Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:43:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8580 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #30 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2020, 02:33:26 pm »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968 -
THÀNH QUẢ CHỈ ĐẠO CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG



PGS.TS. VŨ QUANG HIỂN
Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Việt Nam thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, với tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm chiến lược đánh lâu dài và nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, đặc biệt là giành thắng lợi quyết định, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ để buộc chúng đi vào đàm phán và rút quân.

Trên cơ sở những biến chuyển của tình hình chiến trường sau hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định đưa cuộc chiến tranh nhân dân lên đỉnh cao, phát triển từ cục bộ thành toàn bộ, mở cuộc "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" trên toàn miền Nam, nhằm hướng chủ yếu là các đô thị.

Mặc dù không đạt mục tiêu tối đa, thậm chí bị tổn thất nhiều về lực lượng trong các đợt 2 và 3, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã tạo ra bước ngoặt đi xuống của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời mở ra bước phát triển có ý nghĩa chiến lược của chiến tranh nhân dân, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới với đặc điểm nổi bật là kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Đó chính là thành quả lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng, đặc biệt là chỉ đạo thực hiện phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, từng bước đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi, thống nhất đất nước đến thành công.

1. Chỉ đạo phát triển chiến tranh nhân dân từ cục bộ thành toàn bộ, giành thắng lợi quyết định

Với phong trào "Đồng khởi" (1959-1960), cách mạng miền Nam phát triển thành chiến tranh cách mạng. Để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến trước quân xâm lược là một cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới, có chiến lược toàn cầu, mà trọng tâm trong thời kỳ 1954-1975 là xâm lược Việt Nam, thì không thể chỉ cần có tinh thần quyết đánh và quyết thắng, mà còn phải biết đánh và biết thắng.

Đi từ giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn là một quy luật của đấu tranh cách mạng. Để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam cần có một thắng lợi quyết định, nhằm tạo ra bước ngoặt của chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước.

Ý tưởng giành thắng lợi quyết định bằng một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa đã xuất hiện trong tư duy quân sự của Đảng từ rất sớm, ngay trong giai đoạn Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam 1. Trung ương Cục miền Nam (tháng 1-1965) đã sớm xác định: Mỹ có thể đưa thêm quân vào miền Nam, "nên cần chuẩn bị tư tưởng thật vững vàng trong tình thế quyết thắng giặc Mỹ. Chống các loại tư tưởng ngán Mỹ, sợ Mỹ và sợ lâu dài ác liệt, ảo tưởng hòa bình".

Đúng như nhận định trên, từ năm 1965, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam, liên tiếp mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 nhằm "bẻ gãy xương sống Việt cộng", đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cùng với việc leo thang chiến tranh, trong tuyên bố Baltimore (ngày 8-4-1965), Tổng thống Giônxơn còn đề nghị "đàm phán không điều kiện" nhằm che đậy hành động xâm lược và đánh lạc hướng dư luận quốc tế.

Trong khi Mỹ đang hăm hở giành thắng lợi bằng quân sự thì Việt Nam chưa thể sử dụng giải pháp ngoại giao 2. Vì thế, cần có một thắng lợi quyết định, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Phương hướng tiến công vào thành phố được các nhà lãnh đạo Việt Nam nghĩ đến khá sớm. Trong thư của Tổng Bí thư Lê Duẩn gửi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tháng 2-1965) có viết: "Vấn đề hiện nay của chúng ta là tiếp tục mở rộng sự kiểm soát tại vùng nông thôn và chuẩn bị thực hiện một cuộc tổng khởi nghĩa. Các đô thị sẽ trở thành điểm trọng tâm cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới".

Tư tưởng giành thắng lợi quyết định tiếp tục được Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (3-1965) khẳng định. Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết về công tác chính trị tư tưởng (cuối tháng 3-1965), xác định quyết tâm đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

Tháng 4-1965, Bí thư Trung ương Cục miền Nam chỉ rõ: "Đánh một kẻ thù như đế quốc Mỹ không phải dễ dàng, không phải chỉ đem gan góc ra mà phải có đường lối chiến lược, chiến thuật giỏi" . Vì thế, cần phải thấu triệt và vận dụng sáng tạo các quan điểm cơ bản của Đảng về chiến tranh nhân dân ở miền Nam, mà trước hết là quan điểm thực tiễn. Theo đồng chí, phải vận dụng quan điểm toàn diện để đánh giá so sánh lực lượng giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc Mỹ. "Nếu tính toán đầu người, đầu súng, mật độ hỏa lực pháo binh, máy bay, cơ giới... của địch một cách máy móc, sách vở thì không thể tìm ra đáp án đúng cho các kế hoạch tác chiến của ta".

Sau những trận đầu thắng Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) và Vạn Tường (Quảng Ngãi), đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam - chỉ rõ: "Nếu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Liên Xô, trận Xtalingrát là một bước ngoặt chứng tỏ rằng quân phát xít Hítle không phải là không thể đánh bại được, thì chúng ta có thể coi trận Vạn Tường là bước ngoặt, chứng minh một cách hùng hồn rằng Quân giải phóng miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại được quân đội Mỹ trong điều kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về binh khí, hỏa lực so với Quân giải phóng".

Phong trào "Thi đua đánh Mỹ, diệt ngụy" dâng lên sôi nổi khắp miền Nam 3, chứng tỏ "quân và dân ta ở miền Nam có đủ khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ dù chúng đưa thêm vào miền Nam mấy chục vạn quân nữa". Đó là cơ sở thực tiễn để Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1965) xác định chủ trương và nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng giặc Mỹ.

Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từng bước bẻ gãy các cuộc phản công chiến lược quy mô lớn của Mỹ trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Đại sứ C. Lốt (Cabot Lodge) báo cáo về Mỹ rằng: "Mỹ không tiêu diệt được một đơn vị chính quy nào của Việt cộng, không ngăn chặn được du kích phát triển, lực lượng Mỹ không khắc phục được tình hình ngày càng xấu đi, quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng và vẫn bị động".

Tháng 6-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương bàn định một bước đi có ý nghĩa quyết định, khai thác "yếu tố chính trị" 4 diễn ra ở Mỹ năm 1968, tạo bước ngoặt của cuộc chiến tranh, nhằm làm cho Mỹ phải nản chí và bỏ cuộc. Trong các tháng 7 và 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu bắt đầu xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị và Chỉ thị của Quân ủy Trung ương. Trong tương quan lực lượng về quân sự trên chiến trường, việc đánh tiêu diệt cấp chiến dịch, chiến lược là điều không khả thi, mà cần phải "tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công, đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung chuyển nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam".

Tháng 12-1967, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Nghị quyết của Bộ Chính trị được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1968) thông qua với tiêu đề Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trung ương Đảng quyết định "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Nghị quyết Trung ương 14 nhấn mạnh: "cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp, kết hợp tiến công quân sự với tiến công chính trị, thực hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược và phối hợp với tiến công ngoại giao. Đó là một giai đoạn bao gồm nhiều chiến dịch lớn của lực lượng vũ trang cách mạng ở các vùng chiến lược quan trọng kết hợp với những cuộc nổi dậy dưới nhiều hình thức của quần chúng nhân dân cách mạng ở các thành thị và vùng nông thôn còn bị tạm chiếm, bao gồm những cuộc công kích kết hợp với những cuộc khởi nghĩa tại "đô thành" của địch và các thành phố lớn...".

Phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo và được Quân uỷ Trung ương nhất trí đã xác định ba chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng và Huế. Hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh 5.

Như vậy, ý đồ giành thắng lợi quyết định của Đảng xuất hiện từ những năm chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" và hình thành rõ nét sau thắng lợi trong hai mùa khô chống chiến lược "chiến tranh cục bộ". Từ giữa năm 1967 đến đầu năm 1968, Trung ương Đảng ngày càng thấy rõ sự cần thiết và đi đến quyết định táo bạo, độc đáo, chọn hướng chiến lược hiểm và dùng cách đánh mới, bất ngờ giáng đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho cuộc chiến tranh cách mạng phát triển từ cục bộ thành toàn bộ.




--------------------------------------------------------------
1. Hội nghị Bộ Chính trị (cuối năm 1962) phân tích tình hình, chỉ rõ khả năng "cần phải ra sức súc tích và biết che giấu lực lượng, nắm vững thời cơ để có thể tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, làm thất bại âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.24, tr.908). Tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định "tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ là hướng phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam để đạt tới toàn thắng" trước khi Mỹ quyết định có điều quân Mỹ tới cứu chế độ Việt Nam Cộng hòa hay không. Trong khi vẫn khẳng định phương châm chiến lược đánh lâu dài, Hội nghị chủ trương cần một nỗ lực tối đa nhằm "tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới". Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của các lực lượng vũ trang tại miền Nam là "làm tan rã quân đội tay sai, công cụ chủ yếu của chế độ địch, tạo điều kiện để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền phản động ở miền Nam" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.822, 839, 840).

2. Việt Nam quyết tâm chiến đấu với khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và chưa đề cập tới vấn đề đàm phán. Lập trường cứng rắn đó thể hiện trong Tuyên bố bốn điểm ngày 8-4-1965 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: 1- Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam; 2- Mỹ rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam; 3- Mỹ thừa nhận: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một thực thể chính trị để thương lượng; 4- Hai miền Nam, Bắc Việt Nam không có liên minh quân sự với nước ngoài. Công việc nội bộ của Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết (Báo Nhân dân, số ra ngày 5-4-1965).

3. Sau chiến thắng Vạn Tường, quân và dân miền Nam tiếp tục tiến lên giành được những thắng lợi mới ở Đất Cuốc, Plâyme, Bàu Bàng,...

4. Nội bộ giới cầm quyền và giới chính trị Mỹ có sự phân hóa. Trong khi phái "chủ chiến" yêu cầu tăng quân và mở rộng đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì phái ôn hòa lại muốn tìm một giải pháp hòa bình. Năm 1968 là năm diễn ra cuộc bầu cử tổng thống ở nước Mỹ. Đây là lúc sức ép của vấn đề chiến tranh Việt Nam ở Mỹ gia tăng, phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ lên mạnh.

Trước Tết Mậu Thân 10 ngày, Quân giải phóng nổ súng mở màn Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, tấn công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, buộc Mỹ điều lực lượng chủ lực đối phó, đánh lạc hướng để giữ bí mật hướng trọng điểm.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #31 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2020, 02:47:49 pm »

2. Chỉ đạo nâng đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận, tạo điều kiện và phối hợp với các mặt trận quân sự và chính trị, chuẩn bị giành thắng lợi quyết định

Trên cơ sở thắng lợi về quân sự và chính trị trên chiến trường trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967, nhận thấy khả năng phát huy vai trò tích cực và chủ động của đấu tranh ngoại giao, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1967) quyết định nâng đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận 1. Đó là một trong những quyết sách quan trọng thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược và giữ thế chủ động trong đấu tranh ngoại giao, nhằm phối hợp và hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường 2.

Không thể "bẻ gãy xương sống của Việt cộng", lại bị động trước những động thái ngoại giao của Việt Nam, giới cầm quyền và giới chính trị Mỹ có sự phân hóa. Trong khi phái "chủ chiến" yêu cầu tăng quân và mở rộng đánh phá miền Bắc Việt Nam, thì phái ôn hòa lại muốn tìm một giải pháp hòa bình. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tỏ ra chán nản về kết quả hoạt động quân sự cũng như những tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và lo ngại khả năng có thể mở rộng chiến tranh với các đồng minh của Việt Nam. Mắc Namara nhiều lần đưa ra kiến nghị rút quân Mỹ về nước 3. Ngược lại, phái "diều hâu" lại muốn tăng cường chiến tranh. Tại cuộc họp kín với Ủy ban quân lực của Quốc hội Mỹ (ngày 16-11-1967), tướng Oétmolen cho rằng, Mỹ có thể quét sạch đối phương ra khỏi miền Nam Việt Nam trong hai năm nữa. Oétmolen đề nghị Tổng thống Giônxơn tăng thêm quân để giành chiến thắng về quân sự ở Nam Việt Nam.

Cho dù cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền Mỹ kéo dài, nhưng tình hình thực tế buộc Tổng thống Giônxơn phải tính đến việc xuống thang chiến tranh: không tăng thêm nhiều quân tới Nam Việt Nam, không đưa lục quân mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, đồng thời chấp thuận cho Mắc Namara nhờ một số nhân vật làm trung gian tiếp xúc với Hà Nội để đàm phán 4. Tư duy của Giônxơn bắt đầu xuất hiện bước lùi đáng kể.

Trong khi đó, dư luận thế giới đều tập trung ủng hộ lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc. Nhiều đồng minh của Mỹ như Pháp, Hà Lan, Bỉ, Na Uy..., nhiều nhân vật quốc tế quan trọng như Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Đức Giáo hoàng,... đều không đồng tình với lập trường của Mỹ. Chính Giônxơn cũng thấy rằng: "Tất cả những người nào trên thế giới được Hoa Kỳ vận động hoặc tự chủ động làm, dù là người Ba Lan, người Ý, người Thụy Điển, người Ấn Độ, ông Tổng Thư ký Liên hiệp quốc hay các nhà báo nào đó đều có tư tưởng cho rằng điều mà Việt Nam đề nghị là duy nhất đúng chứ không phải điều Hoa Kỳ đề nghị là đúng".

Mặc dù tình hình chiến trường, quốc tế và trong nước đều không có lợi cho chính quyền Mỹ trong việc theo đuổi cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng phái "diều hâu" vẫn quyết giành thắng lợi bằng quân sự. Con đường đàm phán hòa bình đã xuất hiện chập chờn trong một số người có đầu óc thực tế ở Mỹ, nhưng vẫn còn xa vời. Tổng thống Giônxơn vẫn chưa có quyết định dứt khoát, trước những đề nghị của Mắc Namara.

Ngày 28-12-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố với nội dung: sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề có liên quan.

Từ chỗ buộc đế quốc Mỹ "có thể nói chuyện" (ngày 28-1-1967) đến "sẽ nói chuyện" (ngày 28-12-1967) là một bước tiến mới của ngoại giao Việt Nam. Việc đàm phán với Mỹ không chỉ còn là một khả năng, mà đã được khẳng định. Tuyên bố đó có tác dụng đẩy Mỹ tiếp tục đi vào thế xuống thang không thể từ chối, đồng thời phối hợp với dư luận thế giới đang đòi Mỹ chấm dứt ném bom để đi vào đàm phán, nhưng điều quan trọng hơn là những động thái ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong năm 1967 đã làm cho Mỹ mất phương hướng, không thể đánh giá đúng khả năng đánh lớn của Việt Nam, giúp Việt Nam che giấu ý đồ tiến công chiến lược vào dịp Tết Mậu Thân 1968 và tạo bất ngờ cho phía Mỹ.

Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của đấu tranh ngoại giao "phải nhằm tiến công địch trong lúc chúng đang lúng túng, bị động cả về quân sự và chính trị; đồng thời phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Phải chuẩn bị những phương án cần thiết để khi tình hình bắt buộc địch phải thương lượng với ta thì ta có thể luôn luôn giữ vững thế chủ động trong quá trình đàm phán".

3. Chỉ đạo mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đánh thẳng vào sào huyệt của đối phương, mở ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được chuẩn bị tích cực. Tết Mậu Thân 1968, các lực lượng vũ trang giải phóng và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy, nhằm hướng chủ yếu là các đô thị, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Theo sách giáo khoa của Học viện Quân sự West Point (Mỹ), "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng tiến công là tình báo của đồng minh (tức tình báo Sài Gòn - T.G) đã thất bại ngang với trận Trân Châu Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành được sự bất ngờ hoàn toàn".

Bằng một chiến lược tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam: kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng; kết hợp ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp làm chủ để tiêu diệt địch với tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ..., cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã tận dụng được yếu tố bí mật, bất ngờ, giành nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện.

Mặc dù không đạt được kết quả tối đa, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới. Theo Kítxinhgiơ, sự kiện Tết Mậu Thân đã "làm cho toàn bộ chiến lược đang lên của Hoa Kỳ bị lật nhào".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chứng tỏ nhân dân miền Nam không ủng hộ Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn thừa nhận: "Các khu phố dân sự lại bỏ ngỏ cho địch thao túng, để cho chúng dấy động lên những hoạt động chính trị trong suốt thời gian chiếm đóng" . Hãng AP ngày 6-2-1968 đưa tin: "Hai nhà ngoại giao Nhật chứng kiến cuộc tấn công của cộng sản vào Huế nói: họ có cảm tưởng là dân chúng đồng tình với Việt cộng. Họ cho biết rằng khi Việt cộng vào Huế thì họ được quần chúng hoan nghênh... Dân chúng không có gì tỏ ra là sợ hãi và hình như họ quá thân thuộc". Hãng AFP ngày 7-2-1968 cho biết: tại thành phố Huế "bộ máy cổ động chính trị và hệ thống hoạt động bí mật ở nội thành của Mặt trận đã bắt tay hoạt động. Rõ ràng là Mặt trận có thể tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này và họ có thể huy động rất nhiều người tự nguyện ra làm việc cho họ".

Sự kiện Tết Mậu Thân đã làm nản chí những người thuộc phái diều hâu ở Mỹ. Cliffort, một con người "cứng rắn", kẻ "diều hâu" nhất trong phái "diều hâu", được Tổng thống Giônxơn chọn thay cho Mắc Namara làm Bộ trưởng Quốc phòng (ngày 1-3-1968), lại chính là người muốn Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh một cách cương quyết nhất. Tại cuộc tham khảo ý kiến ngày 25 và 26-3-1968, "phần đông nhóm cố vấn cấp cao tán thành chấm dứt leo thang và có những biện pháp đi đến tách ra khỏi chiến tranh, đi từ hạn chế ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến giảm các lực lượng Mỹ và chuyển giao nhiều trách nhiệm chiến tranh cho Việt Nam Cộng hòa". Tết Mậu Thân "làm cho phe chống đối mạnh lên. Mùa hè năm 1968, những người Mỹ nghĩ rằng, gửi quân sang Việt Nam là một sai lầm đã vượt xa những người ủng hộ" . Cựu Tổng thống Mỹ Aixenhao nói: "Tôi chưa bao giờ gặp phải một tình thế đáng buồn như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về một cuộc chiến tranh" .

Trước sức ép từ nhiều phía, Tổng thống Giônxơn quyết định không tăng thêm quân Mỹ tới Việt Nam theo yêu cầu của Oétmolen. Ngày 31-3-1968, Giônxơn tuyên bố xuống thang chiến tranh: ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; không tham gia tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai; sẵn sàng đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đi đến kết thúc chiến tranh; mở rộng lực lượng quân sự của Sài Gòn để họ có thể dần dần thay thế vai trò của Mỹ.

Tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra của Giônxơn chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn bắn phá miền Bắc và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), nhưng nó thể hiện rõ sự thay đổi chiến lược của Mỹ: xuống thang chiến tranh. Để thúc đẩy xu thế đó và phối hợp với hoạt động quân sự trên chiến trường, ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện" 5.

 Như vậy, từ chỗ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô ngày càng lớn, cường độ ngày càng ác liệt, đế quốc Mỹ đã phải quyết định xuống thang chiến tranh, đơn phương ngừng ném bom và ngồi vào bàn đàm phán. Từ chỗ ồ ạt đổ lực lượng quân sự vào miền Nam để tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", Mỹ phải tính đến việc rút quân viễn chinh khỏi miền Nam bằng cách tuyên bố "phi Mỹ hoá" chiến tranh, tiến tới thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Những động thái đó chứng tỏ bước ngoặt đi xuống của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tướng Oétmolen, Tổng Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam thừa nhận: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề" . Nhà sử học Mỹ G. Kôncô (Gabriel Kolko) đánh giá thắng lợi của Tết Mậu Thân 1968: "Cuộc tiến công đã đem lại tất cả những quá trình này đến đỉnh điểm và theo quan điểm này Cộng sản đã đạt tới một lợi thế quyết định trong toàn bộ cuộc chiến đấu của họ".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là thành quả chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng, một thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công và nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, của nghệ thuật tạo bất ngờ trên cả ba phương diện: chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; có ý nghĩa chính trị và quân sự to lớn, làm cho ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị lung lay, "tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh", đưa chiến tranh cách mạng Việt Nam phát triển sang thời kỳ mới với cục diện "vừa đánh vừa đàm" và đặc điểm nổi bật là sự kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng".





--------------------------------------------------------------
1. Nghị quyết Hội nghị 13 khẳng định: "Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động". Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của mặt trận ngoại giao là "cần tập trung vào khẩu hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.28, tr.174, 176).

2. Từ năm 1966 trở về trước, phía Việt Nam nhiều lần tuyên bố đòi Mỹ phải rút hết quân ra khỏi miền Nam trước khi có bất cứ một cuộc nói chuyện nào giữa Việt Nam và Mỹ, thì giờ đây, sau khi đã tạo được thế và lực trên chiến trường, ngày 28-1-1967, thực hiện sách lược đấu tranh mới, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố "có thể nói chuyện" với Hoa Kỳ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3. Đầu năm 1967, Mắc Namara kiến nghị với Tổng thống Giônxơn về việc ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam phía trên vĩ tuyến 20. Tháng 8-1867, ông nói tại Ban Quân lực Thượng nghị viện: "Tính chất khốc liệt và kéo dài của cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam tạo ra mong muốn phải thay đổi nó bằng một kiểu oanh kích mới chống Bắc Việt Nam. Nhưng dù mong muốn thế nào, một sự thay đổi như vậy đối với tôi là hoàn toàn ảo tưởng. Theo đuổi mục tiêu này không chỉ là điều vô vọng mà còn mạo hiểm sinh mạng Mỹ và dân tộc chúng ta, đó là điều tôi không thể không kiến nghị" (Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.287). Tháng 11-1967, Mắc Namara lại kiến nghị với Tổng thống Mỹ "ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. Tuyên bố không tiếp tục gửi quân sang miền Nam Việt Nam và xem xét những cuộc hành quân quân sự của Mỹ nhằm giảm bớt thương vong, giảm bớt sự tàn phá đất nước Việt Nam và chuyển vai trò ngày càng lớn lao cho lực lượng quân sự miền Nam Việt Nam" (Don Oberdorfer: Tết, Nxb. Tổng hợp An Giang, 1998, tr.58-61).

4. Giônxơn cho Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara, Bộ trưởng Ngoại giao Đin Ratxcơ dùng Kítxinhgiơ thông qua Maccôvích va Ôbrắc (là hai người Pháp) tiếp xúc với Hà Nội trình bày quan điểm của Mỹ về chấm dứt ném bom để đàm phán (kế hoạch Pensyvannia). Kế hoạch này kéo dài 2 tháng, nhưng không thành. Tuy nhiên, nhóm chủ hòa đề nghị duy trì kênh tiếp xúc đó và đưa thành đề nghị công khai với "công thức San Antôniô" - thể hiện qua tuyên bố của Giônxơn ngày 29-9-1967 tại Hội nghị lập hiến toàn quốc tại San Antôniô: "Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hành động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới cuộc thảo luận có hiệu quả".


5. Sau khoảng một tháng trao đổi ý kiến về địa điểm cuộc tiếp xúc Việt - Mỹ, ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán chính thức tại Pari giữa hai đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ bắt đầu. Đến tháng 11-1968, Mỹ ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Pari với sự tham gia của bốn bên khai mạc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #32 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2020, 01:29:11 pm »

NHẬN DIỆN THẦN KHÍ LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN MẬU THÂN 1968



PGS.TS. TRẦN VIẾT LƯU
Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Tuyên giáo Trung ương


1. Nhớ về một số mùa xuân hào hùng của dân tộc

Mùa Xuân năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, thực hiện lời thề: "Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng"; nhờ đó hiệu triệu được nghĩa khí muôn dân, quét sạch quân Đông Hán (Trung Quốc), lấy lại nền tự chủ cho dòng dõi Vua Hùng. Nối tiếp truyền thống của Hai Bà Trưng, Bà Triệu cũng tỏ rõ chí khí của người phụ nữ Việt Nam với câu nói nổi tiếng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở Biển Đông, quét sạch quân Ngô, cởi ách nô lệ chứ không chịu làm tì thiếp người". Mùa Xuân năm 542, Lý Bí cùng các nghĩa binh vùng dậy đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương (Trung Quốc); đến mùa Xuân năm 544, sau hai lần đập tan đòn phản công của giặc, Lý Bí tự xưng Hoàng đế (đặt hiệu là Lý Nam Đế), lấy tên nước là Vạn Xuân, với lòng mong ước non sông gấm vóc này mãi trường tồn, hưng thịnh. Mùa Xuân Mậu Tuất 1418, trong cảnh nước nhà rên xiết dưới ngọn lửa hung tàn của giặc Minh, tại nơi núi rừng hiểm trở, hoang vắng của xứ Thanh, Lê Lợi và 18 nghĩa sĩ đã "cắt máu ăn thề", quyết lấy lại giang sơn gấm vóc. Sau 10 năm "nếm mật nằm gai", đốm lửa Lam Sơn đã bùng lên thành cơn bão táp quét sạch bóng quân xâm lăng, mang lại thái bình cho muôn dân. Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa của Hoàng đế Quang Trung đã khiến cho quân Thanh xâm lược "chích luân bất phản, phiến giáp bất hoàn". Sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là bản anh hùng ca bất diệt, mang thần khí của lịch sử hào hùng qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

2. Kết nối mạch nguồn lịch sử để tái hiện thần khí cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai ở thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt đã phát đi bài "Thơ Thần" trên phòng tuyến sông Như Nguyệt "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Ở thế kỷ XIII, trước vó ngựa hung hãn của quân Mông - Nguyên, Trần Hưng Đạo đã dồn hết tâm lực viết nên Hịch tướng sĩ: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa, cũng nguyện xin làm". Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã viết trong Đại cáo bình Ngô: "Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc - Nam cũng khác". Thế kỷ XVIII, Quang Trung đã khích lệ tinh thần tướng sĩ trước khi bước vào trận quyết chiến với quân Thanh ở Thăng Long: "Đánh cho chúng biết nước Nam anh hùng là có chủ". Đó không còn là lời của riêng Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi hay Quang Trung, mà đó chính là hồn thiêng sông núi qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc Việt Nam.

Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang ấy, ngày 2-9-1945, thay mặt nhân dân cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trong đó có câu kết: "Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Cơ sở vững chắc để Bác Hồ tuyên ngôn đanh thép như vậy, chắc chắn là vì Người đã thấy rõ được sức mạnh truyền thống lịch sử từ cội nguồn dân tộc (tác phẩm đầu tiên Người viết khi về Pác Bó chính là cuốn Lịch sử nước ta), sức mạnh lịch sử của đồng bào ta đã được đốt thành ngọn lửa thần kỳ trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Mùa thu Ất Dậu 1945, với những thứ vũ khí rất thô sơ, với một đội quân chính quy mới được thành lập còn non trẻ về kinh nghiệm trận mạc, còn rất mỏng về lực lượng, nhưng nhờ có sự hậu thuẫn của toàn dân, chúng ta đã giành được chính quyền, đó là điều kỳ diệu mà lịch sử Việt Nam viết nên trong những trang sử đấu tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX, là ánh hào quang giữa đêm đen chủ nghĩa thực dân, gieo niềm tin cho những dân tộc bị xiềng xích vùng lên giải phóng, thay đổi thân phận. Lời tuyên ngôn đanh thép ấy, lập tức linh nghiệm ngay khi dân tộc ta buộc phải cầm súng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Chiến thắng Điện Biên Phủ là nấc thang mới của ý chí sắt thép từ trong lòng những người áo vải, yêu quê hương, đất nước đã "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa", "lấy thân mình lấp lỗ châu mai", ôm súng xông lên ào ào như vũ bão, buộc lũ giặc phải giương cờ trắng trên cái mà chúng gọi là "pháo đài không thể công phá". Chiến thắng Điện Biên Phủ như hồi kèn thắng trận, như khúc khải hoàn ca không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là tiếng nói của lịch sử nhân loại, bởi sau đó mấy năm đã có gần 20 nước ở Mỹ Latinh và châu Phi vùng lên giành độc lập.

3. Tết Mậu Thân 1968 - Tết của niềm tin tất thắng

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã chủ động chuẩn bị cho ván bài quân sự, chính trị, hòng lấy miền Nam Việt Nam làm "chốt chặn" cản bước phát triển của phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Khi quân Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Thay vì tôn trọng Hiệp định Giơnevơ, thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước Việt Nam, chính quyền Mỹ - Diệm đã dựng lũy thép gai, nhà tù, lê máy chém khắp miền Nam tàn sát dã man đồng bào ta, bắt đồng bào ta phải "tố cộng, diệt cộng"; ngăn cách lòng dân với Đảng, chia cắt lâu dài non sông nước Việt.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (năm 1959) đã tạo ra bước ngoặt của cách mạng miền Nam. Phong trào Đồng khởi vào cuối năm 1959, đầu năm 1960 là luồng sinh khí mới, báo hiệu thắng lợi tất yếu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Mùa Xuân Mậu Thân 1968, cả miền Nam Việt Nam vùng lên quật khởi, bên ngoài đánh vào, bên trong nổi dậy; làm rung chuyển bộ máy chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai, khiến cho Lầu Năm Góc bàng hoàng, sửng sốt, mở ra một bước ngoặt mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của đồng bào hai miền Nam - Bắc Việt Nam. Cho dù cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 chưa giải phóng được miền Nam, nhưng sự kiện này như ngọn lửa bất diệt, thể hiện khát vọng của một dân tộc với chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" trong thời đại Hồ Chí Minh. Sau sự kiện Mậu Thân 1968, đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari. Nếu như khi quân Mỹ mới đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, quân và dân ta không hề run sợ, dám "nắm lấy thắt lưng địch mà đánh", thì trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dân tộc ta đã cho đế quốc Mỹ thấy rằng, đất này là cõi thiêng của lòng ái quốc, nếu quân xâm lược nếu liều lĩnh xông vào chắc chắn sẽ "không có đường ra".

4. Đôi điều suy ngẫm cho đất nước hôm nay và mai sau

Ở nước Mỹ, có một bức tường đá hình chữ V (gọi là Bức tường tưởng niệm chiến tranh Việt Nam) có ghi danh hơn 58 ngàn lính Mỹ tử nạn hoặc mất tích trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ở Việt Nam, có vô số nghĩa trang, trong đó lớn nhất là Nghĩa trang Trường Sơn, có nhiều tượng đài chiến thắng, nhưng đáng lưu ý nhất là Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam. Chiến tranh qua đi, để lại sự mất mát, đau thương cho người dân vô tội. Tết Mậu Thân 1968, Tết của lòng quả cảm, nhưng cũng là Tết của sự mất mát, hy sinh vô bờ bến; khắp cả miền Nam khi đó ào ào nổi dậy như triều dâng thác đổ... khiến cho quân thù không kịp trở tay. Từ trạng thái quân thù muốn tìm mọi cách để đẩy càng xa càng tốt lực lượng cách mạng ra khỏi thành thị, thì chỉ trong khoảnh khắc giao thừa Mậu Thân 1968, tiếng súng của quân ta như hồi kèn xung trận, đưa khí thế cách mạng đến mọi nơi, mọi chỗ trên khắp miền Nam Việt Nam, đẩy quan thầy Mỹ và bè lũ tay sai vào thảm lửa. Nội các Sài Gòn lục đục thay quân đổi tướng, liên minh Mỹ - chính quyền Sài Gòn đổ vỡ niềm tin, chính trường nước Mỹ sôi sục. Thế cờ của Mỹ tại Nam Việt Nam từ đó lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, trụ không được muốn rút cũng không xong. Cảm nhận được kết cục bi đát, đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari để tìm đường rút lui trong danh dự. Cái gì đến rồi cũng phải đến, như lời tiên tri của Bác Hồ ngay ở đầu bản Di chúc thiêng liêng của Người: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn" . Niềm tin tất thắng ấy như một sức mạnh tinh thần, tiếp thêm sức mạnh nội sinh cho dân tộc "Tiến lên toàn thắng ắt về ta" trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Giờ đây, sau nửa thế kỷ diễn ra sự kiện Mậu Thân 1968, hai nước Việt - Mỹ đã khép lại quá khứ đau thương, để "hướng tới tương lai". Trong chuyến thăm Việt Nam mới đây (12-11-2017), Tổng thống Mỹ đã phát biểu: "Việt Nam là một trong những điều kỳ diệu trên thế giới". Chúng ta cảm ơn những ai đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ chân thành, tôn trọng những ai có lời khen khích lệ, nhưng chắc chắn không vì thế mà kiêu ngạo, ngược lại sẽ luôn ngẩng cao đầu, kiên định trên dặm trường thiên lý. Chúng ta đi lên từ điểm tựa của hào khí ngàn năm giữ nước và dựng nước, dũng mãnh như thuở nào Phù Đổng nhổ tre làng đánh đuổi giặc Ân.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #33 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2020, 01:34:02 pm »

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 TRONG HÀNH TRÌNH
ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC



TS. VĂN THỊ THANH MAI
Phó Tổng biên tập Tạp chí Tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 "là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước". Sự kiện Mậu Thân là một nhân tố chủ yếu, quyết định buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán Pari, mở đầu cho những thắng lợi quan trọng và cơ hội hòa bình, thống nhất đất nước Việt Nam.

Bị sa lầy trong cuộc chiến ở Việt Nam, song vẫn còn binh lực mạnh và chưa muốn xuống thang chiến tranh, nên đế quốc Mỹ càng điên cuồng muốn dốc toàn lực để phá thế bế tắc. Tuy nhiên, thắng lợi của quân, dân miền Nam trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đã làm thất bại một bước quan trọng chương trình "bình định" của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, khiến Mỹ "bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ" và lâm vào thế bị động. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4-1967 chủ trương tiếp tục phát huy thắng lợi và chuẩn bị mọi mặt để đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi mới. Tháng 6-1967, Bộ Chính trị tiếp tục thảo luận kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 và nhận định: về phía ta, "thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn" . Theo đó, Hội nghị dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn, phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng; đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.

1. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp. Thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận; quyết định lựa chọn phương án tiến công mới, bất ngờ - đó là đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Sau Hội nghị này, tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta; trong đó, chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Bộ Chính trị quyết định động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc tập trung và nỗ lực đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng "tổng công kích và tổng khởi nghĩa" để giành thắng lợi quyết định.

Đầu năm 1968, các điều kiện về chính trị, quân sự, ngoại giao để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã hội đủ. Trong thư gửi Trung ương Cục miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: "Từ ba, bốn năm nay ta đã chuẩn bị lực lượng và thế trận cho trận quyết chiến chiến lược này. Song vì nhiều lý do, lực lượng ta chuẩn bị chưa đầy đủ. Tuy vậy, như Trung ương đã phân tích, khi có nhiều thời cơ thuận lợi, nếu chúng ta biết làm và làm đúng, có sự nỗ lực vượt bậc thì lực lượng ít cũng có thể tạo nên sức mạnh, bảo đảm giành thắng lợi rất to lớn, rất quan trọng" . Tiếp đó, tháng 1-1968, Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 về quyết định thực hiện "tổng công kích - tổng khởi nghĩa". Theo đó, hướng tiến công chủ yếu là đô thị; trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế; mục tiêu tiến công là các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các trung tâm chỉ huy, các hậu cứ, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa phá hủy phương tiện chiến tranh của chúng; phương châm tiến công là quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng; thời gian tiến công được dự kiến trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân 1968.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và nêu cao tinh thần, ý chí cách mạng tiến công, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, quân và dân ta trên toàn miền Nam đã tiến công và nổi dậy tại các thành phố, thị xã, trọng tâm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, gây cho địch tổn thất lớn. Do bị bất ngờ, địch bị động, đối phó lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược; quân ta đã đánh chiếm và làm chủ nhiều địa bàn trong nhiều ngày.

Tại Sài Gòn - Gia Định, ta tiến công vào các mục tiêu quan trọng: Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh hải quân, Đài Phát thanh Sài Gòn, Tổng nha Cảnh sát, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất... Tại Thừa Thiên Huế, lực lượng vũ trang tiến công vào 40 mục tiêu trong nội, ngoại thành, giải phóng phần lớn thành phố với trên 90% số dân; đánh chiếm hầu hết các vị trí quân sự, đầu não của địch, các đồn bốt, căn cứ hậu cần (trừ căn cứ Phú Bài); tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội và chính quyền địch, đánh chiếm hai nhà lao và giải thoát trên hai ngàn chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước đang bị địch giam cầm; làm chủ gần hết thành phố Huế, giải phóng đại bộ phận nông thôn, v.v.. Tại thành phố Đà Nẵng, đêm 29 rạng ngày 30-1-1968, lực lượng pháo binh, đặc công, bộ binh, biệt động đánh phá các sân bay, trận địa pháo, kho tàng; chiếm một số mục tiêu trong thành phố để hỗ trợ cho quần chúng từ bên ngoài kéo vào phối hợp với quần chúng bên trong nổi dậy giành chính quyền. Tuy nhiên, do việc nắm tình hình chưa chắc, lại bị địch tập trung lực lượng chặn đánh quyết liệt nên phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân bên trong thành phố không thực hiện được theo kế hoạch...

Kết thúc đợt 1 (từ ngày 30-1 đến ngày 25-2-1968), Bộ Chính trị Trung ương Đảng (họp ngày 24-4-1968) đã nhận định: Tổng tiến công và nổi dậy đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện, tạo nên bước ngoặt mới trong cục diện chiến tranh hết sức có lợi cho ta, gây bất lợi cho địch; đế quốc Mỹ thất bại nặng nề, ý chí xâm lược đã bị lung lay . Phân tích kết quả đợt 2 (từ ngày 5-5 đến ngày 15-6-1968) và đánh giá chung 2 đợt, Bộ Chính trị (họp tháng 8-1968) nhận định: Chúng ta "đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện chưa từng có" ...; và có thể nói, "cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh" .

2. Với Mậu Thân, lần đầu tiên, quân và dân ta đã tiến công đồng loạt vào hậu cứ của địch tại các đô thị. Cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều tuần, nhiều tháng đã làm thương vong nặng nề cả quân số và phương tiện chiến tranh của địch; làm cho Mỹ - chính quyền Sài Gòn hoang mang, dao động, "làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ", làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ; buộc Chính phủ Mỹ phải chấp nhận rằng không thể dùng lực lượng quân viễn chinh Mỹ để giành chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của quân Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ và "sau Tết, niềm tin của công chúng (Mỹ) đối với sự lãnh đạo của Tổng thống Giônxơn bị xói mòn nghiêm trọng" .

Sự kiện Tết Mậu Thân cho thấy chính quyền và quân đội Sài Gòn không đủ khả năng đứng vững một cách độc lập để "chống Cộng" như Mỹ - chính quyền Sài Gòn mong muốn. Mậu Thân 1968 là một "thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, tạo ra một bước ngoặt của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự trên toàn chiến trường, phải ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari; chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện, chủ trương "phi Mỹ hóa" chiến tranh, mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh" .

Nhìn nhận về thắng lợi trong cuộc tiến công Mậu Thân, Jeff Stein và Marc Leepson nêu rõ: "Mặc dù Cộng sản bị thiệt hại về mặt quân sự và chịu tổn thất to lớn, nhưng đó là sự tuyên cáo của lịch sử là họ đã giành được thắng lợi chiến lược có ý nghĩa quyết định. Người Mỹ đã bị mất niềm tin vào những dự đoán tốt đẹp của chính quyền Giônxơn và đi đến kết cục là cuộc chiến sẽ phải kéo dài trong nhiều năm nữa" .
Với Mậu Thân, ta có thêm điều kiện để mở mặt trận tiến công ngoại giao, mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm", buộc Mỹ chấp nhận họp Hội nghị bốn bên ở Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Pari về Việt Nam với sự tham gia của bốn bên họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn "vừa đánh, vừa đàm" đúng như dự kiến của Trung ương Đảng.

Để đánh cho "Mỹ cút" rồi tiến tới đánh cho "ngụy nhào", trên cơ sở phân tích tình hình, Bộ Chính trị chủ trương động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đánh mạnh, buộc Mỹ phải chấp nhận một giải pháp chính trị là rút hết quân, kết thúc chiến tranh. Theo đó, các cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam cuối năm 1971 đầu năm 1972 đã giáng một đòn mạnh vào chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của địch. Đặc biệt, chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" cuối năm 1972 đã làm thất bại ý đồ "đàm phán trên thế mạnh" của Mỹ. Cuối cùng, sau nhiều trở ngại, ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Trung tâm hội nghị quốc tế khách sạn Hoàng gia, đường Klêbe, Pari (Pháp).

Ngày 24-5-1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng, khẳng định quyết tâm: Đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của địch; giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để chủ động đối phó với địch trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thấu triệt và phát huy tư tưởng cách mạng tiến công, kiên định quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 10-1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt trên các chiến trường họp, đã xác định: Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc, dân chủ... Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác; đồng thời thống nhất kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Hướng về miền Nam ruột thịt, ngay từ những tháng cuối năm 1974, quân và dân ta kiên quyết phản công địch, chủ động mở những cuộc tiến công mới, dồn sức mạnh vật chất và tinh thần của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, mở ra thời kỳ phát triển nhảy vọt để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam mùa Xuân năm 1975.

Nửa thế kỷ sau sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, có thể khẳng định rằng: Đánh giá đúng tình hình thực tiễn, hiểu đúng về lịch sử chính là thiết thực nhân nguồn sức mạnh nội sinh của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất đất nước; và đó cũng chính là góp phần phát huy thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân trong hành trình đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong 21 năm đầy gian nan và thử thách tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta, nhân dân ta đã biết tạo dựng thời cơ và nhạy bén nắm vững thời cơ; kịp thời đề ra chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo; biết chọn thời điểm mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tấn công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong đó, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một dấu ấn quan trọng, không thể phai mờ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #34 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2020, 02:01:57 pm »

NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Đại tá, PGS.TS. HOÀNG XUÂN NHIÊN
Học viện Quốc phòng


Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của quân và dân Việt Nam (1954-1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới truyền thống đánh giặc và nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam. Có được thắng lợi trong Xuân Mậu Thân 1968 là do ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về chỉ đạo điều hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự, trong đó có một nội dung lớn về nghệ thuật tác chiến ở nhiều quy mô, cấp độ khác nhau... Để góp phần làm rõ những nét đặc sắc đó, bài viết đi sâu phân tích một số vấn đề nổi bật được đúc rút trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chủ yếu trong đợt 1 (tức là đợt Tết Mậu Thân), cụ thể như sau:

Thứ nhất, nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Trong tác chiến, thời cơ là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng mà mỗi bên tham chiến cần tích cực tạo ra (tạo thời cơ) hoặc chủ động phát hiện, kịp thời chớp lấy (nắm thời cơ) để làm tăng sức mạnh gấp bội của thế, của lực nhằm giành ưu thế trong chiến tranh, chiến cục hay trong các chiến dịch, trận đánh... Ở vào hoàn cảnh của một nước nhỏ phải chống lại kẻ thù xâm lược lớn có ưu thế vượt trội hơn về nhiều mặt, Đảng ta luôn coi trọng vận dụng yếu tố thời cơ, tích cực tạo ra, nắm bắt thời cơ chiến lược, thúc đẩy và chớp lấy thời cơ có lợi để hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chủ động đánh địch, giành thắng lợi trong cuộc chiến... Cụ thể, ngay từ cuối năm 1965, khi ta nhận thấy đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn chuyển chiến lược từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ", trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965) đã chỉ ra phương hướng giành thắng lợi trong chiến tranh, đó là: Trên cơ sở tiếp tục quán triệt phương châm đánh lâu dài, chúng ta "cần cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam" 1. Phương châm chiến lược đó đã quán xuyến trong từng chiến dịch, từng đợt hoạt động quân sự và chính trị từ sau năm 1965.

Đồng thời, khi phân tích tình hình địch, Đảng ta cũng nhận thấy: Mặc dù quân số địch lên tới mức cao, nhưng tất cả ưu thế về binh lực, hỏa lực và sức cơ động của chúng bị hạn chế rất nhiều trước thế trận và cách đánh của ta. Những chỗ yếu của địch không được khắc phục mà ngày càng bị khoét sâu thêm, đặc biệt là chỗ yếu về chính trị. Vì thế, mặc dù địch vẫn còn rất chủ quan, nhưng nhìn chung, "xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước" , nhất là "so với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao"3. Như vậy, địch vẫn đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn... đây là một nhận định rất quan trọng, có ý nghĩa lớn để xác định thời điểm tiến hành đòn đánh quyết định trong việc hoạch định kế hoạch chiến lược "Tết Mậu Thân". Đồng thời, Đảng ta còn nhận thấy những khó khăn đó trong nội bộ nước Mỹ càng bị nhân lên khi mà chính quyền Giônxơn đang gặp phải những khó khăn to lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, ngoại giao do hậu quả bị sa lầy trong chiến tranh Việt Nam và năm vận động bầu cử Tổng thống ở Mỹ đang xích lại gần... Mặt khác, về phía ta, mặc dù ta vẫn còn nhiều khó khăn, nhược điểm (cả về tổ chức lực lượng, về khả năng đánh tiêu diệt lớn, về đảm bảo hậu cần, về phong trào ở đô thị...) nhưng diễn biến cơ bản của tình hình vẫn cho thấy ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi.

Từ những phân tích, đánh giá diễn biến và xu thế phát triển của tình hình như vậy, Đảng ta đã đi tới nhận định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược" . Tình hình đó cho phép chúng ta có thể lợi dụng để buộc Chính phủ Mỹ phải quyết định chấm dứt chiến tranh "có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"...2. Trên cơ sở đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ", Đảng ta đã luôn luôn kiên định chủ trương "giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam"- chủ trương đó quán xuyến suốt gần ba năm (1965-1967) mà Hội nghị Trung ương 12 (12-1965) và Hội nghị Trung ương 13 (1-1967) đã dự kiến. Do đó, khi phát hiện thấy động thái mới của địch sau mùa khô 1966-1967, Đảng ta đã sớm dự kiến được xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, kịp thời phát hiện được thời cơ để hạ quyết tâm chiến lược bằng việc mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Rõ ràng, đây là một quyết định quan trọng sau ba năm tạo thời cơ, chờ đón thời cơ và chớp lấy thời cơ để "giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam" của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng. Thực tế cũng đã cho thấy đây là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Thứ hai, nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Trong đợt Tết Mậu Thân 1968, hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng; hướng phối hợp chiến lược quan trọng là mở chiến dịch lớn ở Đường 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, căng kéo và kìm chân địch trên mặt trận này để hỗ trợ cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đồng thời nghi binh thu hút địch. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu nhằm vào đô thị miền Nam thực sự đã là một bất ngờ lớn, khiến cho địch trên chiến trường không kịp trở tay, khiến cho giới lãnh đạo Mỹ ở Oasinhtơn ngày đó đã phải "sững sờ, choáng váng". Đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm ròng kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị; hoạt động đó đã biến hậu phương và hậu cứ của địch thành chiến trường của ta. Đó là một thành công lớn của Đảng trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh - nghệ thuật đánh hiểm, đánh đau, đánh vào "yết hầu", vào "trung ương thần kinh địch". Đòn tiến công của ta đã nhằm trúng vào các cơ quan đầu não trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn (các Sở chỉ huy, sân bay, bến cảng, kho tàng, căn cứ truyền tin, đầu mối giao thông); đó là các mục tiêu "yết hầu", "huyết mạch", "tim óc" của địch; là những mục tiêu tập trung sinh lực cao cấp của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam; trong đó Tòa Đại sứ Mỹ - nơi biểu trưng cho quyền uy của Mỹ tại miền Nam Việt Nam - đã bị ta tiến công và bị chiếm giữ trong nhiều giờ. Trận đánh vào sứ quán Mỹ vượt xa tầm vóc chiến thuật và ý nghĩa của một trận đánh cụ thể, khi toàn thế giới hướng về đó và phán xét hành động này như thể toàn bộ cuộc chiến tranh sẽ được quyết định bởi việc giành giật quyền kiểm soát "sứ quán" của cả hai bên.

Đặc biệt, các hoạt động nghi binh chiến lược nhằm phân tán lực lượng chủ lực địch, làm lạc hướng sự đề phòng của chúng đã được các cơ quan chỉ đạo chiến lược và các cấp chỉ huy chiến trường của ta triển khai thực hiện: Từ những tháng cuối năm 1967, một số chiến dịch ở vùng ven biên giới, ở Tây Nguyên liên tiếp được mở, các hoạt động quân sự ở vùng ven đô thị và ở vùng nông thôn đồng bằng được duy trì... Các hoạt động đó khiến địch nhận định ta không còn khả năng mở các chiến dịch ở đồng bằng như trước. Trên mặt trận ngoại giao, tháng 12-1967, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phóng thích 2 tù binh Mỹ và ngỏ ý sẽ đi vào đàm phán với Mỹ. Điều đáng lưu ý là trước đó, chưa bao giờ ta công khai tuyên bố sẽ làm gì nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tín hiệu ngoại giao này càng làm cho nội bộ chính quyền Mỹ bị phân hóa. Nhưng điều quan trọng hơn là giới lãnh đạo Mỹ càng thêm tin tưởng vào "sự suy yếu trên mặt trận quân sự của Việt Nam". Nhất là, bước sang tháng 1-1968, ta đã chủ động mở hai chiến dịch quân sự lớn (một ở Nậm Bạc và một ở Đường 9 - Khe Sanh). Ngay lập tức, Khe Sanh đã thu hút sự chú ý của Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo Oasinhtơn. Sau này, một tác giả Mỹ là Maicơn Mắclia, đã bình luận rằng: đạn pháo của chủ lực miền Bắc dội xuống Khe Sanh đã "rơi ngay vào thủ đô Oasinhtơn". Giới lãnh đạo Mỹ khi đó nhận định Khe Sanh là một "Điện Biên Phủ" trong ý đồ chiến lược của Bộ Thống soái Việt Nam. Vì vậy, Giônxơn đã lệnh cho Tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ Khe Sanh bằng mọi giá... Chính sự phán đoán sai lầm này của Mỹ đã buộc Mỹ phải chịu hậu quả nặng nề trong dịp Tết Mậu Thân. Rõ ràng, nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thể hiện rất rõ trong nghệ thuật chọn hướng, chọn mục tiêu và nghi binh lừa địch.

Thứ ba, nghệ thuật tiến công bằng phương thức tác chiến mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào đô thị.

Khi nghiên cứu về lịch sử chiến tranh và nghệ thuật tác chiến, cho thấy: Thông thường, khi chiến tranh sắp đến hồi kết thúc, phía mạnh hơn và chiến thắng mới có thể mở những cuộc tiến công chiến lược lớn vào sào huyệt của đối phương. Thế nhưng, phương thức tác chiến (cách đánh) của ta trong Tết Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị, nó vượt ra ngoài dự lường và mọi sự tính toán trước đó của Nhà Trắng - Lầu Năm Góc, của Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV) ở Sài Gòn; vì nó diễn ra trong bối cảnh địch leo thang đến đỉnh cao 2; khi mà tướng Oétmolen đang chuẩn bị đợt phản công thứ ba sau những thất bại của quân đội Mỹ trong hai mùa khô (1965-1966 và 1966-1967); lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp (cả quân sự, chính trị), nhất là lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng... Bởi vậy, không phải tới bây giờ mà ngay từ ngày đó, một số nhà nghiên cứu Mỹ đã cho rằng vũ khí mạnh nhất của ta trong cuộc tiến công Tết Mậu Thân là sự bất ngờ. Họ đánh giá "Tết Mậu Thân" là cuộc tiến công "xuất thần"; nó đã "chộp đúng" Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam và giới lãnh đạo Oasinhtơn vào đúng lúc bất ngờ nhất, làm sửng sốt một nước Mỹ vốn đầy kiêu hãnh và tự tin ở tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn của mình.

Thành công trong Tết Mậu Thân của ta về giữ bí mật toàn bộ ý định, hoạt động cho đến khi nổ súng đã góp phần làm cho địch bị bất ngờ lớn và đương nhiên là một đảm bảo cho chiến thắng của ta cả về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Một trong những bí mật quan trọng nhất làm cho sự kiện Tết Mậu Thân có tiếng vang trên toàn thế giới và kẻ địch hoàn toàn bị bất ngờ không thể nào phán đoán nổi, đó là cách đánh về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu; khi mà chỉ trong khoảng 24 tiếng đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch đều bị tiến công, kể cả những nơi tối quan trọng như Bộ Tổng Tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn và Tòa Đại sứ Mỹ... Các lực lượng vũ trang của ta đã thực hiện đánh địch từ trong nội đô đánh ra, kết hợp với từ bên ngoài đánh vào, đồng loạt khắp các nơi, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn, nhỏ khác nhau, có sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy bằng mọi cách của quần chúng cách mạng với lực lượng vũ trang khiến cho địch đã bị bất ngờ càng thêm bất ngờ và lúng túng; đồng thời làm cho cái thế của đôi bên trong chiến tranh bỗng chốc bị đảo ngược (hậu phương của địch thành tiền tuyến và tiền tuyến của địch hóa hậu phương). Các đơn vị thiện chiến được tung đi xa đến tận "xứ sở của địch" để "tìm và diệt", thình lình nhận được lệnh cấp tốc chạy về "xứ sở của mình" để cứu nguy cho các cơ quan đầu não, cố ngăn chặn và phản kích rồi từ đó cố "quét và giữ" cho đến khi rút lui khỏi cuộc chiến... Rõ ràng, đây là một cách đánh rất độc đáo của chiến tranh cách mạng kết hợp với khởi nghĩa vũ trang.

Tuy nhiên, bí mật bất ngờ mà ta làm được trong Tết Mậu Thân 1968 không chỉ là ngày, giờ nổ súng tiến công và cách đánh tài tình của một cuộc chiến tranh nhân dân cách mạng phát triển đến cao độ, mà đó còn là cuộc tiến công với một quy mô lớn, diễn ra trên toàn bộ miền Nam 3, với mức độ hết sức mãnh liệt của các trận đánh; nhất là việc đó kéo dài hơn nửa năm trời mà quân địch không thể nào nghĩ được, không lường nổi ý chí, sự dẻo dai, sự dồi dào về phương tiện cũng như sức lực của đối phương mà trước đó chúng đánh giá rất thấp. Bởi vậy, tài liệu mật của Lầu Năm Góc đã thú nhận "... Cuộc tiến công (Tết Mậu Thân) đã làm cho Nhà Trắng và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bị bất ngờ về sức mạnh, thời gian kéo dài và mức độ ác liệt của cuộc tiến công đã kéo dài sự kinh ngạc này"; còn tờ Thời báo Mỹ số ra ngày 9-2-1968 gọi đây "chắc chắn là một hành động bất ngờ "thần thánh", một lực lượng địch tản mát và không ai thấy được, bị săn đuổi khắp nơi không lúc nào ngừng, bỗng dưng xuất hiện và đồng loạt tiến công ở hàng trăm trận địa trên khắp nước" .

Thứ tư, nghệ thuật tổ chức bố trí và sử dụng lực lượng, phát huy mạnh mẽ nhân tố con người.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được khởi xướng trong điều kiện lực lượng quân sự của địch tại miền Nam vẫn còn gần 1 triệu 200 nghìn tên, bộ máy chiến tranh của địch vẫn còn hiệu lực và tiềm lực chiến tranh của chúng còn dồi dào. Để đạt được mục tiêu chiến lược đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, Đảng ta chủ trương trong Tết Mậu Thân, dùng binh lực và hỏa lực mạnh của ta đánh vào các binh đoàn chủ lực địch, đánh mạnh vào Sài Gòn và các thành phố khác, tạo điều kiện cho hàng triệu quần chúng ở đô thị và các vùng nông thôn tạm bị chiếm nổi dậy khởi nghĩa, phối hợp với lực lượng quân sự của ta tiêu diệt và làm tan rã quân địch, đánh đổ bộ máy đầu não của chính quyền Sài Gòn, làm rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, biến hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của địch thành hậu phương và nơi dự trữ chiến tranh của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng và có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Theo phương hướng đó, trước và trong Tết Mậu Thân, các đơn vị bộ đội chủ lực ta đã mở một số chiến dịch ở vùng rừng núi miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền Tây Trị - Thiên nhằm kéo một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ lên chiến trường rừng núi, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công và nổi dậy ở các đô thị bị Mỹ, chính quyền Sài Gòn chiếm đóng. Ở các đô thị và ở vùng ven, ta sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực đánh chiếm các mục tiêu, kìm chân các sư đoàn, trung đoàn chủ lực địch, tạo điều kiện cho lực lượng đặc biệt tinh nhuệ là các đội đặc công, biệt động, bất ngờ đánh chiếm một số cơ quan đầu não tại trung ương và địa phương của địch. Từ vùng ven, các tiểu đoàn mũi nhọn được tổ chức và trang bị gọn nhẹ, nhanh chóng đánh chiếm những mục tiêu được phân công. Một số tiểu đoàn đã tiến được vào các khu vực mục tiêu nằm sâu trong nội thành, trụ lại đánh địch phản kích trong nhiều ngày. Đồng thời, ta sử dụng pháo cối và rốc két đánh vào nhiều mục tiêu khác như sân bay, Sở chỉ huy, trung tâm thông tin của địch... Phối hợp với lực lượng đặc công, biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn, các đội vũ trang và bán vũ trang của các ban ngành, đoàn thể như Thanh niên, Công vận, Phụ vận, Hoa vận... cơ động đánh địch trên đường phố. Ở vòng ngoài, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của ta đón đánh không cho các đơn vị chủ lực địch tăng viện vào vùng ven và nội thành, giữ phía sau cho các tiểu đoàn mũi nhọn... song, tiêu điểm sự phát triển mới và đặc sắc của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chính là nghệ thuật tổ chức bố trí, sử dụng và phương thức tác chiến sáng tạo, linh hoạt của lực lượng biệt động. Bằng tinh thần dũng cảm vô song, lực lượng biệt động đã mở đầu xuất sắc cuộc tiến công ở Sài Gòn và các đô thị, góp phần tạo nên hiệu lực chiến lược lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Cũng trong đợt Tết, do yêu cầu giữ bí mật tuyệt đối để giáng đòn bất ngờ cho địch, nên ta đã chỉ đạo cho quần chúng không nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ khóm, phường cùng lúc với lực lượng biệt động và các tiểu đoàn chủ lực đánh vào các cứ điểm quy định, nhưng quần chúng đã tích cực tham gia vào công tác chuẩn bị cho đợt tiến công Tết, cũng như sau khi nổ súng họ đã tham gia rất đông đảo, trực tiếp và gián tiếp bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực khác nhau... Với việc bố trí, tổ chức và sử dụng lực lượng như vậy, quân và dân ta trên chiến trường đã phát huy được đầy đủ và mạnh mẽ khí thế tiến công (nhất là trong đợt Tết), khiến cho giới lãnh đạo Oasinhtơn nhận thấy lực lượng quân sự của Mỹ không thể nào khuất phục nổi nhân dân Việt Nam... Đó là một thành công nổi bật trong nghệ thuật bố trí và sử dụng lực lượng, cũng như tổ chức tiến hành công tác bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của Đảng ta; nghệ thuật đó đã phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, lấy ít địch nhiều, lấy trí tuệ người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Những kinh nghiệm quý trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 về nghệ thuật tác chiến, những bài học lớn về dựa chắc vào dân, biết khơi dậy, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân; biết kết hợp chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam với trí tuệ sáng tạo của Bộ Thống soái tối cao, của đông đảo quần chúng nhân dân... không chỉ có giá trị trong dự báo, hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, trong định hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị sức mạnh về mọi mặt của thế trận chiến tranh nhân dân hiện nay, mà còn có ý nghĩa rất thiết thực đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc chiến chống nghèo nàn, lạc hậu, chống "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến, tự chuyển hóa", cũng như giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho toàn dân. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam dạn dày kinh nghiệm, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước sẽ thành công; quân và dân ta có đủ nghị lực, niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.




-----------------------------------------------------------------
1. Cần lưu ý, ở Nghị quyết này, khái niệm "giành thắng lợi quyết định" không bao hàm ý nghĩa là tiêu diệt toàn bộ lực lượng quân sự của địch (khác hẳn với "giành thắng lợi hoàn toàn" là giành "toàn thắng"), mà thực chất chỉ là "đè bẹp ý chí xâm lược" của đế quốc Mỹ, thực hiện mục tiêu về độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.637-638.

2. Thời điểm đó, trên chiến trường miền Nam có trên 50 vạn quân viễn chinh Mỹ và chư hầu cùng với đội quân được hiện đại hóa của quân đội Sài Gòn, tất cả là khoảng 1 triệu 20 vạn quân.

3. Đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân (đêm 30 và rạng 31-1-1968) quân và dân miền Nam đồng loạt Tổng tiến công và nổi dậy, đánh vào 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân khu - quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn địch, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần. Tại Sài Gòn, bộ đội đặc công và biệt động đánh thẳng vào Tòa Đại sứ Mỹ. Ta làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #35 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 06:50:07 am »

"CHIẾN TRANH CỤC BỘ" - NẤC THANG CAO NHẤT
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA ĐẾ QUỐC MỸ



Đại tá, PGS.TS. NGUYỄN HUY THỤC
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng



Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với 3 chỗ dựa cơ bản là quân đội, chính quyền Sài Gòn và ấp chiến lược - bộ phận cơ bản trong chiến lược quân sự toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" do Mỹ hoạch định và đổ tiền của, vũ khí, đưa hàng vạn cố vấn, chuyên gia sang trực tiếp chỉ huy, điều hành nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, trải qua hơn 4 năm ròng, với bao hy vọng đã hoàn toàn phá sản. Đây là minh chứng cho việc "Mỹ đang chơi một ván cờ thua ở Việt Nam" . Nhưng vì "cam kết" với đồng minh, cao hơn là sự tồn vong của chiến lược quân sự toàn cầu và thanh danh của một siêu cường hàng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa, giới cầm quyền Nhà Trắng quyết định leo thêm một nấc thang mới - triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

"Chiến tranh cục bộ" - chiến lược quân sự của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam (1965-1968). Quân Mỹ đảm nhiệm vai trò lực lượng cơ động chủ yếu trong các cuộc hành quân tìm diệt bộ đội chủ lực Quân giải phóng miền Nam và làm chỗ dựa cho chính quyền, quân đội Sài Gòn. Đây là nhiệm vụ hàng đầu và cũng là mục tiêu chủ yếu, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh bình định và kết hợp với việc tiến hành chiến tranh phá hoại, ngăn chặn sự chi viện nhân lực, vật lực của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam ...

Tính chất pháp lý của bước chuyển chiến lược trên được thể hiện qua văn bản Bị vong lục số 328/NSAM của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (6-4-1965), với những điều khoản cốt yếu như sau: tăng thêm 18.000 đến 20.000 quân để bổ sung cho các đơn vị hiện có và cung cấp số nhân viên hậu cần thiết yếu; triển khai 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một phi đoàn của lính thủy đánh bộ cùng những bộ phận kết hợp về chỉ huy và hỗ trợ; thăm dò khả năng triển khai quân sang Nam Việt Nam của Chính phủ Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan ... Có thể coi đây là dấu mốc chính thức bắt đầu của chiến lược "chiến tranh cục bộ" trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Cùng với triển khai quân chiến đấu vào miền Nam, Mỹ sử dụng không quân đánh phá ác liệt tuyến vận tải chiến lược Tây Trường Sơn (đoạn chạy qua địa phận Trung - Hạ Lào); gây sức ép với Chính phủ Xihanúc (Campuchia) chống Việt Nam. Với hành động này, Mỹ hy vọng sẽ tạo ra một thế chiến lược mới, chủ động bao vây, cô lập cách mạng miền Nam, góp phần ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trên cơ sở đó, Mỹ sẽ tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, phá chiến tranh du kích, tiến hành bình định nông thôn, giành lại quyền chủ động chiến trường; đồng thời sử dụng không quân đánh phá với quy mô hủy diệt, nhằm đưa miền Bắc "trở về thời kỳ đồ đá", làm kiệt quệ tiềm lực của hậu phương chiến lược, làm lung lay ý chí kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam. Qua đó, Mỹ không chỉ nhằm củng cố uy danh ở Việt Nam, Đông Dương và Đông Nam Á, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo thế giới tự do, mà hơn thế còn để "chứng tỏ" cho thế giới thấy được sức mạnh kiêu hùng và khả năng đè bẹp, tiêu diệt bất cứ cuộc khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng nào, răn đe phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh.

Cụ thể hóa chiến lược "chiến tranh cục bộ", ngày 1-5-1965, Tư lệnh quân chiến đấu Mỹ ở miền Nam Việt Nam - tướng Oétmolen, đệ trình lên Nhà Trắng Chương trình hợp tác gồm ba nội dung: tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt, nhằm đánh bại phong trào cách mạng miền Nam trong vòng hai năm đến hai năm rưỡi (giữa năm 1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967). Nhưng, ngay sau đó nhận thấy Quân giải phóng đẩy mạnh cường độ tác chiến, nhất là phát hiện được dấu hiệu chủ lực ta tập trung về Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên (tháng 5-1965), Oétmolen lập tức kiến nghị Nhà Trắng gia tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 44 tiểu đoàn (7-6-1965) và được toàn quyền điều hành tác chiến (13-6-1965).

Mặc dù phải đối mặt với không ít ý kiến trái chiều cả ở trong và ngoài nước, nhưng với uy quyền của ông chủ Nhà Trắng, được phái "Diều hâu" hậu thuẫn, ngày 17- 7-1965, L. Giônxơn quyết định nâng số quân Mỹ và đồng minh ở Nam Việt Nam lên 206.451 (quân Mỹ là 184.314). Theo đó, đến tháng 12-1965, tổng cộng cả quân Mỹ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa đạt tới 726.772 người; gồm: 14 sư đoàn, 9 trung đoàn, 21 tiểu đoàn độc lập (cả thảy 230 tiểu đoàn); lực lượng yểm trợ có pháo binh: 50 tiểu đoàn, 3 đại đội (966 khẩu các loại), cơ giới: 11 tiểu đoàn, 5 đại đội (1.396 xe), không quân: 2.186 máy bay các loại, hải quân: 341 tàu xuồng chiến đấu. Ngoài ra, quân đội Việt Nam Cộng hòa còn tổ chức thêm 284 đơn vị, trong đó đã đưa vào tác chiến 14 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn quân cảnh, 5 chi đoàn thiết vận, 5 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn truyền tin, 2 phi đoàn khu trục, 3 hải đoàn xung phong và 214 đại đội địa phương quân . Có thể khẳng định rằng, quyết định "táo bạo" của L. Giônxơn đã đưa nước Mỹ "vượt qua ngưỡng cửa giấu mặt, trá hình" bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam. Đây là bước ngoặt về chiến lược chiến tranh Việt Nam của giới cầm quyền Nhà Trắng - quân viễn chinh Mỹ đóng vai trò là lực lượng chủ yếu, trực tiếp tiến hành chiến tranh.

Đồng thời với tăng quân, hệ thống cơ quan chỉ huy cũng khẩn trương được hoàn thiện và tăng cường. Đó là, Bộ Tư lệnh quân chiến đấu Mỹ ở Việt Nam (MACV) được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, với hai nhiệm vụ: chỉ huy lực lượng hải, lục, không quân tác chiến trên phạm vi Nam Việt Nam, trực tiếp cố vấn và yểm trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mặt khác, các bộ tư lệnh lục quân, hải quân và không quân nhanh chóng được thành lập (cuối năm 1965). Lực lượng không quân Mỹ được triển khai vào Đà Nẵng, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất... Hạm đội 7 Mỹ thường trực ngày đêm tuần tiễu trên địa phận lãnh hải Nam Việt Nam. Việc đánh phá miền Bắc cũng do Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương đảm trách.

Đặc biệt, để khắc phục triệt để tình trạng đảo chính, phản đảo chính triền miên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa - "công cụ" để Mỹ thực hiện chính sách thực dân mới, Mỹ đã tiến hành dàn xếp đưa Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu lên cầm đầu "Ủy ban lãnh đạo quốc gia" và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ quản lãnh "Ủy ban hành pháp Trung ương". Thực chất đây là sự phân quyền cho đại diện hai nhóm tướng lĩnh quân đội thân Mỹ được hợp hiến, hợp pháp hóa (19-6-1965). Đến đây, tình trạng khủng hoảng chính trị ở Nam Việt Nam cơ bản được giải quyết.

Khi đã có lực lượng mạnh, hệ thống bộ máy chỉ đạo, chỉ huy được củng cố, kiện toàn..., vào mùa khô 1965-1966, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất 1, nhằm: Tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực đối phương, giành chủ động trên chiến trường, nhanh chóng lật ngược thế trận, làm cho đối phương từ "người đi săn trở thành người bị săn"; bình định có trọng điểm để giành dân, đánh phá hậu cần dự trữ của đối phương; ổn định tình hình chính trị, củng cố quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa; khai thông hệ thống giao thông giữa các căn cứ với nhau; đánh phá miền Bắc, cô lập miền Nam.

Có thể khẳng định, cuộc phản công lần thứ nhất là nỗ lực vượt bậc của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam 2; nhưng rốt cục, chúng không những không đánh bại được Quân giải phóng miền Nam, mà tổn thất thì rất nặng nề 3 . Chính C. Lốtgiơ - Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn thú nhận: Mỹ đã không làm hao tổn được Việt cộng, không tiêu diệt được một đơn vị nào của Việt cộng, không ngăn chặn được du kích phát triển. Quân đội Việt Nam Cộng hòa giảm chất lượng nhanh chóng. Lực lượng Mỹ tăng cường bổ sung không kịp, khả năng tiếp viện hạn chế... Như vậy, sự kiện mùa khô 1965-1966 là "tiếng chuông cảnh báo" cho sự thất bại của "chiến tranh cục bộ".

Dù vậy, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, giới cầm quyền Nhà Trắng chỉ thị cho MACV, bằng mọi cách cố giằng co với Việt cộng trong mùa mưa, đồng thời gia tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 40 vạn, xây dựng phương án mở tiếp các cuộc phản công mùa khô 1966-1967 và 1967-1968, quyết đánh bại Việt cộng, hoặc chí ít cũng góp phần cải thiện được kết cục chiến trường theo chiều hướng có lợi cho Mỹ.

"Tìm ra" nguyên nhân thất bại của mùa khô lần thứ nhất là do chỉ đặt nặng về quân sự mà coi nhẹ xây dựng nông thôn, nên khi mở cuộc phản công mùa khô lần thứ hai (10-1966 - 6-1967), Mỹ đồng thời tiến hành hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định". Với gọng kìm "tìm diệt", chúng ưu tiên tiến công vào hệ thống căn cứ của ta ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy (Đông Nam Bộ), trọng điểm là Chiến khu C, nhằm diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực Quân giải phóng kết hợp với mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn, kiềm chế ta ở hướng Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, tích cực phòng ngự ở Đường 9, Trị - Thiên. Bên cạnh đó, chúng đẩy mạnh leo thang đánh phá miền Bắc, góp phần làm chuyển biến cục diện chiến tranh vào giữa hoặc cuối năm 1967...




---------------------------------------------------------------
1. Thời gian tiến hành cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất được xác định là từ 25-12-1965 đến tháng 6-1966, nhưng thực tế đã phải kết thúc sớm hơn dự kiến để đối phó với kế hoạch mùa mưa của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, bắt đầu vào tháng 5-1966.

2 . Với 206.772 quân Mỹ và quân đồng minh cùng 520.000 quân Việt Nam Cộng hòa (được tăng cường thêm trong 6 tháng đầu năm 1966), chúng đã sử dụng tới 78% quân Mỹ và quân đồng minh, hơn một nửa lực lượng tổng trù bị cùng với lực lượng chủ lực và địa phương của quân lực Việt Nam Cộng hòa trên các hướng phản công tại các vùng chiến thuật… để mở 1.880 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên (có 253 cuộc của quân Mỹ và quân đồng minh); về mục đích, có 80,5% nhằm "tìm diệt" hoặc đối phó với ta, 1,25% nhằm bình định, 18,25% nhằm tiếp viện mở đường.

3 . Theo thống kê của Trung tâm hành quân Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, từ tháng 10-1965 đến tháng 6-1966, chúng đã bị thiệt hại 51.000 cán binh, mất 9.400 vũ khí, 300 máy bay các loại và 38 tàu thuyền chiến đấu.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #36 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 06:56:11 am »

Thực hiện cuộc phản công lần thứ hai, ngoài lực lượng chủ chốt là 395.000 quân Mỹ thuộc 7 sư đoàn, 8 lữ đoàn, MACV còn huy động toàn bộ quân đồng minh và quân Việt Nam Cộng hòa vào cuộc. Tuy lực lượng ưu thế như vậy, nhưng chúng chỉ tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ; hình thành nên ba cánh quân đánh vào hệ thống căn cứ của ta, gồm: cánh thứ nhất, đánh cụm căn cứ Bắc Sài Gòn [Chiến khu C, khu Tam Giác Sắt (Củ Chi - Bến Súc - Trảng Bàng) và Chiến khu D]; cánh thứ hai, đánh căn cứ Đông Sài Gòn (Bình Tuy, Phước Tuy); cánh thứ ba, đánh khu vực Long An, Mỹ Tho, chặn cửa ngõ phía tây Sài Gòn.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10-1966 đến tháng 4-1967, riêng quân Mỹ đã mở 127 cuộc hành quân, trong đó then chốt nhất là Áttơnborơ (Attleboro), Xiđaphôn (Cedarfall) và Gianxơnxiti (Junctioncity), với lực lượng 66 tiểu đoàn mỗi ngày, đánh cụm căn cứ Bắc Sài Gòn, nhằm tiêu hao chủ lực Sư đoàn 9 và Trung đoàn 101, xóa sổ Chiến khu C, diệt cơ quan Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền của ta.

Ở Trị - Thiên, liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tổ chức phòng ngự ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, ngăn chặn hoạt động của lực lượng vũ trang ta ở nam giới tuyến, từng bước mở rộng phạm vi hoạt động xuống phía nam, hỗ trợ bình định địa bàn dọc quốc lộ 1, quanh thị xã, thị trấn nhất là Đà Nẵng, đồng thời tăng cường phá căn cứ địa của ta ở miền tây Quảng Ngãi.

Trên hướng đồng bằng Khu 5 và Tây Nguyên, địch tăng cường hành quân tìm diệt chủ lực Quân giải phóng (Sư đoàn Sao Vàng), đánh phá các căn cứ vùng cận sơn, yểm trợ bình định vùng đồng bằng, kiềm chế hoạt động của ta ở giáp biên giới, vùng liên ranh giới Pleiku - Kon Tum...

Ở đồng bằng sông Cửu Long, địch tập trung đánh phá vùng Định Tường, Vĩnh Long, Kiến Phong, Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện, An Xuyên.

Về gọng kìm "bình định", với phương thức tiến chậm, giữ chắc, có trọng điểm, càn quét ở đâu bình định ở đó, tạo thế liên hoàn theo vết dầu loang, dưới sự chỉ đạo của Cômơ - trợ lý đặc trách bình định của Tổng thống Mỹ, quân lực Việt Nam Cộng hòa tập trung 53 tiểu đoàn chủ lực, 177 đại đội địa phương quân, 5 đại đội cảnh sát dã chiến, 559 trung đội nghĩa quân và 552 đoàn cán bộ xây dựng nông thôn, với tổng quân số khoảng 37.000, có sự yểm trợ của quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ, dùng bom pháo tập kích dữ dội kết hợp với hành quân càn quét, tàn phá các thôn ấp phục vụ chương trình bình định; trọng điểm là vành đai Sài Gòn, Long Khánh, Phước Tuy, Long An, Tây Ninh, Bình Dương (Vùng 3 chiến thuật); Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, Tuy Hòa, Lâm Đồng, Pleiku, Kon Tum (Vùng 1 và 2 chiến thuật); Vĩnh Long, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Kiến Phong (Vùng 4 chiến thuật). Riêng với chỉ tiêu dồn dân lập ấp đặt ra năm 1967 là 1.075 ấp 1.

Hành động đánh phá tàn khốc, dài ngày, có trọng điểm của địch đã gây cho ta những tổn thất nặng nề về lực lượng, vũ khí, cơ sở hậu cần; kế hoạch vận chuyển từng nơi, từng lúc bị gián đoạn, nhiều căn cứ bàn đạp bị đánh chiếm, số lượng lớn dân cư bị xúc vào ấp đời mới...; nhưng chung cuộc, mục tiêu đặt ra cho cuộc phản công mùa khô 1966-1967 vẫn không đạt được. Nghiêm trọng hơn, địch ngày càng lâm sâu vào trạng huống giằng co giữa phân tán để bình định và tập trung để tìm diệt, thế bố trí chiến lược bị đảo lộn, lực lượng cơ động phân tán, dàn mỏng, căng kéo khắp các vùng miền. Lực lượng cơ động Mỹ chỉ còn 45,7%, sức phản công sa sút nhiều.

Thất bại đau đớn và liên tiếp trong hai mùa khô ở chiến trường miền Nam đã đẩy nội tình giới cầm quyền Mỹ lâm vào tình trạng phân cực, chia rẽ sâu sắc. Ngay lúc cuộc phản công mùa khô lần thứ hai còn chưa kết thúc, tướng Oétmolen đã kiến nghị Tổng thống Mỹ tăng từ 10 đến 20 vạn quân cho Nam Việt Nam; thậm chí chúng còn đòi sử dụng lục quân tiến công miền Bắc Việt Nam... Tuy vẫn có những quan điểm trái ngược nhau trong nội bộ giới cầm quyền Nhà Trắng, nhưng trong Thông điệp liên bang (4-8-1967), L. Giônxơn công khai tuyên bố tăng thêm 55.000 quân, đưa tổng quân chiến đấu Mỹ ở Nam Việt Nam lên 525.000 người (chiếm tới 40% số sư đoàn bộ binh, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 60% không quân chiến lược, 1/3 lực lượng hải quân của quân đội Mỹ). Đến cuối 1967, tổng cộng cả quân Mỹ, đồng minh và Việt Nam Cộng hòa đã đạt tới mức kỷ lục 1.089.800 (gồm 22 sư đoàn, 17 trung đoàn); trong đó, quân Mỹ là 480.000 (9 sư đoàn, 3 lữ đoàn), quân đồng minh của Mỹ là 57.000 người (2 sư đoàn, 3 trung đoàn), chưa tính lực lượng tham chiến gián tiếp, thì tỷ lệ tương quan địch - ta trên chiến trường chênh lệch nhau khá rõ rệt, cụ thể: Vùng 1 chiến thuật là 2,9/1; Vùng 2 chiến thuật là 3,8/1; Vùng 3 chiến thuật là 4/1 và Vùng 4 chiến thuật là 2,1/1.Dù vậy, giới cầm quyền Nhà Trắng cũng phải đối mặt với một thực tế là phong trào phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam diễn ra liên tục, mạnh mẽ trên nhiều thành phố nước Mỹ, thu hút rộng rãi các tầng lớp, trong đó có cả thống đốc bang, nghị sĩ Quốc hội hai viện tham gia.

Bước sang 1968 - năm bầu cử Tổng thống Mỹ (11-1968), MACV quyết định mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba (1967-1968), trên hướng đông Nam Bộ. Theo đó, chúng sử dụng lực lượng khoảng 5 sư đoàn quân Mỹ 2, trung đoàn quân Úc, lữ đoàn bộ binh Thái Lan kết hợp với 3 sư đoàn, 2 lữ đoàn Việt Nam Cộng hòa, mở các cuộc hành quân đánh vào Chiến khu C, Chiến khu D, nhằm tiêu diệt các sư đoàn chủ lực 5, 7, 9 của ta, "nới rộng" khu vực an ninh tỉnh Gia Định ra các vùng lân cận, đẩy mạnh gấp đôi nỗ lực bình định nông thôn so với năm 1967. Đối với hướng phối hợp Trung Trung Bộ, địch tập trung ngăn chặn ta xâm nhập dọc biên giới Việt - Lào, trọng điểm là Pleiku, Kon Tum; tìm diệt các sư đoàn chủ lực Khu 5, phá căn cứ, hỗ trợ cho kế hoạch bình định khu vực địa bàn duyên hải của ta. Ở khu vực giới tuyến, chúng tập trung ngăn chặn thâm nhập của ta qua khu phi quân sự và biên giới Việt - Lào, tìm diệt quân chủ lực, phá căn cứ, duy trì mức độ bình định như năm 1967. Tại đồng bằng sông Cửu Long, địch gia tăng cường độ hành quân bình định kết hợp với mở rộng khu vực an ninh tại các địa bàn trọng điểm như Gò Công, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Bình, Vĩnh Long, Sa Đéc, Phong Dinh, Ba Xuyên, Bạc Liêu, một phần lãnh thổ của hai tỉnh Kiên Giang và Chương Thiện. Thời gian của cuộc phản công lần thứ ba dự kiến là từ tháng 12-1967 đến tháng 4-1968.

Ngay khi đang chuẩn bị kế hoạch phản công lần thứ ba, địch đã bị lực lượng vũ trang ta đánh đòn bất ngờ, gây thiệt hại nặng ở Phước Long (27-10-1967), Lộc Ninh (29-10-1967)...; MACV nhanh chóng dồn lực lượng lên phía bắc Sài Gòn 3 , hình thành thế bao vây các chiến khu C và D.

Ngày 8-12-1967, theo kế hoạch đề ra, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ mở cuộc hành quân mang tên Yellow-stone và Sataroga, đánh vào Chiến khu C, chiếm Kà Tum, Bồ Túc, Bầu Châm - mở màn cho cuộc phản công mùa khô lần thứ ba (1967 - 1968), bất ngờ phát hiện dấu hiệu ta chuyển quân lớn vào các hướng chiến trường nên phải phân tán lực lượng ra đối phó. Đặc biệt, khi ta mở đợt tiến công trên chiến trường Tây Nguyên, tướng Oétmolen vội lệnh cho Sư đoàn 4 bộ binh Mỹ phải phân tán lực lượng ra để giữ Buôn Ma Thuột, đồng thời rút quân dù Việt Nam Cộng hòa ở các vùng 1 và 2 chiến thuật kết hợp với Lữ đoàn 173 dù và 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ đồng bằng lên tăng cường cho Tây Nguyên. Khi Tây Nguyên còn chưa bình ổn xong thì đêm 20 rạng 21-1-1968, cụm cứ điểm phòng ngự chiến lược Đường 9 - Khe Sanh của địch bị chủ lực ta tiến công. Ngay lập tức, Oétmolen lại phải dồn lực lượng ra giữ phía bắc Trị - Thiên, lập Bộ Tư lệnh tiền phương do tướng Abram chỉ huy, hủy bỏ kế hoạch mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba, rút các lực lượng đang hành quân đánh vào các chiến khu C và D về giữ Sài Gòn, đưa Sư đoàn 1 kỵ binh không vận và 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 101 dù ra tăng cường cho chiến trường Trị - Thiên.

Như vậy, tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ", giới cầm quyền Nhà Trắng đã "xét lại" luận thuyết "chủ nghĩa thực dân mới" do chính mình nghiên cứu hoạch định ra trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ mà người Pháp là đại diện trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của các nước đế quốc. Nói một cách khác, người Mỹ đã "bước theo vết chân" của người Pháp ngay trên đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, xét về quy mô lực lượng, vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, phương tiện chiến tranh và nhất là trình độ công nghệ thì người Mỹ vượt trội hơn người Pháp rất nhiều lần. Thậm chí người Mỹ đã "quốc tế hóa" được cuộc chiến tranh Việt Nam, lôi kéo được nhiều quốc gia đồng minh mang quân đội vào tham chiến trên chiến trường Việt Nam, huy động quân sang chiến trường Việt Nam chiến đấu gia tăng từ vài vạn lên tới hơn nửa triệu chỉ trong 4 năm (1965-1968) gắn liền với các cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967 mà quân chiến đấu Mỹ là chủ thể, có quy mô lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh thuộc hàng lớn nhất, gây nên sự thảm khốc nhất và tổn thất cho cả hai bên cũng là lớn nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi chung cuộc, như chính Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara đã nhận ra rằng: Mỹ đã không hiểu được con người và truyền thống quật cường của người Việt Nam, nên cho dù đã leo lên đến nấc thang cao nhất "chiến tranh cục bộ" - người Mỹ trực tiếp tham chiến cũng không đảo ngược được tình thế chiến tranh. Đúng lúc nội tình nước Mỹ cũng như tình thế trên chiến trường Việt Nam chao đảo nhất, quân và dân ta ở miền Nam thực hiện đòn đánh quyết định Mậu Thân, làm phá sản "chiến tranh cục bộ", buộc Mỹ xuống thang chiến tranh. Như vậy, "chiến tranh cục bộ" là nấc thang cao nhất và cũng là sự "bắt đầu cáo chung" của người Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.




---------------------------------------------------------------
1. Theo báo cáo của Tổng trưởng xây dựng nông thôn chính quyền Việt Nam Cộng hòa (12-12-1967), kết quả bình định trong năm 1967 chỉ bằng 40% kế hoạch dự trù (429 ấp/1.062 ấp và 602.469 dân/1.347.510 dân), trên thực tế còn thấp hơn nhiều.

2. Sư đoàn 101 dù từ Mỹ mới sang, Sư đoàn 1 kỵ binh không vận từ Vùng 2 chiến thuật vào, các sư đoàn 1 và 25 bộ binh, Lữ đoàn 173 dù, Trung đoàn 11 thiết giáp.

3. Lữ đoàn 199 lên bắc Sài Gòn, Sư đoàn 1 bộ binh lên Hớn Quản, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh lên Tây Ninh, Trung đoàn 11 thiết giáp lên Bình Long, Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn 101 từ Vùng 2 chiến thuật vào Sông Bé.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #37 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:05:13 am »

BỘ TỔNG THAM MƯU TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968



Đại tá, ThS. VƯƠNG VĂN YÊN
Trưởng ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử Bộ Tổng Tham mưu




Cách đây 50 năm, vào thời điểm Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn và Huế, Đà Nẵng cùng với các thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay, căn cứ hậu cần của Mỹ, chính quyền Sài Gòn trên toàn chiến trường miền Nam. Kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, tạo thay đổi đột biến cuộc chiến tranh. Thế trận chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, từ chủ động "tìm diệt" phải chuyển sang thế phòng thủ ngay trên địa bàn thành phố, thị xã. Các tầng lớp nhân dân, nhất là lực lượng sinh viên ở hầu hết các bang trên toàn nước Mỹ đã tràn xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Nhà Trắng đối với cuộc chiến tranh này. Nội các của Tổng thống Mỹ bị phân hóa, chia rẽ gay gắt. Tổng thống Giônxơn phải triệu tập một cuộc họp khẩn cấp "những người am hiểu nhất" để thảo luận về cuộc chiến tranh, đa số "nhà thông thái" đều nhất trí chấm dứt leo thang chiến tranh, từng bước rút quân về nước. Về ta, thắng lợi này đã mở ra cục diện mới, tạo ra thế và lực mới có lợi, nhằm tiến tới những thắng lợi to lớn hơn.

Thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả của nhiều nhân tố, trong đó, vai trò chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu đối với lực lượng vũ trang cả nước trong giai đoạn chuẩn bị có ý nghĩa quyết định, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, tập trung chỉ đạo phòng, ban trong cơ quan và chiến trường miền Nam xây dựng hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến đúng phương châm, sát địa bàn.

Quán triệt Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, ngày 20-6-1967 về lãnh đạo thực hiện "Quyết tâm chiến lược trước mắt" của Thường vụ Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động chỉ đạo các chiến trường miền Nam xây dựng kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 - 1968. Đồng thời, cử một số đoàn cán bộ đến các chiến trường nắm tình hình, tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, chỉ huy của các đơn vị để hoàn thiện Dự thảo "Quyết tâm chiến lược trước mắt" của Thường vụ Trung ương; qua đó đề xuất một số đồng chí cán bộ chủ chốt thuộc Bộ Chỉ huy Miền, Quân khu 5, Quân giải phóng miền Nam, mặt trận Tây Nguyên tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược.

Trong quá trình xây dựng kế hoạch Đông - Xuân 1967-1968, Bộ Tổng Tham mưu nhận thấy, nếu ta tiếp tục mở các đợt hoạt động quân sự như trước sẽ không tận dụng được thời cơ, không tạo được bước ngoặt lớn, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra theo hướng giằng co kéo dài. Hơn nữa, trước đối tượng tác chiến là quân Mỹ có hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, ứng cứu giải tỏa nhanh, chiếm ưu thế trên không, trên biển, thì việc sử dụng phương án bao vây để tiêu diệt chúng như đã làm đối với quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 hiệu quả sẽ không cao.

Để giải quyết vấn đề này, trên cơ sở nắm chắc ý định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về chuyển hướng tiến công từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não của địch ở các thành phố, thị xã để tạo sự bất ngờ, đột biến lớn về chiến lược, Bộ Tổng Tham mưu đã thành lập "Tổ kế hoạch", do đồng chí Cục trưởng Cục Tác chiến phụ trách, xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược đúng phương châm, sát địa bàn hoạt động. Trong quá trình xây dựng, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên bám sát các chiến trường, trao đổi với cán bộ, chỉ huy về khả năng, hành động của bộ đội khi đánh chiếm thành phố, thị xã, hay khả năng nổi dậy của quần chúng, khả năng binh biến của địch khi bị ta tiến công để xây dựng, điều chỉnh kế hoạch sát yêu cầu, nhiệm vụ. Tháng 7-1967, Bộ Tổng Tham mưu báo cáo Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về chủ trương và kế hoạch đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam lên bước phát triển mới. Kế hoạch xác định: tập trung nỗ lực cao nhất thực hiện cho bằng được khả năng có thể giành thắng lợi bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Dự kiến thời gian thực hiện trong Đông - Xuân 1967-1968 hoặc có thể sớm hơn; đồng thời dự kiến kế hoạch năm 1968 - 1969 và chuẩn bị tư tưởng đánh lâu dài. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu dự kiến kế hoạch sẽ mở đợt hoạt động mùa Đông, cao điểm là các tháng 2, tháng 3-1968 và đợt hoạt động mùa Hè với cao điểm là tháng 4, tháng 5-1968. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp bàn kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968 ở chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Tình báo, Cục Tác chiến báo cáo tình hình và mời đồng chí Tổng Tham mưu trưởng trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 với hội nghị. Trong đó, mục tiêu trọng tâm của kế hoạch là chuyển hướng tiến công chiến lược vào thành phố, thị xã bằng tổng công kích và khởi nghĩa; đồng thời đề xuất 4 nguyên tắc: tiến công bất ngờ; tiến công đồng loạt, khắp nơi cùng lúc; dùng bạo lực mạnh mẽ nhất, tập trung nhất, tiến công kiên quyết, liên tục; đánh cả quân viễn chinh Mỹ và quân đội Sài Gòn. Cùng với đó, chỉ huy các chiến trường miền Nam báo cáo kế hoạch tác chiến của mình với Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó, hội nghị thảo luận, kết luận và giao cho Bộ Tổng Tham mưu nắm chắc nội dung để bổ sung, điều chỉnh kế hoạch tác chiến đúng ý định. Ngay sau hội nghị kết thúc, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo "Tổ kế hoạch" nhanh chóng điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 theo kết luận của Bộ Chính trị. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chức năng cử cán bộ đến các chiến trường hướng dẫn, giúp đỡ đơn vị hoàn thiện kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1967-1968. Để kế hoạch tác chiến bảo đảm bí mật, Bộ Tổng Tham mưu cử cán bộ đến từng chiến trường phổ biến quyết tâm tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.

Mặt khác, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Tình báo chuẩn bị bản đồ có minh họa chi tiết địa bàn thành phố, thị xã trên toàn miền Nam; xác định đầy đủ các yếu tố về địa hình, địa vật, đường phố, nhà cửa, công trình..., qua đó, nghiên cứu đánh giá địa hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, rút ra giá trị mạnh, yếu của địa hình, dự kiến những tình huống có thể xảy ra và cách xử trí; chỉ đạo Học viện Quân sự cấp cao tổng kết những trận đánh cả tiến công và phòng ngự trong kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, chỉ đạo Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh Đặc công tổng hợp và thuyết minh những trận đánh của lực lượng vũ trang ở miền Nam trong những năm gần đây, nhất là những trận đánh trong thành phố, thị xã, để rút ra kinh nghiệm hay, bổ sung hoàn thiện cách đánh trong kế hoạch tác chiến Xuân 1968.

Tháng 10-1967, trên cơ sở nghiên cứu đánh giá đặc thù của từng chiến trường và quyết tâm, kế hoạch tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân khu, quân chủng, binh chủng, các sư đoàn trực thuộc.

Ở miền Nam, sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng về kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tháng 10-1967, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện trên toàn chiến trường với mật danh: Nghị quyết Quang Trung, xác định Đông Nam Bộ và Sài Gòn làm trọng điểm và là hướng tiến công chủ yếu. Ngay sau đó, Trung ương Cục miền Nam họp bàn xây dựng kế hoạch chuẩn bị tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định; đồng thời giải thể Quân khu 7, Quân khu Sài Gòn - Gia Định và tổ chức lại chiến trường miền Đông. Để xác định rõ các mục tiêu tiến công trong kế hoạch tác chiến, Trung ương Cục miền Nam xác định thành lập Khu trọng điểm gồm: Sài Gòn - Gia Định và một số tỉnh lân cận. Khu trọng điểm được chia thành 6 phân khu, trong đó 5 phân khu vòng ngoài và 1 phân khu nội thành. Theo đó, các đơn vị được phân công đảm nhiệm tác chiến ở từng phân khu chủ động đưa lực lượng, vũ khí ém sẵn ở các địa bàn, phối hợp với lực lượng nổi dậy từ bên trong, tạo ra thế trận bí mật áp sát.
Trên cơ sở kế hoạch dự thảo tác chiến chiến lược do Bộ Tổng Tham mưu xây dựng, Quân khu 5 tổ chức xây dựng kế hoạch tác chiến sát yêu cầu, nhiệm vụ. Trong đó, hướng tiến công chủ yếu theo kế hoạch xác định là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Đà, trong đó Đà Nẵng là trọng điểm. Hướng phối hợp là Bình Định và Phân khu Nam (Phú Yên - Khánh Hòa). Hướng Tây Nguyên là chiến trường đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch.

Cuối tháng 10-1967, tình hình địch trên chiến trường miền Nam có nhiều thay đổi, chúng tăng cường lực lượng, xây dựng thêm một số cứ điểm, sân bay, đưa thêm quân dự bị chiến lược ra khu vực Đường 9, nhằm ngăn chặn các hoạt động chi viện của ta từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu gấp rút xây dựng kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Kế hoạch xác định, mặt trận Đường 9 có vai trò quan trọng nhằm nghi binh thu hút, kéo địch ra ngoài căn cứ để tiêu diệt, kết hợp với quần chúng khởi nghĩa, giam chân quân Mỹ và diệt quân địch ở Vùng 1 chiến thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận Huế, Đà Nẵng và toàn chiến trường miền Nam đánh địch. Nhận thức rõ tính chất quan trọng của mặt trận Đường 9, Bộ Tổng Tham mưu mở hội nghị thảo luận về kế hoạch tác chiến Đường 9. Sau khi hội nghị kết thúc, Bộ Tổng Tham mưu và Cục Tác chiến thống nhất với Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và Bộ Tư lệnh Quân khu 4 về công tác chỉ huy, hiệp đồng giữa hai bên.

Chiến trường Trị - Thiên - Huế là một trong ba trọng điểm của chiến trường miền Nam, trong đó, thành phố Huế được xác định là mặt trận trọng điểm, Nam Quảng Trị và Phú Lộc là mặt trận phối hợp. Vì thế kế hoạch tác chiến ở mặt trận Huế được chia thành 2 cánh. Cánh Bắc là hướng tiến công chủ yếu, gồm tả ngạn sông Hương và huyện Hương Trà. Còn cánh Nam là hướng tiến công quan trọng và là hướng đánh địch phản kích.

Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu còn chỉ thị cho các chiến trường gấp rút xây dựng các phương án tác chiến để mở đợt hoạt động Thu - Đông 1967, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế bị động, tạo đà cho bước chuẩn bị kế hoạch tác chiến chiến lược của ta vào Xuân năm 1968. Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, các chiến trường miền Đông Nam Bộ, và chiến trường Quân khu 5 đến chiến trường Tây Nguyên đã chủ động mở một số chiến dịch để tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy địch lún sâu vào thế bị động phòng ngự, tinh thần sa sút, quân đội Sài Gòn đào ngũ nhiều (trung bình mỗi tháng một vạn tên)1. Như vậy, đến cuối năm 1967, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhất là kế hoạch tác chiến trên chiến trường miền Nam đã được xây dựng hoàn chỉnh, bảo đảm đúng phương châm, sát địa bàn tác chiến, góp phần quan trọng đánh thắng ý chí xâm lược của Mỹ.

Hai là, chỉ đạo các quân khu tăng cường huấn luyện, nâng cao trình độ tác chiến cho bộ đội, đáp ứng nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam.

Để đánh thắng quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, trước hết, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Cục Quân huấn phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong toàn quân, nhất là những đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Nội dung trọng tâm là thống nhất cách đánh, nội dung, phương pháp huấn luyện đánh lớn ở địa bàn thành phố, thị xã; giải quyết những khó khăn, vướng mắc, vấn đề đặt ra trong tác chiến hiệp đồng binh chủng, phục vụ yêu cầu đánh lớn trên chiến trường miền Nam. Trong đó, đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp giới thiệu cho lớp tập huấn về "Vấn đề đánh tiêu diệt lớn của sư đoàn, trung đoàn". Đồng thời, chỉ đạo Cục Quân huấn phối hợp với các cơ quan, đơn vị nhanh chóng biên soạn tài liệu "Về đánh tiêu diệt lớn của sư đoàn, trung đoàn", "Đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn đánh địch trong công sự vững chắc" gửi các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên để nghiên cứu vận dụng. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, những cán bộ đã được tập huấn, nhanh chóng về tổ chức huấn luyện cán bộ và chỉ đạo công tác huấn luyện của đơn vị, sát điều kiện thực tế chiến trường.

Đối với các đơn vị bộ đội chủ lực, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tập trung giáo dục, huấn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng cho bộ đội, xây dựng niềm tin vào khả năng đánh tiêu diệt, đánh tập trung trong điều kiện chiến đấu ác liệt; nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp trong điều kiện đánh lớn ở địa bàn thành phố, thị xã. Trong huấn luyện quân sự, các sư đoàn thường xuyên nghiên cứu nắm chắc đặc điểm địch, ta, địa hình ở thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam, kịp thời điều chỉnh nội dung, chương trình huấn luyện phù hợp cách đánh. Về huấn luyện chiến thuật, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị tập trung rèn luyện chiến thuật cá nhân, phân đội, kết hợp giữa huấn luyện và truyền thụ những kinh nghiệm chiến đấu hay cho bộ đội; huấn luyện thành thạo giữa đánh tập trung và đánh tiêu diệt địch trong thành phố, thị xã. Đồng thời, huấn luyện nâng cao sức cơ động hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng; nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị có trong biên chế; vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, phương pháp chiến đấu phù hợp điều kiện thực tế của từng chiến trường.

Để bảo đảm lực lượng đặc công đánh địch trong thành phố, thị xã, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Quân ủy Trung ương thành lập Binh chủng Đặc công (tháng 3-1967). Ngay sau ngày thành lập, Binh chủng Đặc công đã tích cực tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ, chiến sĩ tăng cường cho các chiến trường. Trong năm 1967, Binh chủng đã huấn luyện được gần 4.000 chiến sĩ đặc công và 1.000 cán bộ trung đội, đại đội, tiểu đoàn, tăng cường cho chiến trường miền Nam hơn 2.500 cán bộ, chiến sĩ.

Các đơn vị quân chủng, binh chủng, cơ quan, nhà trường, nhất là các sư đoàn, trung đoàn cơ động, lực lượng phòng không - không quân, nhanh chóng hoàn thành chương trình huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật binh chủng và huấn luyện dã ngoại để rèn luyện nâng cao khả năng tác chiến phối hợp trên các chiến trường. Trong quá trình huấn luyện chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên chỉ đạo nhiều đoàn cán bộ xuống các chiến trường để kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị giải quyết khó khăn, vướng mắc về nội dung, phương pháp huấn luyện phù hợp với cách đánh trong thành phố, thị xã.

Đối với các đơn vị lực lượng vũ trang địa phương, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tập trung huấn luyện nâng cao khả năng tác chiến rộng khắp, nâng cao hiệu quả tác chiến phối hợp với bộ đội chủ lực trên địa bàn thành phố, thị xã; xây dựng lực lượng dân quân du kích mạnh, bảo đảm cho các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện giải phóng miền Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế. Thông qua đó, chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang các đơn vị, trình độ chỉ huy tham mưu tác chiến của đội ngũ cán bộ các cấp từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách đánh mới ở địa bàn thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #38 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:08:18 am »

Ba là, điều chỉnh lực lượng, tăng cường sức mạnh chiến đấu cho chiến trường miền Nam.

Thực tế đã cho thấy, cuối năm 1967, quân Mỹ, quân đội Sài Gòn trên chiến trường miền Nam có khoảng 1.200.000 tên, trong đó, quân Mỹ gần 500.000 tên, được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, sức cơ động cao, khả năng ứng cứu giải tỏa nhanh. Về ta, mặc dù chúng ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của địch năm 1965-1966 và 1966-1967 và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của chúng ra miền Bắc, nhưng về so sánh tương quan lực lượng địch vẫn mạnh hơn ta. Để tăng cường sức mạnh chiến đấu cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường, nhất là chiến trường miền Bắc đẩy mạnh công tác tuyển quân, xây dựng lực lượng kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Năm 1967, chiến trường miền Bắc đã chi viện cho chiến trường miền Nam hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu trên các mặt trận.

 Đối với chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo Khu trọng điểm đẩy mạnh công tác tuyển quân, xây dựng lực lượng theo yêu cầu tổng công kích - tổng khởi nghĩa, vừa bảo đảm các hoạt động tác chiến thường xuyên trong mùa khô 1967-1968, vừa tránh sự chú ý của địch. Cùng với công tác xây dựng lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Bộ Chỉ huy Miền nghiên cứu điều chỉnh lực lượng phù hợp ở các chiến trường, tập trung ưu tiên lực lượng, phương tiện cho Khu trọng điểm (Sài Gòn), bảo đảm thành phần: biệt động thành, đặc công, lực lượng nổi dậy (dân quân tự vệ, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân) từ trong đánh ra và lực lượng các đơn vị chủ lực từ ngoài đánh vào. Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo mặt trận Tây Nguyên và các đơn vị mới từ miền Bắc vào, tăng cường lực lượng, phương tiện cho khối chủ lực trên các chiến trường miền Nam, nhất là các mặt trận trọng điểm. Các đơn vị này được bố trí ven các hướng bắc, tây bắc và đông Sài Gòn, có nhiệm vụ tiến công ngăn chặn các sư đoàn quân Mỹ, quân đội Sài Gòn cơ động từ ngoại thành về ứng cứu cho quân địch ở nội thành Sài Gòn. Để các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tích cực tham gia chiến đấu, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh công tác dân vận, công tác tuyên huấn, binh vận, phát huy phong trào tất cả tập trung cho tiền tuyến. Nhờ đó, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân trên toàn chiến trường, góp phần cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi.

Đối với chiến trường Quân khu 5, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị vừa tập trung xây dựng lực lượng, vừa chủ động phối hợp cùng nhân dân phá kìm kẹp của địch ở đô thị và các vùng ven, tạo ra thế và lực có lợi để thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên toàn địa bàn. Tính đến cuối năm 1967, Quân khu 5 có tổng 74.000 quân, trong đó 46.000 quân chủ lực, 12.000 quân lực lượng vũ trang địa phương và 7.000 quân lực lượng khác; Bộ Tổng Tham mưu đã tăng cường cho Quân khu 5 đủ 95.000 quân.
 
Đối với chiến trường Trị - Thiên, đặc biệt là mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, đây là mặt trận quan trọng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức huy động tăng cường cho mặt trận này một số sư đoàn chủ lực với quân số khoảng 6,6 vạn (chưa kể quân số ở Quảng Bình, Vĩnh Linh), bảo đảm đủ sức nghi binh, thu hút, giam chân lực lượng chủ lực của địch, làm cho địch phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác tiêu diệt địch. Ngoài ra, Bộ Tổng Tham mưu còn điều động thêm cho Quân khu Trị - Thiên một số trung đoàn bộ binh, công binh, tàu thuyền, pháo binh, phòng không và một số tiểu đoàn xe tăng, thông tin, để tăng cường lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho các đơn vị.

Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù không phải là chiến trường trọng điểm, nhưng Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Quân khu 8 và 9, tích cực tuyển quân, mở rộng tổ chức biên chế, sẵn sàng bổ sung lực lượng cho các mặt trận trên chiến trường miền Nam khi có lệnh.

Những chiến trường do Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo, Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động xây dựng hoàn thành dự thảo kế hoạch tổ chức sử dụng lực lượng với nhiều phương án. Bằng các biện pháp chỉ đạo tích cực, sâu sát, kịp thời của Bộ Tổng Tham mưu, cuối năm 1967, lực lượng vũ trang Quân giải phóng ở chiến trường miền Nam lên đến 220.000 bộ đội chủ lực, 57.000 bộ đội địa phương, các mặt trận đều được bổ sung quân số đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, sẵn sàng cơ động chiến đấu khi có lệnh.

Bốn là, chuẩn bị tốt công tác bảo đảm chính sách, hậu cần, kỹ thuật cho chiến trường miền Nam.

Đây là nội dung quan trọng, bởi làm tốt công tác bảo đảm sẽ góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu các lực lượng trên các chiến trường, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Trước hết, để bộ đội yên tâm tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các mặt trận, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường triển khai thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị nghiên cứu đề xuất với Đảng, Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số chế độ, chính sách đối với quân nhân đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia. Trong đó, mỗi quân khu, quân chủng, binh chủng và Đoàn 559 tổ chức 1 đoàn, đội điều dưỡng làm nhiệm vụ thu dung, nuôi dưỡng và giải quyết chính sách thương binh, bệnh binh cho bộ đội. Các thương binh, bệnh binh nhẹ sau khi điều trị sẽ được giải quyết về đơn vị cũ hoặc bổ sung vào các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Số thương binh, bệnh binh nặng không còn khả năng chiến đấu thì giải quyết chính sách phù hợp theo mức độ thương tật: xuất ngũ, phục viên, chuyển ngành, hoặc chuyển vào các trung tâm điều dưỡng của Bộ Nội vụ. Những thương binh, bệnh binh quê ở chiến trường miền Nam, căn cứ vào mức độ thương tật, nếu còn sức khỏe thì Cục Quân lực có kế hoạch tiếp tục sử dụng và có nguyện vọng ở lại ngoài Bắc sẽ được Bộ Tổng Tham mưu bố trí học tập, bồi dưỡng, từng bước thay thế anh em ở cơ sở, cơ quan, đơn vị chiến đấu. Để khắc phục những khó khăn, bất cập, đáp ứng nhu cầu động viên lực lượng chiến đấu cho các chiến trường, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất với Đảng, Chính phủ bổ sung, sửa đổi Luật nghĩa vụ quân sự sát với điều kiện chiến tranh. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo cơ quan chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và quy định cụ thể về công tác tuyển quân đối với các địa phương, các cấp, các ngành 1. Mặc dù chiến tranh đang diễn ra trong giai đoạn ác liệt nhất, nhưng nhờ có chính sách đúng, Luật nghĩa vụ quân sự phù hợp, chúng ta đã động viên được hàng trăm cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý trình độ đại học, trung học, bổ sung cho quân đội.

Cùng với thực hiện công tác chính sách, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các chiến trường bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo chiến trường miền Bắc vận chuyển 3 vạn tấn lương thực, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam và chỉ đạo Bộ Chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần, kỹ thuật khu vực, vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ cho các mặt trận. Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Đoàn 559 mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng, phương tiện, đổi mới phương pháp vận chuyển, đã đem lại hiệu quả thiết thực. Chỉ tính những tháng cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã nhận từ miền Bắc vận chuyển vào chiến trường miền Nam một khối lượng lương thực, vũ khí lớn gấp 6 lần năm 1965. Mặt khác, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các chiến trường nghiên cứu cải thiện công tác nuôi quân, chăm lo đời sống, nâng cao sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo cấm trại 4 sư đoàn chủ lực trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường trọng điểm, tập trung chăm lo, bồi dưỡng nâng cao sức khỏe cho bộ đội, sẵn sàng bước vào chiến đấu. Hệ thống căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật trên mỗi chiến trường đều được chuẩn bị chu đáo, từ bệnh viện dã chiến đến các kho hậu cần, trạm sửa chữa kỹ thuật ở các mặt trận của chiến trường miền Nam được thành lập, sẵn sàng thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ.

Với sự chuẩn bị kế hoạch chu đáo, sát với thực tế, xây dựng và tổ chức lực lượng đáp ứng yêu cầu, Bộ Tổng Tham mưu đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và để lại nhiều bài học quý còn nguyên giá trị về vai trò chỉ đạo, điều hành của Bộ Tổng Tham mưu đối với các chiến trường trong giai đoạn chuẩn bị tác chiến.




---------------------------------------------------------------
1. Chỉ tuyển thanh niên từ 18 đến 32 tuổi (trường hợp đặc biệt có thể đến 35 tuổi, nhưng phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn), trừ các ngành giao thông vận tải, địa chất, cơ khí. Chỉ động viên giáo viên cấp 1 nếu có người thay thế.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #39 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2020, 10:23:06 am »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
ĐÒN QUYẾT ĐỊNH BUỘC MỸ PHẢI XUỐNG THANG CHIẾN TRANH



PGS.TS. HÀ MINH HỒNG
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh


Trong chiến tranh hiện đại, leo thang hay xuống thang là cách nói bằng hình ảnh những hành động đẩy mạnh hoặc phải kết thúc chiến tranh, trong đó thắng lợi hay thất bại về quân sự được đặt ra như một vấn đề quyết định nhất.

Vấn đề leo thang của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam

Leo thang chiến tranh là phương thức thực hiện các chiến lược quân sự của Mỹ trong chiến tranh, bằng cách từng bước tăng cường và mở rộng phạm vi, quy mô của chiến tranh, vừa thăm dò, vừa răn đe đối phương, tạo ra tình trạng chiến tranh ngày càng ác liệt, phức tạp.

Quá trình leo thang của đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam diễn ra từ sau năm 1960 và tăng tốc từ đầu năm 1965, đến cuối năm 1967 đã đạt đến những nấc thang cao nhất.

Từ cuối năm 1960, đối phó với phong trào nổi dậy của nhân dân miền Nam và chuyển thế chiến lược của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ áp dụng chiến lược chiến tranh đặc biệt với mục tiêu "chống nổi dậy". Thực chất của bước leo thang này là tăng nhanh thực lực quân đội Sài Gòn 1. Chính quyền Sài Gòn sẽ có quân đội đủ khả năng chiến đấu chống chiến tranh du kích, dập tắt cuộc đấu tranh của quân và dân miền Nam sau Đồng khởi.

Cùng lúc đó, đế quốc Mỹ tung các lực lượng gián điệp, biệt kích, người nhái ra miền Bắc để nắm tình hình, thực hiện phá hoại và chuẩn bị cho những bước leo thang chiến tranh trong những giai đoạn sau; cho máy bay, tàu chiến hoạt động ra ngoài vùng vĩ tuyến 20 để do thám và khiêu khích, sẵn sàng cho những bước phiêu lưu quân sự.

Đối phó với tình hình phát triển ngày càng mạnh của Quân giải phóng miền Nam và để cứu nguy cho chính quyền và quân đội Sài Gòn trong cuộc khủng hoảng toàn diện và kéo dài, từ cuối năm 1963 đến cuối năm 1964, Mỹ chuẩn bị ráo riết cho bước leo thang mở rộng chiến tranh Việt Nam 2.

Từ đầu năm 1965, bất chấp dư luận và không cần ngọn cờ Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ được phép đưa thực binh Mỹ vào miền Nam và chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam; đồng thời thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Đế quốc Mỹ cũng từng bước đưa quân đội các nước đồng minh (Nam Hàn, Philíppin, Thái Lan, Niu Dilân, Úc...) vào miền Nam nhằm đánh lừa dư luận và chia sẻ gánh nặng chiến tranh.

Những năm 1965-1967, thực binh Mỹ tăng nhanh từ vài chục vạn quân đến nửa triệu quân, thực hiện chiến thuật phản công tìm diệt Quân giải phóng miền Nam, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não (các căn cứ địa cách mạng) của kháng chiến ở miền Nam; đồng thời mở nhiều chiến dịch đánh phá bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, nhằm phá hoại tất cả các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, kể cả hệ thống đê điều, thủy lợi, tạo ra "thiên tai" phá hoại mùa màng và đời sống nhân dân miền Bắc; cùng lúc đó ra sức đánh phá toàn bộ hệ thống đường giao thông và tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn (Đoàn 559), đồng thời thiết lập hàng rào điện tử Mắc Namara nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người sức của từ miền Bắc vào miền Nam.

Với những bước đi như vậy, đế quốc Mỹ sẽ có khả năng leo thang cao đến đâu trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam?

Một là, Mỹ giàu và mạnh nhất thế giới (thời điểm xâm lược Việt Nam, Mỹ có 6.000.000 lục quân...) do đó việc leo thang bằng cách tăng quân và vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại, thực hiện tác chiến theo cách thức của đội quân nhà nghề kiểu Mỹ đến năm 1967 là chưa có giới hạn; đế quốc Mỹ có 34 nước và vùng lãnh thổ làm đồng minh và đồng lõa với Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, trong đó các đồng minh của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á đều thống nhất với Mỹ trong việc chống "nguy cơ cộng sản" và ngăn chặn tình trạng đôminô. Như vậy, chiến lược chiến tranh leo thang của Mỹ chưa có dấu hiệu thay đổi.

Hai là, tham vọng và quyền lợi của Mỹ trong chiến lược toàn cầu tuy không cho phép Mỹ dốc toàn lực vào Việt Nam, nhưng vấn đề thắng - thua trong cuộc chiến này - nhất là về quân sự không cho phép Mỹ ngưng leo thang và càng không thể xuống thang chiến tranh; Mỹ chưa có tiền lệ xuống thang khi chiến tranh đang tiếp diễn và càng không có tiền lệ thua hoặc hòa trong truyền thống quân sự và lịch sử chiến tranh Hoa Kỳ.

Ba là, cũng theo "truyền thống" để kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đòn đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến dịch lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc đối phương phải chịu thua về quân sự. Thực tế so sánh tương quan lực lượng Quân giải phóng miền Nam và thực binh Mỹ ở miền Nam về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại đều chênh lệch rất lớn; việc Quân giải phóng miền Nam đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam là điều gần như không thể. Trong khi đó đến cuối năm 1967, Tổng thống Giônxơn vẫn tin rằng Mỹ sẽ kết thúc chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam bằng một thắng lợi quân sự.

Chính trong bối cảnh đó, đế quốc Mỹ bất ngờ phải đối phó với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta vào dịp Tết Mậu Thân 1968 trên khắp miền Nam Việt Nam.

Đòn bất ngờ quyết định

Ở chiến trường miền Nam, với hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), quân đội Mỹ vẫn không thay đổi được cục diện chiến trường và ngày càng bị sa lầy vào cuộc chiến ở Việt Nam.

Nắm bắt được tình hình tiến thoái lưỡng nan về mặt chiến lược của Mỹ và xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước , tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương chuẩn bị một đòn đánh quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt trong cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tại Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1-1968), Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định: "phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý tưởng từ lâu và đến cuối năm 1967 đầu 1968 việc chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa càng khẩn trương, hối thúc. Trên toàn chiến trường miền Nam cả nông thôn và đô thị, cả khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định và chiến trường nghi binh lừa địch đều tập trung vào thực hiện cho bằng được với ý chí quyết tâm cao nhất cho giờ phút quyết định.

Thực tế Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giáng cho đối phương đòn bất ngờ về quân sự được thể hiện trên các phương diện:

- Bất ngờ về thời điểm và quy mô: tướng Oétmolen từng báo cáo trước Hội đồng phái bộ Mỹ ngày 15-1-1968 "tôi thấy khả năng là 60 đến 40% đối phương sẽ đánh trước Tết, có thể vào ngày 25-1"; tướng Davítxơn lại thấy "khả năng là 40-60% đối phương sẽ đánh sau Tết"; nhưng cuộc tổng tiến công nổ ra không phải "trước" hoặc "sau" mà đúng vào ngày Tết, ngoài dự kiến của Oétmolen và Đantxơn3. Quy mô tiến công trên toàn chiến trường kể cả trên tất cả các đô thị miền Nam, đánh vào trung tâm của 4 thành phố lớn nhất miền Nam Việt Nam và tiến công 30 tỉnh lị từ đồng bằng sông Cửu Long đến khu vực phi quân sự (DMZ). Hãng Reuters (Anh) ngày 3-2-1968 bình luận: "Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước đồng minh rất đỗi ngạc nhiên".

- Bất ngờ về phương hướng và phương thức tác chiến: Mỹ bị lôi kéo tập trung ra chiến trường Khe Sanh, sa vào kế hoạch nghi binh hoàn hảo và bị đòn bất ngờ, táo bạo của Quân giải phóng ở đầu não lớn nhất là Sài Gòn; Mỹ tưởng đánh vào đô thị chỉ là đòn nghi binh để tập trung đánh ở chiến trường rừng núi hòng làm một "Điện Biên Phủ thứ 2", nhưng tại chiến trường chính là Sài Gòn, Mỹ và toàn bộ bộ máy chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam bị đánh hiểm bằng lực lượng đột kích của biệt động thành. Chính sách giáo khoa quân sự của Mỹ thú nhận: "Điều đầu tiên cần nói về cuộc tổng tiến công là tình báo của đồng minh đã thất bại ngang với trận Trân Châu Cảng năm 1941 và trận tiến công Ardennes năm 1944. Việt Nam đã giành được sự bất ngờ hoàn toàn".

- Bất ngờ về mục tiêu: Quân giải phóng đã "kéo cho được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để tiêu diệt và đánh mạnh vào các đơn vị chủ lực lớn của địch", nhằm đúng hướng công kích chủ yếu là các thành thị, nhất là những thành thị lớn" - nơi tập trung lực lượng và bộ máy đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn...; tiến công hàng loạt và đánh phá mạnh mẽ những nơi yết hầu của địch, những cơ quan đầu não và then chốt, những Sở chỉ huy quan trọng của Mỹ... chiếm giữ hoặc phá hoại được nhiều cơ sở hậu cần, kho vũ khí, đạn dược, xăng dầu, phương tiện vận tải, lương thực, những sân bay, hải cảng, đầu mối giao thông, những trung tâm thông tin, tuyên truyền và đài phát thanh... tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và làm tê liệt sức đề kháng của chúng . Lực lượng biệt động thuộc Phân khu 6 trong ngày mồng 2 Tết Mậu Thân 1968 (lịch âm miền Nam, tức ngày 31-1-1968) tiến công 6/9 mục tiêu chủ yếu, chiến đấu rất dũng cảm, chiếm được Đài Phát thanh và Tòa Đại sứ Mỹ, giữ trong thời gian ngắn. Hãng Reuters ngày 5-2-1968 thống kê: "Mỹ có đến nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và đã tiêu mỗi ngày 60 triệu đôla mà vẫn không bảo vệ được một tấc vuông đất nào ở miền Nam Việt Nam cả".

Buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh

Từ cuối năm 1967, khi cuộc chiến tranh leo thang còn đang tiếp tục, nước Mỹ đã xuất hiện những dấu hiệu mới. Rõ rệt nhất là Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara - người từng khởi xướng việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam và đề xuất việc leo thang chiến tranh, nhưng sau đó lại tự nghi vấn chính sách của Mỹ và cuối cùng thì chủ trương kết thúc chiến tranh bằng thương lượng. Trước sự bi quan về triển vọng của chiến tranh Việt Nam và thất vọng về sự bất hợp tác của Tổng thống, ngày 29-2-1968 Mắc Namara từ chức Bộ trưởng Quốc phòng; Tổng thống Giônxơn nhanh chóng chấp thuận và đưa cố vấn của mình là Cờlác Cờlípphớt lên thay.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam trong đó việc đột kích vào các vị trí quan trọng của bộ máy chiến tranh tại Sài Gòn, gây bàng hoàng cho các chính giới ở Mỹ và tác động mạnh mẽ đến Quốc hội Mỹ, gây mất niềm tin sâu sắc trong dư luận nhân dân Mỹ. Ngày 20-2-1968, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ yêu cầu điều trần về chính sách của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Vịnh Bắc Bộ dẫn đến Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ làm cơ sở pháp lý cho việc leo thang chiến tranh.

Tiếp đó, Quốc hội Mỹ phản đối yêu cầu của tướng Oétmolen - Tư lệnh liên quân Mỹ ở Nam Việt Nam về tăng thêm 206.000 quân, không tin vào đường lối chiến tranh và chiến thuật tác chiến của quân đội Mỹ ở chiến trường Việt Nam. Tình hình đó dẫn đến việc Tổng thống Mỹ không thể chấp nhận tăng quân để tiếp tục leo thang chiến tranh.

Đầu tháng 3-1968, Tổng thống Giônxơn triệu hồi tướng Oétmolen từ Việt Nam về Mỹ và đưa tướng Abờram sang thay làm Chỉ huy lực lượng liên quân Mỹ tại Việt Nam.

Tổng thống Giônxơn thấy cần thiết phải có những tuyên bố về tình hình và ông triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong hai ngày nhóm họp (25 và 26-3-1968), các cố vấn cấp cao Oasinhtơn bày tỏ quan điểm về chiến lược của Mỹ ở Việt Nam và Tổng thống kết luận: "Theo như tôi hiểu... tất cả mọi người đều đề nghị rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam" .
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn quyết định đình chỉ 30 ngày mọi cuộc ném bom hoặc bắn phá lãnh thổ miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; đồng thời cử đại diện tiếp xúc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho mời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ để trấn an chế độ Sài Gòn.

Đêm chủ nhật 31-3-1968 (lúc 21 giờ), truyền hình liên bang Hoa Kỳ phát đi bài phát biểu của Tổng thống Giônxơn dài 45 phút nói về những quyết định hệ trọng bậc nhất của quốc gia cũng như của cá nhân ông, trong đó có những nội dung lớn là: Mỹ đơn phương chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chấm dứt thời kỳ Mỹ "tăng cường cam kết đưa các lực lượng quân Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ"; tăng nhanh việc trang bị cho quân đội Nam Việt Nam, tạo cho đội quân này khả năng phòng thủ Nam Việt Nam. Cuối cùng, ông tuyên bố: "Tôi sẽ không tìm kiếm và sẽ không chấp nhận sự đề cử của Đảng tôi ra ứng cử Tổng thống một nhiệm kỳ mới nữa".

Như vậy, quyết định đêm ngày 31-3-1968 của Tổng thống Giônxơn là biểu hiện cao nhất, rõ ràng nhất của chuỗi dài xuống thang chiến tranh của Mỹ trước tác động của đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968 với ba bước đi cụ thể:

1- Không tiếp tục tăng quân sang miền Nam, triệu hồi tướng tư lệnh chiến trường từ miền Nam về Mỹ, không tiếp tục thực hiện hoạt động tác chiến phản công "tìm diệt" ở chiến trường miền Nam... Chiến lược "chiến tranh cục bộ" coi như phá sản và phải thừa nhận trong thực tế không thể dùng lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ để thắng trong chiến tranh ở Việt Nam.

2- Ngưng ném bom miền Bắc, đáp ứng điều kiện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về nói chuyện hòa bình giải quyết chiến tranh bằng đàm phán, dẫn đến chấm dứt chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, chấp nhận thực tế không thể ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một bên đàm phán kết thúc chiến tranh.

3- Phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh để chuyển giao cuộc chiến cho Việt Nam Cộng hòa, giải quyết nội tình nước Mỹ đang bị chia rẽ về chiến tranh Việt Nam và cố gắng duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Tổng thống đương nhiệm không tiếp tục ra ứng cử nhiệm kỳ mới vì không tìm thấy cách giải bài toán chiến tranh Việt Nam, như là cách chấp nhận thua cuộc.

Xuống thang chiến tranh trong khi đang tham chiến là đột phá rất khó xảy ra, nhất là khi cuộc chiến ấy đang còn nhiều khả năng leo thang với nhiều cố gắng tìm kiếm thắng lợi về quân sự; càng không thể xuống thang chiến tranh đối với đội quân tham chiến của một đế quốc lớn mạnh còn rất đông trên chiến trường, vũ khí hiện đại và sức cơ động hơn hẳn đối phương trong cuộc chiến. Vậy nên quyết định xuống thang chiến tranh của Tổng thống Giônxơn là một đột phá bất ngờ nhưng không thể khác được trước tác động của đòn tiến công Tết Mậu Thân 1968; sự lựa chọn không thể khác được như thế mang bản chất một sự thất bại quân sự trong chiến tranh.

Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là đòn quân sự và chính trị đánh vào ý chí chiến tranh của Mỹ, đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các thành thị... đã giáng một đòn bất ngờ rất lớn, làm cho quân Mỹ - nguỵ hoang mang, dao động mạnh... buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự của chúng... đã kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Thực hiện đòn Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta không chỉ đạt được mục đích kéo Mỹ xuống thang chiến tranh (lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của Mỹ), mà còn có ý nghĩa làm ngã ngũ thắng - bại cuộc chiến tranh này.

Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ mùa Xuân tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, một thời kỳ mới phát triển mới đã mở ra - thời kỳ vừa đánh vừa đàm, nhằm mục tiêu giành thắng lợi quyết định, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.




-------------------------------------------------------------------
1. Đến năm 1962, quân Sài Gòn có lực lượng 354.000 quân, trong đó có gần 200.000 chủ lực trang bị hiện đại theo kiểu Mỹ, tác chiến theo "chiến thuật tân kỳ" của Mỹ. Lực lượng nòng cốt này còn có sự hỗ trợ trực tiếp của 2.630 cố vấn Mỹ, 8.280 quân thuộc lực lượng đặc nhiệm Mỹ, 257 máy bay chiến đấu, 364 xe thiết giáp...

2. Gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ để thúc đẩy Quốc hội Mỹ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ; thực hiện "trả đũa" đối với các hoạt động quân sự của Quân giải phóng ở miền Nam Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM