơn vị địa phương Quận 8 phối hợp với Trung đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn 3 Dĩ An tiến công địch ở hướng bắc thành phố.

Đêm 30 rạng 31-1-1968 (tức đêm mùng 1 rạng ngày mùng 2 Tết Mậu Thân), các đơn vị mũi nhọn và biệt động đã đồng loạt nổ súng tiến công nhiều mục tiêu ở nội ngoại thành Sài Gòn. Lực lượng biệt động do đột nhập bằng đường hợp pháp nên ngay từ phút đầu đã vào ém quân gần các mục tiêu đầu não như: Dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Đài Phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân...

2. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, từ đêm ngày 30 rạng 31-1-1968 đến ngày 28-2-1968

Tại Dinh Độc Lập, Đội 5 biệt động gồm 17 cán bộ, chiến sĩ triển khai đội hình xuất phát tiến công. Tuy nhiên, do chênh lệch về lực lượng, vũ khí, trang bị và địch tổ chức phòng ngự kiên cố nên đơn vị phải triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du. Sau đó rút vào nhà số 56 Thủ Khoa Huân và tổ chức cố thủ trên tầng 3.

Tại Bộ Tổng Tham mưu, Cụm biệt động 679 gồm 27 cán bộ, chiến sĩ tấn công vào cổng số 4 (ngã ba Trương Quốc Dung - Võ Tánh, nay là đường Hoàng Văn Thụ). Địch chống trả quyết liệt ngay từ đầu nên các mũi xung kích không phát triển vào được bên trong căn cứ, phải trụ lại dọc các ngôi nhà kế cận, lợi dụng địa hình chiến đấu. Tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên, bắn cháy 2 xe GMC và phá hủy 1 súng đại liên.
Phối hợp với cụm biệt động, Tiểu đoàn 2 Gò Môn nổ súng tấn công cổng số 5 Bộ Tổng Tham mưu, chiếm được Trường Sinh ngữ, phòng hành chính, dãy nhà sĩ quan và hội trường.

Tại Đại sứ quán Mỹ, các chiến sĩ Đội 11 dùng tiểu liên diệt lính gác ở cổng chính ở đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Sau đó dùng bộc phá đánh lô cốt góc đường Mạc Đĩnh Chi - Thống Nhất và đột nhập vào trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ. Một tổ án ngữ khống chế cổng chính, để tổ xung kích đánh vào Tòa Đại sứ, chiếm tầng trệt, bắt tù binh Mỹ.

Bị tấn công bất ngờ, địch rối loạn, chống trả yếu. Tình thế thuận lợi, tổ của đồng chí Ngô Thanh Vân (Ba Đen) chiếm được tầng 1 và phát triển đến tầng 3, bắt một số tù binh. Mặc dù bị lực lượng hỗn hợp Mỹ và Sài Gòn đến phản kích tái chiếm Đại sứ quán nhưng Đội 11 Biệt động đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chiếm giữ Tòa Đại sứ Mỹ từ tầng trệt đến tầng 3, giữ trận địa được 6 giờ.

Tại Đài Phát thanh Sài Gòn, Đội 4 biệt động tiếp cận trước cổng đài, nhanh chóng chiếm được khu vực đài phát sóng ở tầng một 1.

Trước sự phản kích quyết liệt của địch, các chiến sĩ biệt động kiên quyết giữ vững trận địa.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, Đội 3 Biệt động gồm 16 cán bộ, chiến sĩ sử dụng bộc phá đánh sập lô cốt đầu tiên làm hiệu lệnh cho toàn đội xung phong. Địch trong căn cứ đánh trả quyết liệt, các tàu dưới sông dùng hỏa lực bắn đổ đạn vào đội hình của ta.

Ở hướng tây bắc, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng phối hợp với các đơn vị đánh chiếm căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng, giữ trận địa được 2 ngày, sau đó chuyển về khu ngã năm Bình Hòa và ngã ba Cây Thị sát Tòa thị chính và Bộ Chỉ huy tiểu khu Gia Định, phát động quần chúng nổi dậy và trụ lại chiến đấu nhiều ngày. Lực lượng vũ trang Tân Bình đánh địch ở Cầu Ván, Cầu Sắt... Lực lượng vũ trang Bình Chánh giải phóng đồn Hưng Long.

Ở hướng tây, Tiểu đoàn 6 Bình Tân thọc sâu theo trục lộ Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2), đánh địch ở Quận 5, Quận 10, Quận 11 khu vực Sư Vạn Hạnh, Vườn Lài, cư xá Hỏa Xa...

Các Tiểu đoàn của Phân khu 3 đánh chiếm các mục tiêu ở Quận 6 và 8; chiếm cầu số 3, các kho gạo bến Bình Đông, phía bắc cầu Nhị Thiên Đường; một mũi thọc sâu đến đường Hậu Giang, Tháp Mười, Dương Công Trừng, Chợ Thiếc... cùng với cánh Hoa vận phát động quần chúng giành quyền làm chủ ở nhiều khu vực.

Ở hướng bắc, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức phối hợp với các đơn vị chiếm được cù lao Bình Quới Tây, trụ lại đánh phản kích nhiều ngày.

Lực lượng vũ trang Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình, Bình Chánh, Tiểu đoàn 7 Củ Chi phối hợp với các đơn vị chủ lực đánh địch ở các bốt Quới Xuân, Thạnh Lộc, An Phú Đông, Tân Thời Hiệp, Đông Thạnh, Nhị Bình, Vàm Thuật...

Ở phía đông nam, hỗ trợ cho lực lượng địa phương, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác đánh chiếm đồn Phú Hữu, Lý Nhơn, đồn Đông Hòa, Long Thạnh và 6 ấp chiến lược khác. Đội 5 đột nhập cảng Nhà Bè, đánh chìm tàu trọng tải 10.650 tấn...

Đêm 17-2, ta mở cao điểm 2 của đợt 1, các đơn vị của cấp trên và lực lượng vũ trang thành phố tập kích sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh MACV, Tổng nha Cảnh sát, đài rađa Phú Lâm, gây cho địch nhiều thương vong, phá hủy nhiều máy bay; tấn công Sở chỉ huy, chiếm Sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 dù ở Tân Thới Hiệp (Hóc Môn), đột kích vào kho xăng Vũng Bèo; đánh Tiểu đoàn 30 Biệt động quân ở Phú Lâm và Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 Mỹ ở Vĩnh Lộc (Bình Chánh), phá sập cầu Gò Dưa, cầu Giồng Ông Tố, cầu kinh Thanh Đa...

Nhìn chung, các tiểu đoàn mũi nhọn và các lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, dũng mãnh tiến công và chiến đấu anh dũng trên mặt trận nội đô và ven đô. Nổi bật nhất là các đơn vị Biệt động, Tiểu đoàn Quyết thắng, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 7 Củ Chi, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

3. Tổng tiến công và nổi dậy đợt 2, từ đêm ngày 4 rạng ngày 5-5-1968 đến ngày 18-6-1968

Ở nội đô, các đội vũ trang tuyên truyền, Biệt động các đoàn thể nổi dậy ở vùng Chợ Thiếc, đường Cao Đạt, Bắc cầu chữ Y, đánh chiếm Tòa hành chính Quận 5, khu vực cầu Ông Lãnh, cầu Kho, chợ Năng Xi, đường Trần Hưng Đạo - Quận 2, khu Bàn Cờ - Quận 3, khu xóm Chiếu - Quận 4, ngã tư Bảy Hiền...

Ở hướng tây bắc, Trung đoàn Quyết Thắng phối hợp với Trung đoàn 16 của Miền tiến công tỉnh lỵ Gia Định, khu vực Gò Vấp, Tân Sơn Nhất, đánh chiếm cầu Hang, cầu Băng Ki, xóm Cây Thị, xóm Thơm, xóm Gà, sở Rác, một phần đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, làm chủ 18 ngày đêm trong thành Gia Định.

Ở hướng tây và tây nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân phối hợp với Tiểu đoàn 267, 269 (Phân khu 2), Tiểu đoàn 308 Trà Vinh, Trung đoàn 3, Sư đoàn 9, một số đơn vị và lực lượng vũ trang đoàn thể, đánh địch ở cư xá Phú Lâm, Quận 6, trường đua Phú Thọ, ngã tư Bảy Hiền, Biệt khu Thủ Đô, cầu Tre, đường Hậu Giang, làm chủ ở một số khu vực Chợ Lớn và khu vực đường Nguyễn Văn Thoại, chợ An Đông.
Ở hướng nam, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè phối hợp với các đơn vị của Phân khu 3 tiến công vào Quận 4, Quận 8, chiếm giữ cầu chữ Y, đánh Tổng nha Cảnh sát, phát triển vào Quận 1, Quận 2.

Ở hướng đông bắc, Tiểu đoàn 4 Gia Định phối hợp với Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, Trung đoàn Đồng Nai đánh địch ở khu vực ngã tư Hàng Xanh, Thị Nghè, Quận 3.

Ở hướng đông, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức phối hợp với các đơn vị của Phân khu 4 và Tiểu đoàn pháo binh, pháo kích vào Bộ Tư lệnh Hải quân, khu Tân Cảng, kho Nhà Bè, Dinh Độc Lập.

Ở hướng đông nam, Trung đoàn 10 có nhiệm vụ đánh tàu địch trên sông Lòng Tàu, Xoài Rạp và đánh các kho tàng, cơ quan đầu não của địch.

Lực lượng vũ trang Quận 8 bám trụ đánh địch ở Bến Đá, cầu Sập, Hố Bần, rạch Bà Tàng, cầu Kiệt, đường Âu Dương Lân, Phạm Thế Hiển.
Tổng kết cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, từ ngày 31-1-1968 đến hết đợt 2, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 47.000 tên địch (phần lớn là rã ngũ, đào ngũ), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh của Mỹ, bắn rơi và phá hủy hàng chục máy bay các loại, phá hủy gần 1.000 xe quân sự, trong đó có hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, đánh sập 19 cầu cống, tiêu diệt, bức hàng, bức rút 150 đồn bốt. Trong những chiến công to lớn của lực lượng vũ trang thành phố, có sự đóng góp xuất sắc của lực lượng Biệt động Sài Gòn.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã làm chấn động nước Mỹ, đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là một thắng lợi to lớn cả về chính trị, quân sự và ngoại giao.

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng với cả nước, với miền Nam thành đồng, bất khuất, với thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, chiến công của lực lượng vũ trang thành phố sẽ sống mãi và là hành trang của thế hệ trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi chúng ta và các thế hệ mai sau có thể nhìn rõ ở đó sức mạnh phi thường của lòng yêu nước tuyệt vời, của trí thông minh, sáng tạo, của nghệ thuật chiến tranh nhân dân giành thế chủ động, tạo bí mật, bất ngờ chiến lược, biết đánh và biết chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nội dậy Mậu Thân 1968.



-----------------------------------------------------------------
1. Theo hiệp đồng của ta, một bộ phận nhân viên kỹ thuật của Đài Phát thanh Giải phóng sẽ đến đọc bản "Tuyên bố của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam" và "Lời kêu gọi ngụy quân ngụy quyền", nhưng lực lượng này không thể cơ động đến mục tiêu đúng như dự kiến.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #48 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 10:57:51 am »

LỰC LƯỢNG PHÁO BINH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thiếu tướng HOÀNG QUANG THUẬN
Chính ủy Binh chủng Pháo binh


Cách đây vừa tròn 50 năm, vào thời điểm quân đội viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường lên tới trên 50 vạn, cộng với quân đội Sài Gòn và quân một số nước đồng minh của Mỹ là trên một triệu, được trang bị vũ khí hiện đại, cũng là thời điểm ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng nhiều thị xã, thị trấn và căn cứ quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây chấn động nước Mỹ và dư luận thế giới.

Cùng với các lực lượng tham gia, pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có nhiệm vụ: Chi viện cho bộ binh đánh chiếm, giữ các căn cứ thị trấn, thị xã, quận lỵ, thành phố; tiêu diệt sinh lực địch trong và ngoài công sự. Tập kích hỏa lực vào các cơ quan đầu não, sở chỉ huy các cấp, các trận địa hỏa lực, khu trung tâm thông tin, kho tàng, sân bay, bến cảng, đầu mối giao thông; làm rối loạn hệ thống chỉ huy; ngăn chặn sự tiếp tế chi viện của địch.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đã tổ chức xây dựng lực lượng pháo binh đều khắp ba thứ quân; tổ chức tăng cường lực lượng, trang bị pháo cho các mặt trận và chỉ đạo các mặt trận tiếp nhận hoặc tổ chức tiểu đoàn pháo cối nhỏ trang bị ĐKB, H12, cối 82mm; phát triển mạnh pháo binh bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, nhất là vùng trọng điểm; trang bị pháo, cối mang vác. Đến cuối năm 1967, các tỉnh có đại đội pháo, một số tỉnh có tiểu đoàn pháo, một số huyện có đại đội pháo cối; các huyện, xã vùng tranh chấp, vùng giáp ranh, vùng bao quanh căn cứ lớn đều tổ chức các khẩu đội, trung đội súng cối, trong đó có nhiều đội nữ pháo binh, làm cơ sở để pháo binh các mặt trận liên tục bắn phá các mục tiêu ở cả ba vùng rừng núi, đồng bằng và thành thị trên toàn miền Nam. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Pháo binh cũng đề nghị Bộ điều động nhiều đơn vị pháo phản lực, pháo xe kéo hành quân vào chiến trường. Đầu năm 1968, ngoài pháo binh được biên chế trong các trung đoàn, sư đoàn bộ binh, lực lượng pháo cơ động thuộc Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, mặt trận đã tăng lên đáng kể.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, Binh chủng đã chủ động chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị đường hành quân vào trận địa và đo đạc đội hình chiến đấu, xác định mục tiêu bắn; việc đảm bảo đạn dược cho chiến trường cũng được lập kế hoạch chi tiết để pháo binh có thể đánh liên tục và trên diện rộng. Hàng trăm tấn khí tài trinh sát, thông tin, phụ tùng thay thế cho xe pháo cùng thuốc men, nhu yếu phẩm được gửi vào chiến trường góp phần nâng cao khả năng chiến đấu của các đơn vị.

Do công tác chuẩn bị chiến trường và lực lượng tốt, nên pháo binh đã hình thành được thế bố trí rộng khắp, đủ sức tiến công liên tục, dài ngày.

 Hoạt động chiến đấu của pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 được chia thành 2 đợt.

Kết quả tác chiến của pháo binh trong đợt 1, từ ngày 30-1 đến ngày 31-3-1968, lực lượng pháo binh đã thực hiện 652 trận đánh hiệp đồng và độc lập lớn (trung bình mỗi ngày đánh 11 trận), tiêu diệt 14.519 quân Mỹ và Sài Gòn (chiếm 33% tổng số địch bị diệt trên miền Nam); phá hủy 1.452 máy bay các loại (chiếm 62% tổng số máy bay bị diệt trên toàn miền Nam ở 42 sân bay); phá hủy 1.431 xe cơ giới các loại; phá hủy 159 khẩu pháo hạng nặng gồm các loại 105, 155, 175 ly cùng hàng trăm khẩu pháo, cối nhỏ; bắn phá 242 kho hậu cần của địch, làm cháy 10 vạn lít xăng, hủy hàng ngàn tấn bom, đạn. Pháo binh đã tham gia đánh địch vận chuyển đường sông, bắn chìm 47 tàu chiến và tàu vận tải lớn của địch. Đặc biệt, ngày 8-2, trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long), bộ đội pháo binh bắn chìm 9 tàu, phá hủy 6 pháo, diệt 600 tên lính Mỹ; ngày 5-3, bắn chìm một lúc 6 tàu chở quân và tiếp tế trên sông Cà Mau; ngày 21-2, bắn chìm 3 tàu lớn, diệt 100 tên địch.

Tháng 4-1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết chỉ đạo tiếp tục mở đợt tiến công thứ 2. Thời gian này, địch đã có sự chuẩn bị từ trước, tập trung 2/3 lực lượng Mỹ và toàn bộ lực lượng quân đội Sài Gòn, cố giữ các thành phố lớn, nhất là xung quanh Sài Gòn.

Kết quả trong đợt 2 (từ ngày 4-5 đến ngày 7-8-1968), riêng pháo binh miền Đông Nam Bộ đã tiêu diệt trên 3.000 tên địch trong đó phần lớn là sinh lực kỹ thuật, lực lượng bảo vệ nội thành và quân cơ động Mỹ; phá hủy một số lớn phương tiện cơ động, dự trữ hậu cần, bom đạn, nhiên liệu, khống chế phá hoại một số sân bay, hải cảng quan trọng nhất của địch. Ngoài ra pháo binh còn thu hút, cầm chân một bộ phận hỏa lực cơ động của địch, căng địch ra, hỗ trợ cho những khu vực trọng điểm.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, các hình thức chiến thuật đều có những bước phát triển mới, điển hình là chiến thuật công kiên, chiến thuật vây lấn và đặc biệt là chiến thuật độc lập tập kích hỏa lực. Trong tổ chức hỏa lực đã có bước phát triển mới, vừa kết hợp các trận địa đại đội, tiểu đoàn pháo binh với tổ chức cụm pháo binh quy mô 4 tiểu đoàn pháo xe kéo; kết hợp nhiều loại pháo bắn thẳng, bắn gián tiếp, pháo mang vác, pháo xe kéo, pháo rãnh xoắn, pháo phản lực; tổ chức pháo binh nhiều cấp, tạo thành hỏa lực pháo binh nhiều tầng, nhiều lớp tập trung vào hướng, khu vực mục tiêu tiến công chủ yếu, tạo ưu thế đánh thắng địch.

 Về chiến thuật công kiên: Lần đầu tiên trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, pháo binh chi viện cho bộ binh, xe tăng đánh địch trong công sự vững chắc. Trong trận Làng Vây, bộ đội pháo binh đã giải quyết được vấn đề hiệp đồng chiến đấu cùng bộ binh, xe tăng, giữa xe tăng tiến công với hỏa lực pháo binh chi viện tiến công. Các trận chiến đấu đã đánh dấu sự phát triển của chiến thuật pháo binh.
Chiến thuật vây lấn có bước phát triển về quy mô. Ta sử dụng hai trung đoàn pháo binh 675 và 45 với 24 khẩu Đ74 và 36 khẩu ĐKB tham gia tập kích hỏa lực vào Tà Cơn và vây hãm Tà Cơn. Trong 54 ngày đêm đánh vây lấn, pháo binh đã chi viện cho các binh chủng từ vây hãm phát triển thành vây lấn. Ngoài pháo binh chiến dịch, ta còn dùng súng cối, ĐKZ đánh sân bay, bắn phá cắt tiếp tế đường bộ, hạn chế tiếp tế đường không, buộc địch sớm đưa quân giải tỏa Tà Cơn theo đúng dự kiến của ta.

Chiến thuật tập kích tuy không lớn về quy mô nhưng rất phong phú về cách đánh và sự chỉ đạo vận dụng chiến thuật, nhất là các trận luồn sâu tập kích hỏa lực trong nội thành Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, đánh vào tận cơ quan đầu não địch, tạo nên một số trận đánh của pháo binh đạt hiệu suất cao như tập kích sân bay Kon Tum với 9 viên đạn ĐKB phá hủy 16 máy bay; trận tập kích kho xăng Nhà Bè với 14 viên ĐKB làm cháy 5 triệu lít xăng; trận tập kích sân bay Pleiku với 30 viên đạn cối 82mm phá hỏng 20 máy bay. Quá trình phát triển chiến thuật tập kích đã góp phần giành quyền chủ động trên chiến trường và thúc đẩy các hình thức chiến thuật khác phát triển.

Về quy mô tuy không lớn nhưng đã có bước phát triển về cơ động lực lượng. Ta đã đưa một lực lượng lớn pháo, đạn qua vùng địch chiếm đóng, vào sát mục tiêu để bất ngờ tập kích hỏa lực vào sào huyệt của địch và phối hợp thực hiện nhiều trận tập kích trong cùng một thời điểm.

Lực lượng pháo binh tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, gồm hầu hết các loại pháo trực thuộc các Bộ Chỉ huy Miền, pháo trong biên chế của các đơn vị chủ lực, pháo của tỉnh đội, huyện đội, súng cối của dân quân xã; tổng số lực lượng pháo tham gia, chỉ tính pháo dự bị quân khu trở lên có 56 tiểu đoàn pháo cối, gồm 34 tiểu đoàn pháo mang vác và 22 tiểu đoàn pháo xe kéo, từ pháo chiến thuật đến pháo chiến dịch; đặc biệt với sự xuất hiện của các loại pháo có tầm bắn xa, uy lực lớn nhưng trọng lượng nhẹ có thể mang vác cá nhân, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội pháo binh như A12, ĐKB.

Tổng kết trong 2 đợt tổng tiến công của 6 tháng đầu năm 1968, pháo binh miền Nam đã tham gia chiến đấu 2.030 trận, bao gồm 416 trận hiệp đồng với các binh chủng bạn và 1.614 trận đánh độc lập, tiêu diệt gần 25.800 tên địch, phá hủy 385 pháo cối, 2.149 máy bay, 2.064 xe cơ giới, 508 kho tàng các loại. Kết quả chiến đấu của lực lượng pháo binh trong 2 đợt tổng tiến công và nổi dậy đầu năm 1968 đã chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng, lập thành tích to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao; góp phần thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương trong tổng tiến công và nổi dậy.

Đánh giá vai trò của lực lượng pháo binh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục miền Nam nhận xét: Trong chiến thắng chung, pháo binh đã với tới những mục tiêu quan trọng trong trung tâm các thành phố mà bộ đội đặc công chưa vào tới. Pháo binh đã đánh phá liên tục kéo dài trong lúc bộ binh phải tạm dừng lại, rút ra củng cố. Hoạt động của pháo binh đã buộc địch phải điều chỉnh lực lượng lớn về tăng cường phòng thủ các vành đai và ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự.

Từ thực tế sử dụng pháo binh trong chiến đấu và vai trò của pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, sử dụng pháo binh rộng khắp, tạo thành những đợt đánh đồng loạt, đánh liên tục trong chiến đấu và trong chiến dịch.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy được chia ra nhiều đợt, mở đầu bằng các trận bắn phá đồng loạt của hoả lực pháo binh. Suốt từ bắc Quảng Trị đến đồng bằng Nam Bộ, pháo binh đã chiến đấu với quy mô rộng lớn chưa từng có, các loại pháo các cỡ lớn, nhỏ, mang vác, xe kéo được sử dụng hầu hết trong các trận tiến công. Ngoài các đơn vị pháo binh trực thuộc các Bộ Chỉ huy chiến trường Miền và quân khu, pháo trong biên chế các đơn vị chủ lực và pháo của tỉnh đội, huyện đội đều phát huy cao nhất hoả lực tiến công địch.

Hoạt động chiến đấu của pháo binh được thực hiện theo kế hoạch của từng chiến trường đồng thời cũng được thực hiện theo ý đồ chiến lược, hình thành thế tiến công rộng lớn của hoả lực pháo binh kết hợp với các binh chủng khác trong tổng tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng đều khắp miền Nam. Nhờ việc phân công mục tiêu, bố trí lực lượng và hiệp đồng thời gian chặt chẽ, chỉ trong một đêm hoặc vài đêm, hàng loạt căn cứ địch ở rất xa nhau đều cùng bị bắn phá, làm cho quân địch bị căng ra không thể ứng cứu cho nhau hiệu quả.

Qua thực tiễn chiến đấu, pháo binh đã hiệp đồng với các binh chủng bạn và độc lập tham gia chiến đấu rộng rãi, đều khắp, đồng loạt và liên tục, đạt hiệu quả tốt. Hoạt động đều khắp và liên tục của pháo binh đã gây thiệt hại nặng cho địch, buộc chúng vào thế bị động, lúng túng giam mình trong các căn cứ phòng thủ, luôn luôn bị tiêu hao, tiêu diệt, gây căng thẳng cho địch, hạn chế sự cơ động đối phó, hoạt động lùng sục giải toả của chúng; mặt khác tạo thế tiến công của ta không bị gián đoạn, phát huy được thế chủ động tiến công, vừa đánh vừa bổ sung bồi dưỡng lực lượng, chuẩn bị cho những đợt chiến đấu lớn hơn.

Hai là, nâng cao hiệu suất chiến đấu trong mọi hình thức tác chiến.

Nâng cao hiệu suất chiến đấu đối với pháo binh là một yêu cầu của đánh tiêu diệt cần phải đạt được. Trong 2 đợt tổng tiến công, một số trận đặc biệt đạt hiệu suất chiến đấu cao như Đồng Lâm, Đông Hà, Cửa Việt, Nhà Bè, đã tiêu diệt được nhiều sinh lực có giá trị, nhất là sinh lực cao cấp của địch; phá huỷ được nhiều phương tiện kỹ thuật quân sự quan trọng (máy bay, bom đạn, xăng dầu, trạm rađa, thông tin điện tử...), làm suy yếu chỗ mạnh của địch buộc chúng phải bị động lúng túng về chiến dịch, chiến thuật; sử dụng lực lượng và đạn dược hợp lý, kết quả tiêu diệt nhiều địch; tỉ lệ và số thương vong trong các trận đánh thường thấp.

Hiệu suất chiến đấu cao của pháo binh góp phần vào thắng lợi trong từng trận đánh và trong các chiến dịch. Những tổn thất nghiêm trọng của địch trong thời gian ngắn do pháo binh ta gây ra buộc địch phải bị động đối phó, đảo lộn nhiều kế hoạch, tác động mạnh đến hoạt động chiến thuật, chiến dịch và cả về chiến lược của địch. Việc nâng cao hiệu suất chiến đấu góp phần tiết kiệm đạn trong điều kiện tiếp tế, bổ sung của ta còn gặp nhiều khó khăn.

Ba là, nhận thức đúng đắn và vận dụng linh hoạt, sáng tạo hai cách đánh của pháo binh trong mọi hình thức tác chiến.

Trong 2 đợt tổng tiến công, pháo binh chưa đánh được nhiều trận hiệp đồng tiêu diệt lớn, song đã phát triển khá phong phú ở nhiều hình thức tác chiến và có những kinh nghiệm tốt. Trong đánh hiệp đồng, pháo binh đã chi viện cho bộ binh, xe tăng đánh cứ điểm Làng Vây làm tê liệt sở chỉ huy, khu trung tâm thông tin, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ. Pháo binh còn chi viện cho bộ binh đánh nhiều trận hiệp đồng để tiêu diệt quân địch ở Khâm Đức (Khu 5); đánh địch ứng cứu xung quanh Sài Gòn và giữ cầu chữ Y phía nam Sài Gòn. Trong đánh chiếm và giữ thành phố, lần đầu tiên pháo binh chi viện cho bộ binh chiếm giữ Huế 25 ngày đêm (2-1968) và chiếm giữ từng khu, từng quận trong đợt 2 tiến công vào Sài Gòn (6-1968).

Trong đánh hiệp đồng, để thực hiện mục đích chung của trận đánh, ngoài tinh thần sẵn sàng chi viện, lực lượng pháo binh còn phải có tinh thần tích cực, chủ động, mạnh dạn đề đạt ý kiến về cách đánh với bộ binh, thường xuyên nghiên cứu cách đánh cho phù hợp với sự phát triển của tình hình.

Trước yêu cầu nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch ngày càng cao, pháo binh đã vận dụng lối đánh độc lập, giành thắng lợi lớn và có khá nhiều kinh nghiệm phong phú. Với cách đánh độc lập, pháo binh đã phát triển mạnh với nhiều hình thức sáng tạo, từ chỗ bôn tập đánh một trận rồi rút ra đến luồn sâu trụ lại đánh dài ngày; đánh sân bay địch phải ngừng hoạt động trong một thời gian như trận tập kích hỏa lực ở Tà Cơn, Phú Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất. Pháo binh ta đã đánh vào những mục tiêu trọng điểm, như đánh vào các cơ quan đầu não của địch, căn cứ hậu cần, đường giao thông huyết mạch, đánh quân cơ động địch; đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Pháo binh 3 thứ quân đã chiến đấu liên tục, đánh đều khắp với nhiều trận đánh đạt hiệu quả cao. Phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, pháo binh cũng đồng thời tiến công vào cơ sở chính quyền Sài Gòn, vào sào huyệt bọn đầu sỏ ác ôn, góp phần làm suy yếu bộ máy đàn áp phản cách mạng, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Bằng các trận đánh độc lập, chỉ trong đợt đầu tổng tiến công, pháo binh đã tiêu diệt và phá huỷ 63% số máy bay và 40% quân Mỹ trong toàn bộ số máy bay và số quân Mỹ bị diệt.

Bốn là, vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển lực lượng pháo binh có chất lượng tốt.

Để đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến đấu, nhiều đơn vị pháo binh xây dựng ở hậu phương chỉ được củng cố tổ chức, bồi dưỡng quyết tâm, huấn luyện kỹ thuật trong thời gian ngắn là đã lên đường đi làm nhiệm vụ. Trong quá trình hành quân vào chiến trường phải tranh thủ huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đến nơi phải gấp rút chiến đấu mà vẫn bảo đảm đánh thắng ngay trận đầu. Các đơn vị đang chiến đấu ở chiến trường cũng tranh thủ thời gian đệm giữa 2 đợt tổng tiến công để bồi dưỡng cán bộ và nhân viên kỹ thuật, nhằm đáp ứng yêu cầu chiến đấu; thường xuyên sơ kết, rút kinh nghiệm từng trận, từng đợt để nâng cao trình độ chỉ huy kỹ chiến thuật. Các đơn vị pháo xe kéo lần đầu tiên vào chiến trường đã có những tiến bộ rõ rệt sau những ngày chiến đấu ác liệt. Trung đoàn 675 trong quá trình chiến đấu đã phát triển thành 2 trung đoàn. Trung đoàn 675B kịp tăng cường cho chiến trường tây Trị Thiên tác chiến ở A Sầu, A Lưới v.v..

Việc một đơn vị sử dụng nhiều loại pháo ở một số chiến trường đã được thực hiện tốt như ở Tây Nguyên, Nam Bộ. Có đơn vị đã sử dụng được cả 5 loại pháo như: ĐKB, cối 120 mm, cối 82 mm, ĐKZ 75 và sơn pháo 75 mm, chứng tỏ cán bộ, chiến sĩ pháo binh ta đã thể hiện tinh thần tích cực tiêu diệt địch, tận dụng mọi khả năng vũ khí đạn dược sẵn có của chiến trường, đáp ứng được yêu cầu liên tục, kịp thời trong chiến đấu.

Có thể nói, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã thể hiện sức mạnh của nhiều thành phần lực lượng; trong đó, có sức mạnh to lớn của lực lượng pháo binh Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng ở nước ta, pháo binh đã tiến hành thắng lợi một cuộc tập kích hỏa lực chiến lược đều khắp vào nhiều mục tiêu trọng yếu trên chiến trường Nam, gây cho địch bị động, lúng túng và thiệt hại rất lớn về phương tiện chiến tranh. Sức mạnh đó là nghệ thuật xây dựng lực lượng chiến lược, tập trung lực lượng trong từng chiến dịch, từng trận đánh cụ thể, đặc biệt trong các trận then chốt, quyết định để giành thắng lợi; đồng thời là sự vận dụng phương pháp, kỹ năng tác chiến linh hoạt, sáng tạo. Với khả năng tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân binh chủng tốt, pháo binh xứng đáng với vai trò là hỏa lực chủ yếu của lục quân và là hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội ta.

Với những thành tích và kinh nghiệm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bộ đội pháo binh cùng toàn dân, toàn quân vững vàng bước vào một thời kỳ chiến đấu mới, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện tại và trong tương lai, lực lượng pháo binh Việt Nam vẫn luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong tác chiến. Những bài học về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong huấn luyện và chiến đấu của bộ đội pháo binh ngày nay.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #49 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2020, 11:21:05 am »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁC PHÂN KHU
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THẬN 1968



LÊ HOÀNG QUÂN
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Bí thư Thành ủy,
nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

PGS.TS. PHAN XUÂN BIÊN
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một mốc son lịch sử chói lọi, đánh dấu bước ngoặc lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX. 50 năm trôi qua đã có biết bao công trình tổng kết, hội thảo khoa học, sách chuyên khảo đánh giá, phân tích nhiều khía cạnh khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau về sự kiện lịch sử trọng đại này. Chúng tôi cũng đã có những ý kiến về chủ đề này. Năm nay, được Ban Tổ chức Hội thảo cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm Mậu Thân 1968 "phân công" viết tham luận về "lực lượng vũ trang các phân khu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968", xin nêu một số điểm sau đây.

1. Chuyển hướng tiến công chiến lược, từ đánh địch vùng rừng núi sang chiến trường đô thị - một sáng tạo vĩ đại

Đến năm 1967, Mỹ thực hiện "chiến tranh cục bộ" được 2 năm, quân và dân ta đã trải qua 2 mùa chiến dịch trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng chiến lược "chiến tranh cục bộ". Trên cơ sở đó, ta bước vào xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 nhằm tiếp tục nâng cao khả năng, hiệu quả tác chiến của quân ta, phấn đấu đã diệt được tiểu đoàn Mỹ tiến lên diệt trung đoàn, lữ đoàn; diệt trung đoàn, sư đoàn quân đội Sài Gòn; đặc biệt là phải diệt gọn. Để đạt được mục tiêu đó không dễ, song giả như có đạt được thì cũng chưa tạo nên được sự chuyển biến chiến lược, và như vậy thì khó tạo nên chiến thắng mang tính quyết định, mà sẽ nhùng nhằng mãi, không thể "hạ thủ" đối phương. Trong tình hình đó, những khối óc sáng tạo, những tư duy táo bạo xuất hiện, đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược từ chiến trường nông thôn, rừng núi, đánh thẳng vào các thành phố, căn cứ trung tâm, là đầu não, sào huyệt của địch. Công sức, trí tuệ của Bộ Tổng Tham mưu, Quân ủy Trung ương đến sự quyết tâm chiến lược, chỉ đạo sắc bén của Bộ Chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành chủ trương chiến lược tổng tiến công và tổng công kích Tết Mậu Thân 1968. Từ Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5 rồi tháng 6, tháng 7-1967, đặc biệt là Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1967 trong 5 ngày (20-10 đến 24-10), về cơ bản, đã hình thành chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968 là bất ngờ, đồng loạt tấn công vào các đô thị trên toàn chiến trường miền Nam. Và đến cuối tháng 12-1967, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968, sau đó thông qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương bằng Nghị quyết số 14-NQ/TW quyết định "tổng công kích, tổng khởi nghĩa", với mục tiêu giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Theo đó, hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng. Trong đó, Sài Gòn - Gia Định là địa bàn đặc biệt, là thủ phủ của các cơ quan đầu não của bộ máy chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, là chiến trường trọng điểm của hướng tiến công chiến lược trọng điểm Xuân Mậu Thân 1968.

2. Sắp xếp lại lực lượng, hình thành các phân khu của khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định

Quán triệt chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ đạo các địa phương, các đơn vị ra sức chuẩn bị mọi mặt để khi có thời cơ sẽ thực hiện tấn công địch bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Trong đó, đặc biệt chỉ đạo hướng tấn công trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới. Theo đó, ngày 25-10-1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu Miền Đông, tổ chức lại chiến trường, trong đó thành lập khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo. Khu trọng điểm bao gồm địa bàn Sài Gòn - Gia Định và các địa phương giáp ranh thuộc các tỉnh lân cận của Sài Gòn - Gia Định, được chia thành 5 phân khu để hình thành 5 mũi tấn công vào nội đô, đồng thời có một phân khu nội đô. Trở lại lịch sử giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt", thế và lực cách mạng phát triển sau những chiến thắng oanh liệt, cục diện chiến trường đã xuất hiện khả năng giành những thắng lợi lớn. Trung ương Cục, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Chí Thanh và Nguyễn Văn Linh cùng Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo kế hoạch chuẩn bị tiến công quân sự vào một số mục tiêu quan trọng trong Thành phố kết hợp nổi dậy của quần chúng, làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của địch. Đó là kế hoạch mùa khô 1964-1965, thường gọi là "Kế hoạch X". Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã nỗ lực xây dựng các loại lực lượng gồm 8 tiểu đoàn chủ lực và địa phương; hơn 3.000 quân du kích, tổng cộng lực lượng vũ trang quân khu hơn 9.000 người, tương đương với lực lượng vũ trang của toàn quân khu miền Đông . Địa bàn Sài Gòn - Gia Định được chia thành 5 cánh; mỗi cánh có phần địa bàn nông thôn và 1 phần đô thị. Chính 5 cánh này được mở rộng thêm phần địa bàn của các tỉnh lân cận, hình thành 5 phân khu (từ phân khu 1 đến phân khu 5); còn phân khu nội đô là phân khu 6. Lực lượng vũ trang của Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã được xây dựng từ 1961 đến nay đóng vai trò nòng cốt của lực lượng các Phân khu của khu trọng điểm chuẩn bị tấn công địch vào mùa Xuân 1968.

- Phân khu 1 gồm các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Gia Định) cùng với Bến Cát, Dầu Tiếng (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh) do đồng chí Trần Đình Xu làm tư lệnh.

- Phân khu 2 gồm Tân Bình, Bắc Bình Chánh, các quận 3, 5, 6 (Sài Gòn - Gia Định) và các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ (Long An) do đồng chí Ba Long, sau đó là đồng chí Nguyễn Văn Sĩ làm tư lệnh.

- Phân khu 3 gồm các quận 2, 4, 7, 8, Nhà Bè, Nam Bình Chánh, (Sài Gòn - Gia Định) và các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) do đồng chí Tư Thân làm tư lệnh.

- Phân khu 4 gồm Thủ Đức, Thạnh Mỹ Tây (Gia Định) và Long Thành - Biên Hòa, Nhơn Trạch do đồng chí Lương Văn Nho làm tư lệnh.

- Phân khu 5 gồm Phú Nhuận, Bình Hòa (Gia Định) và Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An (Bình Dương) do đồng chí Nam Thu làm Chính ủy. N.C.S tư lệnh, sau bị bắt và đầu hàng.

- Phân khu 6 phụ trách nội thành gồm lực lượng biệt động, võ trang Thành Đoàn, Hoa Vận, Phụ Vận... do đồng chí Trần Hải Phụng làm tư lệnh.

Căn cứ vào vị trí, vai trò và mục tiêu, nhiệm vụ của từng Phân khu mà bố trí lực lượng phù hợp để tạo nên những cánh tấn công thọc sâu sắc bén. Phân khu 6 làm nhiệm vụ "khai hỏa" mở đầu cuộc tiến công theo giờ G ngay tại sào huyệt của địch nên chủ yếu là lực lượng biệt động Thành và lực lượng võ trang của các cánh như Thành Đoàn làm thê đội 2, Hoa vận phối hợp... Ở Phân khu 1 từ hướng tây bắc là một hướng tấn công quan trọng với nhiều đơn vị của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, nên được bố trí lực lượng khá mạnh, gồm Tiểu đoàn Quyết Thắng 1, 2, tiểu đoàn pháo binh 8. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Miền tăng cường thêm Trung đoàn 16, Trung đoàn 88, Tiểu đoàn pháo binh 9, Tiểu đoàn đặc công 429 và lực lượng dự bị phía sau là Sư đoàn 9 chủ lực Miền. Ở Phân khu 2 từ hướng tây và tây nam gồm có Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 267 và 269 của Quân khu 8, các Tiểu đoàn 16 và 12 (đặc công), 1 tiểu đoàn pháo... Ở Phân khu 3, từ hướng nam có Tiểu đoàn 5 Nhà Bè và Tiểu đoàn 1, 2 của Long An, Tiểu đoàn Phú Lợi 2, Tiểu đoàn pháo binh Kiến Tường. Ở Phân khu 4 từ hướng đông có Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn đặc công 10, được tăng cường Trung đoàn 3, Trung đoàn 4 của Sư 7 chủ lực Miền. Ở Phân khu 5, có Trung đoàn Đồng Nai và Tiểu đoàn 3 Dĩ An.

Theo đó, lực lượng của các Phân khu của khu trọng điểm có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu quan trọng nhất nội thành Sài Gòn như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Tổng nha Cảnh sát... với sự khai hỏa là lực lượng biệt động của Phân khu 6, chiếm giữ trong 2 giờ, sau đó các Tiểu đoàn mũi nhọn từ các cánh quân đồng loạt tiến về các mục tiêu, thôi động cả thành phố cùng các lực lượng tiến công bằng mọi hình thức để giành thắng lợi quyết định.

3. Các phân khu vào trận, những trận đánh tiêu biểu, góp phần quan trọng làm nên Mậu Thân 1968 lịch sử

Theo Lời chúc Tết của Bác Hồ "Tiến lên toàn thắng ắt về ta" - hiệu lệnh tấn công Tết Mậu Thân 1968, đêm 30 rạng 31-1-1968 1, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định, đại diện là lực lượng biệt động Phân khu 6 đã đồng loạt tấn công các mục tiêu của chiến trường trọng điểm. Đội 5 biệt động tấn công Dinh Độc Lập trước giờ G 2 phút, từ 1 giờ 57 phút ngày mùng hai Tết, chống cự đến sáng ngày mùng 3 Tết, vượt xa kế hoạch 2 giờ đánh giữ mục tiêu được giao. Đã bắn cháy 2 xe Jeep, diệt gần 50 tên, 17 cán bộ, chiến sĩ đánh vào Dinh Độc Lập đã hy sinh 10 người, còn lại bị thương rồi bị bắt.

Đặc biệt và có tiếng vang xa nhất, rúng động cả nước Mỹ và thế giới là trận đánh của biệt động Phân khu 6 vào mục tiêu Đại sứ quán Mỹ. Đây là mục tiêu được Bộ Tư lệnh Tiền Phương 2 (gồm đồng chí Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng) "bổ sung" vào ngày 25-1-1968 và giao cho Đội 11 Biệt động Phân khu 6 đảm nhiệm. Dù thời gian rất ngắn, song Bộ Chỉ huy Phân khu đã tích cực chuẩn bị khá đầy đủ, để đúng giờ G, 16 cán bộ, chiến sĩ Đội 11 do đồng chí Ba Đen vốn là người lo các cơ sở cất giấu vũ khí của A30 trực tiếp chỉ huy tấn công vào đầu não quân Mỹ xâm lược. Các chiến sĩ đã tiêu diệt lính gác, bắn thủng tường rào, xông vào bên trong Tòa Đại sứ quán, chiếm tầng 1, phát triển lên đến tầng 3. Đơn vị đã chiếm giữ mục tiêu được hơn 6 giờ, chống trả quyết liệt sự phản công của đông đảo lực lượng địch; 5 binh sĩ Mỹ tử vong tại trận, 22 bị trọng thương chết tại bệnh viện và 14 bị thương. Ta hy sinh tại chỗ 15 chiến sĩ, đồng chí Ba Đen bị bắt. Đây là trận đánh tiêu biểu, làm rúng động toàn xã hội Mỹ và thế giới; làm cho nhân dân Mỹ bàng hoàng, hiểu rõ hơn về "sức mạnh", "thế và lực" thực chất của quân viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam, từ đó tạo nên sức ép dư luận mạnh mẽ, tạo khuynh hướng đòi chấm dứt chiến tranh, phong trào phản chiến của lính Mỹ...

Tại mục tiêu Bộ Tư lệnh Hải quân, đội 3 biệt động Thành gồm 16 chiến sĩ do đồng chí Bảy Lốp chỉ huy, đã chiến đấu ngoan cường từ 2 giờ đến 6 giờ sáng ngày mùng 2 Tết, diệt 12 tên địch, có 2 tên Mỹ. Nhưng tổn thất của ta quá lớn - 14 đồng chí hy sinh, 2 người bị bắt, trong đó đồng chí Bảy Lốp đã bị tên giám đốc Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn Nguyễn Ngọc Loan bắn chết trên đường phố 2.

Tại mục tiêu Đài Phát thanh Sài Gòn, đội 4 biệt động Phân khu 6 gồm 14 cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu ngoan cường ngay từ phút đầu nổ súng. Chỉ 5 phút, đơn vị đã chiếm được khu vực Đài Phát thanh ở lầu 1, nhưng không có bộ phận kỹ thuật của ta, nên không phát được Tuyên bố của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam kêu gọi chính quyền Sài Gòn, làm hạn chế tác động của chiến thắng. Sau 4 giờ 31 phút chiếm giữ mục tiêu, vượt xa kế hoạch Bộ Chỉ huy Phân khu 6 giao, 10 chiến sĩ đội 4 đã anh dũng hy sinh. Ta đã tiêu diệt được 38 tên địch, bắn cháy 1 xe bọc thép, 1 xe GMC.

Tại mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu, cụm biệt động 6-9 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ đã tiến công vào cổng số 4 ngã ba Trương Quốc Dung - Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ). Vì địch chống trả quyết liệt, ta không vào được bên trong căn cứ, nhưng các chiến sĩ biệt động đã chiến đấu anh dũng, ngoan cường chống trả địch vô cùng ác liệt, tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên, 2 xe GMC. Ta có 10 người hy sinh, 4 người bị bắt, 3 người mất tích.

Phối hợp với lực lượng biệt động của Phân khu 6, các tiểu đoàn mũi nhọn của các Phân khu trong khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định cũng như các lực lượng phối thuộc trên các hướng đã xuất kích tấn công địch bằng nhiều mũi. Tiêu biểu là lực lượng của Phân khu 1 từ hướng bắc, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng đã đánh vào căn cứ pháo binh Cổ Loa và thiết giáp Phù Đổng, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều vũ khí của địch; chiếm giữ mục tiêu trong nhiều ngày. Trong đợt cao điểm 1 của đợt 1 Tổng tiến công Mậu Thân, từ ngày 31-1 đến 8-2-1968, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng diệt 750 tên địch, bắt gần 100 tù binh, bắn cháy 22 chiến xa... Tiếp theo đợt "đệm" hay cao điểm 2 của đợt 1, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng cùng các đơn vị khác như Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng, Tiểu đoàn Gia Định 4, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 liên tiếp tấn công địch khắp các địa bàn của hướng tây bắc. Nhìn chung trong đợt 1 Tổng tiến công Mậu Thân, Phân khu 1 đã độc lập và phối hợp tác chiến 156 trận, diệt 1.803 tên địch, thu nhiều vũ khí, bức rút 15 bốt, giải phóng 12 khu ấp chiến lược, đưa hàng trăm gia đình trở về đất cũ, bám trụ, chiến đấu.

Bước vào đợt 2 (từ ngày 4-5 đến ngày 18-6-1968), lực lượng vũ trang Phân khu 1 tiếp tục tấn công địch từ hướng tây bắc, gồm Trung đoàn Quyết Thắng phối hợp với các Trung đoàn của Miền đánh địch ở khu vực Xóm Mới, Cây Xoài, An Nhơn (Gò Vấp) tiêu diệt hàng trăm tên địch; sau đó phối hợp với Trung đoàn Đồng Nai, tấn công địch ở thành Gia Định, quần nhau với địch suốt 18 ngày đêm, tiêu diệt và làm bị thương khoảng 500 tên địch. Có thể nói, Trung đoàn Quyết Thắng, đơn vị chủ công của Phân khu 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đánh sâu vào thành phố, chiếm được nhiều mục tiêu quan trọng, diệt hàng ngàn tên địch, hàng chục xe tăng, thiết giáp, máy bay. Song đã bị tổn thất gần hai phần ba quân số.

Từ hướng tây và tây nam do Phân khu 2 phụ trách. Do địch chống trả quyết liệt nên nhiều đơn vị phải chuyển mục tiêu, đánh địch tùy theo tình thế. Riêng Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã đột phá thọc sâu vào nội đô và tác chiến đạt hiệu quả cao từ Tân Nhựt (Bình Chánh) qua Phú Thọ Hòa rồi đến Trường đua Phú Thọ kịp nổ súng vào đêm mở màn chiến dịch; tấn công biệt đoàn cảnh sát dã chiến 222, chi khu cảnh sát Nguyễn Văn Thoại, trại cảnh sát dã chiến Trần Quốc Toản, phát triển qua Bà Hạt, Nguyễn Kim, Nguyễn Tri Phương - Quận 10. Đêm ngày 2-2, tiểu đoàn tổ chức mít tinh tại Ngã Bảy Lý Thái Tổ, tuyên truyền chiến thắng của lực lượng quân giải phóng. Dù địch đã liên tiếp điều quân bao vây các đại đội, các mũi tấn công của tiểu đoàn, nhưng Tiểu đoàn 6 Bình Tân vẫn kiên cường tấn công địch từ mọi nơi. Tính từ ngày 1 đến 14-2-1968, Trung đội 1, Tiểu đoàn Bình Tân đã chiến đấu liên tục, thọc sâu nhất là đến quận 3, ra Tân Nhựt, An Lạc, diệt và làm bị thương gần 500 tên địch. Đồng thời tiểu đoàn cũng bị tổn thất nặng, hy sinh, bị thương, bị bắt, mất tích 380 cán bộ, chiến sĩ. So với mục tiêu, kế hoạch đặt ra, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc với một quyết tâm cao độ. Trong đợt 2, Tiểu đoàn 6 Bình Tân được phân công phối hợp với Tiểu đoàn 267, 269 (Phân khu 2) cùng Tiểu đoàn 308 Trà Vinh và lực lượng Sư đoàn 9 chủ lực Miền tấn công vào Phú Lâm, quận 6 đến Trường đua Phú Thọ, Bảy Hiền, Biệt khu thủ đô, tiến đến quận 3. Đêm 25-5-1968, Tiểu đoàn 6 Bình Tân cùng các đội phối thuộc đã đánh chiếm cư xá Phú Lâm A, Cầu Tre, Hậu Giang và mở rộng vào nội thành cho đến đầu tháng 6 mới kết thúc. Như vậy, trong 2 đợt tổng tiến công Mậu Thân, trên hướng tây nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc vai trò tiểu đoàn mũi nhọn, ba lần tấn công vào nội thành, đánh trên 30 trận lớn nhỏ, diệt 138 tên địch và các phương tiện chiến tranh của địch. Toàn tiểu đoàn bị tổn thất khoảng hai phần ba quân số.

Ở hướng đông, đông bắc, hướng nam, các Phân khu 4, 5, 3 cũng đã phối hợp vào trận ngay từ đêm 31-1 và tham gia cả đợt hai. Tiêu biểu trong đợt 1, lực lượng vũ trang Phân khu 3 như Tiểu đoàn 2 Long An đã tiến công từ quốc lộ 4 sang cầu Nhị Thiên Đường, vào phường Chánh Hưng, Bình An (quận Cool; Tiểu đoàn 1 Long An tấn công chốt ngã ba Bến Đá, chiếm bến Phạm Thế Hiển. Tiểu đoàn Phú Lợi đánh chiếm khu vực Bình Điền, phát triển qua Phú Định (quận 6), đánh ra Đa Phước...

Trên hướng Phân khu 4 và Phân khu 5, Tiểu đoàn Dĩ An thọc sâu đánh chiếm các chi khu cảnh sát, và kiên cường đánh địch phản kích suốt cả ngày 1-2. Sau đó tiếp tục đánh địch ở xã Bình Quới Tây. Tiểu đoàn 1 Thủ Đức, cùng biệt động của huyện tấn công địch ở khu vực cầu Sài Gòn. Sang đợt 2, lực lượng Phân khu 3 gồm 4 tiểu đoàn được phân công phối hợp với Tiểu đoàn 5 Nhà Bè tấn công vào quận 4, quận 8, chiếm cầu Chữ Y. Phân khu 4 và Phân khu 5 ở hướng đông Bắc và hướng đông phối hợp với Tiểu đoàn 4 Gia Định tấn công Gò Vấp, lên Bình Hòa; Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 2 Phân khu 4 tấn công cầu Sài Gòn, quận 9 (Thủ Thiêm) và phát triển vào nội thành. Bước vào chiến dịch (từ ngày 5-5), các đơn vị được phân công đã đánh vào cầu Sài Gòn, chiếm Thạnh Mỹ Lợi, Bình Trưng. Hai tiểu đoàn Phân khu 5 đánh vào khu vực cầu Bình Triệu, cầu Bình Lợi và ngã tư Hàng Xanh, tiến đến cầu Phan Thanh Giản; pháo kích vào Tân Cảng.

Như vậy, qua 2 đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Lực lượng vũ trang các Phân khu thuộc khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định bao gồm lực lượng vũ trang của quân khu Sài Gòn - Gia Định trước đây với các đơn vị tăng cường của các tỉnh lân cận và của Miền đã vào cuộc nhịp nhàng với các chiến trường trên toàn miền Nam. Qua 2 đợt, trên các hướng tiến công, lực lượng vũ trang các phân khu đã loại khỏi vòng chiến đấu 47.000 tên địch (có gần 20.500 quân Mỹ và quân các nước đồng minh); tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 21 tiểu đoàn, 97 đại đội quân Mỹ - quân đội Sài Gòn và quân các nước đồng minh; bắn rơi và phá hủy 500 máy bay các loại; phá hủy 1.480 xe quân sự, trong đó có 630 xe tăng và thiết giáp; tiêu diệt, bức rút, bức, bức hàng 150 đồn bốt . Với kết quả ấy lực lượng võ trang các phân khu của khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định đã góp phần xứng đáng làm nên Mậu Thân 1968 lịch sử, mở ra một cục diện mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải "xuống thang" chiến tranh, làm sụp đổ chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, mở ra thời cơ để đánh cho "Mỹ cút, ngụy nhào".

4. Một vài suy nghĩ từ những người lính thuộc lực lượng vũ trang các phân khu trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định

- Lực lượng vũ trang các phân khu của khu trọng điểm trong Mậu Thân 1968, mà chủ yếu là lực lượng của quân khu Sài Gòn - Gia Định trước và sau Mậu Thân bao gồm đặc công biệt động, bộ đội địa phương, quân chủ lực rất đỗi tự hào đã có những đóng góp quan trọng, từ trí tuệ, ý chí quyết tâm, tài mưu lược, chiến đấu, dũng cảm kiên cường đến sự hy sinh cao quý làm nên chiến thắng vĩ đại của Mậu Thân, mãi mãi được ghi đậm trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Trong đó, lực lượng biệt động Thành thuộc Phân khu 6 đã mở đầu xuất sắc cuộc tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Định và các đô thị, gây chấn động lớn, "đã lập công đầu" của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Các Tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu, đặc biệt Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn 6 Bình Tân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

- Thành tích to lớn trên đây chính là kết quả của quá trình xây dựng lực lượng vũ trang của chiến trường đô thị đầy sáng tạo, nhạy bén và căn cơ. Ngay từ khi mới thành lập Quân khu Sài Gòn - Gia Định 1961, Khu ủy và Bộ Chỉ huy Quân khu đã chủ trương tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang đa dạng, vùng Củ Chi ngoại thành thì tổ chức các đơn vị tập trung; vùng ven Sài Gòn thì tổ chức du kích, tự vệ mật, hoạt động theo phương châm: đánh đau, đánh hiểm nhưng không lộ mặt, vẫn "công khai" trong vùng tạm chiếm. Sau đó tổ chức lực lượng trinh sát quân báo hoạt động nội thành và dần dần xây dựng lực lượng biệt động. Hoàn thiện ba thứ quân, ba vùng nối kết nhau: nông thôn ngoại thành, ngoại ô và nội đô. Nhờ vậy phong trào chiến tranh du kích bằng lực lượng vũ trang công khai và bí mật kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị, tạo nên ngọn đòn tấn công mạnh mẽ của cách mạng ngay tại sào huyệt của kẻ thù. Đồng thời, lực lượng biệt động Thành tiến hành những trận đánh giành thắng lợi vang dội, như Rạp chiếu bóng Kinh Đô, Khách sạn Caravelle, cư xá Brink, tàu U.S Card, Đại sứ quán Mỹ... Đặc biệt chuẩn bị "Kế hoạch X" của mùa khô 1964-1965 với 25 mục tiêu xếp loại "A" mà trong đó có 9 mục tiêu được chọn làm điểm tấn công vào Xuân Mậu Thân 1968. Công tác bảo đảm với hai đơn vị A20, A30, vận chuyển, bảo quản vũ khí được thực hiện từ "Kế hoạch X" đã được phát huy hiệu quả trong chiến dịch Mậu Thân. Như vậy Sài Gòn - Gia Định đã "đi trước" một bước", nhờ đó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

- Thắng lợi nào cũng có sự hy sinh, tổn thất. Đó là sự thật lịch sử khách quan. Không làm lại lịch sử được, nhưng lịch sử cho ta những bài học quý giá và có thể giải quyết được những hậu quả lịch sử. Bài học từ sự thành công của Mậu Thân được áp dụng trong thời kỳ kháng chiến sau đó và trong thời bình sau năm 1975 là sự sáng suốt, táo bạo tìm ra hướng tấn công mới; bí mật, bất ngờ tạo nên sức mạnh mới trong tương quan lực lượng, trong khó khăn thử thách. Trong lúc địch còn mạnh, nhất là ở Thành phố, song lại là nơi chúng rất chủ quan, sơ hở. Đánh vào đó sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, và thực tế đợt 1 chúng ta đã giành thắng lợi lớn. Trong thời bình, nhất là 10 năm đầu giải phóng, ta đã có nhiều kế hoạch để khắc phục hậu quả chiến tranh, tìm đường phát triển, song ngày càng khủng hoảng. Trong điều kiện đó Thành phố đã tìm cách đổi mới, phải đột phá, và đã thành công.

Đồng thời, từ những tổn thất của sự kiện Mậu Thân 1968 cũng cho ta những bài học bổ ích. Trước hết là nhận định, đánh giá phải chuẩn xác; phương châm, giải pháp phải phù hợp, không duy ý chí, chủ quan. Mục tiêu của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 được đặt ra quá cao, không phù hợp với tương quan lực lượng lúc bấy giờ. Sự tính toán phối hợp giữa bộ đội biệt động, các thê đội 2 hỗ trợ biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn phải vượt qua nhiều chướng ngại đã không chính xác nên không thực hiện được, làm cho biệt động Phân khu 6 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không chỉ giữ mục tiêu 2 giờ mà còn hơn nhiều, nhưng rồi phải chịu tổn thất gần như hoàn toàn. Các đơn vị mũi nhọn cũng mất hai phần ba quân số. Sau đợt 1, tình hình địch - ta đã thay đổi theo hướng có lợi cho địch, dù ta vẫn nêu cao tinh thần quyết chiến, tiếp tục giáng những đòn quyết định vào ý chí xâm lược của kẻ địch song phải chịu tổn thất nặng nề. Rõ ràng, mục tiêu cao, tính toán chưa sát, lại quyết tâm cao, nên lâm vào tình trạng "khát nước" (theo cách nói của người trong cuộc ở Sài Gòn - Gia Định sau Mậu Thân). Tổng khởi nghĩa không diễn ra như chủ trương "Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa", lại kéo dài tấn công vào đô thị, chậm chuyển hướng về vùng nông thôn rộng lớn, làm cho tình hình ngày càng khó khăn. Sau Mậu Thân 1968, Phân khu 6 cùng Khu ủy Sài Gòn - Gia Định phải trải qua cuộc "hành quân 1.000 ngày không nghỉ" 3 .

Lực lượng biệt động làm nên chiến công đầu vang dội trong Tết Mậu Thân 1968 nay không còn nữa, nhiều người hy sinh, rất ít người có mộ phần, một số "ra quân" về với đời thường gặp không ít khó khăn. Anh em còn lại, những người thân thỉnh thoảng có làm giỗ tưởng niệm những chiến sĩ đã khuất, cũng chạy vạy chung tay lo toan ít nhiều cho những người có cuộc sống thiếu thốn, nhưng có lẽ nên có chính sách đãi ngộ phù hợp, gìn giữ và phát huy đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ta.
 



-----------------------------------------------------------------
1. Ở chiến trường Thừa Thiên Huế tấn công vào đêm giao thừa, trước 1 ngày do đổi lịch.

2. Đồng chí Tư Chu (Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Phân khu 6, đã ghi dưới bức ảnh Nguyễn Ngọc Loan dí súng bắn anh Bảy Lốp "Mối thù này phải trả!". Đợt 2, Nguyễn Ngọc Loan bị bắn trọng thương.

3. Xem sơ đồ Khu di tích lịch sử của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tại huyện Mỏ Cày (Bến Tre).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM