Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 03:14:28 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định  (Đọc 8719 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2020, 08:09:49 am »

Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Trong thời gian diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, mặt trận ngoại giao liên tục triển khai các mũi tiến công để tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè và dư luận thế giới. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp xã hội để làm rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Phong trào quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Hàng ngàn cuộc míttinh, biểu tình, tuần hành "Vì Việt Nam" đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ và bè bạn quốc tế là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Một nhiệm vụ rất quan trọng của mặt trận đối ngoại thời điểm này là cần phát huy mạnh mẽ các hình thức hoạt động để tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính các tầng lớp nhân dân Mỹ. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế... đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về "chiến thắng" của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp như mời một số nhà báo, phóng viên Mỹ vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm động lực cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục ngàn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn tại Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều nghị sĩ Mỹ đòi chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất. Tỷ lệ ủng hộ đường lối tiến hành chiến tranh của chính quyền Giônxơn giảm sút nghiêm trọng. Những cuộc bỏ phiếu thăm dò cho thấy phần đông công chúng "có niềm tin vững chắc rằng Mỹ đã sa lầy một cách vô vọng cùng với nỗi nghi ngờ ngày càng tăng đối với khả năng Giônxơn phá thế bế tắc" . Còn nhà sử học Mỹ G. Côncô khẳng định: chính quyền phải đương đầu với một tình hình chưa từng có, "sự nhất trí về chính sách đối ngoại giữa cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp và công chúng bị sụp đổ hoàn toàn" . Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trân nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, thực sự kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về tinh thần và vật chất, nhất là trong thời gian ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho tổng tiến công.

Góp phần củng cố thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của đợt 1 tổng tiến công để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (đúng vào dịp Tết Mậu Thân), các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Đợt 1 của Tổng tiến công đã giáng đòn "choáng váng", buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn, ngày 31-3-1968, phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực bắc vĩ tuyến 20, "sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng" và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của Giônxơn chính là sự thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh ở miền Bắc và "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù đề nghị của Mỹ chưa đáp ứng yêu cầu hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm phán vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của Tổng tiến công, chia lửa với chiến trường. Ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố: sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện. Tuyên bố này của ta thực sự gây bất ngờ đối với phía Mỹ, bởi trong chính giới Oasinhtơn nhiều nhân vật có ảnh hưởng chính trị chưa nghĩ tới khả năng đàm phán khi chiến trường còn đang diễn biến quyết liệt. Dư luận chung nhìn nhận đây thực sự là cơ hội để dẫn đến hòa bình, thúc giục Tổng thống Giônxơn cam kết giữ đúng lời tuyên bố ngày 31-3-1968. Chính quyền Mỹ tỏ ra lúng túng, tranh thủ điều kiện mới, ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng từ phía bắc vĩ tuyến 20 trở ra, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công. Trong suốt đợt 1, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của ta. Từ tháng 5-1968, ta chính thức mở đàm phán với Mỹ tại Pari, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra đợt 2 và đợt 3 của tổng tiến công, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh đòi Mỹ xuống thang chiến tranh ở miền Nam, chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc; đồng thời, kiên quyết bác bỏ các đề xuất không hợp lý của Mỹ về quân sự như: khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho miền Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký kết Hiệp định Pari lịch sử tháng 1-1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10-1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam. Đến ngày 1-11-1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc, chấp nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên . Qua kênh đàm phán tại Pari, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 2-11-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố: Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với Việt Nam.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Mỹ đã góp phần "trói chân" Mỹ vào đàm phán Pari, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh chính quyền R. Níchxơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận cũng góp phần phân hóa Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn thể đồng bào, chiến sĩ miền Nam, nhất là trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969-1970.

Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động ngoại giao năm Mậu Thân

Hoạt động trên mặt trận ngoại giao trong thời gian diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm" đưa sự nghiệp kháng chiến sang trang mới. Từ thực tiễn đấu tranh đó, có thể rút ra một số bài học quan trọng sau:

Một là, giữ vững nguyên tắc kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, tạo sức mạnh tổng hợp; đồng thời đấu tranh ngoại giao cần phát huy tinh thần độc lập, tích cực, chủ động nhằm đạt được mục tiêu chiến lược cách mạng đề ra. Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp khác nhau, mặt trận ngoại giao đã góp phần đánh lạc hướng nhận định, khoét sâu sai lầm chiến lược của đối phương; đồng thời giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế, trực tiếp đóng góp vào chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Hai là, trên cơ sở nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng, theo dõi chặt chẽ những diễn biến tình hình khu vực, trên trường quốc tế có liên quan, mặt trận ngoại giao cần có bước đi phù hợp, nhằm tranh thủ tối đa những thuận lợi, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng trong nước. Dù bối cảnh quốc tế cuối những năm 60 của thế kỷ XX và phong trào cách mạng thế giới có diễn biến rất phức tạp, nhất là mâu thuẫn giữa Liên Xô với Trung Quốc trở nên gay gắt, nhưng nhờ có chiến lược, sách lược đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn tranh thủ được sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của nhiều nước, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Ba là, phát huy nhiều hình thức, biện pháp tiến công trực diện kẻ thù, khai thác tối đa mâu thuẫn nội bộ, đẩy đối phương vào tình thế ngày càng bị cô lập. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, ngoại giao ta đã góp phần to lớn thúc đẩy phong trào phản chiến của các tầng lớp nhân dân Mỹ dâng cao, tạo áp lực lớn đối với chính quyền Giônxơn; đồng thời đẩy mạnh tố cáo thái độ ngoan cố, hiếu chiến cùng thủ đoạn lừa bịp của Mỹ, làm tăng mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Sài Gòn..., tạo lợi thế trong cục diện "đánh - đàm" tại Hội nghị Pari, qua đó phát huy những thắng lợi đã đạt được, đồng thời góp phần khắc phục được những khó khăn ở chiến trường, nhất là tổng tiến công đợt 2 và đợt 3.

Sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song tầm vóc, ý nghĩa của sự kiện lịch sử trọng đại này trường tồn cùng thời gian. Trong thời điểm bước ngoặt đó, mặt trận ngoại giao tự hào đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng. Những kinh nghiệm, những bài học hay về sự kết hợp đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự trong tổng tiến công cho tới nay vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta cần nghiên cứu vận dụng, phát huy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, tranh thủ nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:19:15 am »

CÔNG AN NHÂN DÂN
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng, GS.TS. TÔ LÂM
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an


Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là mốc son tiêu biểu, một bước ngoặt quyết định -  đòn tấn công chiến lược, bất ngờ với quy mô lớn vào sào huyệt của đối phương ở các thành phố, thị xã lớn trên toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch, phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược và buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là một cuộc "tập dượt chiến lược" để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó là kết tinh của ý chí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" ; là kết quả của cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng, mưu trí, sáng tạo, sự hy sinh oanh liệt của đồng bào, chiến sĩ hai miền Nam - Bắc, trong đó có những đóng góp quan trọng của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.

Thất bại trong chiến dịch mùa khô thứ nhất, từ giữa năm 1966, Mỹ tiếp tục đưa thêm quân đội viễn chinh vào chiến trường miền Nam và ném bom bắn phá miền Bắc ngày càng ác liệt. Trước hành động điên cuồng của địch, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Giữa lúc cuộc chiến leo thang đến đỉnh cao nhất, Bộ Chính trị họp bàn về hướng tấn công chiến lược năm 1968 và sau đó Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967 và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 về "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" ; Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Bộ Công an đã sớm đề ra các chủ trương, quyết định có tính chiến lược về công tác an ninh. Ngay từ ngày 15-12-1967, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ban hành Chỉ thị số 32/CT về nhiệm vụ, phương hướng công tác an ninh trong thời gian sắp tới, nêu rõ: "Phải hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn và các vùng yếu kết hợp với lực lượng vũ trang, chính trị của quần chúng để đẩy mạnh trừ gian diệt ác ôn, đánh rã bộ máy kìm kẹp, hạ uy thế địch, tạo thế cho phong trào cách mạng của quần chúng nổi dậy tiến lên tiêu diệt các cơ quan đầu não, các tổ chức công an, tình báo địch, các đảng phái phản động, đánh tan các cơ sở phản động của địch một cách triệt để, góp phần đánh sập chính quyền Sài Gòn từ Trung ương đến tận cơ sở, giành chính quyền về tay nhân dân; tích cực nắm vững tình hình địch, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyên môn để triệt, để truy kích địch, bảo vệ chính quyền cách mạng sau này". Tiếp sau đó, ngày 14-1-1968, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 22 đã nhận định năm 1968 có vị trí quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước trên cả hai miền nước ta và xác định công tác an ninh tập trung thực hiện tốt ba nhiệm vụ cơ bản là: 1- Ra sức giữ vững an ninh miền Bắc nhằm phục vụ tốt công cuộc xây dựng kinh tế và sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc và chi viện miền Nam; 2- Chi viện tốt cho công tác an ninh miền Nam, đảm bảo yêu cầu trước mắt, đồng thời đáp ứng kịp tình hình cách mạng khi có chuyển biến lớn; 3- Ra sức bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, cải tiến công tác, cải tiến tổ chức và lề lối làm việc, tổng kết kinh nghiệm và xây dựng lý luận nghiệp vụ, nhằm bảo đảm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an, Trung ương Cục miền Nam và cấp ủy đảng các cấp, lực lượng an ninh miền Nam đã huy động hơn 3.000 cán bộ, chiến sĩ an ninh thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch được phân công, kết hợp với lực lượng tại chỗ tiến công vào các cơ quan đầu não, bộ máy kìm kẹp an ninh, cảnh sát, hệ thống giao thông, sân bay, kho tàng, trại giam của địch trong các đô thị và lập nên những chiến công lớn. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt, cam go, phức tạp đó, hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ an ninh và hàng trăm cơ sở của lực lượng an ninh đã hy sinh anh dũng, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt và giam giữ tù đày trong các nhà giam của địch. Vai trò và những đóng góp to lớn của lực lượng Công an nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được thể hiện trên các nội dung chính sau:

Thứ nhất, lực lượng công an đã chủ động chuẩn bị toàn diện về mọi mặt, sẵn sàng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Ngày 19-12-1967, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn thành lập Phòng theo dõi tình hình miền Nam nhằm nghiên cứu góp ý kiến kịp thời các chủ trương, chính sách, biện pháp đấu tranh chống mọi hoạt động tình báo gián điệp, phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai, phục vụ cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa đang đến gần. Cuối năm 1967, Bộ Công an đã triệu tập 776 cán bộ, mở 4 lớp học tại nơi sơ tán, bồi dưỡng mọi mặt chuẩn bị chi viện cho an ninh miền Nam; tháng 1-1968, tất cả cán bộ, chiến sĩ này cùng hàng trăm tấn vũ khí, tài liệu, phương tiện thông tin liên lạc được chi viện cho các chiến trường miền Nam. Công an nhân dân là một trong những lực lượng chi viện chiến trường miền Nam sớm nhất, đúng lúc, kịp thời, toàn diện về cán bộ, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, hậu cần... góp phần quan trọng làm chuyển biến tương quan lực lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc Tổng tiến công.

Thiết thực hưởng ứng cuộc tiến công toàn diện của quân dân miền Nam, ở miền Bắc, lực lượng Công an nhân dân đẩy mạnh thi đua, đấu tranh làm thất bại chiến tranh gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch, giữ gìn trật tự, an ninh để bảo vệ miền Bắc. Tại miền Nam, Ban an ninh tất cả các khu, phân khu, tỉnh thành đều có kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, các vùng nông thôn địch còn tạm chiếm. Trong toàn miền đã xây dựng được thêm 117 cơ sở mới và 1.198 cơ sở bí mật trong các cơ quan tình báo, cảnh sát, đoàn bình định, ngụy quyền, đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Mạng lưới giao liên được tăng cường, các tổ cơ yếu, điện đài, trinh sát kỹ thuật, thông tin liên lạc được hình thành phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và phục vụ công tác đánh địch.

Ở các vùng căn cứ giải phóng như Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), Tây Ninh, Long Xuyên, Châu Đốc, an ninh địa phương đã tham gia công tác vận động tân binh, bảo vệ hàng vạn dân công, hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực... từ căn cứ vào các thành phố, thị xã. Bộ phận kỹ thuật nghiệp vụ của Bộ tăng cường làm ra hàng nghìn giấy căn cước "Rồng xanh", giấy "miễn quân dịch", "sự vụ lệnh" giống như của địch để cấp cho cán bộ, chiến sĩ ta vào đô thị hoạt động.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Ban An ninh Trung ương Cục và Ban an ninh các địa phương đều kiện toàn lại tổ chức, cán bộ nhằm tăng cường cho các chiến trường chính và khu trọng điểm. An ninh khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định được tổ chức thành 6 phân khu. Giải thể Ban An ninh miền Đông Nam Bộ (T1), rút đội trinh sát bảo vệ chính trị và ban bảo vệ căn cứ 105 về thành lập đại đội an ninh vũ trang. Ngày 15-12-1967, Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định còn thành lập đơn vị an ninh vũ trang với nhiệm vụ đánh vào mục tiêu Tổng nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành. Lực lượng trinh sát vũ trang cũng được tăng cường, biên chế thành 2 đội làm nhiệm vụ tiêu diệt bọn tình báo đầu sỏ, cảnh sát ác ôn. Ngoài ra, Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định còn cử một tổ tiền trạm xuống địa bàn để xây dựng căn cứ cho Bộ Tư lệnh Tiền phương.

Thứ hai, bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình địch; tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, dẫn đường, phối hợp với Quân giải phóng và nhân dân đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, phá rã bộ máy kìm kẹp, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch, tạo thế cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

Lực lượng An ninh miền Nam đã tập trung nắm các cơ quan, tổ chức, trụ sở công khai, bí mật của địch, các kho cất giấu tài liệu, các đảng phái phản động; nắm chắc danh sách, nhận dạng, lý lịch của số cầm đầu ác ôn trong ngụy quyền, số chỉ huy quân sự, tình báo, an ninh quân đội Mỹ - Sài Gòn, cảnh sát, số chiêu hồi bình định chiến tranh tâm lý, chỉ huy trong các trung tâm cải huấn... Những thông tin, tình hình này đã phục vụ đắc lực cho kế hoạch tổng tiến công của quân và dân ta vào đầu năm 1968.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, các lực lượng vũ trang miền Nam đã mở một cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sân bay, bến cảng, sở chỉ huy của địch. An ninh miền Nam đã huy động toàn bộ lực lượng cùng với các lực lượng vũ trang khác và quần chúng nhân dân thực hiện "hai chân", "ba mũi" giáp công xuyên suốt trong cả quá trình chiến tranh cách mạng ở miền Nam; tổ chức thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu "yết hầu", "huyết mạch", "tim óc" của địch; trong đợt I, ta đã bắt, diệt 15.135 gián điệp, tình báo, trong đó có 1.359 tình báo, 1.766 cảnh sát, 632 bình định nông thôn, 492 ác ôn, 3.409 tên đầu sỏ; giải phóng hầu hết các nhà lao (trung tâm cải huấn) và trại giam, giải thoát hơn 6.000 cán bộ và đồng bào yêu nước; tham gia phá vỡ 4.200 ấp chiến lược, giải phóng thêm 1,4 triệu dân. Hệ thống ngụy quyền cùng bộ máy kìm kẹp của địch bị phá rã nặng nề; khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch bị phá hủy.

Tại khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, An ninh T4 đã huy động mọi lực lượng hoàn thành nhiệm vụ trừ gian diệt ác và những đối tượng đầu sỏ quan trọng, hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở cơ sở. Đặc biệt, 12 cán bộ, chiến sĩ phân đội An ninh vũ trang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, dẫn đường đưa một bộ phận Bộ Tư lệnh Tiền phương II luồn sâu vào trung tâm thành phố, đã chiến đấu anh dũng, hy sinh đến người cuối cùng trên đường phố Quận 11 để tạo điều kiện cho lãnh đạo rút lui an toàn.
Tại Huế, trong đợt Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng an ninh và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đồng loạt tiến công vào các mục tiêu trọng điểm và nhanh chóng chiếm phần lớn các vị trí trong thành phố, giải phóng hàng chục xã, hàng trăm thôn với hàng chục vạn dân và giữ thành phố trong 25 ngày đêm.

Tại các địa phương khác như: Tây Ninh, Biên Hòa, Bà Rịa, Bình Dương, Long An, Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Phong, Cần Thơ, Vĩnh Long... lực lượng an ninh các địa phương đã giữ vai trò nòng cốt trong công tác mở đường, nắm tình hình, cùng với các lực lượng vũ trang giải phóng, quần chúng nhân dân đồng loạt tiến công vào các trụ sở của địch, trừng trị ác ôn ngoan cố, tìm bắt tề điệp, cảnh sát, chiêu hồi bình định, phá thế kìm kẹp của địch. Các chiến sĩ an ninh đã phát động quần chúng bảo mật phòng gian, vận động nhân dân làm hầm hào phòng địch đánh phá, giáo dục gia đình có người theo địch trở về, xây dựng xã chiến đấu, kiên quyết giữ vững quyền làm chủ ở ấp, xã; nhanh chóng, kịp thời khai thác những tên địch bị bắt và những tên đầu hàng, đầu thú phục vụ kế hoạch tiến công và nổi dậy xóa bỏ bộ máy kìm kẹp của địch.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:21:36 am »

Thứ ba, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, bí mật, an toàn, kịp thời truyền đạt những chỉ đạo, mật lệnh của Trung ương Đảng, Đảng đoàn, lãnh đạo Bộ Công an về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, thắng hay bại của cuộc chiến tranh một phần lớn do biết giữ bí mật hay không biết giữ bí mật quyết định. Trong bài "Giữ bí mật" đăng trên báo Sự thật, số 97, ngày 30-7-1948 với bút danh A.G, Người viết: "Ta biết giữ bí mật, thì bọn Việt gian mật thám khó mà hoạt động. Ta biết giữ bí mật, thì dù địch có trăm tai, ngàn mắt, cũng không dò được tin tức của ta. Vì vậy, biết giữ bí mật, tức là đã nắm chắc một phần thắng lợi trong tay ta". Quán triệt tư tưởng của Người, lực lượng Cơ yếu Công an miền Bắc và An ninh miền Nam ở nhiều địa bàn khác nhau, từ các căn cứ chiến đấu, vùng giải phóng đến tận sào huyệt của kẻ thù ở Sài Gòn, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, mưu trí, dũng cảm bảo vệ tài liệu mật mã, chuyển báo bí mật an toàn về Bộ Công an hàng nghìn nguồn tin tình báo có giá trị chiến lược, giúp Bộ Chính trị, Đảng đoàn và lãnh đạo Bộ Công an kịp thời đánh giá tình hình và đưa ra các chủ trương chỉ đạo sâu sát đối với cách mạng miền Nam. Tháng 12-1967, Cơ yếu An ninh Trung ương Cục đã kịp thời giải mã bức điện tuyệt mật về "Kế hoạch Mậu Thân (1968)" được chuyển từ miền Bắc vào qua đường Phnôm Pênh (Campuchia). Nội dung kế hoạch được đảm bảo tuyệt đối bí mật về ngày, giờ tấn công và nổi dậy của toàn quân và dân miền Nam. Cơ yếu Công an nhân dân ở hai miền Nam - Bắc đã mã dịch chuyển báo kịp thời, an toàn một tài liệu cực kỳ quan trọng của lãnh đạo Bộ Công an về một số vấn đề xung quanh việc quản lý các đô thị mới giải phóng cho An ninh Trung ương Cục chỉ đạo các đơn vị an ninh cơ sở miền Nam tổ chức thực hiện. Sau này, khi đánh giá vai trò và những đóng góp to lớn của công tác cơ yếu Công an nhân dân, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: "Trong mấy chục năm qua, chúng ta đánh giặc, chúng ta biết được rằng: Những lúc quan trọng nhất, những vấn đề bí mật nhất của ta không bị lộ. Các đồng chí đã góp phần rất quan trọng vào việc giữ bí mật, vào sức mạnh chung để giành thắng lợi" .

Thứ tư, đẩy mạnh phong trào phòng gian bảo mật; bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, các Bộ Tư lệnh Tiền phương tham gia công tác chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở địa phương.

Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, để thực hiện mục tiêu bảo vệ an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não trong mọi tình huống, Ban An ninh Trung ương Cục đã hết sức chú trọng chỉ đạo, hướng dẫn công tác bảo vệ, nâng cao cảnh giác, phòng gian bảo mật; nhiều kế hoạch chống thám báo, trinh sát, do thám, biệt kích, gián điệp được vạch ra và triển khai thực hiện hiệu quả. Lực lượng an ninh đã đấu tranh làm thất bại nhiều hoạt động tình báo, gián điệp của địch; phối hợp với các lực lượng chức năng của quân đội, cơ quan các cấp rà soát làm trong sạch nội bộ, tuần tra, canh gác vũ trang đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối về địa điểm đóng quân, trụ sở cơ quan Trung ương Cục miền Nam, các khu ủy, nơi cất giấu vũ khí, đạn dược, hầm nuôi giấu cán bộ trong khu vực nội đô; bảo vệ tuyệt đối an toàn các nhân sĩ, trí thức trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Thứ năm, chủ động phục hồi lực lượng tại những vùng địch phản công chiếm giữ; kiên cường bám đất, bám dân, vừa khôi phục sinh hoạt bình thường của nhân dân vừa nhanh chóng bảo đảm trật tự trị an địa bàn.

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch tập trung lực lượng phản kích rất quyết liệt, gây cho ta nhiều thiệt hại, trong đó có lực lượng an ninh. Nhiều cơ sở an ninh bị vỡ, có nơi hầu như "trắng tay", phải mất một thời gian dài mới khôi phục được. Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn của lực lượng an ninh miền Nam. Trong bối cảnh vô cùng phức tạp và ác liệt đó, để xây dựng và củng cổ tổ chức cơ sở an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, ngoài các lực lượng vũ trang bám chặt địa bàn đánh địch với khẩu hiệu "Một tấc không đi, một ly không rời", ban lãnh đạo đặc khu Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo phân tán nhỏ căn cứ và nới rộng bàn đạp ra các tỉnh xung quanh làm nơi đứng chân; xây dựng nhiều đầu mối giao liên an ninh đảm bảo sự chi viện bên ngoài vào đô thị, đồng thời đón nhận sự chi viện của an ninh miền Nam và Bộ Công an về cán bộ, vũ khí, tài chính... Cuối năm 1968, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Ban An ninh T4 chỉ đạo lực lượng trinh sát vũ trang chuyển hướng kịp thời; thông qua vận động giác ngộ quần chúng tham gia các phong trào công khai chống địch như phong trào công nhân, sinh viên, học sinh, phụ nữ để tuyển chọn vào lực lượng an ninh mật, điệp báo, tạo chỗ ăn, ở cho cán bộ, chiến sĩ an ninh...; thông qua xây dựng "lõm" chính trị trong nội đô để xây dựng lực lượng an ninh rộng khắp. Ban an ninh và một số cán bộ còn bám được địa bàn nội đô móc ráp lại cơ sở bị gián đoạn, hình thành mạng lưới điệp báo trong nội thành.

Cùng với đó, lực lượng an ninh chủ động nghiên cứu, đề xuất cấp ủy và nhanh chóng triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn ngừa các thủ đoạn chia rẽ, lôi kéo, phá hoại của địch, bảo đảm trật tự trị an địa bàn; phối hợp cùng với các lực lượng khác khôi phục sinh hoạt bình thường của quần chúng nhân dân.

Qua ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Công an nhân dân mà trực tiếp là lực lượng An ninh miền Nam đã góp phần to lớn vào thắng lợi chung của quân và dân cả nước, giáng một đòn chí tử vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh trúng, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của bộ máy chính quyền Sài Gòn, làm rung động dư luận quốc tế và chính giới Hoa Kỳ.
Kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (1968-2018) là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại truyền thống vẻ vang, những chiến công oanh liệt trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc. Chúng ta thành kính tôn vinh, bày tỏ lòng tri ân sâu sắc trước những cống hiến, hy sinh to lớn của quân, dân ta, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đã làm nên chiến công lịch sử trọng đại này.

Tiếp tục phát huy tinh thần Tổng tiến công và nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp, giúp đỡ của các lực lượng và sự đùm bọc, che chở, ủng hộ của nhân dân, lực lượng Công an nhân dân luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, hun đúc bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nòng cốt trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, mãi xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:26:40 am »

SỨC MẠNH CHÍNH TRỊ, TINH THẦN - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng LƯƠNG CƯỜNG
Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam



1. Cách đây 50 năm, vào đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm mồng một Tết Mậu Thân), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã diễn ra trên ba vùng chiến lược: nông thôn đồng bằng, đô thị và miền núi. Tại địa bàn đô thị, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4/6 thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định và Huế, 37/44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn ở miền Nam Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã tiến công vào nhiều cơ quan đầu não của địch, như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn,... Tại địa bàn nông thôn đồng bằng, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng nhân dân đã nổi dậy, đập tan bộ máy chính quyền của địch ở nhiều nơi, giành quyền làm chủ, xây dựng, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.

Lần đầu tiên sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của quân Mỹ, chính quyền và quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã bị quân ta tiến công; hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trở thành chiến trường - nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều ngày, có nơi kéo dài hàng tháng.

Quân và dân ta đã đánh mạnh, đánh hiểm, đánh trúng vào 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8/11 bộ tư lệnh sư đoàn quân ngụy Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến của Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông; tiêu diệt nhiều tên địch, phá hủy hơn 34% vật tư, phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn, đưa chiến tranh cách mạng vào trung tâm thành phố, nơi đầu não của kẻ thù, làm rối loạn hậu phương địch; giáng đòn chí mạng và làm suy giảm uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được ghi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam như là một mốc son chói lọi, một chiến thắng mang tính quyết định: đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, thương lượng với ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là một cuộc tập dượt lớn chuẩn bị cho giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975.

Sức mạnh làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là sức mạnh tổng hợp của đất nước, trong đó sức mạnh chính trị, tinh thần được phát huy cao độ, là nhân tố có vai trò quyết định, được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là động lực to lớn, chiếm ưu thế tuyệt đối so với quân Mỹ và tay sai trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Xem xét nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nếu chỉ dựa trên quan điểm vũ khí luận thì không thể đưa ra được lời giải đáp đúng đắn. Bởi vì, vào cuối năm 1967, ở chiến trường miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ đã huy động 480.000 quân Mỹ (70% lục quân, 60% không quân, 40% hải quân, 60% lực lượng lính thủy đánh bộ); 68.800 quân của các nước chư hầu; 552.000 quân của quân đội ngụy quyền để thực hiện mục tiêu thôn tính nước ta. Trong tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra thì đối phương có ưu thế hơn ta về quân số, vũ khí và trang bị kỹ thuật quân sự.

Trong chiến tranh, để giành thắng lợi, nhất thiết phải tạo ra sức mạnh vượt trội so với kẻ thù. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là cơ sở, "chất keo" kết dính các nhân tố khác, quy tụ, tập hợp, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc, làm chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội về mọi mặt so với quân địch. Vì vậy, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là một trong những nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Sức mạnh chính trị, tinh thần đã góp phần làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, là sự kết tinh, hội tụ ý chí quyết tâm đánh giặc và thắng giặc của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam và sự kiên trung, anh dũng, kiên quyết chống kẻ thù xâm lược, cứu nước, cứu nhà của nhân dân cả nước; là sức mạnh tổng hợp của đất nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại.

Đánh giá nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thắng lợi đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và của sức mạnh toàn dân đoàn kết quyết chiến quyết thắng, thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp" .

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự hội tụ và phát huy cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần của dân tộc, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai miền Nam, Bắc nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa, thiêng liêng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm sắt đá, quân và dân ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giành độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong phong trào Đồng khởi những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, sau đó là các chiến thắng Ấp Bắc, Vạn Tường, chiến thắng trong chiến dịch mùa khô năm 1967 đã góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ cũng như thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc là thực tế sinh động, phản ánh "ưu thế tuyệt đối" về chính trị, tinh thần của quân và dân ta so với quân xâm lược và bè lũ tay sai.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là ưu thế về sức mạnh của "lòng dân", của những người chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cao cả; ưu thế về tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu của những người dân yêu nước, đầy khát vọng và mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do; kiên quyết chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thể hiện rõ ở chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của nhân dân ta.
Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta luôn được tăng cường trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Dựa trên sức mạnh chính trị, tinh thần, quân và dân ta đã tạo ra thế và lực để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhờ đó, thế và lực của ta không ngừng phát triển, tạo ra những tiền đề mới để giải phóng miền Nam.

 Hai là, sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố quyết định chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tinh thần yêu nước, tình yêu quê hương, khát vọng sống hòa bình, độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã được phát huy và nhân lên thành sức mạnh, góp phần chuyển hóa thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc đã được biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật để bổ sung cho mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên hơn 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích và tự vệ). Trong hai năm 1967 và 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đã vượt Trường Sơn và biển cả để chi viện cho chiến trường miền Nam: 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh..., đã phục vụ đắc lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Sức mạnh chính trị, tinh thần của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là động lực có uy thế tuyệt đối để quân và dân ta vượt mọi thử thách, khó khăn, gian khổ; phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo trong chiến đấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí, trang bị để tìm ra cách đánh hay, phù hợp, giành được thắng lợi. Lý tưởng, lẽ sống "cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù", tinh thần "cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc" của quân và dân ta được phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sự dũng cảm, kiên cường, mưu trí và sáng tạo trong chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên khắp miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Hình ảnh anh Giải phóng quân mặc dù đã hy sinh khi tiến công địch ở sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng tay vẫn ôm chặt súng hướng nòng về phía địch làm cho kẻ thù khiếp sợ, được nhà thơ Lê Anh Xuân khắc họa trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam, nói lên sự hiên ngang, bất khuất của các chiến sĩ Giải phóng quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 1.

Sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn của quân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã được những người bên kia chiến tuyến thừa nhận và khâm phục. Thượng nghị sĩ R.Kennơđi đã phải thốt lên rằng: "Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp đầy đủ trang bị, vũ khí hiện đại lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công". Trung tướng B.Traino, người từng có mặt ở chiến trường miền Nam Việt Nam, nhận xét: "Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập...". Sau này, trong hồi ký, Tổng thống Mỹ L.B.Giônxơn xác nhận: Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là "một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ", "cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ", nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại".




--------------------------------------------------------------
1. "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
   Nhưng Anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng
   Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
   Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng
   Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
   Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
   Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
   Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
".
                   (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:28:45 am »

Ba là, sức mạnh chính trị, tinh thần đã quy tụ, khơi dậy và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Khát vọng sống hòa bình và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta được tập hợp, khơi dậy và phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Vào thời điểm ấy, Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam" (12-1967), đã xác định chủ trương: Động viên những nỗ lực lớn nhất của quân dân hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Khẩu hiệu trung tâm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được Nghị quyết xác định là: Độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ rút quân về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam.

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Quân giải phóng miền Nam đã huy động được phần lớn nhân dân trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô, cất giấu và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng được phong trào "hũ gạo nuôi quân". Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải của Quân giải phóng đã chuyển hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng Tây Nam Sài Gòn. Quân giải phóng đã huy động hàng trăm xe bò chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, Gò Vấp. Trước Tết Mậu Thân, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội Phụ nữ phát động). Các huyện đều thành lập đội cung cấp để huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các gia đình đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí...

Đánh giá hiệu quả tham gia của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đại tướng Lê Đức Anh viết: "Quần chúng đã tham gia tích cực vào cuộc chuẩn bị cho đợt tiến công này và sau khi nổ súng đã tham gia đông đảo bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân đã trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu bộ đội và tích cực tham gia chiến đấu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh rồi đưa về căn cứ. Nhiều người, nhiều trường hợp cả gia đình bị bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước" .

Nhờ xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân và sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của quần chúng nhân dân nên Quân giải phóng đã đồng loạt nổ súng và tiến công địch trên các địa bàn rộng khắp miền Nam. Điều này khiến cho quân địch kinh hoàng, khiếp sợ. Sự ủng hộ của nhân dân miền Nam đối với Quân giải phóng được nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: "Khắp thế giới ngạc nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài Gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết. Trái lại, mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài" .

2. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, là ưu thế tuyệt đối của ta so với quân địch, là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, qua đó đã chứng minh quan điểm đúng đắn của V.I. Lênin về vai trò của nhân tố tinh thần: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy" . Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được nhân lên và phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và là nhân tố quyết định thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975, "đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia - dân tộc, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống và các hình thái chiến tranh kiểu mới. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, ngày càng phức tạp hơn. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Điều đó tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò sức mạnh chính trị, tinh thần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai nếu xảy ra, có thể kẻ thù vẫn chiếm ưu thế về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, nhưng ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần cũng như sức mạnh tổng hợp vẫn thuộc về quân và dân ta. Đây là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, để tăng cường sức mạnh chính trị, tinh thần, làm cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương, cả hệ thống chính trị phải thật sự quan tâm chăm lo xây dựng "thế trận lòng dân", phát huy sức mạnh nhân tố chính trị, tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:34:12 am »

BỘ TỔNG THAM MƯU TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968



Thượng tướng, TS. PHAN VĂN GIANG
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng


Vào thời điểm Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta ở miền Nam đã mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt đánh vào 4/6 thành phố lớn, 37/44 thị xã, 64 thị trấn, chi khu, quận lỵ, sân bay, căn cứ hậu cần... của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên chiến trường miền Nam. Đây là cuộc tập kích chiến lược của ta có quy mô rộng lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất từ trước đến thời điểm đó. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm cho quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân đồng minh của Mỹ thiệt hại nặng nề 1, gây kinh hoàng cho nước Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, tạo ra sự thay đổi đột biến của cuộc chiến tranh. Quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn từ Trung ương đến địa phương bị tê liệt chỉ huy, rối loạn hiệp đồng. Nội bộ Mỹ và Sài Gòn mâu thuẫn, đổ lỗi cho nhau. Thế trận chiến lược của Mỹ ở chiến trường miền Nam bị đảo lộn từ thế chủ động phản công chiến lược, buộc phải chuyển vào phòng ngự bị động chống đỡ ngay tại địa bàn thành phố, thị xã. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 làm cho các tầng lớp nhân dân trên toàn nước Mỹ xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Nội các Mỹ bị phân hóa, chia rẽ sâu sắc. Tổng thống Giônxơn phải triệu tập cuộc họp khẩn cấp để thảo luận về cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Đối với ta, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố, trong đó, vai trò của Bộ Tổng Tham mưu trong giai đoạn tiến công địch, có ý nghĩa quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau.

Một là, tổ chức hoạt động tác chiến nghi binh, tạo lập thế trận, nắm chắc thời cơ đồng loạt nổ súng tiến công địch.

Tính đến tháng 12-1967, về so sánh tương quan lực lượng, địch vẫn mạnh hơn ta. Các cơ quan chỉ huy đầu não trọng yếu của địch, như: Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế và các thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam, được bố trí lực lượng bảo vệ nhiều lớp, nghiêm ngặt, do đó, việc ta đưa lực lượng vào tiếp cận, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công các mục tiêu là vấn đề rất khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, trên cơ sở quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các lực lượng của ta tổ chức một số hoạt động tác chiến nhằm nghi binh, thu hút, giam chân chủ lực địch, kéo sự chú ý của chúng về một hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cơ động tiếp cận, áp sát mục tiêu, hình thành thế trận đồng loạt tiến công thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với nước bạn Lào mở Chiến dịch Nậm Bạc và chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh tiến công nghi binh, thu hút, giam chân địch. Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu chủ động phối hợp với Tổng cục Chính trị, Bộ Ngoại giao và các phương tiện truyền thông, tập trung tuyên truyền hoạt động tác chiến của ta trên các hướng nghi binh, hạn chế tuyên truyền trên hướng thành phố, thị xã. Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các sư đoàn chủ lực của ta từ miền Bắc vào, đang đứng chân trên chiến trường miền Nam, cơ động tập kết, hình thành thế bao vây, uy hiếp địch ở Khe Sanh. Trước các hoạt động nghi binh của ta, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn bị dồn hết tâm trí về hướng nghi binh, chủ quan bỏ hở vùng thành phố, thị xã, tạo ra điều kiện thuận lợi cho lực lượng của ta cơ động, áp sát mục tiêu, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Thực tế đã chứng minh, ngay sau khi Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo mở Chiến dịch Nậm Bạc và Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, Tổng thống Giônxơn đã chỉ thị cho tướng Taylo thành lập ngay "Phòng tình hình đặc biệt" tại Nhà Trắng. Theo đó, Tổng thống Mỹ đích thân theo dõi chiến sự ở Đường 9 - Khe Sanh và chỉ thị tướng Oétmolen phải hành động ngay, đồng thời yêu cầu Hội đồng Tham mưu liên quân Mỹ "ký tên bằng máu" cam kết bảo vệ Khe Sanh bằng bất cứ giá nào . Bị trúng đòn nghi binh chiến lược của ta, Lầu Năm Góc và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gòn buộc phải hủy kế hoạch phản công chiến lược vào miền Đông Nam Bộ. Đồng thời, điều động Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, cùng hai lữ đoàn dù thuộc Sư đoàn 101 Mỹ, sử dụng máy bay B52 ném bom 15 đến 20 lần/ngày và điều động nhiều lực lượng, phương tiện quân sự khác, chi viện cho lực lượng của chúng ở Đường 9 - Khe Sanh. Trong khi đó, cơ quan chỉ huy đầu não và căn cứ quân sự của địch ở các thành phố, thị xã trên chiến trường miền Nam bị buông lỏng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các sư đoàn, trung đoàn chủ lực Miền, đơn vị binh chủng tổ chức từng bước rời căn cứ cơ động áp sát mục tiêu, tạo lập thế trận đồng loạt tiến công một cách thuận lợi.

Lo sợ trước các hoạt động tác chiến của ta, mặc dù thời khắc giao thừa Tết Mậu Thân 1968 đã đến, trong khi quân Mỹ thực hiện nghiêm mệnh lệnh cấm trại, sẵn sàng chiến đấu, thì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và quân đội Sài Gòn vẫn về nghỉ Tết cùng gia đình. Lực lượng trực của quân đội Sài Gòn ở các mục tiêu trong thành phố, thị xã trên khắp chiến trường miền Nam chỉ còn 50%, các tuyến ra vào thành phố có nhiều sơ hở. Nắm chắc thời cơ đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo các lực lượng đồng loạt nổ súng tiến công vào các mục tiêu của địch ở thành phố, thị xã trên khắp chiến trường miền Nam, làm cho Mỹ và Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, tê liệt chỉ huy, rối loạn hiệp đồng, lúng túng, bị động chống đỡ. Quân chủ lực của địch ở Đường 9 - Khe Sanh, từng giờ phải phân tán lực lượng, vắt sức, tìm mọi cách đối phó với đòn vây ép, giam chân của ta, không còn khả năng chi viện, ứng cứu giải tỏa cho lực lượng của chúng đang bị tiến công ở thành phố, thị xã.

Hai là, nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng và thế trận trong quá trình tác chiến.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được tiến hành đồng loạt trên phạm vi rộng, mục tiêu tiến công là các trung tâm đầu não chỉ huy trọng yếu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế..., vì vậy, quá trình chỉ đạo, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng, thế trận tác chiến.

Đối với chiến trường Sài Gòn - Gia Định, đây là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, là trọng điểm quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sau khi các lực lượng nổ súng tiến công, đánh chiếm được một phần Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, Tòa Đại sứ Mỹ, Tổng nha Cảnh sát..., địch tổ chức phản kích mạnh. Trên hướng tây và tây nam Sài Gòn - Gia Định, quân số của ta bị tổn thất, sức tiến công giảm, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức Tiểu đoàn 6 Bình Tân, vừa đánh địch, vừa củng cố lực lượng. Ở hướng nam, Tiểu đoàn 1 Đồng Nai tiến công địch ở thị xã Tân An, quá trình đánh chiếm mục tiêu bị địch phản kích mạnh, lực lượng, phương tiện bị tiêu hao, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo bộ phận này cơ động về Hưng Long, phối hợp với các lực lượng chiến đấu.

Ở các vùng phụ cận, ngoại vi thành phố Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình, kịp thời chỉ đạo các đơn vị điều chỉnh lực lượng, thế trận, xử trí các tình huống tác chiến, giữ vững địa bàn, bảo toàn lực lượng, tạo thế, tạo lực cho các hoạt động tác chiến tiếp theo.

Do công tác hiệp đồng tác chiến giữa các đội biệt động và tiểu đoàn tiến công mũi nhọn cùng quần chúng nổi dậy ở một số hướng nội đô Sài Gòn còn sơ hở, thiếu chặt chẽ nên bị địch chặn đánh, lực lượng thiệt hại nặng, Bộ Tổng Tham mưu đã đề xuất Bộ Quốc phòng, Quân ủy Trung ương kịp thời điều chỉnh lực lượng, thế trận để đánh địch. Trong đó, chỉ đạo lực lượng trên từng hướng, khắc phục khó khăn, kiên quyết giữ vững mục tiêu chiếm được, đẩy mạnh tác chiến ở trung tâm và xung quanh Sài Gòn; kết hợp cùng quần chúng nổi dậy, hình thành thế trận bao vây nhiều tầng, nhiều lớp, thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, tiêu hao, tiêu diệt quân viễn chinh Mỹ - ngụy Sài Gòn, giành thắng lợi.

Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên theo dõi, bám sát tình hình, chỉ đạo từng lực lượng, từng hướng tiến công ở cả nội và ngoại đô Sài Gòn, kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh lực lượng, giữ vững thế trận tác chiến trong suốt quá trình đánh địch.

Đối với chiến trường Huế, là một trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, do làm tốt công tác chuẩn bị nên các lực lượng vũ trang phối hợp với quần chúng nổi dậy phát triển tiến công thuận lợi, đánh chiếm được nhiều mục tiêu quan trọng của địch. Nhằm nhanh chóng đánh chiếm mục tiêu còn lại, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng cho Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị sử dụng pháo binh tập kích vào các mục tiêu, căn cứ địch ở Đông Hà và phía đông và tây Đường 9. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trị - Thiên sử dụng một lực lượng nhỏ tiêu diệt quân địch trong thành phố, lực lượng lớn còn lại nhanh chóng củng cố mọi mặt, sẵn sàng cơ động đánh địch phản kích trên các hướng, giữ vững mục tiêu và mở rộng địa bàn tác chiến.

Trong quá trình tác chiến, địch tổ chức phản kích với lực lượng lớn, một số hướng của ta gặp khó khăn. Nắm chắc tình hình, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Quân khu Trị - Thiên và các lực lượng tập trung sức mạnh đánh gãy cánh quân địch ở phía bắc, phát động nhân dân đánh cắt giao thông, phá cầu vào thành phố Huế; động viên bộ đội khắc phục khó khăn, tiết kiệm đạn, tích cực đánh địch phản kích, giữ vững trận địa. Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Quân khu Trị - Thiên điều chỉnh lực lượng, thế trận, rút hai tiểu đoàn đứng chân ở Phú Lộc cơ động lên nam Phú Bài đánh địch phản kích, giữ vững mục tiêu. Để tiêu diệt đồn Mang Cá nhanh, hiệu quả, Bộ Tổng Tham mưu đã điều chỉnh lực lượng, tăng cường Trung đoàn 8 cho Quân khu 5, chỉ đạo các lực lượng dùng thuốc nổ mạnh và sử dụng đặc công, súng phun lửa đánh địch. Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng điều Trung đoàn 3, Sư đoàn 324, Mặt trận Đường 9 tăng cường cho Mặt trận Trị - Thiên, chỉ đạo các lực lượng kết hợp phòng ngự với tiến công liên tục và quần chúng nổi dậy, giữ vững mục tiêu. Bên cạnh đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị tiếp tục điều tiểu đoàn công binh, đại đội xe tăng PT76, tiểu đoàn pháo 85mm..., tăng sức chiến đấu cho Mặt trận Trị - Thiên; chỉ đạo Đoàn 559 tích cực vận chuyển đạn, làm thông đường 12, đưa xe tăng PT76 và pháo nòng dài Đ74 vào vị trí theo kế hoạch; chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân sử dụng máy bay tiếp tế vật chất cho ta và ném bom vào căn cứ của địch ở Phú Bài; thống nhất với Tổng cục Hậu cần bảo đảm phương tiện vận tải cho lực lượng tác chiến ở Huế. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu bám sát diễn biến tình hình, chỉ đạo các lực lượng kịp thời xử trí tình huống tác chiến, kiên cường đánh địch phản kích, giữ vững mục tiêu.

Nhờ nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh lực lượng, thế trận tác chiến hợp lý, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo lực lượng của ta nhanh chóng tiến công giải phóng thành phố Huế, trụ bám các mục tiêu trong thời gian dài.

Đối với chiến trường Đà Nẵng, là một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, sau khi nổ súng đánh chiếm được một phần các mục tiêu quan trọng, lực lượng của ta bị địch chặn đánh quyết liệt, tỷ lệ thương vong cao, sức tiến công giảm sút. Nắm chắc tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân khu 5 một trung đoàn; đồng thời điều động Đại đội đặc công 25 Đà Nẵng tiến công phá hủy trạm rađa của địch ở Phước Tường, cắt đứt sự quan sát, phát hiện của chúng. Trên hướng nam thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn 2 Quân khu 5 trong quá trình tiến công bị địch sử dụng hỏa lực không quân, pháo binh ngăn chặn, lực lượng bị tổn thất, quần chúng nổi dậy không đủ sức hỗ trợ. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Sư đoàn 2 tạm lui về phía sau, củng cố lực lượng, sẵn sàng cơ động đánh địch ứng cứu giải tỏa. Ở thị xã Hội An, khi lực lượng của ta đã đánh chiếm được một phần mục tiêu, địch lợi dụng lợi thế quân đông, hỏa lực mạnh, tổ chức đánh chặn quyết liệt, quân số của ta thương vong cao. Bộ Tổng Tham mưu đã điều chỉnh Tiểu đoàn 2 Quảng Đà và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 31 tạm chuyển sang bám đánh địch ở ven thị xã, vừa đánh, vừa củng cố lực lượng, sẵn sàng chi viện cho các bộ phận.

Những hướng tác chiến phát triển thuận lợi, như: Quảng Đà, Tây Nguyên, Đồng bằng Khu 5..., Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo, động viên các lực lượng phát huy khí thế tiến công, mở rộng các mục tiêu chiếm được, tăng cường phát động quần chúng chuẩn bị đánh địch phản kích, thực hiện tốt công tác binh vận, mạnh dạn đưa lực lượng ra chốt, cắt giao thông đường 14, 19, 21 để cô lập địch.

Tuy nhiên, đến tháng 3-1968, công tác hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng biệt động, tiểu đoàn mũi nhọn tiến công và quần chúng nổi dậy trên các hướng thiếu chặt chẽ, lực lượng của ta bị tiêu hao nhiều, sức tiến công trên các hướng giảm dần, trong khi quân địch từng bước phục hồi, chúng dồn lực lượng co về giữ các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự và mở các cuộc hành quân lớn, càn quét. Căn cứ vào chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và kết quả phân tích, đánh giá tình hình, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các lực lượng kết thúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời đề ra chủ trương hoạt động tác chiến tiếp theo.
 
Như vậy, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã giáng một đòn chí tử, đánh sập ý chí xâm lược Việt Nam và Đông Dương của giới cầm quyền Mỹ, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh có lợi cho ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta ở miền Nam Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật quân sự, trong đó, vai trò chỉ đạo tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì thế, đội ngũ cán bộ chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo những bài học này, nâng cao chất lượng huấn luyện, chiến đấu sát chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.



--------------------------------------------------------------
1. Quân đội Sài Gòn bị thương vong gần 21.000 người; quân Mỹ cùng đồng minh bị thương vong hơn 24.000 người; gần 2.500 máy bay, 1.700 xe tăng, bọc thép, 350 khẩu pháo, 280 tàu xuồng và 1.368 tấn vật tư chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn bị phá hủy, chiếm 34% tổng số dự trữ chiến tranh ở Việt Nam.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:39:31 am »

CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 - SAU 50 NĂM NHÌN LẠI



Thượng tướng LÊ CHIÊM
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng


Cách đây vừa tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy rộng khắp, từ Đường 9 - Khe Sanh đến đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở Sài Gòn - Gia Định, Huế và hàng loạt thị xã, thị trấn, căn cứ quân sự. Trong gần hai tháng, ta đã chiếm giữ và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh, tiến công và nổi dậy ở nhiều vùng nông thôn bị địch chiếm giữ, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh, dự trữ hậu cần hiện đại nhất của địch, giải phóng hàng triệu đồng bào, đưa chiến tranh vào sâu trong hậu phương của địch.

Cùng với thời gian, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ngày càng được khẳng định là một sự kiện có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Từ thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 có thể rút ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, để tạo cú sốc lớn không chỉ đối với chính quyền và quân đội Sài Gòn mà còn làm chấn động cả nước Mỹ, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn nỗ lực tạo thời cơ, nắm bắt và lựa chọn thời cơ, kịp thời đề ra chủ trương chiến lược, tiến công và nổi dậy, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc chiến tranh.

Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", từ năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam nhằm "bẻ gãy xương sống Việt cộng" và "chụp bắt cơ quan đầu não" kháng chiến của ta; đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Trước âm mưu và thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, cách mạng và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước tình thế hết sức khó khăn. Với lực lượng đông và vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, Mỹ đã mở các cuộc hành quân "tìm diệt" bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não chỉ đạo kháng chiến bằng hai cuộc phản công chiến lược lớn mùa khô 1965-1966 và mùa khô 1966-1967; đồng thời, dùng không quân và hải quân leo thang đánh phá miền Bắc.

Nắm vững tư tưởng tiến công, tích cực chủ động cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, quân và dân ta trên khắp các chiến trường đẩy mạnh các hoạt động buộc địch trong tình trạng bị động, lúng túng đối phó. Gọng kìm "tìm diệt" của Mỹ - ngụy bị bẻ gãy; kế hoạch "bình định" cũng không đạt kết quả. Năm 1967, chính quyền Sài Gòn chỉ kiểm soát được 5.400 trong tổng số 16.293 ấp trên toàn miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng bị thất bại.

Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng, từ ngày 20 đến ngày 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Tại cuộc họp này, Bộ Chính trị nhận định: Mỹ đang thất bại lớn, nếu có tăng quân cũng không giải quyết được gì, mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc. Tuy nhiên, "Mỹ còn rất ngoan cố... đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi". Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao: Bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam. Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã chính thức thông qua kế hoạch chiến lược năm 1968. Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 14 họp thông qua Nghị quyết tháng 12-1967 của Bộ Chính trị, quyết định "động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định"  cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để giành thắng lợi trong chiến tranh, việc chọn thời cơ là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã chọn năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Hơn nữa vào thời điểm này, sau ba năm đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, nhưng mục tiêu "bẻ gãy xương sống Việt cộng" cơ bản bị phá sản sau những thất bại trong các cuộc tiến công chiến lược vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 và những cố gắng leo thang đánh phá miền Bắc. Những cố gắng của Mỹ vào thời điểm này đã gần đến đỉnh điểm. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam gần nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh, 30% lực lượng không quân chiến thuật, hơn 30% lực lượng hải quân của nước Mỹ. Lực lượng dự bị dành cho chiến lược "chiến tranh cục bộ" đã được sử dụng hết, thậm chí phải huy động một phần dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu. Chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tính đến năm 1968 đã lên tới gần 70 tỷ đôla (gấp ba lần cuộc chiến tranh ở Triều Tiên). Gánh nặng này đã ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và làm cho Quốc hội Mỹ phân hóa sâu sắc.

Năm 1968 hội tụ các điều kiện thuận lợi cả về quân sự và chính trị cho ta giành thắng lợi lớn. Thời cơ này được tạo ra và nắm bắt đúng lúc, không sớm và cũng không muộn. Tình hình chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho nội bộ chính quyền Mỹ chia rẽ, đang ở thế ngập ngừng về chiến lược. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam dâng cao, lan tràn khắp nước Mỹ.

Trong khi đó, mặc dù vẫn còn một số hạn chế như vấn đề bổ sung lực lượng, khả năng tiêu diệt những đơn vị lớn của Mỹ... song các đơn vị của ta đã có thể thực hành tác chiến và giành thắng lợi cả về mặt chiến lược và chiến thuật. Các lực lượng vũ trang đã có những tiến bộ vượt bậc và vận dụng thành công những phương thức tác chiến độc đáo và linh hoạt, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Quyền làm chủ được mở rộng; thế bao vây xung quanh các đô thị, căn cứ Mỹ, quân đội Sài Gòn được hình thành; phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển đi vào chiều sâu, hiệu quả ngày càng lớn.

Từ những phân tính trên, Đảng ta khẳng định "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", cho phép chúng ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thứ hai, xác định hình thức và phương thức tiến công địch.

Căn cứ vào các nghị quyết của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh - Quân ủy Trung ương đã xây dựng phương án trong đó xác định: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, "một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn" . Thời gian tiến hành tổng tiến công được chọn vào Tết Mậu Thân. Quân ủy Trung ương chỉ đạo các mặt trận, chiến trường khẩn trương sắp xếp, điều chỉnh các mặt công tác phù hợp với yêu cầu tổng tiến công trên toàn miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã làm cho địch bất ngờ cả về chiến lược, chiến thuật và mục tiêu, cũng như về thời điểm tiến công. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh mở màn trước Tổng tiến công Tết Mậu Thân 10 ngày đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn phán đoán sẽ có một "Điện Biên Phủ" tại Khe Sanh. Nhưng ta mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh chỉ là một hướng để nghi binh, phân tán và giam chân địch nhằm đưa chiến tranh quy mô lớn vào các thành phố, thị xã và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sân bay, sở chỉ huy. Trong điều kiện địch còn khá mạnh, hơn một triệu quân với tiềm lực chiến tranh dồi dào nên để giành thắng lợi quyết định, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cân nhắc rất kỹ để chọn hình thức, phương pháp tiến công phù hợp. Yếu tố bí mật, bất ngờ đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn luôn bị động, phân tán lực lượng đối phó và không phát huy được sức mạnh của vũ khí, trang bị vượt trội. Quân ta chủ động tiến công vào nơi địch không phòng bị, vào thời điểm Tết, địch không ngờ nhất. Tiến công vào các mục tiêu này đã tác động nhanh chóng, sâu sắc cả về chính trị và quân sự, gây nên những đột biến trong đối sách chiến lược cũng như cục diện chung của chiến tranh ở miền Nam.

Khi quân Mỹ, quân đội Sài Gòn tập trung dồn chủ lực đối phó ở Khe Sanh, đêm 30, rạng sáng ngày 31-1-1968, quân ta đồng loạt tiến công trên toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là cách đánh chưa từng diễn ra, khiến Mỹ, chính quyền Sài Gòn không hề nghĩ tới và cũng không thể nghĩ tới.‎ Đó là sự sáng tạo của phương châm đánh địch trên cả "ba vùng chiến lược". Nếu không có ba vùng chiến lược được xây dựng từ nhiều năm trước với những cơ sở vững mạnh và quần chúng đông đảo ủng hộ thì không thể có chiến tranh ở thành thị‏,‏ nhất là ở các thành phố trọng điểm Sài Gòn - Huế - Đà‎ Nẵng là những trung tâm chính trị, quân sự. Đánh vào đây là đánh vào các cơ quan đầu não, các trung tâm chỉ huy‎‏,‏ đánh vào sinh lực cao nhất của địch, chỗ hiểm yếu, dễ chấn động và nhạy cảm nhất của chúng‏.‏ Như vậy, chủ trương mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương ngừng ném bom miền Bắc, xuống thang chiến tranh và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán chính là chủ trương "biết thắng Mỹ" vừa với sức ta, mở ra một giai đoạn mới "vừa đánh vừa đàm", phù hợp với truyền thống quân sự của dân tộc.

Chính cuộc tiến công táo bạo này đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng, gây chấn động dữ dội không chỉ ở nước Mỹ mà cả thế giới. Hãng thông tấn AFP của Pháp, ngày 3-2-1968 đã đưa tin: "Đây chắc chắn là chiến trường rộng lớn nhất trong các cuộc chiến tranh. Toàn bộ nước Việt Nam đều bốc lửa từ Khe Sanh đến Cà Mau"; "sức mạnh Huê Kỳ đã mất uy thế. Đội quân mạnh nhất thế giới đã bị đẩy vào tuyến phòng ngự trên toàn lãnh thổ" . Còn Maicơn Máclia trong cuốn Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày nhận xét: "Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều bất ngờ nhưng không có bất ngờ nào làm người ta phải sửng sốt nhiều hơn trận tiến công Tết. Đặc biệt, nó lại diễn ra ngay trong Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, nơi từng nhiều lần tuyên bố rằng tình hình tồi tệ đã qua rồi" . Quả vậy, với việc lựa chọn hình thức tiến công và nổi dậy đồng loạt, bằng sự phối hợp giữa các chiến trường, Mậu Thân 1968 đã trở thành một trận quyết chiến chiến lược làm thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc kháng chiến. Đây thực sự là một sáng tạo độc đáo của Đảng ta về nghệ thuật lựa chọn hình thức và phương thức tiến công địch.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:41:22 am »

Thứ ba, chọn hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu táo bạo, bất ngờ.

Chọn đô thị làm hướng tiến công chủ yếu là ta đã chọn vào nơi hiểm yếu nhất của kẻ thù. Lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta đưa chiến tranh vào đô thị, thực hiện một đòn đánh hiểm vào cơ quan đầu não của địch. Với lực lượng quân sự tinh nhuệ như đặc công, biệt động, kết hợp với mũi tiến công của lực lượng xung kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng, các mục tiêu trọng yếu của địch trong đô thị đều bị Quân giải phóng tiến công và làm chủ. Với mục tiêu tiến công táo bạo, bất ngờ này, Thượng nghị sĩ Mỹ Rôbớt Kennơđi phải thốt lên: Tại sao nửa triệu lính Mỹ có 70 vạn lính Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công?

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngay cả khi quân và dân ta đã giải phóng được nhiều vùng nông thôn, rừng núi và đồng bằng rộng lớn, chúng ta cũng không chủ trương mở một cuộc tổng tiến công vào các đô thị để kết thúc cuộc kháng chiến. Với việc lựa chọn hướng và mục tiêu tiến công đánh đòn quyết định, việc tìm ra cách đánh tối ưu nhằm tạo hiệu lực chiến lược trên cơ sở tương quan lực lượng và vũ khí trang bị, cũng như việc phối hợp giữa các chiến trường, mặt trận trên quy mô toàn miền, cả nước đã làm cho cuộc tiến công trong Tết Mậu Thân trở thành một trận quyết chiến chiến lược chưa từng có trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là một sáng tạo độc đáo trong tư duy chiến lược của Đảng, một điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Thứ tư, huy động và phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong cuộc tiến công vào hệ thống dinh lũy sào huyệt của địch.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, ngay từ đầu năm 1967, cán bộ, đảng viên liên tục được bí mật tăng cường vào đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm nghiên cứu mục tiêu, gây dựng cơ sở, tạo chỗ đứng chân, bảo đảm vật chất cho các hoạt động chiến đấu, xây dựng hệ thống hầm chứa vũ khí và vận chuyển vũ khí từ căn cứ vào ém sẵn trong nội thành, phục vụ yêu cầu tác chiến. Các cơ sở cách mạng bí mật được hình thành, trong đó riêng Ban bảo đảm thuộc biệt động Thành đã xây dựng được 19 "lõm chính trị", "lõm" căn cứ gồm 325 gia đình công nhân và lao động trung kiên ... Bên cạnh đó, lực lượng quần chúng yêu nước, nhất là các nhân sĩ, trí thức được các tổ chức như Trí vận, Hoa vận, Công vận, Phụ vận... bí mật vận động, tập hợp trong các tổ chức công khai, bán công khai trở thành đội quân chính trị hùng hậu sẵn sàng tham gia tổng tiến công.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chúng ta đã huy động tổng lực từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đến đặc công, biệt động... Sức mạnh tổng hợp của lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, bằng ba mũi giáp công; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và nhỏ được phát huy, thể hiện nghệ thuật đánh địch bằng mưu cao, kế hiểm.

Mặc dù thời gian chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến lược không nhiều, trong khi có quá nhiều khó khăn về vũ khí trang bị, lương thực và chia cắt về chiến trường... nhưng tất cả đều nổ súng đúng mục tiêu và thời gian quy định "với một sự hợp đồng về chiến lược tuyệt diệu" . Đó chính là kết quả của trí thông minh, lòng quả cảm, với khát vọng cháy bỏng về một nền hòa bình, thống nhất, từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo cuộc chiến tranh đến những địa phương, đơn vị vũ trang, những tổ, đội biệt động, những chiến sĩ mới nhập ngũ trong đêm giao thừa, những người dân một lòng trung thành với cách mạng... đã biến những điều không thể trở thành hiện thực. Miền Bắc dồn sức chi viện sức người, sức của cho chiến trường. Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn nhanh chóng mở rộng, tăng sức vận chuyển. Miền Nam khẩn trương chuẩn bị thế trận và lực lượng, hình thành các phương án công kích về quân sự và nổi dậy của quần chúng.

Dựa vào sự đùm bọc, đồng thuận, giúp đỡ, chở che, tham gia tích cực của nhân dân, các đơn vị đã triển khai thành công lối đánh dũng mãnh, táo bạo, bất ngờ, đồng loạt, nhằm trúng các mục tiêu yết hầu "huyết mạch", "tim óc" của địch ở các cơ quan đầu não từ trung ương tới địa phương của chính quyền Sài Gòn, các sở chỉ huy, các bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, sân bay, bến cảng, kho tàng, đầu mối giao thông... Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực của địch, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, cuộc tiến công vào Tòa Đại sứ Mỹ của các chiến sĩ biệt động Quân giải phóng vượt xa ý nghĩa của một trận đánh thông thường, gây tiếng vang lớn trên khắp thế giới và ở nước Mỹ.

Với tư duy "không thể đánh theo lối cũ", cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã giải quyết bài toán "thế nhùng nhằng, giằng co" được Bộ Chính trị giao cho "Tổ kế hoạch" trong hội nghị tháng 6-1967 và tạo nên chuyển biến lớn trên chiến trường. Tết Mậu Thân và những tác động của nó đã hiện thực hóa mục tiêu chiến lược: Phơi bày toàn bộ quá trình thất bại của Mỹ trên chiến trường cả về quân sự, chính trị; sự bất lực của một đạo quân đông tới gần 1,3 triệu, được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Cũng chính từ bản đồng ca được cất lên trong Xuân Mậu Thân 1968, đã buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải công khai tuyên bố: đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan trọng hơn, Mỹ buộc phải rút dần quân ra khỏi miền Nam Việt Nam trong khi chưa một mục tiêu nào được thực hiện. Việc trút bỏ gánh nặng chiến tranh lên vai chính quyền và quân đội Sài Gòn - một lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ buộc phải tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ về thực chất, đã làm cho Mỹ phải phụ thuộc vào chính kẻ đã và đang phụ thuộc vào mình.

Với tất cả những lý do đó, cho dù sau Tết Mậu Thân 1968, cuộc chiến vẫn còn kéo dài và rất quyết liệt - phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân và 7 năm sau, chính quyền Sài Gòn mới sụp đổ hoàn toàn, nhưng với quyết định ngày 31-3-1968 của Tổng thống Mỹ Giônxơn, về thực chất, số phận cuộc chiến giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam đã được định đoạt.

Tuy chưa đạt được yêu cầu theo khả năng thứ nhất - một trong ba khả năng mà Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 dự kiến, nhưng thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn và quyết tâm to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên mọi lĩnh vực, kinh tế đạt mức tăng trưởng cao, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và khẳng định. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng xuất hiện nhiều nguy cơ, khó khăn, thách thức, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế để tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam với những thủ đoạn mới, tinh vi, thâm độc, nguy hiểm.

Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, cũng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất truyền thống tốt đẹp và những chiến công oanh liệt của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Nghiêng mình tưởng nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ, nhớ về thắng lợi Mậu Thân để suy nghĩ sâu sắc hơn về những nhân tố làm nên chiến thắng. Đó là khát vọng cháy bỏng của những người dân yêu nước Việt Nam về một nền hòa bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc; đó là sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong nắm chắc tư tưởng tiến công, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, táo bạo và chọn đúng phương hướng cũng như thời cơ cụ thể; đó là niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của toàn quân, toàn dân ta; đó còn là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm tạo nên sức mạnh to lớn; là tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia trên tinh thần vô sản quốc tế trong sáng.

Trân trọng lịch sử, những bài học kinh nghiệm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cần được kế thừa và phát huy trong công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới, đòi hỏi toàn quân tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, chủ động khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Với cơ sở và niềm tin từ thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, với sự nỗ lực cao nhất của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:47:38 am »

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 -
HIỆN THỰC HÓA CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG: "ĐÁNH CHO MỸ CÚT, ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO"




LÂM PHƯƠNG THANH
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương


Cách đây tròn 50 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Thắng lợi đó đã giáng đòn quyết định làm phá sản cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ phải từng bước xuống thang chiến tranh, rút quân về nước và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari (13-5-1968) để cuối cùng đi tới ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973). Với việc ký kết Hiệp định Pari, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi có tính chất quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải rút quân viễn chinh về nước, mở ra thời cơ và điều kiện thuận lợi cho ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, được sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Năm mươi năm đã trôi qua, càng giúp chúng ta nhận thức sâu sắc về điều đó.

1. Nhìn lại lịch sử, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhưng đế quốc Mỹ đã trắng trợn phá hoại Hiệp định, nhảy vào miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Trong suốt hơn 10 năm đầu chiến tranh (1954-1965), nhất là 4 năm thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", mặc dù đã bỏ ra rất nhiều tiền của, công sức, thực hiện nhiều thủ đoạn thâm độc nhằm dập tắt phong trào cách mạng miền Nam, nhưng chúng không đạt được mục tiêu và ngày càng sa lầy, bị động. Trước tình thế đó, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam, đồng thời sử dụng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam.

Trước âm mưu và thủ đoạn mới của kẻ thù, vấn đề hạ quyết tâm đánh Mỹ, tìm ra cách đánh Mỹ, thắng Mỹ trở thành một đòi hỏi rất bức thiết. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11, khóa III họp tháng 3-1965, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ: "Tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra" . Hội nghị cũng đề ra yêu cầu đẩy mạnh kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và ngoại giao. Đấu tranh quân sự ngày càng giữ vị trí, vai trò quan trọng theo phương hướng: Tập trung đánh những trận tiêu diệt quân chủ lực cơ động ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định của địch, đồng thời khẩn trương xây dựng quyết tâm; chuẩn bị chu đáo, đánh thắng những trận phủ đầu quân Mỹ, tiếp tục đẩy chúng vào tình thế bị động.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược thắng Mỹ ngay từ đầu của Hội nghị Trung ương 11, với quyết tâm "dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"2, quân và dân miền Nam đã nỗ lực phát huy sức mạnh chính trị và quân sự, tiến công và nổi dậy, anh dũng chiến đấu và đánh thắng quân Mỹ ngay từ những trận đầu. Đó là trận Núi Thành (Quảng Nam, 5-1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi, 8-1965), chiến dịch Plâyme (từ ngày 19-10 đến ngày 26-11-1965), chiến thắng Đất Cuốc, Bầu Bàng. Từ kết quả thực tế, sau những trận thắng phủ đầu quân Mỹ, chúng ta đã tìm ra cách đánh Mỹ và thắng Mỹ, "Ta sẽ bắt quân Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta, nên ta nhất định thắng".

Từ kết quả đấu tranh thực tế trên cả hai miền Nam - Bắc; trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; tin tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa III) tháng 12-1965 đã hạ quyết tâm chiến lược: "... kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào". Đây là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng trước thử thách sống còn của dân tộc, thể hiện tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng và ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Theo đó, phương hướng chiến lược chung được xác định: "Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam". Đặc biệt vấn đề "Ta sẽ thắng như thế nào" được Hội nghị Trung ương 12 thảo luận kỹ lưỡng. Đảng ta chủ trương: "giành thắng lợi quyết định" không bao hàm ý nghĩa tiêu diệt toàn bộ lực lượng quân sự địch, mà đó là: "đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ", tiến tới thực hiện mục tiêu thống nhất nước nhà".

Tư tưởng chỉ đạo nói trên của Hội nghị Trung ương 12 đã trở thành ý chí, hành động cách mạng của nhân dân và các lực lượng vũ trang trên cả nước. Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô năm 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - ngụy. Hai gọng kìm "tìm diệt" và "bình định" bị bẻ gãy, các cuộc hành quân chiến lược như Xêđaphôn, Gianxơnxiti lần lượt bị thất bại thảm hại. Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ bị quân và dân ta trừng trị thích đáng.

Chiến công của quân và dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã tạo ra thế và  lực mới cho cuộc Tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Tháng 5-1967, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình, xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Trong hai ngày 30-6 và 1-7-1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp, xác định khả năng giành thắng lợi quyết định bằng tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Bộ Chính trị cho rằng, thời cơ tốt nhất là Đông - Xuân 1967-1968 và Hè 1968 hoặc sớm hơn; đồng thời cũng cần chuẩn bị kế hoạch cho những năm tiếp theo với tư tưởng kiên trì đánh lâu dài.

Nắm bắt chặt chẽ diễn biến, đồng thời nhận định chính xác khả năng phát triển của chiến tranh cách mạng ở miền Nam cũng như cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của miền Bắc, nhìn thấy rõ sự lúng túng "tiến thoái lưỡng nan" của giới cầm quyền Mỹ, tháng 8-1967, khi họp bàn về kế hoạch chiến lược của Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định, điều kiện kinh tế và chính trị của nước Mỹ cho thấy đã đến lúc Mỹ phải kết thúc chiến tranh. Vì vậy, ta phải đánh cho chúng thua để rút ra khỏi miền Nam Việt Nam. Bộ Tổng Tham mưu phải lập kế hoạch đầy đủ hơn, chỉ đạo linh hoạt, chuẩn bị hậu cần tại chỗ chu đáo. Tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 20 đến ngày 24-10), bản kế hoạch (sau khi đã được góp ý và sửa chữa bổ sung) được đưa ra thảo luận và thông qua thành Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa (lúc này được mang mật danh "Quyết tâm chiến lược mùa Thu"). Yêu cầu đặt ra trong cuộc tổng tiến công chiến lược là "kiên quyết tổng công kích - tổng khởi nghĩa đánh đổ Mỹ - ngụy, giành chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của Mỹ, cô lập chúng buộc chúng phải chịu thua và rút khỏi miền Nam, chấm dứt oanh tạc miền Bắc; kiên quyết tiêu diệt và làm tan rã căn bản ngụy quân, ngụy quyền, các tổ chức phản động" .

Bám sát và phân tích chính xác động thái chiến trường, tình hình nước Mỹ và thế giới, Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 12-1967 đã quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định", "dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" nhằm "đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà" . Bộ Chính trị xác định cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất ác liệt và phức tạp.

Để giữ bí mật ý đồ chiến lược, tháng 1-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Kim Bôi, Hòa Bình, thảo luận và thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương chỉ rõ: "Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thời điểm này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn, nhảy vọt bằng cách đánh mới, táo bạo vào tất cả các thành phố, thị xã, mà hướng hiểm yếu, trọng điểm là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng" .

Ngày 18-1-1968, Bộ Chính trị họp, trọng tâm bàn về thời điểm tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ngày 19-1-1968, sau khi rà soát lại chủ trương, quyết tâm, kế hoạch và phân tích tình hình mọi mặt, Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam trong năm 1968. Thời gian phối hợp hành động toàn miền Nam được chọn là Tết Mậu Thân 1968 làm mốc tổng tiến công đồng loạt cho các chiến trường trọng điểm. Đây là thời gian có yếu tố bất ngờ nhất.

Như vậy, quá trình hình thành quyết tâm tổng tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân đã diễn ra suốt hai năm 1966-1967. Trong thời gian này, biện pháp chiến lược nhằm thực hiện quyết tâm giành thắng lợi quyết định của Trung ương được thảo luận nhiều lần, ở nhiều cấp. Quá trình thảo luận để hình thành quyết tâm chiến lược Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân ở miền Nam ngày càng rõ và cụ thể thêm; đồng thời, phương hướng quyết tâm cũng xác định cụ thể hơn, cao hơn. Trong suốt quá trình đó, những thông tin từ tình báo chiến lược, từ thực tế chiến trường, nhất là việc Mỹ tăng quân cho thấy đế quốc Mỹ đang tìm kiếm một thắng lợi lớn để giành ưu thế và thoát ra khỏi tình thế bị động chiến lược. Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ đang trù tính một cuộc phản công chiến lược lần thứ ba vào mùa khô 1967-1968, cùng với đó là bước leo thang đánh phá miền Bắc nhằm giành lợi thế quân sự, hòng tiến tới đàm phán trên thế mạnh, làm cơ sở cho việc tái tranh cử của L. Giônxơn trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968.

Quán triệt và thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân ta trên khắp các chiến trường khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho tổng tiến công và nổi dậy. Đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, mọi công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành. Cả dân tộc đã sẵn sàng bước vào trận đánh quyết định nhằm tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2020, 09:49:43 am »

2. Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được phát động trên khắp miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau. Quân và dân ta đã đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, kho tàng. Hàng triệu quần chúng đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Hầu hết các cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến địa phương đều bị tiến công. Các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân, trong đó có 4 vạn quân Mỹ, 600 ấp chiến lược, giải phóng trên 100 xã với 1,6 triệu dân. Đặc biệt, trận đánh thẳng vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của địch ở Sài Gòn và 25 ngày làm chủ thành phố Huế... đã gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ, làm rúng động xã hội Mỹ, nhân dân Mỹ bàng hoàng, khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh trở thành áp đảo ở nước Mỹ.

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên quy mô lớn, đánh vào hầu hết các vị trí, đặc biệt là các cơ quan đầu não địch ở Mậu Thân 1968 là một nét độc đáo, sáng tạo, một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi công phu, bằng tư duy độc lập, sáng tạo trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng nước ta và thế giới để Đảng ta tìm ra cách đánh Mỹ và đánh thắng quân Mỹ ở miền Nam, bảo vệ được miền Bắc, không làm cho chiến tranh lan rộng ra.

Những kinh nghiệm nắm bắt thời cơ giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kinh nghiệm luồn sâu, đánh thẳng vào lòng địch trong kháng chiến chống Pháp và bài học đánh địch bằng 2 chân, 3 mũi, 3 vùng ở miền Nam trong những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, cũng như kinh nghiệm đánh đế quốc Mỹ của một số nước trên thế giới được Đảng ta suy ngẫm, chắt lọc. Đảng ta đã nung nấu và có sự chuẩn bị kỹ càng, toàn diện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: từ chủ trương lớn đến các biện pháp, mục tiêu cụ thể cũng như mức độ kết quả. Toàn bộ quá trình chuẩn bị kế hoạch cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra một thời gian dài, được đặc biệt giữ bí mật. Chính vì vậy trong một thời gian tương đối ngắn, chúng ta đã đưa cuộc chiến đấu quy mô lớn vào tận sào huyệt của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề về sinh lực, phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần, "khi cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra, Mỹ và chính quyền ngụy hoàn toàn bị bất ngờ về quy mô, tính chất, địa điểm, mục tiêu, lực lượng và thời điểm tiến công" .

 So với mục tiêu ban đầu, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chưa đạt được đạt được khả năng cao nhất, nhưng đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà trước đó ta chưa bao giờ tạo được, đó là buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Từ chỗ cho rằng có thể chiến thắng về quân sự, đè bẹp sự kháng cự của quân và dân ta bằng việc ồ ạt đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, giới cầm quyền Mỹ nhận thấy có thể sẽ thua nếu tiếp tục kéo dài chiến tranh. Kết quả thăm dò dư luận ngày 25-3-1968 cho thấy: "80% người Mỹ coi cuộc tấn công Tết là một đòn làm thất bại những mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam. Tướng Oétmolen cũng phải thừa nhận: "Đây là khúc ngoặt của cuộc chiến tranh. Lẽ ra là khúc ngoặt đi đến thành công nhưng đây lại là khúc ngoặt đi đến thất bại" .
 
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị, tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng đấu tranh phản đối chiến tranh của Mỹ trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy - một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ, như chính giới Mỹ thừa nhận. Nước Mỹ chia rẽ sâu sắc. Ngày 31-3-1968, L. Giônxơn thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari và tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai - chấm dứt cuộc đời chính trị của Tổng thống L. Giônxơn - "Tổng thống lâm nạn" - theo cách gọi của truyền thông Mỹ.

Thắng lợi to lớn và quan trọng nhất trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của chúng ta là đã tạo ra một sự thay đổi đột biến của cục diện chiến tranh trên cả ba mặt về thế chiến lược, về lực lượng và về chính trị; mở ra một giai đoạn mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta - giai đoạn "vừa đánh vừa đàm" - đi tới kết thúc cuộc chiến tranh theo truyền thống quân sự Việt Nam. Đúng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định: thắng lợi này "đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari" .

Trải qua 5 năm đấu trí, đấu lực quyết liệt, kết hợp với tiến công quân sự, chính trị trên chiến trường là chính, đặc biệt là qua chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không 1972" của quân, dân miền Bắc, chính quyền Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973).

Quyết định rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam sau khi ký Hiệp định Pari, cũng đồng nghĩa với việc Mỹ trút gánh nặng chiến tranh sang chính quyền tay sai ngụy - lực lượng vốn đã bại trận trước khi quân Mỹ tham chiến và ngày càng phụ thuộc vào sự hiện diện của quân Mỹ. Về thực chất, số phận cuộc chiến giữa giới cầm quyền Mỹ và chính quyền tay sai ngụy với nhân dân Việt Nam đã được định đoạt. Và hai năm sau, khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam (cuối tháng 3-1973), chính quyền tay sai ngụy mặc dù vẫn được Mỹ viện trợ, song đã không thể tồn tại.

Mỹ buộc phải cút, ngụy ắt phải nhào. Bước vào đầu Xuân năm 1975, thời cơ lớn giải phóng miền Nam đã mở ra với dân tộc ta. Bằng bốn chiến dịch tiến công như vũ bão: Tây Nguyên, Trị Thiên - Huế, Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã đập tan mọi kháng cự của địch, chính quyền tay sai ngụy sụp đổ hoàn toàn ngày 30-4-1975 chỉ sau 55 ngày đêm kể từ khi Quân giải phóng miền Nam bắt đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Ngày 30-4-1975 trở thành ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam - một mốc son vàng trong lịch sử, đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang của nhân dân ta; hoàn thành chủ trương chiến lược hai bước của Đảng và mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để lại cho chúng ta nhiều bài học lịch sử quý báu. Đó là bài học về kiên định lập trường, tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bài học về sự chủ động, sáng tạo, sắc bén trong lãnh đạo, chỉ đạo trên từng địa bàn cụ thể, về chọn thời cơ và thời điểm phát động tổng tiến công và nổi dậy, về đánh giá khả năng và sức mạnh của kẻ thù; về xác định mục tiêu, phương thức và sử dụng lực lượng tiến công...

Kỷ niệm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là dịp chúng ta tiếp tục khẳng định tầm vóc và ý nghĩa lớn lao của sự kiện; khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; tôn vinh và tri ân những cống hiến, hy sinh to lớn của quân và dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đây cũng là dịp để chúng ta phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống đoàn kết; kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo những bài học lịch sử trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước yêu cầu mới.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM