PHỤ LỤC
PHỤ LỤC A Đoạn mở đầu cuốn A Void của Georges Perec do Gilbert Adair dịch Today, by radio, and also on giant hoardings, a rabbi, an admiral notorious for his links to masonry, a trio cardinals, a trio, too, of insignificant politicians (bought and pay for by a rich and corrupt Anglo-Canadian banking corporation), inform US all of how our country now risks dying of starvation. A rumor, that’s my initial thought as I switch off my radio, a rumor or possibly a hoax. Propaganda, I murmur anxiously - as though, just by saying so, I might allay my doubts - typical politiian’s propaganda. But public opinion gradually absorbs it as a fact. Individuals start strutting around with stout clubs. “Food, glorious food!” is a common cry (occasionally sung to Bart’s music), with ordinary hardworking folk harassing officials, both local and national, cursing capitalists and captains. Cops shrink from going out on night shift. In Macon a mob storms a municipal building. In Rocadamour ruffians rob a hangar full of foodstuff, pillaging tons of tuna fish, milk and cocoa, as also a vast quantity of corn-all of it, alas, totally unfit for human comsumption. Without fuss or ado, and naturally without any sort of trial, an indignant crowd hangs 26 solicitors on hastily built scaffold in front of Nancy’s law courts (this Nancy is a town, not a woman) and ransacks a local journal, a disgusting right- wing rag that is siding against it. up and down this land of ours looting has brought docks, shop and farms to virtual standstill.
Lần đầu tiên xuất bản tại Pháp vói cái tên La Disparition ở NXB Editions Denoel năm 1969 và tại Anh bởi Harvill năm 1994. (Chú ý rằng toàn bộ đoạn văn trên trong tác phấm gốc của Perec và bản dịch của Adair đều không có một chữ cái e nào - ND). PHỤ LỤC B Một vài mẹo cơ bản trong phân tích tần suất (1) Bắt đầu bằng việc đếm tần suất của tất cả các chữ cái trong bản mật mã. Có khoảng năm chữ cái có tần suất ít hơn 1%, và các chữ cái này có thể biểu diễn các chữ j, k, b, X và z. Một trong các chữ cái có thể có tần suất lớn hơn 10% và nó có thể biểu diễn chữ e. Nếu bản mật mã không tuân theo sự phân bố tần suất như vậy thì nên xét đến khả năng là bức thư gốc không được viết bằng tiếng Anh. Bạn có thể xác định ngôn ngữ bằng việc phân tích phân bố tần suất trong bản mật mã. Ví dụ, đặc trưng trong tiếng Ý là có ba chữ cái có tần suất lớn hơn 10%, và chín chữ cái có tần suất nhỏ hơn 1%. Trong tiếng Đức, chữ cái e có tần suất đặc biệt cao là 19%, vậy nên bất kỳ bản mật mã nào có chứa một chữ cái với tần suất cao như vậy thì chắc chắn đó là tiếng Đức. Một khi bạn đã xác định được ngôn ngữ, bạn nên sử dụng một bảng tần suất thích hợp cho ngôn ngữ mà bạn phân tích. Thường thì vẫn có thể giải bức mật mã ở dạng ngôn ngữ không quen thuộc nếu bạn có một bảng tần suất thích hợp.
(2) Nếu sự tương quan với tiếng Anh được khẳng định, song văn bản thường vẫn chưa lộ ra ngay lập tức, mà sẽ thường là như vậy, thì hãy tập trung vào các cặp chữ cái lặp lại. Trong tiếng Anh, các chữ cái lặp lại thường xuyên nhất là ss, ee, tt, ff, 11, mm và 00. Nếu văn bản mật mã có chứa các ký tự lặp lại nào như vậy, bạn có thể giả định chúng biểu thị cho một trong các cặp trên.
(3) Nếu văn bản mật mã có chứa khoảng cách giữa các từ thì cố gắng xác định các từ chỉ có một, hai hoặc ba chữ cái. Các từ chỉ có một chữ cái trong tiếng Anh là a và I. Các từ có hai chữ cái thường gặp là of, to, in, it, is, be, as, at, so, we, he, by, or, on, do, if, me, my, up, an, go, no, US, am. Từ có ba chữ cái thường gặp nhất là the và and.
(4) Nếu có thể, hãy dựng một bảng tần suất đối với bức thư mà bạn đang thử giải mã. Ví dụ, các bức thư trong quân sự thường có xu hướng bỏ qua các đại từ và mạo từ, và các từ bị mất thường là I, he, a và the sẽ làm giảm tần suất của một số chữ cái thường gặp nhất. Nếu bạn biết mình đang tấn công một bức thư quân sự thì bạn nên sử dụng một bảng tần suất tạo từ các bức thư quân sự khác.
(5) Một trong các kỹ năng hữu dụng nhất cho một nhà phân tích mật mã đó là khả năng xác định các từ, hay thậm chí toàn bộ cụm từ, dựa trên kinh nghiệm hoặc hoàn toàn phỏng đoán. AI Khalil, một nhà phân tích mật mã ả rập đầu tiên đã chứng tỏ tài năng này khi ông hóa giải được một bản mật mã của người Hy Lạp. Ông đã đoán rằng bản mật mã bắt đầu bằng lời chào “Nhân danh Thượng đế’. Sau khi đặt các chữ cái này tương ứng với một đoạn trong văn bản mật mã, ông đã sử dụng chúng làm đòn bẩy để mở ra phần còn lại của bản mật mã. Như đã biết, đó được gọi là một crib.
(6) Trong một số trường hợp, chữ cái thường gặp nhất trong văn bản mật mã có thể là E, chữ cái thường gặp tiếp theo là T, và v.v... Nói cách khác, tần suất của các chữ cái trong văn bản mật mã ăn khớp với các tần suất trong bảng tần suất. Chữ E trong văn bản mật mã hóa ra lại chính là chữ e thực, và điều tương tự cũng đúng với các chữ cái khác, song văn bản mật mã trông thật lộn xộn. Trong trường hợp này, bạn không phải đang gặp phải một mật mã thay thế mà là một mật mã chuyển vị. Tất cả các chữ cái biểu thị cho chính nó, song chúng được đặt sai vị trí.
Cuốn Phân tích mật mã của Helen Fouche Gaines (Dover) là một bản hướng dẫn tốt. Cùng với việc cung cấp các mẹo, nó còn có các bảng tần suất chữ cái của một số ngôn ngữ, và cung cấp một danh sách các từ thường gặp nhất trong tiếng Anh.