Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:54:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến khu Đồng Bò  (Đọc 4817 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 08:51:59 am »

Tên sách: Chiến khu Đồng Bò
Ban Chấp hành Đảng bộ Nha Trang
Năm xuất bản: 2000
Số hóa: macbupda


Chỉ đạo thực hiện
và chịu trách nhiệm xuất bản:


Ban Thường vụ Thành ủy

Biên soạn:
   NGUYỄN CÔNG BẰNG      Phần mở đầu

   NGUYỄN THẾ SANG      Chương I

   PHẠM TIẾN THỌ         Chương II

   NGUYỄN GIA NÙNG      Phần cuối

Biên tập:
   NGUYỄN QUỐC NINH
   NGUYỄN TẤN QUYẾT
   TRẦN XỦN
   PHẠM TIẾN THỌ


Sửa bản in:
   PHẠM TIẾN THỌ
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 08:53:29 am »

LỜI GIỚI THIỆU

Đồng Bò là tên gọi một vùng rừng núi án ngữ phía Tây Nam thành phố Nha Trang. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Đồng Bò và vùng ngoại vi là chiến khu của thị xã Nha Trang và huyện Vĩnh Xương (nay là thành phố Nha Trang). Chiến khu Đồng Bò là nơi đứng chân chủ yếu của cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Nha Trang - Vĩnh Xương; có lúc của cả tỉnh Khánh Hòa. Đồng Bò còn là nơi xuất phát của những trận đánh thẳng vào sào huyệt, căn cứ quân sự và kho tàng của địch làm cho chúng nhiều phen khiếp sợ.

Vượt lên những khó khăn của một vùng đất nhỏ hẹp, bị quân thù vây tỏa ngặt nghèo, cán bộ chiến ở chiến khu Đồng Bò với sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương, với tinh thần “Không có gì quý. hơn độc lập, tự do”, đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc.

Thông qua việc giới thiệu chiến khu Đồng Bò trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuốn sách này nhằm ca ngợi đức chịu đựng hy sinh, một lòng một dạ với cách mạng và những cống hiến vô bờ của nhân dân các xã, phường vùng ven chiến khu Đồng Bò nói riêng, nhân dân Nha Trang - Vĩnh Xương nói chung; ca ngợi phẩm chất cách mạng trong sáng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí sáng tạo, lập được nhiều thành tích sắc của cán bộ chiến sĩ chiến đấu ở Đồng Bò; ca ngợi mối tình gắn bó máu thịt giữa nhân dân và bộ đội, giữa tiền tuyến và hậu phương, những chiến sĩ từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây chiến đấu trong tình thương, che chở đùm bọc của nhân dân.

Mặc dù bản thảo đã được nhiều đồng chí là nhân chứng góp ý kiến sửa chữa nhiều nhưng việc sưu tầm, chỉnh lý tư liệu gặp nhiều khó khăn nên cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Dù sao “Chiến khu Đồng Bò” ra mắt bạn đọc là một đáp ứng cần thiết và kịp thời, phần nào thỏa mãn nhu cầu tình cảm của cán bộ chiến sĩ đã từng hoạt động ở đây, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống và giới thiệu tư liệu, những nét sử độc đáo riêng biệt của một chiến khu ngay sát nách cơ quan đầu não của địch ở Khánh Hòa.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và mong được góp ý kiến phê bình, xây dựng để lần xuất bản sau đầy đủ hơn.


Tháng 3/2000
                                                                                                                                 
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY NHA TRANG
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 08:57:53 am »

PHẦN MỞ ĐẦU

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI
CỦA CHIẾN KHU CÁCH MẠNG ĐỒNG BÒ

Đồng Bò là một vùng rừng núi, với hệ thống những dãy núi cao, hình vòng cung kéo dài theo hướng Tây - Đông ven đô Nha Trang tạo nên một bức trường thành kiên cố,vững chắc che chắn hướng Tây - Nam thành phố, cách thành phố Nha Trang khoảng 5 km theo đường chim bay.

Dãy Đồng Bò có nhiều đỉnh núi cao, rừng rậm, có nhiều vùng gộp đá tạo thành các hang, động, ngóc ngách, liên hoàn rất hiểm trở, bảo đảm bí mật cũng như rất thuận lợi cho việc trú quân, ẩn nấp, tránh bom đạn. Những đỉnh núi cao như Cù Hin (927 m), hòn Chu Hạ (595m)... rất thuận tiện cho việc quan sát. Các mỏm núi lô nhô cao, thấp phía Đông của Đồng Bò chạy xô ra biển, giống như một con rồng đang uốn khúc vươn dài. Nơi hàm rồng là dãy núi Chụt với khu biệt thự Nghinh Phong, Vọng Nguyệt của Bảo Đại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam được xây dựng và kiến trúc theo mô típ biệt thự nghỉ mát phương Tây. Sát với Viện Hải dương học là cảng Nha Trang, một cảng biển quan trọng đối với Nha Trang - Khánh Hòa, được bao bọc bởi hệ thống các đảo ven bờ như: Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm... hình thành hành lang chắn sóng gió, là nơi tránh bão lý tưởng cho tàu thuyền qua lại.

Ngược dòng lịch sử, Đồng Bò khi xưa có tên là Hoàng Ngưu. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Núi Hoàng Ngưu ở cách huyện 6 dặm về phía Đông Nam, thế núi cao chót vót, chu vi hơn trăm dặm, cây cối mọc um tùm, phía Bắc sát bãi biển, gần đấy có núi Điệp Sơn”(1). Theo dân gian, tên Đồng Bò xuất phát từ việc nhân dân trong vùng chăn thả rất nhiều trâu bò sau mùa cày cấy, vì ở đây có nhiều đồng cỏ xanh tốt thuận tiện cho việc chăn nuôi.

Đồng Bò có phạm vi phân bố rất rộng, diện tích toàn vùng khoảng 80 km2, được chia làm 3 khu vực chính:

• Đồng Bò Hạ: (từ Núi Đất xuống Vườn Dừa).

• Đồng Bò Trung: Từ Đồng Bò Hạ đi về hướng Tây Bắc. là Đồng Bò Trung. (Từ núi Đất chạy lên Gò Bông).

• Đồng Bò Thượng: Từ Gò Bông lên giáp chân núi Chín Khúc, núi Hòn Thị.

Thiên nhiên dày công xếp đặt cho khu vực núi Đồng Bò một địa hình khá hiểm trở.

Ở hướng Đông Nam Đồng Bò có Hòn Giồ, núi Cù Hin nhô ra sát biển liền với Bãi Dài giáp huyện Cam Ranh; ở phía Bắc Đồng Bò là khu rừng sát um tùm rậm rạp toàn cây chà là, cây đước lâu năm rễ bám chằng chịt, cành lớn cành nhỏ đan xen... thêm dòng sông Tắc từ phía Suối Dầu chảy qua cầu Dứa đổ xuống Trường Đông, ở hướng Tây Bắc là dãy núi Chín Khúc (tên chữ là Xuân Sơn Cửu Khúc). Phía Đông núi Chín Khúc giáp với các thôn Thái Thông, Thủy Tú và vùng Đồng Chay(2). Phía Tây dãy Chín Khúc giáp vùng Cây Cầy (Suối Hiệp) và Suối Dầu (Diên Khánh). Phía Nam giáp với con đường từ Đồng Bò Thượng đi Suối Dầu (Trảng É, suối Đá Nhảy, nằm ven con đường này). Phía Bắc dãy Chín Khúc giáp xã Vĩnh Trung, và xã Diên An (Diên Khánh).

Đồng Bò nằm cách thị xã Nha Trang một dải rừng sát ở hai bên bờ sông Tắc, có Hòn Rớ đứng phía trước như một gạch nối với các làng cá trù phú Trường Đông, Trường Tây và tạo thành một vị trí tiền tiêu quan trọng.

Trước chiến tranh, hệ động thực vật ở đây vô cùng phong phú đa dạng, hiện nay ở phần núi phía Tây (hướng Suối Lùng) vẫn còn có những cánh rừng nguyên sinh, là môi trường sinh sống thuận lợi của một quần thể động thực vật quý hiếm. Bởi vậy trong tương lai gần, Đồng Bò sẽ trở thành một trong những trung tâm du lịch văn hóa sinh thái ở Nha Trang - Khánh Hòa, góp phần đưa hoạt động ngành du lịch, thành một ngành kinh tế mũi nhọn ở địa phương - hơn thế nữa, những cánh rừng ở Đồng Bò giống như một lá phổi vĩ đại, góp phần điều tiết làm trong sạch cho môi trường khí hậu ở Nha Trang.

Từ những năm 70 cuối thế kỷ 19, khi quân xâm lược Pháp đánh chiếm Lục tỉnh Nam kỳ, dưới cờ nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân... nhân dân đồng lòng nổi lên chống quân cướp nước hết sức kiên cường nhưng không địch nổi đội quân xâm lược nhà nghề; nhiều sĩ phu và đồng bào yêu nước đã không chịu đội trời chung cùng quân cướp nước, rời bỏ quê hương kéo ra các tỉnh miền Trung... Núp dưới vỏ phong trào “Tị địa”, những người yêu nước lập nên các Xứ Đồng Châu, xây dựng Hội Nam Trung nghĩa sĩ vừa làm ăn sinh sống, tích lũy lương thảo vừa học văn, luyện võ, chờ thời cơ đánh đuổi quân Pháp giành lại độc lập tự do... Xứ Đồng Châu Khánh Hòa nằm ven chân núi Đồng Bò (địa danh Đồng Châu sau đổi thành Đồng Nhơn) và xưởng luyện gang đúc súng trên dãy Xuân Sơn Cửu Khúc, (còn địa danh Hòn Đạn và một số di vật được lưu giữ tại Bảo tàng Khánh Hòa)(3).

Tiếp nối truyền thống cha ông và với điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho công cuộc chiến đấu lâu dài nên Đồng Bò đã trở thành nơi đứng chân của cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.


(1) Quyển XI, trang 98, NXB Thuận Hóa - 1997
(2) Nay là khu dân cư mới Đất Lành thuộc xã Vĩnh Thái
(3) Xem Xứ Đồng Châu của Nguyễn Thế Sang - Tạp chí Nha Trang số 7 - 1991)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 08:59:36 am »

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp lộ rõ âm mưu chiếm nước ta một lần nữa. Chúng liên tiếp gây ra những vụ xung đột ở nhiều địa phương, xâm chiếm từng vùng, lấn tới từng phần, tiến tới thôn tính toàn bộ nước ta.

Sau khi đánh chiếm Nam Bộ, từ cuối tháng 12/1945 đến đầu tháng 2/1946 thực dân Pháp phát triển đánh chiếm một số nơi ở Nam Trung Bộ. Có quân tăng viện từ Pháp qua, địch tiếp tục hành quân lớn mở rộng chiếm đóng Đà Lạt, Bình Thuận, Ninh Thuận; Cam Ranh, Nha Trang - Khánh Hòa.. Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chủng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! chúng ta hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu nước…”
. Tiếp đó, ngày 22-12-1946 Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến, chỉ thị vạch rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Khẩu hiệu được nêu lên “mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, nhiệm vụ chính trị hàng đầu của quân và dân Nam Trung Bộ nói chung và Nha Trang - Vĩnh Xương nói riêng là kiên quyết chặn đánh các cuộc tấn công của địch, giữ vững vùng tự do, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ở vùng sau lưng địch, góp phần cùng cả nước đánh bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp. Từ cuối tháng 1/1946, đồng thời với việc giải vây thị xã Nha Trang, quân Pháp tổ chức các cuộc hành quân ào ạt bằng xe cơ giới, chiếm một số vị trí quan trọng trên các trục giao thông quanh thị xã Nha Trang như: Thành - Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Giã, Cam Ranh. Ngày 03-02-1946 hội nghị cán bộ gồm lãnh đạo tỉnh, huyện, thị, chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang họp tại Đồng Trăn, quyết định tiếp tục phát triển lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến và xây dựng căn cứ cách mạng. Xác định tính chất, địa bàn hoạt động của thị xã Nha Trang có quan hệ mật thiết với huyện Vĩnh Xương, năm 1950 Thị ủy Nha Trang đã chuyển cơ quan chỉ đạo từ Hòn Tre về Đồng Bò, nơi mà huyện Vĩnh Xương đã chọn làm chiến khu ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Và Đồng Bò chính là nơi đứng chân của các đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp như: C252, D121, D5; và các cơ quan như: Huyện ủy Vĩnh Xương, Thị ủy Nha Trang, cơ quan tình báo Nha Trang, Trạm quân báo Liên khu V...

Hòa bình lập lại (1954) Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam, Đồng Bò lại tiếp tục trở thành chiến khu cách mạng. Xuất phát từ Đồng Bò, sự chỉ đạo của Đảng đã nhanh chóng và thường xuyên đến với nội thị, vùng ven, đồng thời là nơi xuất phát của các đơn vị vũ trang thọc sâu vào hậu cứ của địch ở Nha Trang - Vĩnh Xương.

Nhiều địa danh trên chiến khu Đồng Bò tới nay vẫn được nhắc đến với nhiều giai thoại hấp dẫn như: gộp Mậu Thân (còn gọi là gộp Ông Phật), gộp Dốc Gáo, gộp Đá Hang, gộp Thị ủy, gộp Leo Dây, Suối Lùng, Trảng É, Sông Lô... còn in đậm dấu ấn về một thời kháng chiến anh dũng của quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương.

Đồng Bò cùng với vùng núi Ba Cụm, Tô Hạp, Xóm Cỏ (Khánh Sơn); Hòn Dù (Khánh Vĩnh); Đá Bàn, Hòn Hèo (Ninh Hòa); Hòn Chuông, Hòn Dữ (Diên Khánh); Hóc Chim (Vạn Ninh)... tạo thành một thế liên hoàn chiến lược về căn cứ cách mạng trong tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Khánh Hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong suốt 30 năm tồn tại và phát triển, chiến khu Đồng Bò không những có nhiều khó khăn, gian khổ như những căn cứ khác trong tỉnh, mà do vị trí của nó rất gần với cơ quan đầu não của địch nên có những đặc điểm rất riêng và một số mặt nào đó tính chất gian khổ, ác liệt có phần gay gắt hơn so với nhiều căn cứ khác trong tỉnh. Cuộc sống ở chiến khu Đồng Bò vô cùng gian khổ, ngoài việc lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh thường xuyên thiếu thốn... cán bộ, chiến sĩ ở đây còn phải chịu đựng những trận càn quét của địch cùng với các loại bom pháo, các loại hoá chất với khối lượng rất lớn.

Kẻ thù luôn xác định được mối đe dọa trực tiếp của lực lượng cách mạng đóng ở Đồng Bò đối với các cơ quan đầu não, các căn cứ quân sự, hậu cần của chúng trong thành phố. Và sự tồn tại của một chiến khu cách mạng ngay sát thành phố Nha Trang luôn là những bất lợi về chính trị trong chính sách mỵ dân của chúng. Vì vậy, chiến khu Đồng Bò luôn là mục tiêu mà kẻ địch quyết tâm tiêu diệt bằng mọi phương tiện với những thủ đoạn tàn bạo nhất. Trong hai cuộc kháng chiến, nhất là thời kỳ chống Mỹ, ngoài việc tổ chức bao vây, cắt đường tiếp tế, tung biệt kích thám báo và do thám, kẻ địch còn tổ chức nhiều cuộc càn quét với qui mô lớn, có cả hải - lục - không quân hỗ trợ, với mục tiêu bằng mọi giá phải xoá bỏ “mật khu ĐÁ HANG”.

Thế nhưng chiến khu Đồng Bò vẫn tồn tại và đứng vững trong mọi hoàn cảnh, lực lượng cách mạng không những tồn tại mà ngày một lớn mạnh và trưởng thành hơn cho đến ngày toàn thắng.

Sự tồn tại vững chắc của chiến khu Đồng Bò ở Nha Trang trong suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ của dân tộc là một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ở Nha Trang - Vĩnh Xương. Cùng với những căn cứ khác trong tỉnh, Đồng Bò luôn là chỗ dựa vững chắc về tinh thần, là niềm tin mãnh liệt của cán bộ và nhân dân đang sống trong vùng tạm chiếm đối với thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo. Đây không những là điểm đáng tự hào trong lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân Nha Trang - Vĩnh Xương và còn là bài học quý giá từ thực tiễn và lý luận về xây dựng căn cứ cách mạng và hậu phương của chiến tranh cách mạng.

Đã 25 năm đất nước thanh bình, Đồng Bò luôn được thế hệ trẻ tổ chức các chuyến du khảo về nguồn để tận mắt nhìn thấy những di tích và được nghe lớp cha ông kể về những ngày chiến đấu giữ nước oai hùng, hiểu được vì sao chiến khu của ta cách địch chỉ khoảng 5 km mà vẫn tồn tại hiên ngang, anh dũng, sáng tạo, chiến thắng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:11:42 am »

Chương I
CHIẾN KHU ĐỒNG BÒ THỜI CHỐNG PHÁP

Ngay sau khi vừa giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chưa đầy hai tháng sau ngày độc lập, toàn thể quân và dân Nha Trang - Khánh Hòa phải bước vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Pháp. Với 101 ngày đêm bao vây quân Pháp trong thành phố (23/10/1945 - 31/01/1946), được sự quan tâm của Trung ương và Hồ Chủ tịch, sự chi viện của các đoàn quân Nam tiến từ nhiều địa phương trên cả nước về đây cùng tham gia chiến đấu, quân và dân Nha Trang - Khánh Hoà đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng: Giữ vững giao thông huyết mạch Bắc - Nam, chi viện cho Nam Bộ kháng chiến, góp phần chặn đứng âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của địch hòng mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn tỉnh và các tỉnh Nam Trung Bộ, tạo điều kiện cho các địa phương khác có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ngày 22 tháng 12 năm 1945, ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam tròn một tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen ngợi quân và dân Mặt trận Nha Trang: “Chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam rất khen ngợi các chiến sĩ ở Mặt trận Nha Trang và Trà Vinh đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”(1).

Cuối tháng 01 năm 1946, Hồ Chủ tịch cử đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng vào kiểm tra tình hình và truyền đạt chỉ thị “Kháng chiến Kiến quốc” tại các tỉnh phía Nam. Sau khi thị sát tình hình các phòng tuyến, thăm hỏi một số đơn vị, tại cuộc gặp gỡ trao đổi với cán bộ lãnh đạo chỉ huy Mặt trận Nha Trang, đồng chí đã nêu ý kiến chỉ đạo: “điều chỉnh ngay sự bố trí và cách tác chiến”(2) và chủ trương “tháo” phòng tuyến “mở” mặt trận, phát động toàn dân thực hành chiến tranh du kích(3); đầu tháng 02 năm 1946, hầu hết lực lượng Dân - Chính - Đảng của Khánh Hòa đều rút vào vùng rừng núi để bảo tồn lực lượng, tiếp tục chỉ đạo phong trào kháng chiến.


(1) Điện gửi các chiến sĩ Mặt trận Nha Trang và Trà Vinh đăng trên báo “Vì nước” ngày 22 tháng 12 năm 1946.
(2) Võ Nguyên Giáp - Bác Hồ trong lòng dân Khánh Hòa - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - 1990 - trang 23.
(3) Khánh Hòa những ngày đầu kháng chiến - trg 80 - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa - 1995.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:14:05 am »

TỪ RỪNG SÁT - ĐỒNG CHAY... ĐẾN VƯỜN XOÀI - SUỐI BÃI SẬY

Sau khi hầu hết cơ quan lãnh đạo Khánh Hòa dời khỏi thành Diên Khánh lùi về căn cứ phía Tây tiếp tục chỉ đạo kháng chiến, huyện Diên Khánh đã bố trí một bộ phận lực lượng kháng chiến về vùng núi Chín Khúc xây dựng chiến khu. Vị trí đứng chân ở khu vực Suối Đổ. Từ đó mật danh núi Thống Nhất (có người gọi chiến khu Thống Nhất, Khu Thống Nhất) được ra đời thay cho tên gọi núi Chín Khúc đã có từ nhiều năm trước đó.

Ngày 3/2/1946, hội nghị cán bộ lãnh đạo tinh, các huyện, thị và chỉ huy các đơn vị lực lượng vũ trang họp tại Đồng Trăn (Diên Khánh). Hội nghị đề ra chủ trương tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, tiến hành chiến tranh nhân dân, hoạt động du kích chiến, động viên tinh thần cán bộ chiến sĩ và nhân dân - kể cả đồng bào vùng mới bị địch tạm chiếm hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Hội nghị còn đánh giá tầm quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế của vùng Nha Trang - Vĩnh Xương và Diên Khánh, thấy cần thiết phải tổ chức lại công cuộc kháng chiến ở đây, nhằm tạo thành một khu vực liên hoàn giữa vùng địch tạm thời chiếm đóng và vùng do ta kiểm soát. Hội nghị thống nhất chia Nha Trang, Vĩnh Xương và Diên Khánh thành bốn khu kháng chiến; Thị xã Nha Trang thuộc Khu 2 bao gồm toàn bộ hữu ngạn sông Cái từ Thành xuống hết thị xã Nha Trang.

Để bảo đảm thuận tiện cho công tác chỉ đạo, cơ quan huyện Vĩnh Xương chọn khu vực các làng Bút Sơn, Đồng Nhơn, Thái Thông làm địa bàn đứng chân của cơ quan huyện(1). Nhà cửa của đồng bào ở đây gần núi nên khi có địch có thể rút vào núi dễ dàng. Từ Bút Sơn có đường mòn qua dốc Cây Cầy vào Đồng Chay, Rừng Sát, vào núi Chín Khúc và núi Đồng Bò.

Cơ quan đóng trong nhà anh Nguyễn Côn - Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời Bút Sơn do dân bầu từ sau ngày khởi nghĩa. Thời gian đầu, tại cơ quan có đồng chí Lê Cường cùng các đồng chí Nguyễn Biền, Huỳnh Thúc - thuộc đội diệt tề trừ gian. Tiếp đến, đồng chí Lê Minh Lượng - đội trưởng, đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa cùng một số anh em khác dưới làng về, đóng quân trong gia đình ông Thủ bổn Trình, ông Lê Lục... thuộc thôn Thái Thông.

Ngày 06 tháng 03 năm 1946, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký hiệp định sơ bộ.

Nhằm làm cho toàn dân nhận thức đầy đủ tình hình và chủ trương của Trung ương Đảng về chỉ thị “hòa để tiến”, lãnh đạo Đảng và Việt Minh các cấp tranh thủ phổ biến rộng rãi đến toàn dân. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch cử đồng chí Hoàng Quốc Việt làm đặc phái viên vào các tỉnh phía Nam trực tiếp chỉ đạo việc thi hành Hiệp định.

Tại Khánh Hòa, sau khi đến Nha Trang, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã truyền đạt nội dung Hiệp định sơ bộ cho Tỉnh ủy và cán bộ lãnh đạo trong tỉnh, đồng thời phổ biến nội dung chỉ thị của Trung ương là: “tranh thủ thời cơ hòa hoãn để củng cố chính quyền, xây dựng củng cố và phát triển các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quân sự chuẩn bị kháng chiến lâu dài đồng thời phải hết sức cảnh giác đề phòng địch phản bội hiệp định”...

Đúng như nhận định của Trung ương, quân Pháp đã phản bội hiệp định sơ bộ 6/3. Tại Khánh Hòa đêm 30/4/1946 quân Pháp bí mật vượt sông Cái đánh vào hậu phương ta ở Đại Điền (Diên Khánh).

Tháng 4 năm 1946, tên chỉ điểm Thầy Cọp sục vào nhà ông Lê Lục bị các đồng chí trong đội trừ gian diệt tề trừng trị. Sau đó, tên Mai (thông ngôn cho Tây đồn Thủy Tú) dẫn lính vào lùng sục làng Bút Sơn, bắt dân về đồn tra hỏi hòng phát hiện cơ quan, cán bộ ta. Cùng thời gian này, trong khi đi công tác Xuân Lạc, Ngọc Hội, anh Lê Khắc Thăng bị địch bắt, bị tra khảo nhưng không hề khai báo nên chúng đem đồng chí ra Vườn Dương (Nha Trang) thủ tiêu.

Trước tình hình đó, tháng 5 năm 1946, cơ quan huyện Vĩnh Xương chỉ để lại Bút Sơn một số ít cán bộ giữ mối liên lạc với cán bộ các nơi về gặp lãnh đạo huyện, nhận tài liệu, truyền đơn... ban đêm thì rút vào ngủ trong các rẫy gần đó. Còn phần lớn cán bộ cơ quan di chuyển vào Đồng Chay và Rừng Sát xây dựng nơi đứng chân mới. Tại đây, đồng chí Lê Cường thường trực tại cơ quan nhiều hơn, các đồng chí Lê Thanh Liêm-Chủ nhiệm Việt Minh, Nguyễn Biền - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh huyện và hầu hết cán bộ lãnh đạo chính quyền cũng như các đoàn thể đều thường xuyên về hoạt động trực tiếp ở các xã hoặc móc nối cơ sở phát triển tổ chức.

Thời gian này, cơ quan của các xã đều bám tại địa phương hoặc đứng chân ven chân núi, nơi bìa rừng thuận tiện cho việc liên hệ với cơ sở, nắm vững tình hình, lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến. Cơ quan xã Vĩnh Phú ở Bằng Lỗ Tây, xã Phú Xuân đóng kề miệng suối Lớn. (Tại Khu A có hai con suối lớn ở núi Chín Khúc và nhiều suối nhỏ từ Xuân Sơn chảy xuống tới Bút Sơn). Cơ quan xã Thái Sơn lúc đầu đóng ở suối Lớn, sau chuyển ra đóng nơi bìa rừng. Cơ quan xã Xuân Hải đến năm 1947 di chuyển ra khu vực Vườn Dừa - Hòn Rớ thuộc Đồng Bò Hạ(2). Cơ quan xã gồm: UBKCHC, Mặt trận Việt Minh và xã đội cùng đơn vị du kích tập trung.


(1) Về sau, hai thôn Bút Sơn và Đồng Nhơn sáp nhập làm một và lấy tên Đồng Nhơn.
(2) Xã Xuân Hải gồm: Trường Đông, Bình Tân, Vĩnh Xuân, Phước Hải, tiếp giáp với khu vực Vườn Dừa (Sông Lô), Hòn Rớ
Xã Thái Sơn gồm: Thái Thông (có người gọi Thái An), Thủy Tú (Thủy Hương), Đồng Nhơn (Đồng Châu), Bút Sơn, Xuân Sơn (Xuân Bình)
Xã Vĩnh Phú gồm: Vĩnh Châu, Vĩnh Điềm và Phú Nông
Xã Phú Xuân gồm: Phú Vinh (có Phú Trung. Phủ Thạnh và Phú Bình), Xuân Lạc
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:15:05 am »

Lực lượng vũ trang tập trung của huyện lúc này là đội trừ gian diệt tề.

Từ những chiến sĩ hoạt động gan góc trong nội thị những ngày đầu, khi về xây dựng lực lượng vũ trang Vĩnh Xương, các đồng chí Lê Minh Lượng, Bửu Đóa, Huỳnh Thúc... trở thành nòng cốt của đội trừ gian diệt tề. Các đồng chí đã chiến đấu mưu trí quả cảm, liên tiếp trừng trị những tên chỉ điểm Việt gian lợi hại làm tay sai cho giặc, thu nhiều vũ khí...

Lòng quả cảm không chỉ thể hiện trong chiến đấu mà trong nhiều tình huống khác nhau... Trong trận đánh ở Xuân Lạc, đồng chí Long bị thương gãy tay khi về tới đìa ông Tư Sung ở Rừng Sát, đồng chí Lê Minh Lượng đã lấy con dao làm cá của ông Tư Sung đem mài, trụng vào nước sôi để sát trùng rồi kê khúc tay gãy của đồng chí Long lên đoạn gỗ đước chặt bỏ đi cho khỏi vướng! Dao lụt phải chặt nhiều nhát mới đứt! Đồng chí Long cắn răng chịu đau, mồ hôi vã đầm đìa nhưng không hề hé răng kêu rên hay một tiếng xuýt xoa nào! Chặt xong, bôi “cồn lốt” rồi băng lại... Rất may là cuộc “đại phẫu thuật” ấy không bị nhiễm trùng. Những hoạt động tích cực của đội trừ gian diệt tề đã gây khó khăn lớn cho âm mưu lập chính quyền bù nhìn của Pháp ở Vĩnh Xương. Vừa hoạt động, vừa trưởng thành, dựa vào số thanh niên thoát ly lên chiến khu, gia nhập lực lượng vũ trang, đến tháng 8 năm 1946 đơn vị đã có một trung đội do đồng chí Lê Minh Lượng chỉ huy.

Tháng 10 năm 1946, lãnh đạo huyện Vĩnh Xương giao cho đồng chí Huỳnh Thúc xây dựng một trung đội du kích tập trung huyện. Địa điểm huấn luyện đóng quân của đội du kích tại Đồng Chay. Nhiệm vụ của đơn vị là đánh địch hỗ trợ cho phong trào quần chúng các xã Thái Sơn, Phú Xuân, Vĩnh Phú. Các đồng chí Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Hồ, Ngô Hoàng Nga, Lê Gia, Lê Bổn, Chín Rỗ... là chiến sĩ đầu tiên của trung đội. Vừa thành lập, đơn vị đã lập công đầu bằng một trận diệt địch độc đáo: diệt tên Mai-thông ngôn cho Tây ở đồn Thủy Tú - một tên tay sai đắc lực đã từng gây nhiều tội ác. Sau khi nắm chắc quy luật hoạt động của hắn, đơn vị bố trí đồng chí Nguyễn Hồ làm nhiệm vụ quan sát và ra ám hiệu trong một quán cắt tóc nằm trên đường từ Thủy Tú đến Thái Thông. Còn đồng chí Chín Rỗ đóng giả người đang làm ruộng ở ven đường. Chín Rỗ vốn là một người đánh xe bò (quê xóm Cầu Ké, thôn Vĩnh Điềm Thượng) có sức khỏe hơn người và hết sức gan dạ. Trong những trận diệt ác trước đây, Chín Rỗ thường đảm nhận nhiệm vụ dùng chày vồ phá tung cửa cho đồng đội xông vào, làm cho địch không kịp trở tay. Khi tên Mai xuất hiện, nhận được ám hiệu, Chín Rỗ từ ruộng lúa lên đường, đi ngược chiều với hắn. Vừa giáp mặt, Chín Rỗ bất ngờ lao vào chụp lấy tên Mai bóp cổ, chết ngay tại chỗ. Tên Việt gian bị diệt giữa thanh thiên bạch nhật, trên đường đông đúc người qua lại làm tiếng vang truyền lan rất nhanh... Trong đơn vị còn có rất nhiều chiến sĩ chiến đấu rất dũng cảm mưu trí như: đồng chí Bửu Đóa là người có nhiều công lớn trong việc về làng bám dân tổ chức trừ gian diệt tề(1).
 
Cơ quan huyện hồi này ít giấy tờ và nhân viên. Chỗ ở là một gian nhà nhỏ bằng cây rừng, một sạp chạy dài để nằm chung và ngồi viết trên một bàn dài cũng bằng cây rừng phía trước... Còn phần lớn cán bộ đều bám dân hoạt động; Riêng đơn vị du kích lập trung là con em từ địa phương vừa thoát ly hoặc đã từng hoạt động trong những ngày đầu cách mạng được dân tin yêu chở che nuôi dưỡng nên chủ yếu vẫn sống cùng với đồng bào Đồng Nhơn, Bút Sơn, Thái Thông, Thủy Tú... Trường Đông, Trường Tây để tuyên truyền vận động tổ chức nhân dân tham gia kháng chiến. Mỗi khi có động, được đồng bào báo tin mới rút vào bìa rừng Chín Khúc, suối Ông Bô... hoặc Vườn Dừa, Hòn Rớ, rừng sát - Vĩnh Xuân...

Lực lượng kháng chiến ngày càng trưởng thành, cán bộ các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh, Mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang huyện phát triển đông thêm, địa điểm đóng cơ quan gần làng Bút Sơn, Thái Thông không còn phù hợp. Lãnh đạo huyện quyết định di chuyển toàn bộ cơ quan vào khu vực Vườn Xoài thuộc Đồng Bò Trung xây dựng vị trí đứng chân vừng chắc để bảo đảm chỉ đạo kháng chiến lâu dài. Lán trại các cơ quan dựng rải rác dưới tán cây cao ven suối theo kiểu một mái xuôi về sau và một “mỏ quạ” phía trước, lợp lá dừa nước, lán nằm được làm bằng cây hóp có sẵn trong rừng. Lán của cơ quan lãnh đạo huyện đóng trên đầu suối, kế đó là lán của các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ; văn thư đánh máy, hậu cần, đội vận tải... Phía dưới là vị trí lán trại của đội du kích tập trung huyện.

Đội liên lạc cũng có lán trại riêng gần cơ quan. Nhiệm vụ của đội là chuyển công văn tài liệu, đưa đón cán bộ chiến sĩ. Lúc này cơ quan tỉnh còn đứng chân ở phía Tây Diên Khánh, một trạm giao liên được xây dựng tại khu Thống Nhất, liên lạc viên của Vĩnh Xương và tỉnh gặp nhau tại đây. Huyện còn có thuyền cất giấu tại khu vực Vườn Dừa để sử dụng khi cẩn đi giao liên bằng đường biển.

Từ chiến khu Đồng Bò đường lối chủ trương, nhiệm vụ công tác của cách mạng thông qua các đường dây liên lạc tỏa về cơ sở đến với đồng bào bằng nhiều hướng, nhiều tuyến khác nhau luôn thông suốt an toàn. Và ngược lại, từ những đường dây liên lạc này, nguồn nhân tài vật lực từ các đoàn thể Việt Minh các xã vùng ven, bên trong thị xã vẫn liên tục bổ sung dồi dào cho kháng chiến.


(1) Đồng chí Bửu Đóa được Đảng và Nhà tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Tư, 2020, 08:24:18 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:15:38 am »

Về phía địch, sau khi tập trung lực lượng giải vây Nha Trang và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các vùng phụ cận, chúng tập trung vào việc củng cố các vị trí đóng quân và hàng ngày cho lực lượng nhỏ tuần tiễu, tiến hành nhiều đợt bố ráp, bắt bớ... nhằm uy hiếp tinh thần nhân dân và ngăn chặn lực lượng ta, bảo vệ vị trí đóng quân của chúng. Trong khi đó, đông đảo đồng bào vẫn hướng về cách mạng, ủng hộ Mặt trận Việt Minh, ngoại trừ một số Việt gian bán nước làm tay sai, chỉ điểm cho giặc. Vì vậy, quân giặc chưa lập được tề và chưa kiểm soát được tình hình vùng ven Nha Trang, Vĩnh Xương, kể cả những hoạt động trên vùng biển; do đó, việc liên lạc giữa các huyện với tỉnh bằng đường bộ, với khu vực Đường Đệ, Hòn Tre, Đồng Bò và cả với Cam Ranh thông qua đường biển còn nhiều thuận lợi.

Tháng 10 năm 1946, địch cho quân thọc vào Đồng Bò, chiếm các khu nhà của dân đang khai phá sản xuất (nhà mát ở Vườn Dừa - Đồng Bò Hạ, nhà ông Xông, ông Máy ở Đồng Bò Trung và nhà ông Chùm ở Đồng Bò Thượng) đóng ba chốt điểm, nhằm ngăn chặn và phát hiện lực lượng ta. Mỗi chốt điểm có quân số không quá hai mươi tên. Đường sá từ thị xã vào đây còn khó khăn, chúng phải dùng ngựa tiếp tế bánh mì, thịt hộp chở từ Bình Tân hoặc Thủy Tú vào. Lực lượng vũ trang Vĩnh Xương đã liên tiếp phục kích đánh nhiều trận tại khu vực Bến Đá và Suối Đá (còn gọi là Suối Đá Ve - Đồng Chay). Trong các trận đánh này, chúng phải vất lương thực, thực phẩm - cả lựu đạn tháo chạy. Bị cắt đứt tiếp tế, địch phải rút bỏ các điểm chốt. Trong khi rút, chúng đã buộc dân ở ba nơi này về làng.

Sau trận chống càn của địch vào Khu A tháng 3 năm 1947, trung đội du kích tập trung do đồng chí Huỳnh Thúc chỉ huy di chuyển vào suối Đá Nhẩy. Đến tháng 4 năm 1947, theo quyết định của lãnh đạo huyện, trung đội hành quân về khu vực Vườn Xoài cùng với trung đội vũ trang đã thành lập trước đây xây dựng thành đại đội du kích tập trung huyện. Đại đội gồm hai trung đội do đồng chí Lê Minh Lượng làm đại đội trưởng, đồng chí Bửu Đóa làm đại đội phó và đồng chí Nguyễn Hồng Sơn (còn có tên Năm) làm chính trị viên. Trung đội I do đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa làm trung đội trưởng, đồng chí Võ Hòa làm trung đội phó. Trung đội II do đồng chí Nguyễn Văn Tâm làm trung đội trưởng và đồng chí Châu làm trung đội phó (đồng chí Huỳnh Thúc được Huyện ủy điều đi nhận công tác khác).

Tháng 5 năm 1947, hơn một tiểu đoàn địch chia làm hai cánh càn vào Đồng Bò: một cánh dừng thuyền theo đường thủy từ Trường Đông lên đổ quân tại Bến Điệp; một cánh từ đồn Tú Thủy vào. Một đại đội đóng tại Bến Điệp và Hòn Rớ, số còn lại tập kết tại khu vực Vườn Xoài theo suối tiến vào khu vực đóng quân của đại đội du kích tập trung huyện. Dựa vào hầm hố bố phòng sẵn có trên sườn núi, đơn vị sẵn sàng chờ địch. Khoảng 10 giờ sáng, đợt tiến công đầu tiên của địch bị đơn vị đánh bật xuống suối. Chúng cho súng cối bắn vào liên miên và tiếp tục tràn lên... Cứ thế, cả bốn đợt tiến công của địch trong ngày đều bị đơn vị đánh lui. Địch gom số thương vong rút ra đồng ruộng ven chân Hòn Rớ và Bến Điệp trụ lại. Sáng hôm sau, địch cho máy bay lên ném bom vào vị trí đóng quân suốt gần tiếng đồng hồ, sau đó chúng cho một mũi tấn công chính diện và một mũi đánh vòng bên hông trái nhưng đều bị đơn vị đánh bật xuống. Chúng lại gọi máy bay dội bom từng chập cho tới chiều... Các đồng chí chỉ huy vừa kiểm tra các vị trí bố phòng vừa động viên đơn vị sẵn sàng đánh địch. Và cuộc tiến công chiều hôm sau của địch vẫn bị đánh lui... Tuy không tiêu diệt được nhiều địch nhưng là một thắng lợi có ý nghĩa.

Tin cuộc càn lớn của địch vào chiến khu Đồng Bò bị quân ta đánh bại làm nức lòng đồng bào trong huyện Vĩnh Xương và thị xã Nha Trang nhân dân càng thêm tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Nhiều thanh niên yêu nước bày tỏ nguyện vọng thoát ly gia nhập lực lượng vũ trang. Lãnh đạo huyện quyết định xây dựng thêm một trung đội du kích tập trung. Ban chỉ huy trung đoàn 80 cử đồng chí Hoàng Văn Xuân sang giúp Vĩnh Xương tổ chức huân luyện tân binh ở Bãi Trủ. Sau đợt huấn luyện, anh em được biên chế thành một trung đội. Và lãnh đạo huyện tuyên bố thành lập trung đội III du kích tập trung huyện Vĩnh Xương, do đồng chí Hoàng Văn Xuân làm trung đội trưởng.

Chiến khu Đồng Bò dần dần được củng cố xây dựng và phát triển về nhiều mặt. Các cơ quan đơn vị của huyện Vĩnh Xương tiếp tục triển khai xây dựng vị trí đứng chân trên cả khu vực Đồng Bò Trung và Đồng Bò Hạ: Cơ quan Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh huyện đóng tại suối Bãi Sậy. Cạnh đó là cơ quan Mặt trận Việt Minh đứng chân bên trong Đá Chẹt. Cán bộ các đoàn thể thường xuyên về xã hướng dẫn cơ sở hoạt động xây dựng phong trào. Cơ quan Huyện đội và đơn vị vũ trang huyện luân chuyển đóng quân trên các vùng suối Vườn Xoài, Dốc Gáo, suối Khu A, Đồng Chay...

Sau lần địch đánh đúng vào vị trí đóng quân, tuy ta không thiệt hại gì nhưng là một bài học về công tác phòng gian bảo mật. Từ đó các con đường vào cơ quan đến vị trí trú quân được ngụy trang kỹ lưỡng, mọi người đều có ý thức giữ gìn bảo mật trong sinh hoạt, công tác ở chiến khu.

Tháng 8 năm 1947, địch lại càn vào Đồng Bò. Lần này chúng huy động lực lượng, lùng sục cả khu vực Đồng Bò Trung và Đồng Bò Hạ suốt ba ngày liền nhưng chưa phát hiện được cơ quan. Theo chỉ thị của Huyện ủy, đại đội du kích tập trung bố trí một bộ phận bảo vệ cơ quan dân chính huyện đồng thời tung trinh sát bám địch nắm tình hình, tìm sơ hở của địch để đánh vào sau lưng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:16:14 am »

Cuộc càn đã qua ngày thứ tư, một trung đội du kích được lệnh phục kích đánh địch di chuyển trên sông. Anh em bí mật vượt Hòn Rớ vừa bố trí trận địa xong thì một chiếc thuyền nhỏ chở hơn mười tên địch từ Bến Điệp về hướng Trường Đông vừa tới. Đơn vị đồng loạt nổ súng làm bị thương một số tên, một tên hốt hoảng ngã nhào xuống sông. Địch bắn trả vu vơ và cố chèo... Gặp lúc thủy triều đang xuống mạnh, thuyền địch nhanh chóng thoát ra khỏi ổ phục kích. Anh em tranh thủ lặn mò vũ khí, đồng chí Quốc mò được một khẩu súng trường và hai quả lựu đạn. Thời gian này vũ khí còn rất thiếu thốn, mỗi trung đội chỉ có hai tiểu liên, hầu hết dùng súng trường và lựu đạn nên thêm được một khẩu súng ai nấy đều phấn khởi.

Đơn vị du kích tập trung Vĩnh Xương sinh hoạt và tập luyện có nề nếp, khắc phục khó khăn tự tạo vũ khí thô sơ đánh địch nhiều trận, hỗ trợ cho phong trào quần chúng địa phương. Đáng kể nhất là anh em đã tìm đạn pháo địch bắn không nổ đưa về cải tạo thành mìn phục kích đánh lật một toa tàu lửa tại Đồng Bé. Tháng 8 năm 1947 lại phục kích trên đoạn đường sắt tại cầu 15 (thôn Xuân Sơn), bom nổ nhưng không lật được tàu, chỉ bắn bị thương một số lính đi trên toa gần đầu máy.

Sau trận phục kích, địch cho lực lượng tuần tra đường sắt bảo vệ cho các đoàn tàu chuyên chở vũ khí quân dụng. Tháng 11 năm 1947, đại đội du kích tập trung huyện Vĩnh Xương phối hợp với đại đội 98 phục kích đánh một trung đội lính Âu-Phi đi tuần tra bảo vệ đường sắt. Trận địa bố trí cách vị trí trận đánh trước không xa, lại trên địa hình trống trải và địch lại đi hàng dọc nên không thực hiện bao vây được. Ta nổ súng làm bị thương một số... Địch tháo chạy... Ta rượt đuổi hàng cây số... Đại bác từ Nha Trang và súng cối từ Phú Vinh nã tới tấp chi viện cho bọn lính đang chạy thục mạng về đồn.

Trong khi đó, ở các xã, mỗi xã đội đều có đơn vị du kích tập trung thường xuyên luyện tập, tổ chức cảnh giới nơi miệng suối, ngoài bìa rừng hay giáp đồng ruộng thuận tiện liên lạc tiếp xúc với dân và với lực lượng tự vệ mật sống hợp pháp trong vùng địch kiểm soát. Đây chính là lực lượng “bám bót dẫn đường” hỗ trợ đắc lực cho cán bộ huyện từ chiến khu về địa phương hoạt động và phối hợp với lực lượng vũ trang tập trung của huyện chiến đấu có hiệu quả.

Cuối năm 1947, đại đội du kích tập trung huyện có nhiều thay đổi: đồng chí Nguyễn Hồng Sơn - chính trị viên đại đội được phân công về hoạt động nội thị, đồng chí Lê Minh Lượng hy sinh trong khi về Hòn Hèo dự hội nghị, đồng chí Bửu Đóa được điều động sang công tác an ninh... Một số cán bộ chiến sĩ trong đại đội được tăng cường về các xã và thị xã... Đây cũng là lúc chiến khu gặp nhiều khó khăn nên đơn vị chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan.

Tháng 5 năm 1948, lãnh đạo huyện quyết định củng cố lại lực lượng du kích tập trung. Trung đội đầu tiên do đồng chí Lê Tạo làm chính trị viên. Ban chỉ huy có đồng chí Trần Ánh Đăng (Tư Đăng) làm Huyện đội trưởng, đồng chí Trương Kim Chí - Huyện ủy viên làm chính trị viên.

Sau cuộc họp bàn về công tác quân sự địa phương do tỉnh tổ chức tại Hòn Lớn và lớp bồi dưỡng cán bộ chủ chốt do đồng chí Trương An - Bí thư Tỉnh ủy chủ trì mở tại suối Đá Nhảy; nhận thức về nhiệm vụ cách mạng, công tác xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể và lực lượng vũ trang của cán bộ được nâng cao. Từ đó đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức của cán bộ huyện. Hoạt động vũ trang của huyện đã chú trọng hơn công tác binh vận, xây dựng nội tuyến để đánh địch.
 
Tháng 10 năm 1948, đồng chí Nguyễn Phước Trung được điều về nhận nhiệm vụ trung đội trưởng du kích tập trung. Lúc này, quân số trung đội được bổ sung và hoạt động của đơn vị liên tiếp thu được thành tích: Phối hợp với du kích xã Vĩnh Phú, xây dựng nội ứng tiến công diệt bót Cẩu Dứa; Phối hợp với du kích xã Thái Sơn vận động tổ chức nhân dân tranh thủ gặt lúa ban đêm đưa vào núi giấu, sau đó chuyển vào các kho bí mật đặt rải rác quanh khu vực Đồng Chay; Cuối năm 1948, bắt liên lạc với anh Thành (nguyên là đội viên của đại đội du kích tập trung về làng bị địch bắt lính) làm nội ứng hạ đồn Võ Kiện - trận này đơn vị phối hợp với một đơn vị thuộc tiểu đoàn 121.

Sau đó, một đại đội địch hành quân lùng sục khu vực Suối Lùng, Trảng É, trung đội du kích tập trung Vĩnh Xương phối hợp với lực lượng công an xung phong và tiểu đoàn 121 bám đánh liên tiếp, truy đuổi địch suốt từ Trảng É đến Gò Bông, gây cho địch nhiều thương vong, thu nhiều vũ khí - trong đó có một trung liên. Tiếp đến, các trận tập kích đồn Bang tá Tuấn, diệt địch, thu vũ khí gây không khí phấn khởi tin tưởng trong nhân dân.

Đặc biệt là trận đơn vị phối hợp với bộ đội 98 tiêu diệt đồn quận Vĩnh Xương vào đêm ngày 1/8/1948. Trong trận này, nhờ tổ chức được cơ sơ nội tuyến trong đồn nên trận đánh diễn ra nhanh gọn, chỉ sau 20 phút chiến đấu các chiến sĩ ta tiêu diệt 27 tên, bắt sống 25 tên, làm chủ đồn, thu toàn bộ vũ khí đã trang bị cho một trung đội và gần 3000 mét vải.

Năm 1949, theo quy định thống nhất của Bộ Quốc phòng, trung đội du kích tập trung huyện Vĩnh Xương đổi tên thành Trung đội bộ đội địa phương huyện Vĩnh Xương, đồng chí Hứa Đại Chuân được điều về làm Huyện đội trưởng, đồng chí Võ Hòa về làm trung đội trưởng và đồng chí Nguyễn Sơn làm chính trị viên trung đội bộ đội địa phương huyện.

Cũng thời gian này, Mặt trận Việt Minh huyện được tăng cường, đồng chí Nguyễn Duy phụ trách thanh niên, đồng chí Phương (tức Bùi Thị Vân) phụ trách phụ nữ. Bảo vệ cơ quan huyện có một tiểu đội do đồng chí Lưu Minh Khuê phụ trách.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2020, 09:19:10 am »

*   *
*

Trong những năm đầu kháng chiến, một số cơ quan đơn vị của tỉnh và Liên khu 5 đã bố trí các trạm công tác tại Đồng Bò:

Tổ quân báo Liên khu 5 do đồng chí Thiên phụ trách, hoạt động liên tục suốt nhiều năm liền và được lãnh đạo huyện Vĩnh Xương hỗ trợ về sinh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho anh em hoàn thành công tác chuyên môn của mình.

Trạm Liên lạc đường thủy Liên khu 5 đứng chân tại khu vực Vườn Dừa. Nhiệm vụ của trạm là phối hợp chặt chẽ với các địa phương tổ chức việc bảo vệ, tiếp nhận cán bộ, vũ khí khí tài, lương thực... xuất phát từ Phú Yên vào Đầm Vân đến Sông Lô (Vườn Dừa) và từ đây tổ chức việc vận chuyển đi các ngả theo chỉ thị của Liên khu 5 - trong đó có Chiến khu 7 - Ninh Thuận và Nam Bộ - được bí mật an toàn trong thời gian dài(1).

Khi cơ quan tỉnh di chuyển về chiến khu Hòn Hèo, yêu cầu liên lạc đường thủy giữa huyện và tỉnh được tăng cường. Ngoài trạm liên lạc đường bộ, một Trạm giao liên của huyện Vĩnh Xương được thành lập do đồng chí Long phụ trách. Trạm đặt tại Vườn Dừa. Nhiệm vụ của trạm là vận chuyển bưu kiện, đưa đón cán bộ từ huyện về tỉnh và ngược lại, đồng thời hỗ trợ cho với Trạm Liên lạc đường thủy của Liên khu 5 bảo đảm liên lạc thông suốt từ Trung ương đến địa phương.

Khi Trạm đứng chân tại chiến khu Đồng Bò, có nhiều sự kiện liên quan đáng nhớ. Năm 1948, đơn vị C98 Vĩnh Xương được lệnh phối hợp với Trạm, tể chức bảo vệ “Phái đoàn Trung ương” trên đường vào Nam Bộ. Đoàn dùng thuyền xuất phát từ Sông Lô xuống Bãi Dài vào Cam Ranh để từ đó sẽ xuống thuyền theo đường biển vào Chiến khu 7 - Ninh Thuận.

Sáng hôm sau, trên đường hành quân về Cù Hin thì bất ngờ gặp địch đi càn. Một trận tao ngộ chiến quyết liệt nổ ra... Hỏa lực súng máy địch rất mạnh, đồng chí Nấu hy sinh...

Hơn tuần sau, địch lại tập trung quân từ Cửu Lợi qua Đá Chẹt tiến đánh nơi đơn vị trú quân. Tổ cảnh giới phát hiện địch sớm, C98 bố trí trận địa bí mật chặn đánh địch. Dù vũ khí thô sơ, chủ yếu là lựu đạn súng trường, nhưng địch bị đánh bất ngờ nên không kịp trở tay và bị thiệt hại nặng nề, bỏ xác tháo chạy... Mấy ngày sau chúng phải cho quân đem xăng lên đốt!


(1) Chiến khu 7 - viết tắt CK7, nhiều người quen dùng tiếng Pháp đọc thành “xê ca xết”
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM