Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:26:25 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng  (Đọc 5256 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #20 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 04:15:00 pm »

Chương 6

VỀ QUÂN KHU 9, CHỈ HUY BÁM TRỤ VÀ ĐÁNH ĐỊCH BÌNH ĐỊNH LẤN CHIẾM

 
Sau những nỗ lực của ba đợt tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1968, chúng ta gặp nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1968, đầu năm 1969, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách vô cùng nghiêm trọng. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn, phức tạp nhất của ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.

Đầu năm 1969, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu 9. Xuống tại nơi, tôi thấy rõ một thực trạng là, ban đầu Quân khu 9 cũng chưa nhận thức được âm mưu thủ đoạn của địch, nên để quân địch phản công lấn tới, còn ta thì mất đất mất dân. Địch đã bình định lấn chiếm gần hết vùng đông dân trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng Cà Mau. Cả Khu 9 có 50 xã (trong số 250 xã) có đảng viên bỏ chạy khỏi địa bàn; 40 xã, mỗi xã chỉ còn một, hai đảng viên, không có chi bộ. Trong toàn khu (chưa tính Vĩnh Trà) có 12.000 cán bộ, chiến sĩ bỏ ngũ về nhà. Lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đều mất sức chiến đấu.

Khi nghiên cứu sâu âm mưu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" cho thấy địch tập trung vào mỗi việc là giành dân, xây dựng và phát triển quân đội và chính quyền Sài Gòn, trên cơ sở đó Mỹ từng bước rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Chúng mị dân cao độ và phát xít cũng cao độ. Thấy cần bắn giết là hắn bỏ luôn, không cần tòa án xét xử. Trước đây chúng đặt ra và thực hiện cái gọi là luật "10-59" rất quyết liệt và tàn ác, nhưng còn lập tòa án xét xử bây giờ thì cần bắn là bắn luôn tức khắc.

Chẳng hạn, chúng dùng tàu, xuồng chiến đấu và bo bo thực hiện bịt sông Măng Thít rất chặt. Cán bộ, bộ đội ta đi theo "đường du kích" để qua lại là hết sức khó khăn. Lúc đó, ở cồn Tân Quy có ông già Tám, người của giao liên một ông già chất phác, lưng trần, đầu bạc đã dùng xuồng hai đáy giấu cán bộ ta hoặc vũ khí ở dưới, còn bên trên chất củi trái cây, hàng hóa và đi trên tuyến công khai. Mỗi lần qua trạm kiểm soát của địch, ông dùng tiền lót tay. Ông đã thực hiện trót lọt nhiều chuyến, trong đó có cả chuyến chở đồng chí Nguyễn Đệ (tức Ba Trung, sau này là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; những năm đầu thập niên 1990, anh Ba Trung là Tư lệnh Quân khu 9) từ Trung đoàn 3 về quân khu bộ nhận nhiệm vụ mới. Một lần, quân địch nghi ngờ, cho bo bo đuổi theo, chúng nhảy sang xuồng của ông Tám khám xét rất kỹ, lục tung hết lên. Không có chứng cớ gì nhưng chúng vẫn dùng báng súng đập tra khảo ông. Hai ông bà nhất mực trả lời: "Bọn tôi nghèo, chỉ lo làm ăn, biết gì đâu mà khai". Không chứng cứ, không lung lạc được ông, chúng đẩy ông xuống sông rồi xả súng bắn chết. Má Tám, vợ ông ngất đi, lúc tỉnh dậy đã chửi thẳng vào mặt chúng: "Đồ dã man! Giết chồng bà già cả, không có tội tình gì!". Chúng đưa má về khám Cần Thơ giam mấy tháng liền, đánh đập tra tấn vô cùng tàn nhẫn. Má Tám vẫn một lòng trung thành với cách mạng, không khai nửa lời. Sau này, má được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Những người dân như ông bà Tám không phải là số ít.

Quân địch tập trung nhiều máy bay các loại, trong đó có máy bay chiến lược B52, pháo binh và bộ binh đánh phá để bình định cho được vùng ruột Vĩnh - Trà, gồm năm huyện: Tam Bình, Trà ôn, Vũng Liên, Càng Long và Cầu Kè. Trước tình hình khó khăn đó, giữa năm 1969 chỉ huy Trung đoàn 3 đã cho hai tiểu đoàn 306 và 308 từ Tam Bình, Trà Ôn, Cầu Kè lui về Tiểu Cần, Trà Cú và Duyên Hải (Trà Vinh), thành ra ở Vĩnh Long và huyện Măng Thít ta không còn chủ lực, một số lực lượng huyện cũng chạy theo Trung đoàn 3 xuống Duyên Hải. Do đó, quân địch bình định được vùng ruột Vĩnh - Trà, gây cho ta nhiều khó khăn. Quần chúng không còn chỗ dựa, phong trào cách mạng sa sút...

Tôi thay anh Đồng Văn Cống làm Tư lệnh, anh Ba Bường thay anh Mười Thơ làm Bí thư Khu ủy. Cuối năm 1970, trên điều anh Võ Văn Kiệt xuống thay anh Ba Bường. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung củng cố về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, góp phần khôi phục lại lực lượng chính trị, chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh, khôi phục lại thế và lực của Khu 9, tạo nên một sự chuyển biến mới.

Anh Võ Văn Kiệt nắm khá vững vùng Vĩnh Long, Trà Vinh, phía sông Tiền, địa bàn hoạt động của anh từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Hôm đầu gặp nhau, tay bắt mặt mừng, anh Kiệt tâm sự, khi anh Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục trực tiếp giao nhiệm vụ cho anh xuống Khu 9, anh nói ở Vĩnh Long, Trà Vinh, phía sông Tiền thì tôi nắm được còn phía sông Hậu không nắm được. Anh Hùng bảo: "Anh Sáu Nam (Lê Đức Anh) và anh Ba Bường đã giải quyết cơ bản chỗ đứng chân". Rồi anh đưa cho mấy bức điện của Sáu Nam gửi về Trung ương Cục, anh nói "tình hình có khá hơn, có đỡ rồi". Anh đọc lại một câu trong bức điện của tôi: "Ngổn ngang như mối tơ vò, chúng tôi cố gắng lần mò tiến lên". Và anh bảo: "xem ra từ câu này của Sáu Nam thì tình hình dưới đó còn khó khăn, phức tạp lắm". Anh Hùng nói vui: "bây giờ Sáu Nam cũng làm thơ nữa"'. Chúng tôi cùng cười bắt chặt tay nhau, quyết tâm kề vai sát cánh, hợp sức vượt qua giai đoạn khó khăn cao độ này. Về Khu 9, tôi lấy bí danh là "Chín Hòa", anh Kiệt là "Tám Thuận", khi ráp tên tôi là Hòa với tên mới của anh Kiệt là Thuận thành cặp "Hòa Thuận", một sự trùng hợp ngẫu nhiên như có lương duyên trong suốt quá trình công tác với nhau.

U Minh là một vùng rộng lớn của miền Tây Nam Bộ, gồm ba khu vực: U Minh Thượng, U Minh Hạ và Năm Căn, phần lớn là rừng tràm bạt ngàn, mùa mưa nước ngập, hết sức hiểm trở. Từ thời kháng chiến chổng thực dân Pháp, U Minh đã trở thành hậu phương, thành căn cứ cách mạng của quân và dân miền Tây. Trong đó U Minh Thượng có vị trí đặc biệt quan trọng. U Minh Thượng rộng hàng trăm nghìn héc ta, cây trăm mọc ken dày cành nọ đan khít với cành kia, rừng tràm mọc ma sát vùng dân cư, tôm, cá, rùa, rắn và chim muông vô cùng phong phú, là nguồn thực phẩm tươi dồi dào nuôi sống bộ đội và nhân dân. Bao bọc U Minh Thượng về phía bắc là tuyến sông Ba Đình, sông Cái Lớn chạy ra biển; phía đông là các kênh Xáng Chắc Băng, Vĩnh Thuận Huyện Sử; phía nam là sông Tiệm, Tân Băng nối liền Rạch Giá và Cà Mau; phía tây là kênh Xáng Xẻo Rô, kênh thứ 11. Suốt thời đánh Mỹ, Bộ Tư lệnh Khu 9 và tiền phương Khu ủy liên tục bám trụ ở U Minh Thượng để lãnh đạo nhân dân kháng chiến. U Minh Thượng cũng là nơi cung cấp người và của cho cuộc kháng chiến ở miền Tây, là địa bàn cơ động lực lượng vũ trang Quân khu 9 tồn tại và xây dựng lớn mạnh là nơi xuất phát tiến công địch ở Cần Thơ và vùng biên giới Hà Tiên tiếp giáp với nước bạn Campuchia.

Nhận rõ U Minh Thượng là nơi thường xuyên uy hiếp đối với Mỹ và tay sai, nên ngay từ những năm đầu sau Hiệp định Geneva, chúng đã liên tục tập trung đánh phá và bình định. Bởi vậy, nơi đây liên tiếp diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch.

Kết hợp với hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao đang được đẩy mạnh từ khi bắt đầu Hội nghị Paris, tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn chính phủ được thành lập. Sau khi ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được 20 nước công nhận.

Tháng 7-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân (nhân ngày 20 tháng 7), trong đó khẳng định rõ ràng, dứt khoát yêu cầu quân Mỹ phải rút ra khỏi miền Nam (thể hiện chủ trương "đánh cho Mỹ cút"), "Nhân dân Việt Nam kiên quyết đòi tất cả quân Mỹ và quân chư hầu của Mỹ phải rút hết sạch, chứ không phải chỉ rút 25.000 hoặc 250.000 hay là 50 vạn, mà phải rút hết, toàn bộ, không điều kiện"1.

Sau đó hai tháng, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời và để lại Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đảng đã kịp thời phát động cả nước "biến đau thương thành hành động cách mạng", kiên quyết thực hiện Di chúc của Người, tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Đầu tháng 9-1969, địch tập trung lực lượng gồm Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn B thủy quân lục chiến, 4 tiểu đoàn biệt động quân, 4 giang đoàn thủy bộ, 3 giang đoàn xung phong, Hải đoàn 41 Mỹ (ở sông Đốc), Hải đoàn Hắc Giang (ở Năm Căn), 3 tiểu đoàn pháo binh, pháo bờ biển, 2 trung đoàn không quân, có B52 yểm trợ, tổ chức cuộc hành quân đánh phá và lấn chiếm U Minh lần thứ nhất. Địa bàn đánh phá của chúng đến tận sông Ông Đốc. Cùng lúc, chúng sử dụng một sư đoàn bộ binh đánh vào Mo So, Ba Hòn thuộc Rạch Giá để ngăn chặn đường vận động hành lang của ta từ biên giới về Khu 9.

Ngày 26 tháng 9, địch đánh vào các khu vực Vĩnh Bình, Bình Minh, Kè Một, Từng Thơm của hai huyện Gò Quan, Vĩnh Thuận và tuyến sông Ba Đình. Cùng lúc bốn tiểu đoàn của Lữ B thủy quân lục chiến xuất phát từ căn cử Xẻo Rô tiến vào kênh thứ 11 thiết lập căn cứ mà chúng gọi là "Trung tâm hành quân U Minh".

Trước khi địch mở cuộc hành quân này, Bộ Tư lệnh Quân khu cử đồng chí Nguyễn Đệ, Phó Tham mưu trưởng Quân khu dẫn một đoàn cán bộ xuống nam Cà Mau chuẩn bị chiến trường. Khi đoàn đến sông Ông Đốc thì gặp địch hành quân càn quét, ngăn chặn, không qua sông được phải quay trở về quân khu bộ. Sau khi nghiên cứu tình hình, đồng chí Nguyễn Đệ đề xuất ý kiến với Bộ Tư lệnh là cần phải diệt căn cứ trung tâm hành quân của địch để phá cuộc hành quân lấn chiếm U Minh của chúng. Bộ Tư lệnh chấp thuận và phân công đồng chí Nguyễn Đệ chỉ huy trận đánh này. Trung đoàn 1 (do đồng chí Ba Tôn làm Chỉ huy trưởng, Tư Bằng làm Chính ủy, Võ Văn Dần làm Chỉ huy phó) sử dụng Tiểu đoàn 231 của trung đoàn cùng với đại đội công binh quân khu tổ chức trận đánh tập kích vào trung tâm hành quân hỗn hợp của Lữ B thủy quân lục chiến đóng tại kênh thứ 11 (An Biên).

Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân khu, ngay từ những ngày đầu, quân và dân U Minh Thượng đã chặn đánh các mũi tiến công của địch. Tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 2 đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn địch đổ quân bằng trực thăng tại kinh Tám Ngàn (huyện Thời Bình). Cơ quan hậu cần quân khu kết hợp cùng du kích hai xã Nguyễn Phích, Khánh Lâm (huyện Sông Đốc) đánh địch nhiều trận, chủ yếu bằng thuốc nổ, diệt và làm bị thương 74 tên, bắn rơi một máy bay trực thăng. Cơ quan phòng tham mưu quân khu tập kích tiêu diệt một đại đội thủy quân lục chiến địch tại Rọ Ghe (huyện An Biên, Rạch Giá). Một bộ phận pháo binh quân khu diệt "căn cứ hạm đội nổi" của địch ở vàm Sông Đốc. Du kích các xã trong U Minh bám đánh tiêu hao địch liên tục, gây cho chúng nhiều khó khăn.


---------------------------------------------------------------
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tr. 592.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #21 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 04:18:03 pm »

Sáng ngày 5 tháng 11, máy bay B52 của địch ném bom rải thảm yểm trợ cho Trung đoàn 32 và 33 Sư đoàn 21 đánh phá, càn quét vào U Minh Thượng và chốt các vàm kinh. Ban Chỉ huy trận đánh lúc này cũng ở gần sở chỉ huy của Quân khu ở Rọ Ghe, nằm trong vòng vây và tâm hỏa lực phi pháo của địch. Hai trung đoàn 1 và 2 của ta cũng nằm trong vòng đánh phá của địch. Nhưng tất cả vẫn kiên trì giữ vững đội hình chiến đấu theo kế hoạch vận động tiếp cận địch, nơi nào gặp địch chốt chặn thì ta bỏ xuồng lội bộ, luồn lách vòng tránh để tiếp tục hành quân bảo đảm đến vị trí chiến đấu đúng giờ nổ súng. Sở Chỉ huy Quân khu ở Rọ Ghe, cách cụm phòng ngự hỗn hợp của định chừng 3km.

Đến 3 giờ sáng ngày 6-11-1969, ta đồng loạt nổ súng tiến công. Sau hai giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa, đánh tan toàn bộ cụm phòng ngự hỗn hợp tại kênh thứ 11, diệt 680 trong tổng số 750 tên, đại tá lữ đoàn phó chết tại chỗ, đại tá lữ đoàn trưởng bị thương, trốn thoát; ta bắt sống 21 tên địch, diệt và đánh tan sở chỉ huy Lữ B thủy quân lục chiến cùng với ba đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến, Giang đoàn 74 hải quân, pháo đội C..., phá hủy 8 tàu thủy, thu hàng chục máy thông tin vô tuyến điện và nhiều pháo, súng địch,...

Cùng thời điểm này, bộ phận pháo binh và đặc công của ta đánh vào căn cứ Xẻo Rô, đánh chìm năm tàu; pháo kích vào Chi khu thứ 3, căn cứ sở chỉ huy Trung đoàn 32 Sư đoàn 21 địch tại Chi khu thứ 7, diệt nhiều địch. Ở phía nam, pháo binh Đoàn 6 bắn vào hai trận địa pháo của chúng ở Vàm Xáng và rạch Cái Bát, vừa kìm chế pháo địch, vừa phá hủy được bốn khẩu pháo và diệt nhiều tên địch.

Ở vùng Châu Thành A - Rạch Giá (nay là huyện Hòn Đất), Sư đoàn 12 địch tổ chức hành quân càn quét đánh phá nhiều lần nhằm chiếm đóng vùng này để cắt đứt đường hành lang 1C của Quân khu lên biên giới.

Lực lượng ta ở đây có cơ quan tiền phương tỉnh đội, đơn vị địa phương huyện, dân quân du kích và một bộ phận của Trung đoàn 10 Bộ Tư lệnh Miền tăng cường cho Quân khu. Quân địch vừa tiến công vừa bao vây phong tỏa khiến cho ta thiếu lương thực và đau ốm, cuộc chiến đấu ở đây vô cùng cam go, ác liệt. Nhưng các đơn vị quân ta vẫn bám trụ suất 78 ngày đêm. Đến ngày 18-11-1969, quân địch buộc phải rút lui khỏi Ba Hòn. Ta đã loại hàng nghìn tên địch, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn; phá hủy nhiều xe bọc thép M113 và bắn rơi nhiều máy bay. Phối hợp với đòn tiến công của chủ lực Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ đạo du kích của 10 xã thuộc bốn huyện căn cứ: An Biên, Vĩnh Thuận, Giồng Riềng và Thới Bình đẩy mạnh hoạt động, đánh nhỏ lẻ trên diện rộng nhằm tiêu hao sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh của chúng. Ở huyện Gò Quan nổi lên các trận đánh, diệt tàu địch. Tiêu biểu là tổ công binh do đồng chí Nguyễn Văn Tư phụ trách, đã đánh chìm 36 tàu chiến, có 2 tiểu pháo hạm. Sau đó, đồng chí Tư được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, bằng "lực lượng ba mũi" tại chỗ (tiến công bằng quân sự - chính trị - binh vận) đã bao vây, tiến công nhiều đồn bốt, gỗ nhiều đồn, diệt nhiều địch. Có 142.000 lượt quần chúng tham gia đấu tranh chính trị. Mũi binh vận đã làm rã 2.400 binh lính địch.

Bị thiệt hại nặng, ngày 6-11-1969, địch rút toàn bộ quân ra khỏi U Minh, kết thúc cuộc càn quét. Ta đánh bại kế hoạch bình định U Minh lần thứ nhất của chúng.

Thắng lợi của đợt phản công đánh địch hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ nhất đã chứng tỏ ta hoàn toàn có khả năng đánh bại các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của địch. Đồng thời đánh dấu bước đầu sự củng cố, xốc lại về tinh thần và tổ chức lực lượng của Quân khu để vượt qua những ngày khó khăn. Thắng lợi này cũng đã tạo sự nhất trí và gây được lòng tin trong nội bộ Đảng, trong bộ đội và quần chúng về chủ trương thực hiện chống lấn chiếm, phá bình định của địch.

Biết rằng quân địch chưa từ bỏ âm mưu lấn chiếm U Minh, chúng tôi quyết định đưa Trung đoàn lên Long Mỹ, vùng địch mới tạm chiếm để làm nòng cốt củng cố và phát triển phong trào cách mạng, chuẩn bị địa bàn cho việc thu hồi vùng ruột Hậu Giang sau này. Trung đoàn 2 được sử dụng làm lực lượng cơ động, bố trí ở địa bàn vùng U Minh, sẵn sàng đánh địch hành quân lấn chiếm.

Tháng 2-1970, địch sử dụng Lữ đoàn A thủy quân lục chiến và Sư đoàn 21 tổ chức hành quân tuyến An Biên. Sư đoàn 9 quân đội Sài Gòn và Thiết đoàn 9 hành quân đến vùng Vĩnh Thuận, mở cuộc lấn chiếm, bình định U Minh lần thứ hai.

Quân khu sử dụng lực lượng du kích địa phương, du kích cơ quan và một bộ phận chủ lực bám địch, tổ chức đánh nhỏ, đánh liên tục, đồng thời khẩn trương củng cố, xây dựng lực lượng, chuẩn bị đánh phản công quy mô lớn.

Sau đòn đánh chi đoàn xe M113 ở Vĩnh Hòa, tập kích xóa sổ một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, đánh tan Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 9) tại đã Vĩnh Bình Nam, huyện Vĩnh Thuận, ngày 12-3-1970, Quân khu sử dụng Trung đoàn 2, tiểu đoàn đặc công của Khu và Đoàn 6 pháo binh tổ chức đánh tập kích tiêu diệt sở chỉ huy Chiến đoàn 33 tại kênh Họa Đồ, buộc địch phải rút chạy. Cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ hai của địch thất bại.

Đến lúc này, trong cấp chỉ đạo, lãnh đạo của Quân khu nổi lên hai cách nhìn, hai chủ trương khác nhau:

Một là, trong xuân - hè và cả năm 1970, ta phải giải phóng được đại bộ phận vùng nông thôn, đưa bộ đội chủ lực Khu lên giải phóng Cần Thơ. Ở Vĩnh - Trà, Trung đoàn 3 lên phía nam và phía bắc sông Măng Thít mở trở lại vùng ruột Vĩnh - Trà, đánh bại mọi cuộc bình định của địch, tạo điều kiện giải phóng 2 triệu dân trong toàn khu. Chủ trương này có phần phiêu lưu mạo hiểm, dễ dẫn tới việc mất U Minh và Cà Mau, và nếu như vậy sẽ làm sa sút phong trào cách mạng của quần chúng.

Hai là, sử dụng tất cả lực lượng hiện có kiên trì bám trụ, tiêu hao tiêu diệt quân địch, ngăn chặn từng bước và đánh bại âm mưu đánh chiếm U Minh của chúng; tạo điều kiện để khôi phục lại vùng kìm và vùng địch mới lấn chiếm; chuẩn bị những điều kiện cơ bản để giành lại địa bàn đông dân nhiều của ở phía trước. Có nghĩa là phải khôi phục lại lực lượng và phong trào du kích chiến tranh ở vùng địch kìm và mới bị lấn chiếm, ổn định tư tưởng và khôi phục lại cơ sở quần chúng cách mạng, đưa những cán bộ đã "ly hương" trở lại địa bàn nắm quần chúng và lực lượng vũ trang để tổ chức đánh địch. Đây là một chủ trương có bước đi thích hợp, rất cơ bản, bởi vậy nếu làm khẩn trương, tích cực cũng phải mất một năm.

Cuộc đấu tranh giữa hai chủ trương đó kéo dài đến tháng 9-1970 mới đi tới nhất trí trong Hội nghị Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu ủy, có kết hợp thu thập ý kiến rộng rãi của bên dưới. Cuộc họp ở U Minh Hạ, vì địch càn, phải di chuyển tới ba lần, đủ thấy tình hình của Khu 9 còn khó khăn, vất vả tới mức nào.

Tại hội nghị này Khu ủy đã ra nghị quyết cụ thể về việc bám trụ đánh địch, trong đó chỉ rõ: Lực lượng vũ trang phải bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp tiến công địch. Bộ đội tập trung phải gắn với dân quân du kích hình thành sự kết hợp chặt chẽ ba thứ quân thường xuyên tổ chức tiến công địch... Phải xây dựng, phát triển lực lượng, nhất là củng cố xây dựng bộ đội chủ lực mới tạo được điều kiện để phản công và mới phá được thế tiến công của địch.

Thực hiện nghị quyết trên, Bộ Tư lệnh Quân khu đã phân công địa bàn bám trụ cho các đơn vị: Trung đoàn 1 ở Long Mỹ, Trung đoàn 3 tụ bám trên địa bàn then chốt giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Quân khu cũng có kế hoạch bám trụ và đánh địch. Tuy nhiên, việc bám trụ và đánh địch của các cơ quan trong Bộ Tư lệnh Quân khu trong tình hình hất sức căng thẳng. Lúc đó, Khu ủy cũng có ý kiến khuyên Bộ Tư lệnh Quân khu nên di chuyển cơ quan về nam Cà Mau để có điều kiện làm việc ổn định. Chúng tôi nhất trí nhận định rằng nếu chuyển về nam Cà Mau thì sẽ gặp trở ngại rất lớn làm giảm khí thế của bộ đội và ảnh hưởng đến phong trào chung. Đến khi cần chuyển trở lại sẽ càng khó khăn nhiều hơn. Vả lại, nếu ta rút địch sẽ lấn chiếm ngay. Ta lui về Cà Mau, địch lấn tới và theo đó sẽ mất đất, mất dân, không còn chỗ nào đứng chân nữa. Được sự đồng ý của Khu ủy, chúng tôi hạ quyết tâm bám trụ ở U Minh Thượng, tạo thế xen kẽ và tấn công địch bằng lực lượng tổng hợp trên cả ba vùng chiến lược. Đồng thời, triển khai sở chỉ huy tiền phương của quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ) gần sát đồn địch. Và tôi, Tư lệnh Quân khu, thường trực chỉ huy tại đây. Lội nước nhiều, bên chân trái vốn yếu từ nhỏ lại đau nhức, hành hạ tôi. Nhưng không thể không cố gắng vì phía trước là kẻ thù, hơn nữa trong mọi lúc, nhất là lúc gian khổ ác liệt, bao nhiêu con mắt của cán bộ, chiến sĩ cấp dưới đều nhìn vào Tư lệnh, người chỉ huy của họ.

Việc bám trụ hết sức khó khăn, ác liệt. Địch đánh phá liên tục bằng các cuộc hành quân càn quét, bằng bom đạn, náy bay B52 rải thảm kết hợp với pháo từ hạm tàu của Mỹ bắn không ngớt suốt ngày đêm. Ở các xã vùng địch lấn chiếm, lúc đầu cán bộ thoát ly địa bàn, chạy sang xã khác, dần dần quay trở lại địa phương thực hiện ba bám (bám đất, bám dân, bám địch), khôi phục phong trào du kích chiến tranh. Thời kỳ này cán bộ đảng, cán bộ mặt trận đều cầm súng đánh giặc. Nhiều địa phương, bí thư chi bộ làm đội trưởng du kích, xây dựng các lõm căn cứ chiến đấu suốt thững năm ác liệt.

Năm 1971, Bộ Tổng Tham mưu điều một số đơn vị từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam, Quân khu 9 cũng được chi viện hai trung đoàn (Trung đoàn 10 và Trung đoàn 20), nhưng còn hoạt động ở Campuchia. Bộ Tư lệnh Quân khu tiến hành củng cố lại thế bố trí lực lượng chiến đấu. Khi bàn bạc trong Khu ủy, các đồng chí nhất trí bố trí Trung đoàn 3 ở Trà Vinh và Vĩnh Long, trong đó địa bàn trọng điểm là Vĩnh Long. Bộ Tư lệnh giao cho anh Nguyễn Đệ, Phó Tham mưu trưởng Quân khu trực tiếp làm Chỉ huy trưởng mặt trận Vĩnh - Trà. Anh Tư Đặng làm Chính ủy mặt trận. Ban Chỉ huy mặt trận chỉ huy Trung đoàn 3 và hai địa phương (Vĩnh Long - Trà Vinh) mở đợt tiến công mùa khô 1970 với mục tiêu là mở cho được vùng ruột Vĩnh - Trà, đưa Trung đoàn 3 trở lại đứng vững ở nam - bắc sông Măng Thít. Ban Chỉ huy Trung đoàn 3 do đồng chí Tư Thiện làm Trung đoàn trưởng (thay đồng chí Hai Sỹ về Quân khu bộ đồng chí Đinh Trung Thành làm Phó Trung đoàn trưởng và đồng chí Mười Trang làm Phó Chính ủy.

Trung đoàn 1 do đồng chí Dương Tử làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Phạm Văn Trà làm Tham mưu trưởng, trung đoàn về U Minh rồi lên nam Long Mỹ. Hướng hoạt động là phải tiến lên Phụng Hiệp chứ không được lui.

Trung đoàn 2 đứng chân ở một phần của Long Mỹ, một phần ở Ngang Dừa (Bạc Liêu).

Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đứng chân ở bên sông Cái Lớn. Sau khi xác định thế bố trí cho các đơn vị, cán bộ quân khu phải xuống tìm hiểu tình hình các đơn vị phía trước triển khai nhiệm vụ, nắm chắc thuận lợi, khó khăn và những vấn đề nôi cộm để chỉ đạo và giúp đỡ cấp dưới giải quyết. Mặc dù biết đây là công việc gian khổ và sẵn sàng chấp nhận thương vong nhưng các đồng chí Phó Tư lệnh Quân khu đều xung phong đi. Lúc đó tôi nói, để tôi trực tiếp đi xem tình hình tư tưởng bộ đội thế nào, thủ đoạn đánh phá và ý đồ của quân địch cụ thể ra sao. Tôi và đồng chí Tư Chức, Tham mưu trưởng Quân khu cùng đi. Cần vụ giúp việc là đồng chí Thọ. Hôm xuống Long Mỹ - Cần Thơ kiểm tra công tác chỉ huy và tổ chức chiến đấu ở Trung đoàn 1 thì máy bay địch oanh tạc bằng bom phá, bom phát quang và cả thùng bom hỗn hợp chất C4 để hủy diệt sở chỉ huy của Trung đoàn 1. Đồng chí Thọ đè lên người tôi để bảo vệ cho tôi. Hết đợt bom, chúng tôi ngồi dậy, thấy bầy trực thăng ầm ầm bay tới. Đồng chí Thọ đứng trên miệng hầm quan sát và bắn máy bay. Với mấy loạt súng tiểu liên AK, Thọ đã bắn rớt một chiếc máy bay chỉ cách chỗ hầm chúng tôi chừng 200m. Chiếc thứ hai cũng bị trúng đạn, bay loạng choạng rồi lao xuống đồn Thanh Lòng, cách chỗ chúng tôi chừng gần một cây số. Trong lúc máy bay của chúng lao đến cứu phi công của hai chiếc máy bay nói trên, đồng chí Thọ nhanh chóng đưa tôi vượt sông. Chúng tôi vận động đến Ban Chính trị của Trung đoàn lúc đó bố trí ngay sát hàng rào ngoài cùng đồn Đầu Lá của địch để nắm tình hình mọi mặt của Trung đoàn 1.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #22 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 04:20:26 pm »

Những năm tháng khốc liệt đó, trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, trong vùng địch chiếm, chúng ra sức bắt thanh niên vào lính để đôn số quân lên. Một mặt, tùy từng nơi mà chúng cấp cho mỗi người dân từ một đến hai héc ta đất, rồi cấp giống và thuốc trừ sâu.

Khi địch đi càn, huy động cả lực lượng Thiên Nga làm tâm lý chiến và biệt kích, bộ đội và du kích của ta vẫn đánh được Nhưng đồn bốt bằng xi măng, sắt thép và các khu tập trung của địch thì ban đầu ta chịu. Mà hình thức này là chủ trương chủ yếu của chúng, lúc đầu ta không lường hết được. Khi tác chiến, nếu ta tổ chức đánh theo đội hình chiến thuật kiểu "đầu nhọn đuôi dài", "bộc phá liên tục" để mở cửa thì tổn thất lớn mà không đánh được. Tôi nói với cán bộ các trung đoàn, tiểu đoàn hãy bàn bạc thảo luận tìm ra cách đánh. Lúc đó, ta đánh ngoài công sự dễ, đánh trong công sự thì khó. Anh em đề xuất dùng đặc công luồn vào đánh bộc phá chiếm đầu cầu. Đồng chí Nguyễn Trung Thành được rút từ Trung đoàn 3 ở Vĩnh - Trà về đảm trách việc huấn luyện cách đánh đặc công, đã làm rất tốt. Có đánh được đồn địch thì mới thực hiện được chủ trương kết hợp giữa đánh đồn với vây đồn, bức rút và bức hàng. Lúc đó, Trung đoàn tổ chức đánh thử và đánh được nên bộ đội rất phấn khởi.

Phía định cũng thay đổi thủ đoạn. Bước đầu, chúng không tập trung lực lượng chủ yếu để mở cuộc hành quân ồ ạt như trước, mà phân tán từng tiểu đoàn chủ lực làm nòng cốt yểm trợ cho lực lượng bảo an đóng đồn. Đến tháng 8-1970, địch đóng mong nhiều đồn bốt ở vùng ven U Minh: Thúy Liễu, Vĩnh Phước, Vĩnh Tuy, Ninh Thạnh Lợi, Tân Lợi và các đồn dọc tuyến sông Cái Lớn: Nhà Ngang, Ba Đình, Cái Nước, dọc theo kênh Xáng Chắc Băng, Huyện Sử, Thời Bình ra Sông Đốc, hình thành vòng vây khép kín U Minh, chia cắt U Minh với phía trước và U Minh với phía nam Cà Mau. Đầu tháng 12-1970, địch sử dụng Sư đoàn 21, một bộ phận của Sư đoàn 9, hai liên đoàn biệt động quân (thay phiên nhau), Lữ đoàn B thủy quân lục chiến, Thiết đoàn 9 cùng lực lượng không quân, hải "quân hạm đội trên sông" của Mỹ và điều động các đơn vị bảo an từ các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh,... mở cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ ba. Rút kinh nghiệm từ những lần trước, lần này chúng lấn dần từng bước, lấn đến đâu đóng đồn đến đó.

Bộ Tư lệnh Quân khu dùng Đoàn 6 pháo binh đánh thiệt hại nặng căn cứ Xẻo Rô, bắn cháy và bắn chìm 10 chiếc tàu, đội hình tiến quân của địch phải dừng lại để giải quyết hậu quả.

Sáng ngày 5-12-1970, địch cho máy bay B52 ném bom rải thảm dọc rạch Mương Đào (An Biên) rồi hành quân bằng đội hình tàu thủy đóng căn cứ hành quân tại kênh thứ 9. Quân khu có ý định đánh thêm một trận nữa để diệt căn cứ trung tâm hành quân, làm thất bại kế hoạch lấn chiếm U Minh lần thứ ba của chúng. Nhưng lúc này tình hình ta rất khó khăn, không còn khả năng thực hiện. Quân địch triển khai xây dựng 11 căn cứ hỏa lực, chiếm hết căn cứ rừng tràm và chúng dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 11-1971.

Tình hình Quân khu 9 lúc này đã khó khăn càng khó khăn hơn. Anh Kiệt và tôi day dứt khi nhìn thấy bộ đội thiếu ăn. Đạn dược cũng thiếu nghiêm trọng, nhất là đạn hỏa lực và thuốc nổ, đích thân tôi là Tư lệnh phải đứng ra phân phối từng viên đạn hỏa lực. Nhưng cũng chính lúc này, ý định chiến thuật "đặc công hóa bộ binh" lại phát huy tác dụng. Và để giảm bớt mức sử dụng đạn hỏa lực, các đơn vị phát động phong trào dùng vũ khí tự tạo từ bom đạn lép và súng đạn chiến lợi phẩm thu được của quân địch. Mỗi tỉnh phải cử một tiểu đoàn qua biên giới Campuchia cõng đạn về. Nhưng nhiều đơn vị trên đường về đụng độ với địch, phải chiến đấu liên tục nên khi về đến nơi đạn cũng bị hao hụt nhiều.

Lúc này, hầu hết các đơn vị bộ đội chủ lực Miền đang hoạt động ở Campuchia. Do đó, địch rảnh tay điều động cả lực lượng tổng trù bị phối hợp với ba sư đoàn chủ lực tập trung bình định U Minh. Tình hình Quân khu lúc này vô cùng khó khăn. Có lúc tình thế nguy cấp, tôi phải điện cho Bộ Chỉ huy Miền đề nghị cho một bộ phận chủ lực trở về nội địa tham gia đánh địch bình định. Còn hai trung đoàn (Trung đoàn 10 và Trung đoàn 20) cho Quân khu thì Quân khu điều Trung đoàn 10 về đánh địch ở U Minh, Trung đoàn 20 đánh địch ở Giồng Riềng.

Đến tháng 6-1971, địch lấn chiếm cơ bản U Minh Thượng, một phần U Minh Hạ và đang có kế hoạch lấp kín 17 đồn ở U Minh, sau đó mở rộng lấn chiếm nam Cà Mau. Nắm được ý đồ của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu nhận định: Ta đang có nhiều khó khăn, nhưng nếu không kiên quyết chặn địch thì chúng sẽ lấp kín U Minh, mở rộng lấn chiếm Cà Mau và do đó tình thế sẽ xấu đi, khó lường hết. Nhưng, cũng thời điểm này, trên toàn chiến trường Đông Dương, ta đang giành thắng lợi lớn ở các chiến dịch: đường 9 - Nam Lào, Klachie, Snoul và vùng 3 biên giới. Từ nhận định đó, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở đợt phản công vào mùa mưa năm 1971 ở U Minh, ngay trong vùng trọng điểm bình định của địch, nhằm mục đích bẻ gãy kế hoạch đóng thêm đồn bốt của địch, cải thiện một bước trạng thái chiến trường, tạo điều kiện để tiến lên đánh bại quân địch ở U Minh; đồng thời đánh một đòn sôi động, tạo ảnh hưởng tốt về chính trị, quân sự, hỗ trợ trực tiếp phong trào tại vùng U Minh và các tỉnh lân cận.

Mặc dù có chiến sĩ sợ địch đã ra hàng và khai báo vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 7 và Trung đoàn 2. Địch dùng 12 máy bay trực thăng bất ngờ đổ quân xuống trước trận địa của Tiểu đoàn 7, nhưng Tiểu đoàn 7 và Trung đoàn 2 đã nhanh chóng hình thành thế bao vây, diệt gọn Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 33) của địch; đồng thời, trong ba ngày liên tiếp (từ ngày 7 đến 10-9-1971) đã đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn của Trung đoàn 31 đổ quân xuống cứu viện. Quân ta đánh bốn tàu địch trên sông Trẹm. Trung đoàn 10 diệt căn cứ Nỗng Cạn (ở xã Khánh Lâm) do sở chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 32 đóng giữ, gần 600 tên địch bị thương vong. Đêm 8 tháng 9, Trung đoàn 20 đánh thiệt hại nặng căn cứ Rọ Ghe của địch. Đến ngày 12 tháng 9, quân địch buộc phải hủy bỏ kế hoạch "tô dày lấp kín U Minh".

Để phối hợp với chiến trường U Minh, theo lệnh của Bộ Tư lệnh, Trung đoàn 1 ở Long Mỹ đã đánh quỵ 11 đại đội bao an, tạo điều kiện và tạo thế cho du kích hoạt động. Trung đoàn 3 ở Vĩnh - Trà cũng đã diệt được một số đồn bốt, tạo thế mới cho phong trào quần chúng. Tiểu đoàn 3 U Minh còn phối hợp với bộ đội và du kích huyện Cái Nước diệt năm đồn địch ở tuyến Bình Hưng, trên 11.000 dân trở về vườn cũ. Địch điều trực thăng đổ ba tiểu đoàn xuống giải tỏa. Trung đoàn 10 và đoàn vận tải của Khu đã đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, bắn rơi 5 máy bay.

Như vậy, cuộc phản công mùa mưa năm 1971 của Quân khu đã thu được thắng lợi. Tuy chưa thể cải thiện tình hình, nhưng thắng lợi của cuộc phản công đã có tác dụng cổ vũ, củng cố niềm tin của bộ đội và nhân dân miền Tây Nam Bộ vào thắng lợi của cách mạng.

Ngược dòng thời gian, như chúng ta đã biết, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 đã đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Ngày 25-1-1969, Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam có bốn bên tham gia. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng, cách mạng nước ta càng đẩy mạnh ba mũi tiến công - chính trị, quân sự và ngoại giao - kết hợp chặt chẽ sức mạnh của ba đòn tiến công này, trong đó đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị để hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao.

Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo quân và dân miền Nam thực hiện Nghị quyết Trung ương 18 (tháng 1-1970), sớm dự kiến tình huống Mỹ có thể mở rộng chiến tranh ra phạm vi ba nước Đông Dương, đề ra chủ trương chính xác, chỉ đạo quân và dân ta phối hợp với bạn kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Chiến thắng của ta tại chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào đã tác động mạnh mẽ đến cục diện chung chiến trường ba nước Đông Dương; đánh dấu một bước thất bại quan trọng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ. Sức mạnh trên chiến trường là tiếng nói quyết định trên mặt trận ngoại giao, hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh ngoại giao, nên năm 1972, Đảng ta chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô rộng lớn, cường độ mạnh và nhanh gây bất ngờ cho Mỹ. Từ ngày 31 tháng 3 đến 2-6-1972, ta nổ súng tiến công trên chiến trường Trị Thiên, đập tan tuyến phòng thủ phía bắc Quảng Trị, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một vùng rộng lớn phía bắc và phía tây tỉnh Quang Trị, phía tây Thừa Thiên. Phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính ta đã giành thắng lợi vang dội, ngày 5-4-1972, chủ lực của B2 tiến công giành thắng lợi lớn trên đường 13 ở Đông Nam Bộ đánh tan một trung đoàn thiết giáp, làm tan rã Chiến đoàn là Sư đoàn 5, giải phóng thị trấn Lộc Ninh..: Ở Quân khu 5 ta diệt căn cứ Đắc Tô, Tân Cảnh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 2 quân đội Sài Gòn,...

Trên chiến trường thuộc Quân khu 9, bắt đầu từ đêm mùng 6, rạng ngày 7-4-1972, các lực lượng vũ trang đồng loạt nổ súng tiến công, giành giật quyết liệt với quân địch từng mảnh đất, nhánh sông với sáu đợt cao điểm suốt từ tháng 4 đến tháng 8-1972. Ta đã diệt, bắt rồi thả và binh vận làm rã ngũ, gọi hàng,... Tổng cộng ta đã làm giảm 12.000 tên địch; tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn và tiểu đoàn. Trong 916 đồn bốt mà ta đã diệt, bức rút, binh vận khởi nghĩa, có 600 đồn do lực lượng chính trị, binh vận xã ấp trực tiếp gỡ. Song, quân địch đã tái chiếm, tái dựng 650 đồn bốt, đủ thấy cuộc đấu tranh ở đây gay go, quyết liệt như thế nào. Ta giải phóng được 400 ấp với gần 80 vạn dân (trong khi cuối năm 1971 ta mới giải phóng được 20 vạn dân). Lực lượng vũ trang đã có bước phát triển mới: dân quân du kích tăng 50%, bộ đội địa phương của tỉnh và huyện tăng từ 20 đến 50% quân số. Điều quan trọng nhất là các đảng bộ địa phương đã bám được dân, trong đó có tên 1.000 ấp trước đây bị địch kìm kẹp hoàn toàn, nay đã xây dựng được cơ sở đảng và bắt đầu phát huy vai trò lãnh đạo quần chúng. Bộ đội địa phương tỉnh và huyện đã gắn bó chặt chẽ với dân quân du kích trong tác chiến và xây dựng. Bộ đội chủ lực của Quân khu đã đứng vững trên địa bàn cơ động, giữ được thế liên hoàn phía trước và phía sau, liên hoàn giữa các khu vực chiến trường. Đội hình hậu cần tại chỗ được triển khai, hành lang giao thông liên lạc từ Khu lên Miền và xuống các tỉnh, huyện, xã thông suốt, tạo điều kiện cho công tác chỉ đạo, chỉ huy xử lý tình huống kịp thời hơn.

Qua các cuộc tiến công chiến lược, ta đã mở ra tình thế cách mạng thuận lợi mới. Mỹ buộc phải chấp nhận và thỏa thuận sẽ ký Hiệp định Paris vào cuối tháng 10-1972. Nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống, Nixon (Ních xơn) lại lật lọng. Cuối tháng 12-1972, Mỹ dùng máy bay B52 tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi khác trên miền Bắc. Điều này rất đúng với dự đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1967. Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Nhờ dự kiến trước và chuẩn bị sớm về tư tưởng, tổ chức và lực lượng, quân và dân ta ở miền Bắc đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ là đòn chí mạng làm thất bại một bước cơ bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ.

Thắng lợi thu được của hai năm 1971-1972 đã làm thay đổi hình thế chiến trường có lợi cho ta. Từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân (ta chỉ còn khoảng 2.000 dân), hoàn toàn nằm trong thế bị động chống đỡ địch đánh phá, Quân khu 9 đã gượng dậy và chuyển dần sang thế chủ động tiến công.

Bộ Tư lệnh Quân khu bố trí hầu hết các đơn vị chủ lực vào địa bàn trọng điểm. Tháng 10-1972, sau khi thống nhất với anh Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy và Thường vụ Khu ủy, tôi quyết định điều chỉnh lại bố trí lực lượng, tập trung bốn trung đoàn chủ lực về địa bàn Chương Thiện. Trung đoàn 1 (do anh Phạm Văn Trà làm Trung đoàn trưởng) ở đông bắc Long Mỹ, Trung đoàn 10 (do anh Tự Đồng chỉ huy) ở tây nam Long Mỹ, Trung đoàn 20 (do anh Sáu Lược làm Trung đoàn trưởng) ở tây Vị Thanh, Trung đoàn 2 (do anh Năm Thông làm Trung đoàn trưởng) cơ động vùng cửa ngõ U Minh; Trung đoàn 3 ở Tam Bình, hoạt động chủ yếu là hướng Vĩnh Long. Sở chỉ huy cơ bản của Quân khu đặt tại U Minh Thượng. Sở chỉ huy tiền phương Quân khu vẫn trụ ở tây nam Long Mỹ, ngay sát đồn địch. Tôi thường trực tại sở chỉ huy tiền phương để trực tiếp chỉ huy. Mỗi trung đoàn đảm nhiệm một vùng địa bàn then chốt quy định, nhưng khi cần thiết có thể tập trung từ hai đến ba trung đoàn tiến công trên một hướng. Phương thức tác chiến là: tích cực đánh quân địch ngoài công sự vững chắc, đánh đồn địch mới đóng, đánh tàu địch cơ động trên sông, săn lùng xe cơ giới địch ban đêm, đánh địch với lực lượng tổng hợp nhỏ lẻ, khi có điều kiện thì đánh tập trung tiêu diệt từng tiểu đoàn địch.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #23 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 04:31:08 pm »

Khi ta đang tiến hành điều chỉnh đội hình thì ngày 11-1-1973, chính quyền Sài Gòn cho Sư đoàn 21 do tướng Nguyễn Vĩnh Nghi trực tiếp chỉ huy hành quân lấn chiếm vùng tây nam Long Mỹ. Ta vừa tiếp tục điều chỉnh đội hình vừa dùng phân đội nhỏ, trước mắt là Trung đoàn 20 đánh vào sau lưng địch, đồng thời chuẩn bị phương án thời cơ. Ngày 19-1-1973, Trung đoàn 20 xóa sổ Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31 địch ở Ba Voi, xã Vĩnh Hòa Hưng (phía Vị Thanh), buộc Sư đoàn 21 phải quay về phòng thủ thị xã Vị Thanh. Tiếp đó, ngày 21-1-1973, quân đội Sài Gòn thuộc Quân đoàn 4, Quân khu 4 tiếp tục nống ra thực hiện kế hoạch tràn ngập lãnh thổ, hành quân lấn chiếm trên diện rộng khắp đồng bằng sông Cửu Long. Nắm được âm mưu của địch, chúng tôi có phương án sẵn sàng đối phó. Ngày 23-1-1973, Quân khu 9 tiến hành phương án thời cơ với ý định giải phóng cơ bản huyện Long Mỹ, nhưng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 10 không thực hiện được mục tiêu đề ra là tiêu diệt hai chi khu Ngang Dừa và Long Mỹ mà chỉ giải phóng được một số xã. Trung đoàn 20 cùng lực lượng tổng hợp của địa phương giải phóng được tám xã của huyện Giồng Riềng, giáp thị xã Vị Thanh. Ta tổ chức nghi binh: Trung đoàn 2 áp sát thị xã Bạc Liêu, Trung đoàn 1 lên lộ 4 Cái Tắc, Tiểu đoàn Tây Đô qua Châu Thành, Cần Thơ. Địch cho rằng ta mở đợt tiến công lớn nên ngày 25-1-1973, Tư lệnh Quân đoàn 4 ra lệnh chấm dứt hành quân, rút quân chủ lực về phòng thủ các thị xã, thị trấn và các trục giao thông.

Thắng lợi lớn nhất trong những đợt tiến công vừa qua là ta đã đứng vững trên vùng trọng điểm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, tạo thế vững chắc để tiến công quân địch trong tình hình mới.

Hiệp định Paris công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27-1-1973, có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28-1-1973. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam làm lễ cuốn cờ về nước. Hiệp định quy định quân Mỹ rút, các lực lượng vũ trang còn lại của "hai bên Việt Nam" ở nguyên tại chỗ. Như vậy, ta đã đánh bại âm mưu "phân tuyến" của đối phương, bộ đội ta không phải "tập kết" ra một nơi (như Hiệp định Geneva 1954), mà ngược lại, ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ "da báo", một thực trạng rất có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Quân và dân ta rất phấn khởi khi Hiệp định Paris được ký kết. Nhưng sau khi Hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước của chúng ta diễn ra thật lạ, có thể nói đó là những ngày "dở trăng dở đèn". Tôi nhớ lúc ấy, từ Trung ương, từng kiện tài liệu gửi vào Nam hướng dẫn, phổ biến các quy định, các hình thức thực hiện hòa hợp dân tộc, thống nhất nước nhà. Trên các làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam hầu như lúc nào cũng hát vang bài Việt Nam trên đường chúng ta đi rất đỗi tự hào, phấn chấn và ngân vang bài thơ Việt Nam! Máu và Hoa với những câu đầy ấn tượng: "Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ", "Đã tắt hôm nay lửa chiến trường",... Nhưng thực tế, không hề có lấy một phút "tắt lửa chiến trường" và máu của đồng bào, chiến sĩ ta ở miền Nam chưa có một phút ngừng rơi. Khi ta lấy được tài liệu mật của địch và qua theo dõi các động thái của chúng, ta càng thấy rõ âm mưu phá hoại Hiệp định của địch. Những kẻ cầm quyền hiếu chiến trong chính giới Mỹ và chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn thấy rằng, tuy Mỹ phải rút quân, nhưng quân đội Sài Gòn còn 1,1 triệu với 13 sư đoàn chủ lực, lại được Mỹ viện trợ tối đa về quân sự và kinh tế nên vẫn nuôi ảo vọng sẽ thắng ta bằng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Bởi vậy, nếu theo văn bản Hiệp định thì 7 giờ sáng ngày 28-1-1973, hai bên ngừng bắn, nhưng chính ngày đó Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn công khai tuyên bố trong diễn văn của mình là "ngừng chiến, không ngừng bắn, không thi hành Hiệp định Paris!", và Thiệu đã gào thét chỉ đạo cấp dưới tiếp tục hành quân bình định, tiếp tục đánh và giết, tiếp tục kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ".

Ngày 29-1-1973 (24 giờ sau ngừng bắn), Bộ Tư lệnh Quân khu 9 họp đánh giá địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh và chỉ thị các đơn vị kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định. Ngày 2-2-1973, Thường vụ Khu ủy xác định: "Địch không thi hành Hiệp định, ta phải tiếp tục chiến đấu giữ vững thành quả, trước mắt phải kiên quyết trừng trị địch vi phạm Hiệp định".

Từ sau tháng 1-1973, Mỹ ký Hiệp định Paris, phải rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi miền Nam, nhưng âm mưu cơ bản của chúng là vẫn tiếp tục dùng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, tiếp tục chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, làm tay sai cho Mỹ.

Địch không thi hành những điều khoản trong Hiệp định không có lợi cho chúng, mà tiếp tục "một kiểu chiến tranh mới" - lấn chiếm và bình định - bằng quân đội và chính quyền Sài Gòn với viện trợ và cố vấn Mỹ để kiềm chế ta hòng giành thắng lợi cuối cùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ đã viện trợ ồ ạt cho Sài Gòn2, tăng nhanh quân số và phòng vệ dân sự, đồng thời Mỹ duy trì một lực lượng không quân, hải quân răn đe ở Đông Nam châu Á. Chúng tiến hành các cuộc hành quân lấn chiếm, bình định theo kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" hòng xóa thế trận chiến tranh nhân dân xen kẽ của ta, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng đồng bằng đông dân...

Thời kỳ ấy, sau khi ký Hiệp định Paris, ta chủ trương đẩy mạnh và kết hợp các hoạt động chính trị - quân sự - ngoại giao, đấu tranh buộc địch phải thi hành các điều khoản đã ký. Lúc đầu chủ trương đó là đúng, nhưng trong quá trình Mỹ và chính quyền Sài Gòn công khai, trắng trợn phá hoại Hiệp định, trong chỉ đạo của ta có ý nhấn sách lược trước mắt là cố gắng đưa cách mạng miền Nam tiến lên bằng con đường hòa bình. Tuy nhiên, có những đồng chí lãnh đạo khi giải thích ở một số chiến trường còn quá nhấn mạnh "giữ vững hòa bình là nhiệm vụ trung tâm số một hiện nay"3.

Một số ý kiến chỉ đạo không đúng đó lại được phổ biến xuống cơ sở khi trên chiến trường ta đang có nhiều khó khăn về thực lực (tổn thất năm 1972 chưa kịp bổ sung sau thời gian chiến đấu liên tục...). Thực tế ấy đã làm cho một số nơi chần chừ, để địch lấn chiếm, bình định, ta mất dân, mất đất. Chỉ sau vài tháng thi hành Hiệp định, thực tế chiến trường đã bộc lộ ngày càng rõ ý đồ và hành động phá hoại của địch cũng như sơ hở và tổn thất của ta. Tháng 5-1973, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo chiến trường đã kịp thời nhận định tình hình mới và thống nhất chủ trương mới: Trong khi địch đang dùng hành động quân sự đánh ta, ta cần kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý... không phòng ngự đơn thuần... tiến công quân sự của ta bằng phản công.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn nghiêm khắc kiểm điểm: Vì sao từ đầu năm 1973, quân Mỹ đã rút ra, lực lượng địch trên chiến trường đã giảm một bộ phận quan trọng cả về bộ binh và binh chủng kỹ thuật, mà địch vẫn giành được chủ động tiến công, ta phải bị động đối phó, có nơi mất đất mất dân như vậy"4. Đó là do ta có khuyết điểm chứ không phải do địch mạnh...; lúc đầu ta đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch...; lại thiếu chủ trương nhất quán từ đầu về vị trí, nội dung của tiến công quân sự. Địch tiến công mà ta cứ ngồi yên, có nơi còn rút lui, thì rõ ràng là địch mạnh lên, mà ta yếu đi...

Ngày 2-2-1973, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn, phổ biến cho các sĩ quan thuộc quyền trong cuộc họp kín tại Cần Thơ: "Trên hòa bình, dưới chiến tranh; ngoài hòa hợp, trong bình định" và đề ra chỉ tiêu đến ngày 26-3-1978 phải chiếm hết những vùng đất ở miền Tây Nam Bộ. Cùng lúc, chính quyền Thiệu công khai ban hành luật phát xít như: xử bắn những ai công khai hoan hô hòa bình, xử bắn lính bỏ trốn, bỏ tù các gia đình có con đi lính bỏ trốn, cấm tụ tập bàn tán hòa bình, cấm đi lại vùng khải phóng,... Chúng ráo riết thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", cắm cờ giành đất, giành dân trong 48 giờ trước khi hiệp định có hiệu lực, đồng thời đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Kế hoạch bình định ở trọng điểm Tây Nam Bộ, năm 1978 của địch gồm ba đợt:

- Đợt 1: bình định lấn chiếm Chương Thiện.

- Đợt 2: bình định lấn chiếm U Minh.

- Đợt 3: bình định lấn chiếm Cà Mau

Riêng kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện, chúng chia làm hai bước: bước một, từ tháng 2 đến tháng 5-1973 lấy lại các vùng đã mất trước khi có Hiệp định và lấn chiếm các vùng quan trọng nhất; bước hai, từ tháng 6 đến tháng 10, tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định năm 1973 ở những nơi chưa làm được.


---------------------------------------------------------------
2. Năm 1973, Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 2 tỷ 670 triệu USD, trong đó 2 tỷ 168 triệu USD về quân sự; cuối năm 1972 đầu năm 1973, Mỹ viện trợ 700 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép, tăng dự trữ vật tư chiến tranh lên gần 2 triệu tấn.

3. Có nơi quy định "ba cấm" (cấm bao vây đồn bốt, cấm "gỡ" đồn bốt, cấm đánh địch bung ra). Có nơi còn quy định "năm cấm" (thêm "hai cấm" nữa: cấm pháo kích, cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu). Chỉ thị cho Khu 9 thực hiện "năm cấm".

4. Ở Khu 5, ta mất 25 vạn dân, 45 xã, 320 ấp, địch đóng thêm 200 đồn bốt; Khu 8, ta mất 10 vạn dân, 24 xã, 120 ấp, địch đóng thêm 287 đồn bốt; Khu 6 và Khu 7 bị địch lấn hầu hết các vùng ta mới mở gồm: 308 ấp với 29 vạn dân...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #24 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:44:46 am »

Vì sao địch chọn Chương Thiện làm trọng điểm bình định đột phá?

Chương và Thiện là tên người thân của Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đình Nhu). Ngô Đình Diệm quyết định thành lập ra cái tỉnh mới "Chương Thiện" này và ngày 24-12-1960, Lâm Lễ Trinh, Bộ trưởng Nội vụ của Diệm làm lễ ra mắt tỉnh mới. Nhưng ý nghĩa không phải là cái tên mà ở vị trí của vùng đất này. Đây là vùng ruột các tỉnh nam sông Hậu. Thị xã Vị Thanh là trung tâm tỉnh, gồm các huyện: Phụng Hiệp, Long Mỹ, Ngang Dừa (thuộc Cần Thơ), Gò Quan và Giồng Riềng, Ngã Năm Vĩnh Thuận (thuộc Rạch Giá). Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh giá cao vị trí chiến lược của vùng này cả trước mắt cũng như lâu dài. Còn ta xác định đây là vùng đông dân (48 vạn dân), nhiều lúa, địa bàn cơ động trọng yếu nằm giữa và giáp ranh các tỉnh: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá và nối liền với hành lang biên giới - đường 1C. Địa hình Chương Thiện phần lớn là ruộng chen lẫn vườn dọc theo kênh. Sông rạch đã chia cắt địa hình Chương Thiện thành nhiều khu vực. Ta đứng chân được ở Chương Thiện có nghĩa là làm chủ được địa bàn cơ động của cả miền Tây Nam Bộ gắn liền với Nam Bộ và Campuchia. Chính vì vị trí quan trọng của Chương Thiện nên trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ta và địch tranh chấp quyết liệt địa bàn này. Ngay từ giữa năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tổ chức ra khu tập trung ấp chiến lược điển hình nhất ở Nam Bộ mà chúng gọi là "Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu", đồng thời tổ chức "Biệt khu U Minh" đóng tại Vị Thanh. Diệm - Nhu cho rằng địa bàn này "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ". Còn Nguyễn Văn Thiệu thì cho rằng "Sống là đây mà chết cũng là đây!". Thị xã Vị Thanh luôn luôn là căn cứ của một trung đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn. Bây giờ, địch chọn Chương Thiện còn có một lý do phụ khác là chúng quyết lấn chiếm lại vùng này vì ta mới "mở" trước khi có Hiệp định Paris.

Tôi nhớ lúc đó có ông già ở Hỏa Lựu đến tìm gặp Trung đoàn 1. Khi gặp tôi, ông nói: "Các chú không đánh thì nó không bao giờ chịu thi hành Hiệp định đâu. Các chú đánh đồn bốt nào, tui sẽ dẫn đường cho các chú".

Âm mưu của quân thù đã rõ. Lòng dân cũng đã rõ. Tôi nghiệm ra một điều là trong đấu tranh cách mạng, đánh giá đúng tình hình địch - ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định để từ đó đề ra đường lối, chủ trương phù hợp. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ta muốn thi hành, địch không chịu thi hành, ta phải đấu tranh bắt buộc chúng thi hành. Nhưng lúc này phải tính xem ta có thể bắt buộc chúng thi hành được không? Rút kinh nghiệm xương máu khi thi hành Hiệp định Geneva 1954, Mỹ - Diệm đã công khai tuyên bố không thừa nhận Hiệp định, chúng dùng súng đạn để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, thẳng tay tàn sát những người yêu nước, nhưng ta vẫn sử dụng biện pháp đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định nên đã bị tổn thất lớn. Tình hình này kéo dài suốt sáu năm trời. Vì vậy, khi tôi đề xuất ý kiến, Khu ủy đã hoàn toàn nhất trí chủ trương phải phát huy thắng lợi của Hiệp định Paris, huy động sức mạnh tổng hợp để trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định.

Ngày 28-1-1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Theo quy định, hai bên ngừng bắn tại chỗ, nhưng thực tế chiến tranh vẫn tiếp diễn trên khắp đồng bằng sông Cửu Long. Quân đoàn 4, Quân khu 4 địch tiếp tục nổ súng tiến công lấn chiếm, tiếp tục kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", tăng cường phản kích với mức độ đánh phá, càn quét ác liệt hơn trước. Tại vùng trọng điểm Chương Thiện, địch tổ chức lấn chiếm quyết liệt ở tây Vị Thanh và đông bắc Long Mỹ.

Đầu tháng 3-1973, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 xác định nhiệm vụ trung tâm của Quân khu là: Phá kế hoạch bình định, buộc địch phải thực hiện Hiệp định. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã điện xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục, về mặt quân sự xin ý kiến của Bộ Chỉ huy Miền; đồng thời quyết tâm đẩy mạnh phong trào tiến công và phân công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Paris; trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm và bình định Chương Thiện của chúng. Khi nhận được bức điện "Tất cả bộ đội lui về U Minh! R, Bộ Chỉ huy Miền" - Ký điện: Năm Ngà, tôi nói bức điện này sai quy tắc, người ký tên không ghi rõ chức vụ gì cả. Giờ cứ triển khai theo kế hoạch mà Khu ủy đã thông qua. Ta đã biết rõ địch, nay phải đề cao cảnh giác, kiên quyết không để mất đất, mất dân; đẩy mạnh binh vận làm tan rã địch; vừa tuyên truyền thắng lợi của Hiệp định, vừa củng cố và phát triển lực lượng, sẵn sàng đánh trả trong khuôn khổ Hiệp định cho phép nếu địch tấn công. Phải luôn chủ động đánh địch để bảo vệ Hiệp định. Chủ trương nghị quyết này đã được phổ biến cho các tỉnh và các ngành trong Quân khu.

Giữa tháng 3-1973, địch mở cuộc hành quân cấp quân đoàn với lực lượng 30 tiểu đoàn, tổ chức đội hình thành nhiều cánh, đồng loạt đánh vào tây nam Long Mỹ. Chúng dự kiến trong vòng bảy ngày lấn chiếm xong các mục tiêu quy định và hình thành tuyến ngăn chặn từ Ngang Dừa đến Vĩnh Chèo, bịt cửa U Minh, đẩy ta ra khỏi Chương Thiện. Các đơn vị của ta đã bố trí triển khai đánh địch từ xa đến gần, thực hiện chia cắt từng cánh quân địch.

Trung đoàn 10 ngăn chặn và đẩy lùi cánh quân địch tiến công ở Giao Đu. Trung đoàn 1 tiêu diệt một tiểu đoàn (thuộc Trung đoàn 16 Sư đoàn 9), chặn cánh quân lấn chiếm Lái Hiếu. Bộ đội địa phương, du kích và các cơ quan Quân khu chặn mũi địch lấn chiếm khu vực Khuông Ninh, Rọc Dứa. Quân địch chỉ đóng được đồn ở kênh thứ 13 nhưng bị đánh khựng lại, không thực hiện được tuyến ngăn chặn Ngang Dừa - Vĩnh Chèo. Pháo binh Quân khu bắn chìm ba tàu tên sông Cái Lớn, đặc công đánh chìm năm tàu tại bến Gò Quan. Bộ đội ta thực hiện áp sát các chi khu Long Mỹ, Ngang Dừa, Giồng Riềng làm công tác binh vận phân hóa quân chủ lực và bảo an địch. Các chị, các mẹ dùng xuồng ba lá chèo vào đồn bốt kêu gọi binh lính địch bỏ ngũ. Nhiều má vừa nhủ vừa chất vấn: "Hòa bình rồi, tụi bay lại đánh nhau là sao? Bộ không thích về đoàn tụ với vợ con ba má sao?"... Và khi lính rã ngũ thì các má, các chị chở họ về quê, liên tục mỗi ngày ta đã làm rã ngũ hàng trăm tên.

Ta đánh đến ngày 20 tháng 4 thì các cánh quân của địch bị chặn đứng. Chúng chỉ đóng được hai đồn ở Phụng Hiệp, hai đồn ở tây nam Long Mỹ và một số chốt dã ngoại.

Cuối tháng 4-1973, địch điều thêm lực lượng bảo an vào Chương Thiện, đưa tổng số lên tương đương 46 tiểu đoàn để tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, lấn chiếm. Song, khi chúng tôi đang tổ chức đánh địch quyết liệt, thì Bộ Chỉ huy Miền ra Chỉ thị (số 02) nêu phương châm "lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu thuẫn..." và chỉ thị Quân khu 9 rút hai trung đoàn về căn cứ U Minh để chỉnh huấn. Bộ Chỉ huy Miền còn hai lần điện (số 05 và 07) yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới và phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục, đồng thời, thông báo cho toàn miền. Lúc đó, dư luận chung cho rằng Tây Nam Bộ chúng tôi "xé" Hiệp định Paris.

Trước tình hình đó, anh Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy đã thống nhất với tôi, một mặt quyết đánh ghìm giữ địch ở Chương Thiện, không rút trung đoàn ở tuyến trước về; đồng thời triệu tập ngay cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các tỉnh đội từ phía nam sông Hậu, thông báo và lệnh cho các tỉnh tiếp tục thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, chờ lệnh mới. Tôi và anh Kiệt chủ trì phiên họp hỏa tốc với các tỉnh thông báo tình hình, nêu rõ chủ trương của Ban Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu. Hội nghị nhất trí cao hai nội dung:

- Một là, mệnh lệnh trên hết lúc này trong toàn Quân khu là kiên quyết phá bằng được âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của Mỹ - Thiệu, không được để mất đất, mất dân, không có bất cứ mệnh lệnh nào cao hơn.

- Hai là, Khu ủy và Quân khu chịu trách nhiệm trước cấp trên; các tỉnh phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Quân khu và tư lệnh chiến trường.

Sau hội nghị, anh Kiệt xúc động nói với tôi: trong tình hình nước sôi lửa bỏng mà ý kiến trên dưới lại thống nhất cao và nhanh như vậy, chứng tỏ cán bộ của các địa phương sâu sát với hơi thở cuộc sống ở chiến trường, đặc biệt họ có ý chí và lòng tin tuyệt đối với chỉ huy Quân khu.

Cuối tháng 5-1973, trên Miền có Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh chính trị và binh vận. Đoàn cán bộ tổng kết của Trung ương và Trung ương Cục phê phán Khu 9 làm sai đường lối của trên và nhắc nhở các nơi khác thực hiện "năm cấm" (cấm bao vây đồn bốt, cấm "gỡ" đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp, xã chiến đấu). Cùng thời gian đó, đoàn đại biểu binh vận và thanh niên của Khu 9 đi R (Miền) dự hội nghị tiếp thu chủ trương của trên, Trung ương Cục cho phép về thẳng cơ sở phổ biến (không cần thông qua Ban Thường vụ Khu ủy), cho rằng, hiện tại lấy đấu tranh chính trị, binh vận làm gốc, nơi nào tiến công quân sự là sai lầm. Anh Trung, Khu ủy viên phụ trách công tác binh vận vừa đi họp trên Miền về nói với tôi:

- Trên R, có người đề nghị đưa anh ra tòa, vì anh không chấp hành Hiệp định.

Tôi tin tưởng rằng anh Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục và Bộ Chính trị sớm muộn cũng nhận định được tình hình, sẽ xử lý đúng, nên trả lời anh Trung:

- Được, anh cứ yên tâm đi! Nhưng anh không được nói với ai chuyện này. Tôi phải đánh đã. Nếu thua thì tôi ra tòa luôn một thể. Chủ trương này là của Khu ủy, anh cũng phải chấp hành!

Đến ngày 30-8-1973, tức là hết thời hạn đợt 2 lấn chiếm bình định U Minh, quân địch vẫn không chiếm được Chương Thiện, chưa đánh phá được U Minh. Vùng giải phóng căn cứ U Minh của ta vẫn ổn định. Cục diện chiến trường chưa hề thay đổi theo ý đồ của chúng.

Bước hai của địch từ tháng 6 đến tháng 10-1973 là chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu của bước một, vì đợt 1 chúng chưa thực hiện được việc bình định lấn chiếm Chương Thiện. Một lần nữa, tháng 10-1973, địch vẫn không thực hiện được kế hoạch. Địch cay cú tập trung lực lượng đến 75 tiểu đoàn, chuẩn bị cuộc hành quân (tháng 11) đánh vào Chương Thiện. Cách đánh của chúng là dùng bom, pháo đánh ác liệt để dọn bãi cho trực thăng đổ cấp tập hàng nghìn quân xuống một lúc, càn quét, cày ủi địa hình kìm giữ dân, tiến hành đóng đồn bốt, kết hợp với các điểm dã ngoại, lấy đó làm điểm, làm bàn đạp để lấn chiếm loang dần ra.

Tháng 6-1973, địch đánh giá việc lấn chiếm Chương Thiện không phát triển được, nên tăng thêm 7 tiểu đoàn bảo an của các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, nâng tổng số đơn vị cấp tiểu đoàn lên đến 68 tiểu đoàn vào khu vực Chương Thiện. Các đơn vị trong Quân khu liên tục chiến đấu, diệt nhiều tiểu đội, trung đội địch. Tuy nhiên, đến ngày 30-8-1973, địch lấn chiếm được vùng Ba Hồ và tuyến sông Cái Bé, đồng thời đóng đồn ở vùng tuyến sông Cái Lớn, ngăn chặn đường hành lang vận chuyển thủy của ta từ U Minh lên phía trước. Tình hình đó gây cho ta nhiều khó khăn, các đơn vị phải hành quân mang vác bộ, đi vòng qua nhiều đồn bốt.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #25 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:48:39 am »

Tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 215 phân tích toàn diện tình hình và ra Nghị quyết về "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới". Nghị quyết xác định: "Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén, đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt của ta,... làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta"6. Hội nghị nhấn mạnh: "cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn"7.

Trung tuần tháng 8-1973, Khu ủy họp hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương. Hội nghị nhất trí với Trung ương về đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cuối tháng 8-1973, Quân khu triển khai học tập tinh thần, nội dung Hội nghị lần thứ 21 đến cấp trung đoàn và các cơ quan quân khu. Cán bộ rất phấn khởi vì thấy từ đây trên dưới nhất trí trong đánh giá tình hình và có phương hướng đúng đắn với cuộc cách mạng ở miền Nam. Các quân khu bạn được lệnh phản công. Ở Quân khu 9, một tình thế mới xuất hiện: địch yếu đi ta tiến công liên tục, không còn tình cảnh bị động đối phó như trước nhà.

Ngày 3-9-1973, tôi viết báo cáo gửi Bộ Tư lệnh Miền và Trung ương về tình hình của Quân khu trong tám tháng kể từ sau khi có Hiệp định Paris. Đánh giá tình hình chung, ở Quân khu 9, đồng bằng sông Cửu Long nói chung và có thể ở cả miền Nam, hoàn toàn không phải là xung đột vũ trang từng vụ, từng nơi. Địch cố tình gây căng thẳng để củng cố lực lượng, thực hiện âm mưu xóa bỏ từng phần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thành quả của cách mạng miền Nam. Để thực hiện âm mưu cơ bản đó, địch đã thực sự duy trì tình trạng chiến tranh, thực hiện chương trình bình định trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Đem so sánh trạng thái chiến tranh đang diễn ra với thời kỳ "Chiến tranh cục bộ" thì thấp hơn nhiều, song so với thời kỳ "Chiến tranh đặc biệt" thì cường độ, chiều sâu, bề rộng và tính chất ác liệt hơn nhiều. Thế nhưng quân địch không đủ khả năng mở rộng chiến tranh đồng thời ra khắp nơi, nên chúng thực hiện hòa hoãn ở nơi này, tập trung khả năng đánh nơi khác. Cuối cùng, nếu hàng làm được thì sẽ không từ bỏ nơi nào cả. Chúng sẽ không thi hành Hiệp định. Cứ như vậy thì chiến tranh sẽ kéo dài trong tình hình bất lợi cho ta, địch sẽ làm chủ được vùng nông thôn. Nếu xảy ra như vậy thì ta phải mở lại một cuộc tiến công chiến lược như năm 1972, tổn thất xương máu sẽ nhiều hơn, mà cách mạng sẽ dẫm chân tại chỗ một lần nữa, tình hình sẽ phức tạp hơn hồi năm 1968-1970. Nhận thức tình hình như vậy, tôi đề nghị lên trên:

1. Tình hình trước mắt vẫn có chiến tranh trong điều kiện có Hiệp định hòa bình. Nội dung chủ yếu của chiến tranh mà địch tiến hành là bình định lấn chiếm, giành dân, giành đất, đánh phá lực lượng cách mạng, củng cố, xây dựng lực lượng phản cách mạng.

2. Hiện ở hầu hết vùng đồng bằng sông Cửu Long, địch đang dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, bằng biện pháp phát xít chiến tranh để đánh vào dân, kìm kẹp dân. Như thế sẽ khó thực hiện phương thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, quân sự đánh có mức độ. Do đó, đề nghị phương châm chiến lược trước mắt ở chiến trường miền Nam là quân sự, chính trị kết hợp với pháp lý của Hiệp định. Đến khi nào địch chịu ngừng bắn về cơ bản thì sẽ thay đổi phương châm. Về phương châm hành động hằng ngày, đề nghị thêm chữ tiến công để đủ nội dung tư tưởng cách mạng tiến công. Tiến công địch để giành dân, giành quyền làm chủ; giành dân, giành quyền làm chủ để tiến công địch. Ở đồng bằng sông Cửu Long thêm hai chữ "giành đất".

3. Về hướng tiến công, đề nghị hướng tiến công chủ yếu là vùng tranh chấp đông dân, nhiều của, kết hợp với thọc sâu chuyển biến vùng kìm kẹp, kết hợp với giữ vững củng cố, xây dựng vùng giải phóng.

4. Về phương thức tiến công, đề nghị đánh nhỏ, đánh vừa, đánh để giành dân, lấn đất, chưa cần đánh nổi cộm, chưa cần mở chiến dịch tập trung nổi cộm, đồng thời chuẩn bị những chiến dịch lớn, những đợt tiến công lớn để khi cần thì tiến hành đánh thật đau.

5. Về đối tượng tiến công của ba thứ quân (gồm cả chủ lực cấp trên) là đánh thẳng vào quân kìm kẹp địa phương của địch, đánh thẳng vào cơ sở hạ tầng của địch, kết hợp với đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn chủ lực, các đầu não chỉ huy và các kho dự trữ của địch đang trực tiếp hành quân. Đề nghị bố trí các binh chủng nặng như pháo binh, xe tăng..., các đơn vị bộ binh dự bị ở trong vùng giải phóng, các trung đoàn và sư đoàn bộ binh đều chuyển ra vùng tranh chấp, vùng đông dân, thực hành kết hợp tác chiến, huấn luyện và binh vận, sản xuất cải tạo địa hình.

6. Về công tác binh vận, đề nghị lấy đánh vận động làm tan rã liên tục, làm cho thành phần binh sĩ địch liên tục không ổn định làm nội dung chủ yếu, kết hợp với kiên trì xây dựng cơ sở cách mạng trong quân đội địch để làm nòng cất cho binh biến khởi nghĩa trong tương lai.

7. Về lực tượng chính trị, đấu tranh chính trị trước mắt là đấu tranh bung về ruộng vườn, đấu tranh để chống bắt lính, đấu tranh chống vơ vét cướp bóc, đấu tranh để làm tan rã binh lính địch và thường xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang đấu tranh để giành và giữ quyền làm chủ. Trên cơ sở đó, xây dựng, củng cố từng bước lực lượng chính trị, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và tiến hành vũ trang khởi nghĩa.

Những đề nghị trên đây cũng là nội dung chỉ đạo của Quân khu 9 trong phạm vi địa phương mình từ sau ngày 28-1-1973.

Đầu tháng 9-1978, địch vẫn tiếp tục kế hoạch bình định lấn chiếm. Lần này, chúng chỉ yêu cầu lấn chiếm Chương Thiện và phong tỏa U Minh. Trước hết là hòa hoãn với khu vực mới lấn chiếm ở vùng Ba Hồ, đồng thời mở mũi lấn chiếm xuống tây nam Long Mỹ. Cùng lúc, địch đề ra kế hoạch cướp lúa. Hai kế hoạch này chồng lên nhau, chúng gọi là "Kế hoạch Trần Khánh Dư". Về bố trí sử dụng lực lượng, địch vẫn duy trì Sư đoàn bộ binh 7 ở khu vực Tiền Giang, chủ yếu yểm trợ lấn chiếm Vùng 4 Kiến Tường, Sư đoàn 9 yểm trợ cướp lúa ở Bạc Liêu và Sóc Trăng, Sư đoàn 21 chịu trách nhiệm các tỉnh Chương Thiện, Rạch Giá và Cà Mau. Ở các vùng kìm và đô thị, chúng phát động chiến dịch gọi là "quét lá rừng" nhằm đánh phá cơ sở cách mạng và bắt lính.

Trên cơ sở nắm được ý đồ và kế hoạch của địch, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết tâm đánh bại kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của chúng. Về phương thức hoạt động, Quân khu chủ trương: chống lấn chiếm kết hợp với chống cướp lúa, kiên định nguyên tắc bám trụ vững chắc kết hợp cơ động tiến công. Địa bàn trọng điểm của Quân khu vẫn là vùng ruột Hậu Giang (Chương Thiện). Các tỉnh phải hình thành cho được kế hoạch tiếp công rộng khắp, căng kìm địch không để cho chúng dồn lực lượng về trọng điểm của Quân khu.

Trung tuần tháng 9, các trung đoàn đang tổ chức chỉnh huấn cho cán bộ trung, sơ cấp thì được tin địch hành quân lấn chiếm tây nam Long Mỹ và phong tỏa U Minh, thời gian có thể từ ngày 12 đến 15 tháng 9. Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở đợt tiến công địch. Đợt hoạt động bắt đầu từ đoàn 10 tiến công đồn Chùa Miên và Xeo Chích (sát tây Chi khu Ngã Năm). Hai ngày sau, địch đưa hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 và một chi đoàn thiết giáp đến giải tỏa. Cùng lúc, bộ đội địa phương huyện Thạnh Trị và du kích xã hoạt động mạnh ở vùng Mỹ Quới bao vây các đồn Láng Sơn, Mỹ Tho thuộc quân bảo an của Chi khu Ngã Năm đi giải tỏa. Tin tức các địa phương liên tiếp báo cáo về: từ ngày 10 đến 13 tháng 9, Tiểu đoàn 2 bộ đội địa phương tỉnh Sóc Trăng tiến công căn cứ số 1, đánh Tiểu đoàn bảo an 428 đi cứu viện suốt mấy ngày liền; sau đó, gài thế đánh một trận phục kích, làm thiệt hại nặng Tiểu đoàn bảo an 428, buộc chúng phải băng đồng tháo chạy,... Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 địch phải đổ quân đối phó.

Cùng thời gian trên, chúng tôi lệnh cho Trung đoàn 1 tiến công mạnh khu vực Lái Hiếu và cho một bộ phận thọc sâu, lấn sát thị xã Vị Thanh, buộc địch phải đưa một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 21 và một chi đoàn xe M113 lên chi viện cho Vị Thanh. Ở khu vực Giồng Riềng, do tác động của Trung đoàn 20, địch phải đưa Trung đoàn 31 Sư đoàn 21 và chi đoàn xe M113 đến giải tỏa. Các tỉnh trong quân khu đều tiến công căng kìm địch, làm cho kế hoạch lấn chiếm và cướp lúa của địch bị phá vỡ, chúng phải phân tán lực lượng đối phó với ta khắp nơi.


-----------------------------------------------------------------
5. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) được tiến hành trong hai đợt: đợt I từ ngày 19 tháng 6 đến 6-7-1973 và đợt II từ ngày 1 đến 4-10-1973.

6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2004, t. 34, tr. 236. 237.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #26 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:49:33 am »

Tháng 10-1973, địch lại chuẩn bị hành quân ở tây nam Long Mỹ, đồng thời có một cánh quân đánh vào U Minh ở khu vực nam sông Cái Lớn. Chúng tập trung đến các tuyến xuất phát hành quân như Hỏa Lựu, Gò Quao, Long Mỹ. Riêng tại Chi khu Gò Quao có đến bốn sở chỉ huy cấp trung đoàn.

Ngày 6-10-1973, địch chưa kịp hành quân thì Quân khu tập trung pháo đánh mạnh vào Chi khu Gò Quao, cả bốn sở chỉ huy đóng ở đây đều bị thiệt hại nặng, hư một tàu tại bến. Đêm sau, ta sử dụng đặc công đánh bồi làm chìm năm tàu nữa. Địch phải giải quyết hậu quả, đưa số còn sống sót và binh lính bị thương về Vị Thanh.

Trung đoàn 10 ở tây nam Long Mỹ tiến công diệt bốn đồn ở xã Vĩnh Thuận Đông (sát chi khu), đồng thời pháo kích, uy hiếp mạnh trung tâm hành quân ở Chi khu Long Mỹ. Địch vội vã điều Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 đang đối phó với ta ở Sóc Trăng về giữ Chi khu Long Mỹ. Trung đoàn 20 kìm chân địch ở tuyến sông Cái Bè, đánh bốn trận, tập kích liên tục vào Trung đoàn 9 thiết giáp, diệt bốn chi đoàn xe M113 và đánh thiệt hại nặng hai chi đoàn khác (phá hủy 22 xe M113).

Một lần nữa, trong tháng 10-1973, địch vẫn không thể thực hiện được kế hoạch. Đầu tháng 11-1973, địch điều thêm lực lượng hải quân Trần Hưng Đạo số 44, từ căn cứ Cát Lái (Sài Gòn) tăng cường cho hải quân Vùng 4 chiến thuật; rút thêm nhiều tiểu đoàn bảo an ở các tỉnh Bến Tre, Gò Công, An Giang, Châu Đốc, nâng tổng số tiểu đoàn ở khu vực Chương Thiện lên đến 75 tiểu đoàn (75 tiểu đoàn và tương đương, kể cả các tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, giang đoàn,...) chuẩn bị cho cuộc hành quân tháng 11 đánh vào Chương Thiện. Ngoài ra, địch còn tăng thêm dự trữ đạn pháo vào U Minh, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Quân khu 9 phải đương đầu với thử thách mới hết sức nặng nề và quyết liệt.

Ngày 6-11-1973, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy họp, chủ trương: phát huy thế chủ động và tư tưởng tiến công, kiên quyết bẻ gãy cuộc hành quân tháng 11 của địch, bảo vệ căn cứ, đồng thời tích cực chuẩn bị kế hoạch để chuyển sang tiến công trong mùa khô tới...

Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh, các lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã anh dũng chiến đấu. Điển hình là Trung đoàn 1, bộ đội ta đứng chân trên hai bờ kênh, hai bên là đồng trống, 1.000 quân đấu với trên 1 vạn quân địch cộng với phi pháo, tàu thuyền, chất độc hóa học tăng cường. Lúc đó, tôi nói: Bom đạn ác liệt thế này, chết là chuyện thường, sống mới kỳ! Về sau anh em cứ nhắc lại mãi câu này. Anh em đã dùng chiến thuật vận động là chủ yếu để đánh địch, kết hợp với quần chúng, các má, các chị làm binh vận, kêu gọi quân lính rã ngũ.

Khi địch dùng trực thăng đổ bộ cấp tập 15.000 quân xuống Ba Hồ (Giồng Riềng), Trung đoàn 20 chịu trách nhiệm hướng này, bị địch uy hiếp mạnh. Trung đoàn 20 đã tự rút lui, bỏ Ba Hồ, mặt trận này bỗng nhiên bị bỏ trống. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã khiển trách Ban Chỉ huy Trung đoàn 20, ra lệnh và hướng kế hoạch cho trung đoàn trở lại bám địa bàn Ba Hồ. Trung đoàn 20 chỉ rút ra có mấy ngày mà trở lại rất khó khăn, gian khổ, nhưng trung đoàn vẫn thực hiện đúng kế hoạch. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu ra lệnh cho tất cả lực lượng trên chiến trường toàn khu đẩy mạnh hoạt động, nhất là các cánh quân ở Lái Hiếu, nam - bắc sông Măng Thít thuộc Vĩnh - Trà, v.v. để hỗ trợ cho trọng điểm Chương Thiện nói chung, cho Trung đoàn 20 nói riêng.

Cuộc hành quân tháng 11-1973 của địch bị bẻ gãy hoàn toàn. Từ đây địch chấm dứt bình định lấn chiếm Chương Thiện.

Lực lượng vũ trang ba thứ quân trên địa bàn Quân khu 9 đều đánh giỏi, điển hình là Trung đoàn 1 do đồng chí Phạm Văn Trà chỉ huy. Trong suốt quá trình đánh địch bình định, 1.000 quân của Trung đoàn cùng với lực lượng địa phương đã quần nhau với hơn 1 vạn quân địch trong phạm vi 20km với những trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt, giành giật nhau từng khu vực, từng đoạn sông. Lúc đó đồng chí Sáu Bé, Bí thư Chi bộ xã Phương Phú đã ngày đêm có mặt ở sở chỉ huy của Trung đoàn để cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn lãnh đạo và tổ chức lực lượng ba thứ quân, thực hiện tiến công quân địch trên cả ba mũi quân sự, chính trị và binh vận, giành thắng lợi vẻ vang. Đồng chí Phạm Văn Trà sau đó được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nay là Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Pháo binh của Quân khu lúc đó do đồng chí Tư Niên chỉ huy cũng đánh rất giỏi. Anh em đã đánh tàu địch trên sông, đánh căn cứ, đồn bốt của địch và còn tổ chức phục kích, tập kích địch khi chúng hành quân dã ngoại. Còn bên chính trị có đồng chí Sáu Hoài, Chủ nhiệm chính trị, đồng chí Đoàn Cẩm Thính và đồng chí Ba Ròn - Phó Chủ nhiệm chính trị Quân khu, không chỉ giỏi công tác chính trị mà còn giỏi tổ chức cơ quan bám trụ đánh địch. Trong hoàn cảnh bảo đảm hậu cần rất khó khăn, nhưng ngành hậu cần Quân khu đã sáng tạo, dũng cảm và trách nhiệm, giải quyết tốt mọi việc, từ tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa từ miền Bắc đưa vào, đến việc thu mua và khai thác nguồn hậu cần tại chỗ, kể cả việc tổ chức tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dân, phương tiện và thuốc quân y, vũ khí quân giới..., mà đứng đầu ngành là các đồng chí Hai Nhường, Năm Đốm, Bảy Lúa, Ba Lò Rèn, v.v..

Đến đây, trên địa bàn Khu 9, kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của Nguyễn Văn Thiệu cơ bản đã bị phá sản.

Giữa tháng 11, chúng tôi nhận được điện của Trung ương gọi ra báo cáo. Khu ủy Khu 9 cử anh Võ Văn Kiệt đi. Sau đó, trên gọi tiếp tôi ra báo cáo.

Trước khi đi, tôi dặn các anh ở nhà quyết không lui mà chỉ có tiến lên, Trung đoàn 1 phải tiến lên quốc lộ 4 rồi đánh lên; Trung đoàn 20 cũng vậy, các đơn vị khác cũng vậy, cứ nhằm Ô Môn tiến lên. Sau này tôi mới biết, cũng chính lúc đó, ở trên R có người đề nghị Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền thi hành kỷ luật tôi vì "vi phạm Hiệp định, làm trái ý trên".

Nhận được điện của Trung ương gọi ra báo cáo, tôi đi thẳng ra miền Bắc. Lúc đi giữ bí mật tuyệt đối, tàu vào rạch đón rồi lặng lẽ đi luôn. Anh Võ Văn Kiệt giao lại công việc cho anh Vũ Đình Liệu (tức Tư Bình). Tôi giao nhiệm vụ chỉ huy Quân khu cho anh Lê Ngọc Hưng. Hai người đi hai thời điểm cách nhau một thời gian, đều rất bí mật. Anh Kiệt đi bằng đường bộ. Tôi đi bằng đường thủy bị trục trặc. Trước đó, vì những con tàu vỏ thép của đoàn tàu không số đã bị địch phát hiện, chúng săn và đánh dữ dội, ta tổn thất nhiều nên lần này các đồng chí đưa tôi vượt biển, nhưng đi bằng hai thuyền đánh cá bằng gỗ loại nhỏ đã cũ; chiếc chở tôi là tàu số 59 thuộc Đoàn 371 Quân khu 9 do đồng chí Nguyễn Văn Bảy làm trưởng tàu, đồng chí Nguyễn Hồng Nghi làm thông tin báo vụ, đồng chí Kỷ là thợ máy tàu. Mỗi thuyền chở năm người, do đồng chí Tư Mâu chỉ huy chung. Đồng chí Tư Mâu là người chuyên tổ chức vận chuyển vũ khí từ Bắc bằng tàu "đánh cá" vào Nam, sau này được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; khi chuyển ngành ra ngoài làm Thứ trưởng Bộ Hải sản.

Ngày 24-11-1973, các đồng chí lái tàu xin ý kiến tôi nên đi như thế nào. Tôi nói với các đồng chí đó về hướng đi. Đồng chí Mâu cho thuyền lặng lẽ nhổ neo. Đi được một chặng thì gặp gió to, nước tràn vào thuyền, thuyền bị thủng và chìm, những người trên thuyền phải dồn tất cả lên chiếc thuyền còn lại. Khi ra đến ngang Vũng Tàu thì quyết định tạt vào bờ cho một số người ở lại. Nhưng đến đây, lại xảy ra một chuyện phức tạp. Một chiến sĩ đào ngũ, tối đến không thấy về. Mọi người sốt ruột, trong khi gió vẫn rất to. Tôi quyết định cứ nhổ neo và đi. Ra ngoài khơi, gió mạnh đã thổi dạt thuyền của chúng tôi đến đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sau đó Hải quân Trung Quốc thông báo cho hải quân ta sang đón và đưa về cảng Hải Phòng. Chúng tôi đã vượt qua sóng to, gió lớn, vượt qua hiểm nguy, đi mất bảy ngày đêm.

Sau khi chúng tôi ra Bắc báo cáo, ở nhà, hai anh Tư Bình và Lê Ngọc Hưng đã cùng với Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 kiên định, quyết tâm phát huy những thắng lợi đã giành được, kiên quyết thực hiện phương án tiến công tổng hợp mùa khô, giữ vững quyền chủ động, dùng lực lượng phản công địch tại chỗ. Các bộ phận chủ yếu còn lại vẫn tiếp tục chuẩn bị tiến công, đồng thời đẩy mạnh tiến công quân địch ở vòng ngoài, giải phóng cơ bản các xã Đông Yên (An Biên), An Thạnh Nhì (Long Phú), mở lại hành lang sông Tiệm và diệt tám đồn ở Giồng Riềng, chặn đứng quân địch ở mũi tiến công nam Long Mỹ. Đến ngày 17-12-1973, Quân khu 9 mở đợt tiến công tổng hợp mùa khô. Tuy lực lượng chủ yếu của Quân khu tiến công ở vòng ngoài, nhưng ở trọng điểm ta vẫn giành được thắng lợi lớn.

Như vậy, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đã lãnh đạo quân và dân Quân khu 9 lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn địch, giữ vững địa bàn trọng điểm, tạo được thế và lực mới, xây dựng và củng cố lực lượng ta về mọi mặt, góp kinh nghiệm tốt cho các chiến trường bạn, làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền và Trung ương đánh giá đúng địch - ta, có chủ trương chỉ đạo đúng đắn, liên tục tiến công giành thắng lợi. Từ đó, Quân khu rút ra bài học là phải nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, quán triệt tư tưởng tiến công, không mơ hồ hữu khuynh, ảo tưởng hòa bình, kịp thời đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn, chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và của ta, xác định đúng phương châm, phương thức hoạt động chỉ đạo, chỉ huy cụ thể, có sự nhất trí cao giữa Khu ủy và Quân khu, giữa trên và dưới. Các lực lượng chính trị - vũ trang phối hợp hoạt động chặt chẽ, đánh bại kế hoạch lấn chiếm, "tràn ngập lãnh thổ" của địch, giữ vững vùng giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #27 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:52:02 am »

Chương 7

CHỈ HUY CHIẾN DỊCH CUỐI NĂM 1974, GIẢI PHÓNG TỈNH PHƯỚC LONG

 
Sau bảy ngày đêm vượt biển Đông từ Nam ra Bắc, về đến Hà Nội, tôi nghỉ ở nhà số 91 phố Lý Nam Đế. Mấy đồng chí cán bộ bên Tổng cục Chính trị và Cục Cán bộ ra thăm tôi. Anh Văn Tiến Dũng gặp tôi, câu đầu tiên anh hỏi:

- Có mệt không?

- Có mệt - Tôi cười và đáp.

- Cậu như con voi một ngà - Anh Dũng nói.

- Cũng chỉ còn một mắt bảy phần mười - Tôi nói.

- Về sức khỏe thì cậu cố gắng thêm. Cậu về nắm chắc tình hình và bàn với hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà để triển khai công việc. Công việc thì các anh đó biết cả rồi. Có thể sắp tới các anh ấy cũng ra họp... - Anh Dũng nắm chặt tay tôi nói.

Bên Trung ương làm bữa cơm, gọi tôi sang. Khi ăn có các anh Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Ăn xong, anh Thọ nói:

- Báo cáo tình hình xong, thì cậu về Miền ngay.

Anh Duẩn gặp riêng tôi, dặn:

- Về nói với anh Hùng, anh Trà, bàn trong nội bộ phải giải phóng nhanh nhất. Nếu để chậm thì nó lại hồn, nó củng cố sẽ rất khó. Anh nói hai lần: "Nó lại hồn, sẽ rất khó".

Rồi anh bảo tôi sang báo cáo tình hình với Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng.

Tôi sang chào Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Bác Tôn nói:

- Các chú giải phóng nhanh miền Nam để bác được về thăm đồng bào, chiến sĩ miền Nam, thăm quê Long Xuyên và thăm lại xưởng Ba Son.

Báo cáo xong, tôi chuẩn bị trở về Miền. Hôm sắp đi, anh Hoàng Văn Thái gặp và bảo:

- Cậu nói giúp, để các ông cho mình trở vào Miền.

- Chuyện của anh phải Bộ Chính trị quyết định, tôi làm sao nói được - Tôi trả lời anh.

Tôi đến chào anh Nguyễn Hữu Thọ, anh Thọ mời tôi ăn cơm. Sau đó anh Hoàng Văn Thái, rồi anh Võ Nguyên Giáp mời tôi đến ăn cơm. Tôi lần lượt đến chỗ hai anh ăn cơm.

Lúc sắp chia tay gia đình, con trai tôi là Lê Mạnh Hà nói:

- Ba ơi! Con muốn đi bộ đội, nối nghiệp ba.

- Tới đây đất nước hòa bình, xây dựng, sẽ cần nhiều cán bộ khoa học. Con nên đi vào một ngành khoa học, còn ngành nào thì tùy con chọn. Nhưng trước hết con phải phấn đấu trở thành người tốt, sống có lý tưởng và có ích cho xã hội - Tôi khuyên con.

Trở về miền Nam, tôi được anh Đồng Sỹ Nguyên - Tư lệnh Bộ đội 559 - tổ chức đi theo đường Đông Trường Sơn. Vào đến Đông Hà - Quảng Trị, gặp anh Trần Độ từ Miền ra, tôi hỏi:

- Anh ra thì ai thay?

Anh im lặng không nói gì, sau đó anh bảo:

- Sau khi có Hiệp định Paris, tình hình phức tạp quá. Khi anh Tố Hữu vào phổ biến thì tin ở Trung ương.

Tôi bảo:

- Tin ở Trung ương là đúng, nhưng phải phản ánh đúng thực tế chiến trường với Trung ương và phải kết hợp hai vấn đề đó lại.

Anh bảo giờ anh ra Bắc. Tôi bắt tay chào anh, thấy anh không vui, tôi cũng không hỏi vì sao anh ra.

Anh em giao liên đưa tôi đi, vào đến sát đồn Phú Túc của địch, đi theo sườn núi. Tôi thấy đường Đông Trường Sơn đã mở thông thoáng.

Vào tới Miền, không thấy ai nhắc chuyện tôi “ra tòa", mà ngày 16-4-1974, Chủ tịch nước ký quyết định thăng quân hàm cho tôi từ cấp Đại tá lên cấp Trung tướng. Ý của anh Trần Văn Trà là tôi làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền. Tôi bảo cứ để anh Nguyễn Minh Châu (tức Năm Ngà) làm Tham mưu trưởng, tôi làm Phó Tư lệnh và ý kiến của tôi được các anh chấp thuận. Lúc này, anh Phạm Hùng làm Bí thư Trung ương Cục, anh Trần Văn Trà làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền, anh Lê Văn Tưởng (tức Hai Tưởng) thay vị trí của anh Trần Độ làm Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy Miền.

Theo lời dặn của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng, tôi gặp và báo cáo với hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà. Anh Trà bảo:

- Nắm tình hình xong, căn cứ vào ý kiến chỉ đạo của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng, cậu làm kế hoạch đi. Sau khi Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền có ý kiến là triển khai luôn.

Anh Hùng cũng bảo tôi:

- Làm sớm đi.

Khi xây dựng kế hoạch tác chiến, tôi có bàn với hai anh Năm Ngà và Hai Tưởng; kế hoạch có ba nội dung:

Thứ nhất, xây dựng lực lượng ở các đô thị và vùng ven đô. Vì sau Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, lực lượng ta (cả đặc công và biệt động) bị tổn thất nặng và đã ra khỏi đô thị, giờ phải triển khai xây dựng trở lại để ém quân ở đô thị, hoạt động trong lòng đô thị.

Thứ hai, mở vùng giải phóng ra hướng Long An, kể cả vùng nam Long An như Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, Châu Thành, Tân Trụ, Chợ Gạo và Tiền Giang, tức là cả phía nam và phía bắc lộ 4. Kể từ Tây Ninh xuống Đức Hòa, Đức Huệ, nam - bắc lộ 4 thì khó nhất là mở hướng này. Nếu nói đến đồng bằng sông Cửu Long thì đây là hướng trọng điểm của kế hoạch đồng bằng. Ta mở vùng và đứng vững được ở đây thì sẽ ngăn chặn rất hiệu quả sự liên thông của địch từ Sài Gòn xuống miền Tây. Ngược lại, phía ta sẽ nối thông từ chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông với đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ ba, mở rộng đường hành lang Trường Sơn. Vì Trung ương đã mở thông đường Đông Trường Sơn rồi, nay ta phải thông nốt, nối liền từ miền Đông Nam Bộ tới đó, trọng điểm là hai trục đường 14 và 20. Còn hướng sông Lòng Tàu thì Đoàn 10 đã làm tốt, vả lại lúc đó hướng này chưa nổi cộm nên không đặt vấn đề là hướng chính.

Các đơn vị chủ lực của Miền bắt đầu huấn luyện và hoạt động tác chiến theo hướng mới. Nhưng thực trạng lúc này, bộ đội đánh tập kích thì được nhưng đánh công kiên lại chưa ổn. Điển hình là trận đánh đồn Rạch Bắp nằm trên lộ 7, ta dùng một trung đoàn bộ binh có xe tăng và lựu pháo đánh hai ngày liền mà không dứt được đồn. Tôi đề nghị với anh Trà cho bộ đội tập huấn lại. Nếu cứ đánh kiểu đội hình “đầu nhọn đuôi dài, bộc phá liên tục” để mở cửa mở thế trận phòng thủ của địch thì e không được, mà có được cũng thương vong lớn, hoặc tiến công theo đội hình xe tăng đi trước bộ binh theo sau, trong khi hỏa lực nói chung, hỏa lực chống tăng nói riêng của địch rất mạnh thì không thành công. Kế đó, tôi mời hai anh Bùi Cát Vũ và Lương Văn Nho trong Bộ Chỉ huy Đoàn 351 đến, hôm đó có cả anh Năm Ngà – Tham mưu trưởng Miền và anh Hoàng Cầm – Phó Tư lệnh Miền. Tôi bảo bây giờ ta hãy tập huấn cho bộ đội cách đánh cùng một lúc tiến hành mở hai cửa mở. Một cửa mở bằng lối dùng đặc công bí mật luồn sâu gỡ cắt hàng rào, một cửa dùng pháo binh bắn chế áp lô cốt và hỏa điểm của địch rồi dùng bộc phá phá hàng rào, pháo binh bắn yểm trợ cho bộ đội xung phong, mục tiêu là tiêu diệt chi khu quân sự của chúng và lấy Chi khu Đồng Xoài làm đối tượng thực tế để luyện tập. Hai anh đã về xây dựng sa bàn trên thực địa với đầy đủ các chi tiết và tập huấn cho cán bộ ở cả ba cấp: đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Cuộc tập huấn kỹ càng diễn ra suốt ba tháng tại Đồng Pan trong chiến khu Dương Minh Châu.

Nhờ có sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng từ sau Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tháng 5-1973, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (tháng 6-1973) và Quân ủy Trung ương (tháng 3-1974), cục diện chiến trường từ cuối năm 1973 và năm 1974 đã chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho ta. Ta đã chủ động đưa thế và lực cách mạng tiến lên từng bước vững chắc, bằng cách phản công và tiến công liên tục, giành thắng lợi ngày càng lớn với tốc độ nhanh trên tất cả các chiến trường từ Khu 9, Khu 8, Khu 7, Khu 6, Khu 5, Tây Nguyên đến Trị Thiên; trên tất cả các mặt trận từ đánh phá bình định, mở vùng giành dân ở đồng bằng, mở rộng căn cứ ở miền núi và vùng giáp ranh làm bàn đạp đến kéo dài thêm hành lang chiến lược từ miền Bắc vào tận miền Đông Nam Bộ,...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #28 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:54:04 am »

Đến giữa năm 1974, sau hơn một năm thi hành Hiệp định Paris, hình thái chiến trường miền Nam đã và đang diễn ra một cuộc chiến tranh cách mạng bằng cả quân sự và chính trị chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới do quân đội và chính quyền Sài Gòn tiến hành dưới sự chỉ huy của Mỹ. Lúc này, địch đang bị động và sa sút toàn diện1, tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi, đồng thời cũng có những diễn biến phức tạp.

Tháng 1974, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gợi ý và hướng dẫn Bộ Tổng Tham mưu khởi thảo kế hoạch đánh giá tình hình trong nước và quốc tế, nắm bắt thời cơ chiến lược, nhạy bén, kịp thời đề xuất chủ trương chuẩn bị và tiến hành giải phóng miền Nam.

Sau khi có Nghị quyết 21 của Trung ương ghi nhận thành quả của hơn một năm ta đẩy mạnh đấu tranh vũ trang hỗ trợ trực tiếp cho đấu tranh chính trị và binh vận, bắt quân địch phải thi hành Hiệp định và chặn đứng một cách cơ bản kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của chúng, thì thế và lực của ta được củng cố và phát triển một bước mới. Từ thế và lực mới này, chúng ta đã vạch ra kế hoạch tiến công mùa khô 1974-1975, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy. Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị, quân sự của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vào cuối năm 1974 sa sút nghiêm trọng. Để có "quả đấm chủ lực mạnh" cho cuộc tấn công và nổi dậy, ngày 20-7-1974, tại Hội nghị quân chính ở căn cứ Dương Minh Châu, đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục, công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4. Sự kiện này đánh dấu một bước trưởng thành mới của chủ lực Miền. Quân đoàn 4 gồm: hai sư đoàn bộ binh (7 và 9), Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn phòng không 71, Tiểu đoàn đặc công 429, Trung đoàn thông tin 69 và các cơ quan, đơn vị phục vụ, bảo đảm. Lúc đầu cử anh Hoàng Cầm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy. Sau này anh Hoàng Cầm làm Tư lệnh, anh Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, anh Bùi Cát Vũ làm Phó Tư lệnh, anh Hoàng Nghĩa Khánh làm Tham mưu trưởng.

Lực lượng của quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, du kích xã đều phát triển nhanh. Tháng 8-1974, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập ở mỗi quân khu (trừ Quân khu 6 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định) một sư đoàn nhẹ, tăng cường lực lượng binh chủng và tổ chức cơ quan chỉ huy sư đoàn do một đồng chí phó tư lệnh quân khu kiêm sư đoàn trưởng. Trước mùa khô 1974, Bộ Chỉ huy Miền trực tiếp nắm ba sư đoàn chủ lực: 5, 7, 9; các trung đoàn trực thuộc: 201, 205, 271, 16 và Đoàn 27 đặc công, Đoàn 316 biệt động thành và một số binh chủng. Toàn B2 chỉ có năm tiểu đoàn pháo binh xe kéo, trong đó có hai tiểu đoàn pháo 105 ly và 155 ly thu được của địch, đạn rất thiếu; ba tiểu đoàn tăng - thiết giáp và cả xe M113 và M41 thu được của địch cũng không đủ xe; công binh và thông tin thì càng thiếu và yếu hơn nữa. Vẻn vẹn chỉ có một tiểu đoàn công binh vượt sông không đủ khí tài, một tiểu đoàn công binh công trình, hai tiểu đoàn thông tin vô tuyến điện và một tiểu đoàn hữu tuyến điện. Trung đoàn 271 và 205 được ghép lại, thành lập Sư đoàn 3 thiếu, do đồng chí Đỗ Quang Hưng (tức Sáu Hưng) làm Sư đoàn trưởng. Hai sư đoàn 5 và 3, Trung đoàn 16, 201, Đoàn đặc công 17 và Đoàn 316 biệt động thành đều trực thuộc Bộ Chỉ huy Miền để sử dụng trên các hướng cần thiết. Một số tỉnh có trung đoàn, một số huyện có tiểu đoàn và hầu hết các xã đều có du kích. Các chiến trường khác ở miền Nam cũng có binh đoàn lớn cấp sư đoàn - quân đoàn. Vũ khí của ta cũng được tăng cường thêm. Chiến trường Nam Bộ đã có xe tăng T59, pháo 130 ly và một số khí tài hiện đại khác.

Việc thành lập Quân đoàn 4 ở B2 và các sư đoàn chủ lực cơ động cho các quân khu là một sự chuẩn bị lực lượng chủ lực của chiến trường để đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Cuối tháng 10-1974, Trung ương Cục nhận được điện của Bộ Chính trị gọi hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà ra Hà Nội họp. Trước khi đi, Trung ương Cục giao cho anh Võ Văn Kiệt thường trực bên Trung ương Cục và giao cho tôi thay vị trí chỉ huy của anh Trà. Khi bắt đầu triển khai kế hoạch tác chiến mùa khô thì Bộ Tư lệnh Miền có tôi và các anh Năm Ngà, Hai Tưởng, Hoàng Cầm.

Trong Bộ Tư lệnh Miền, mỗi người được phân công phụ trách một hướng, tôi, anh Hoàng Cầm và anh Bùi Cát Vũ lo mở hướng hành lang, Tham mưu trưởng Năm Ngà lo hướng đường 20, triển khai xong việc thì chuyển sang hướng Long An. Còn một vị trí, một hướng vô cùng quan trọng là hướng núi Bà Đen. Lực lượng giải quyết ở hướng này lấy trinh sát và lực lượng của Bộ Tham mưu Miền (gồm một số đơn vị trực thuộc) cộng với lực lượng dân quân du kích địa phương do anh Trần Văn Danh (tức Ba Trần) - Tham mưu phó chỉ huy. Núi Bà Đen là điểm cao thuộc tỉnh Tây Ninh, đứng giữa một bên là Long An - Đồng Tháp Mười, bên kia là Phước Long, tầm quan sát tới tận Sài Gòn và bao quát tới sông Tiền thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Quân ta thực hiện vừa nghi binh vừa đánh. Nhưng khi nổ súng giải quyết ở đây thì vẫn không quên đô thị là trọng điểm và việc xây dựng lực lượng biệt động thành, xây dựng và phát triển Trung đoàn Gia Định. Anh Võ Văn Kiệt, sau đó anh Nguyễn Văn Linh, chủ trì lo việc này. Khoảng tháng 12 bắt đầu thực hiện kế hoạch của các hướng.

Hướng Tây Ninh làm trước. Khi ta bao vây núi Bà Đen tiến đánh các đồn bốt và phá ấp chiến lược xung quanh thị xã Tây Ninh thì lập tức Sư đoàn 25 địch kéo lên. Như vậy, ta đã làm được việc nghi binh thu hút, căng kéo lực lượng chủ lực của chúng.

Phía Trung đoàn Gia Định đánh mấy đồn nhỏ để mở “lõm”, rồi đưa từng tiểu đội vào.

Riêng hướng mở hành lang, vì thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó, nên chủ trương của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đã vạch ra là "chủ lực của Miền, của Quân khu 7 và Quân khu 6 phải đánh mở rộng, hoàn chỉnh các vùng căn cứ chuẩn bị cho các hướng: bắc, tây bắc, đông và tây Sài Gòn, thực hiện bao vây, cô lập và ép Sài Gòn. Ngay từ đầu mùa khô phải giải phóng đường 14 từ Đồng Xoài lên giáp Quảng Đức để mở rộng căn cứ Miền về phía sau. Muốn giải phóng đường 14, ta phải diệt cho được mục tiêu chủ chốt là Đồng Xoài. Chúng tôi cũng tiên lượng được rằng, nếu quân ta diệt được mục tiêu này thì tỉnh lỵ Phước Long sẽ lập tức rơi vào tình trạng hoàn toàn bị cô lập. Khi có thời cơ và điều kiện thì ta giải phóng luôn toàn tỉnh Phước Long.

Ngành hậu cần của B2 giữ vững truyền thống làm tốt công tác chuẩn bị hậu cần, "lót ổ sẵn" hàng trăm, hàng nghìn tấn lương thực, vũ khí, đạn dược từ trước ở trong Sài Gòn và các địa bàn xung quanh Sài Gòn. Nhằm phục vụ cho chiến trường bước vào những trận đánh lớn quyết định, trong hai năm 1973, 1974, riêng ở miền Đông Nam Bộ ta mở 910km đường ôtô. Tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển trong năm 1974 tăng 30% so với năm 1973, B2 là chiến trường xa nhất dự trữ được 45.000 tấn vũ khí, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, đủ cung cấp cho 200.000 người hoạt động trong sáu tháng.

Đến đầu năm 1974, hệ thống đường ống dẫn xăng dầu đã từ miền Bắc vào tới Lộc Ninh. Sau chiến thắng Thượng Đức (tháng 8-1974) ở Quân khu 5, Bộ Tư lệnh 559 được giao nhiệm vụ gấp rút mở tuyến đường vào chiến trường Nam Bộ, ép dần xuống phía đông Trường Sơn.

Cuối năm 1974, các đơn vị thông tin của Miền cũng đã hoàn thành một số đường dây thông tin hữu tuyến điện quan trọng: một đường dây trần từ sở chỉ huy Miền ở Tà Thiết kéo đến ngã ba Lộc Tấn để nối thông với đường dây trần "Thống nhất" đang kéo từ Bộ Tổng Tham mưu vào; một đường dây trần, cột gỗ từ sở chỉ huy Miền đi Cà Tum, Đồng Pan nối với Trung ương Cục (Chàng Riệc - bắc Tây Ninh); một đường dây trần từ sở chỉ huy Miền đi Bà Chiêm - Võ Tùng, hậu cứ của Quân đoàn 4. Khả năng chỉ huy từ căn cứ Tà Thiết của Bộ Chỉ huy Miền được nâng lên một bước mới.

Để chuẩn bị cho mùa khô 1974-1975, ngay từ trong mùa mưa, hậu cần của Miền đã chuyển đến các quân khu, kể cả Sài Gòn, trên 3.000 tấn vũ khí, đạn dược, đã cấp phát đủ các cơ số đạn và lương thực cần thiết cho chiến đấu và dự trữ thường xuyên cho các đơn vị. Đồng thời, tích trữ tại các khu vực sẽ diễn ra các trận chiến đấu mùa khô, chủ yếu ở miền Đông Nam Bộ, gần 3 vạn tấn vật chất, trong đó có gần 8.000 tấn đạn dược và 1.500 tấn xăng dầu. Điều đáng nói ở đây là hậu cần B2 đã cố gắng tạo ra lượng vật chất, phương tiện tại chỗ tất cả những gì có thể tạo ra được. Thực hiện đúng mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Miền, ngành hậu cần đã bảo đảm lượng dự trữ thường xuyên từ bốn đến sáu tháng lương thực, thuốc và dụng cụ quân y; ba đến sáu tháng xăng dầu và bắt buộc phải có một năm vũ khí, đạn dược. Làm được như vậy ở một chiến trường trọng điểm ác liệt, xa Trung ương và hậu phương miền Bắc là một chiến công lớn. Đó là công sức, trí tuệ của các anh Tư Võ, Mười Thiện, Bùi Phùng, Mười Vị, Sáu thịnh,... và biết bao cán bộ, chiến sĩ ngành hậu cần của chiến trường B2.

Trong việc bảo đảm hậu cần có một trong những ngành thường xuyên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là ngành quân y. Đội ngũ nhân viên quân y Miền với trách nhiệm cao, y đức tốt, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đã làm cho cán bộ, chiến sĩ trên các mặt trận yên tâm chiến đấu, khi bị thương hoặc bị bệnh, được cứu chữa kịp thời, được chăm sóc tận tình, chu đáo. Có thể nói đứng đầu ngành quân y của Miền những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ là bác sĩ Nguyễn Thiện Thành. Anh Thành vừa làm Chủ nhiệm quân y Miền, vừa kiêm Giám đốc bệnh viện của Bộ Chỉ huy Miền, đức độ và tài năng của anh được toàn ngành tín nhiệm. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, gian khổ, thiếu thốn, anh vừa chăm lo chỉ đạo việc cứu chữa, chăm sóc bệnh nhân, chăm lo sức khỏe cho Bộ Chỉ huy Miền, vừa chỉ đạo việc chiến đấu bảo vệ hệ thống các bệnh xá, đội điều trị, bệnh viện, lại vừa chăm lo việc bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quân y cho toàn chiến trường.


-----------------------------------------------------------------
1. Các kế hoạch bình định, lấn chiếm của địch đều bị phá sản. Tổng quân số định giảm 17 vạn tên đào, rã ngũ, chủ lực từ 70 vạn giảm xuống còn 60 vạn, phòng vệ dân sự từ 1,5 triệu giảm còn 1 triệu máy bay còn hơn 80%, pháo bắn hằng ngày giảm trung bình 60%. Về phía ta, Khu 9, xóa hẳn 2.000 đồn bốt địch, giải phóng hơn 400 ấp với gần 80 vạn dân; Khu 8, xóa hẳn hơn 800 đồn bốt giải phóng 200 ấp với hơn 13 vạn dân; Khu 5, xóa hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 20 vạn dân; các mặt trận khác đều duy trì thế tiến công địch…
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #29 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2020, 07:56:00 am »

Ngày 13-11-1974, hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà lên đường ra Bắc họp, các lực lượng B2 cũng nhộn nhịp lên đường hành quân tới các vị trí tập kết, bước vào chiến đấu theo kế hoạch, trước tiên là tổ chức đánh Đồng Xoài, vì Đồng Xoài là vị trí then chốt của tỉnh Phước Long cũng như của tuyến đường 14.

Tỉnh Phước Long cách Sài Gòn hơn 100km về hướng tây bắc. Đường 14 chạy trên địa phận Phước Long hơn 100km về hướng đông và nối với vùng nam Tây Nguyên. Đây là con đường chiến lược quan trọng. Chúng tôi cho nắm chắc lại việc bố trí của địch trên địa bàn Phước Long. Vào những tháng cuối năm 1974, các sư đoàn chủ lực của Quân đoàn 3 địch bị căng ra và cầm chân ở các khu vực: đường 7 (Tây Bến Cát), Tây Ninh, Tân Uyên - đường 16, Hoài Đức - Tánh Linh nên chúng chỉ đưa được hai đại đội thám sát của Sư đoàn 5 và Sư đoàn 18 lên tăng cường giữ đường 14 - Phước Long.

Lực lượng tại chỗ của Tiểu khu Phước Long gồm có tiểu đoàn bảo an, khoảng 60 trung đội dân vệ, một chi đội xe M113 (ba chiếc), hai đại đội cảnh sát quốc gia và cảnh sát dã chiến, 10 trung đội pháo (155 ly và l0 ly), ngoài ra còn lực lượng phòng vệ dân sự, tề điệp, thanh niên chiến đấu và một số nhân viên chính quyền địch có vũ khí.

Bố trí phòng ngự của địch ở Phước Long hình thành ba khu vực sau:

- Khu vực 1 gồm toàn bộ đường 14 (từ Đồng Xoài đến Bù Đăng). Khu vực này có hai chi khu (Đồng Xoài và Bù Đăng), một yếu khu (Bù Na) cùng trên 50 đồn bốt nhỏ và căn cứ cấp tiểu đoàn. Lực lượng bảo an gồm Tiểu đoàn 341 ở Bù Đăng. Mặc dù địch tập trung gần hết lực lượng bảo an cơ động (ba trong số bốn tiểu đoàn) vào khu vực này, nhưng đường 14 vẫn rất sơ hở vì số quân quá ít so với chiều dài đoạn đường 100 km.

- Khu vực 2 là lộ 311 (nối đường 14 với thị xã Phước Long), có một chi khu Bù Đốp và một số đồn bốt nhỏ của dân vệ. Lực lượng bảo an có một đại đội thuộc Tiểu đoàn 341 ở Đức Bốn (nam Chi khu Bù Đốp).

- Khu vực 3 là tam giác Phước Bình - núi Bà Rá - thị xã Phước Long. Khu vực này có một chi khu (Phước Bình), một tiểu khu (Phước Long) với nhiều căn cứ quân sự quan trọng như sân bay Phước Bình, kho tàng, trận địa pháo, các cơ quan quân sự và chính quyền tỉnh. Ngoài ra, có nhiều đồn bốt nhỏ bố trí xen kẽ và thành nhiều tầng. Lực lượng địch gồm Tiểu đoàn 340, bốn trung đội pháo, hai đại đội cảnh sát, một chi đội M113, ngoài ra còn nhiều phòng vệ dân sự, thanh niên chiến đấu, v.v..

Tôi giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 7 (do anh Lê Nam Phong làm Sư đoàn trưởng), anh Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ đạo đánh Đồng Xoài và đánh viện binh. Phương án là dùng cách đánh đặc công bí mật gỡ mìn, cắt hàng rào và luồn bộc phá ống vào để phá vật cản mở cửa mở cho một hướng tiến công. Còn một hướng khác thì dùng hai khẩu pháo 85 ly bắn chế áp lô cốt và hỏa điểm đầu cầu của địch để cho bộ binh mở cửa mở xung phong. Đây là lối đánh mới mà Bộ Chỉ huy Miền đã giao cho anh Bùi Cát Vũ tổ chức tập huấn cho cán bộ các cấp (từ trung đoàn đến đại đội) những tháng trước đó. Khi bộ đội đang gỡ hàng rào kẽm gai của địch thì chúng tôi nhận được điện từ Trung ương vào yêu cầu không đánh Đồng Xoài, đặc biệt không dùng pháo lớn, và chỉ tác chiến quy mô cấp đại đội, không đánh chi khu, chỉ đánh đồn cấp đại đội trở xuống. Trong cán bộ có nhiều đồng chí thắc mắc là tại sao cấp trên lại không cho đánh, hơn nữa, cấp bộ mà lại chỉ đạo quá cụ thể. Trong thâm tâm tôi hiểu nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của sự việc này, nhưng không thể nói hết ra để giải thích cho anh em được.

Khi nhận được lệnh của trên không cho đánh Đồng Xoài, tôi bảo anh em mở xong hàng rào thì cài lại, đánh dấu để đó, giữ nguyên lực lượng lui ra bao vây. Chúng tôi sử dụng Trung đoàn 271 thuộc Sư đoàn 3 do anh Sáu Hưng chỉ huy, có anh Hoàng Cầm kiểm tra đôn đốc phía sau, tăng cường cho hướng tiến công chủ yếu này hai khẩu pháo 85 ly và 2.000 viên đạn để đánh vào Bù Đăng. Tôi nói với anh em, sau khi đánh được Bù Đăng rồi thì chúng ta sẽ đánh Đồng Xoài là chưa điện ra Bắc thông báo là đánh chi khu. Và tôi điện cho anh Trà biết quyết định điều chỉnh kế hoạch, thay đổi việc chọn mục tiêu đánh trận mở màn cho mùa khô này.

Bộ Tư lệnh Miền phân công mỗi người bám sát và chỉ đạo một hướng: anh Bùi Cát Vũ ở hướng Đồng Xoài, anh Hoàng Cầm ở hướng Sư đoàn 3, anh Năm Ngà ở hướng Khu 6. Tôi và anh Hai Tưởng ở Sở Chỉ huy trung tâm (lúc đó ở Tà Thiết) chỉ đạo toàn chiến trường B2 mà trọng điểm là miền Đông, trong đó trọng yếu là Tây Ninh - núi Bà Đen.

Vị trí Bù Đăng đứng trên một địa hình rừng núi hiểm trở, gồm ba cụm mục tiêu chủ yếu: chi khu quân sự, căn cứ Vĩnh Thiện, khu hành chính và Tiểu đoàn 362 bảo an cùng lực lượng dân vệ đóng giữ. Sáng ngày 14-12-1974, lực lượng của Sư đoàn 3 bắt đầu nổ súng tiến công Bù Đăng. Trung đoàn 271 tiến công trên hướng chủ yếu, đánh vào chi khu quân sự, đến 8 giờ 40 phút đã chiếm được chi khu và khu hành chính. Trung đoàn 201 tiến công trên hướng thứ yếu, 8 giờ đã làm chủ căn cứ Vĩnh Thiện. Cùng lúc, lực lượng vũ trang địa phương tiến công quét sạch các đồn và chốt dân vệ ở xung quanh chi khu. Bộ đội ta thừa thắng truy kích tàn binh địch và lần lượt chiếm các vị trí của chúng ở ngã ba Km 10, Km 48 và cầu 38 trên đường 14.

Trên hướng Bù Na, ta tổ chức vây ép khu này. Tiểu đoàn 363 bảo an địch đóng giữ ở đây thấy Đồng Xoài đang bị bao vây, Bù Đăng bị ta chiếm và lộ 14 bị ta cắt đứt ở Km 19 nên đêm 15 tháng 12 rút chạy về Phú Riềng. Ta thu được hai khẩu pháo 105 ly và nhiều đạn pháo. Quân ta truy kích, diệt và làm tan rã gần hết tiểu đoàn này, đồng thời diệt bảy đồn địch từ Bù Na đến Liễu Đức. Chốt địch ở cầu 11 bị Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 209 vây ép, ngày 16 tháng 12 cũng bỏ chạy về Đồng Xoài. Chúng tôi quyết định nhanh chóng chuyển cuộc tiến công sang đợt hai, tiêu diệt hai chi khu Bù Đốp và Đồng Xoài.

Rạng sáng ngày 23 tháng 12, Trung đoàn 165 do Trung đoàn trưởng Trần Quang Triệu và Chính ủy Nguyễn Can chỉ huy, cùng lực lượng được tăng cường, nổ súng tiến công Chi khu Bù Đốp. Đánh đến chiều thì ta làm chủ Bù Đốp rồi phát triển về hướng tây, bức rút hai đồn ngã ba Phước Lộc và Phước Quả.

Trước nguy cơ Bù Đốp bị tiêu diệt, Tiểu khu Phước Long bị uy hiếp, trưa ngày 23, Quân đoàn 3 địch (do Dư Quốc Đống chỉ huy) dùng máy bay lên thẳng đổ một tiểu đoàn và hai khẩu pháo 155 ly xuống Phước Bình. Lực lượng này lập tức hành quân theo lộ 311 đến phía tây Phước Quả để ngăn chặn lực lượng ta phát triển tiến công từ Bù Đốp lên đánh thị xã Phước Long. Quân địch đã bị thu hút về hướng Bù Đốp đúng như ý định của chúng tôi. Trên hướng chủ yếu, quân ta lập tức triển khai lực lượng để tiêu diệt Đồng Xoài.

Đồng Xoài là một căn cứ khá lớn. Lực lượng địch có khoảng hơn 1.000 tên. Xung quanh căn cứ có 11 đến 16 lớp rào kẽm gai và bãi mìn các loại. Trong căn cứ có hơn 500 lô cốt và ụ súng, bốn khẩu pháo lớn 155 ly và 105 ly. Ta xác định, muốn đánh Đồng Xoài phải hạn chế được tối đa uy lực pháo và bom của đối phương nên khi chuẩn bị đánh Đồng Xoài, ta bố trí lực lượng bao vây, vô hiệu hóa cụm pháo ở Bù Na và bố trí cụm pháo phòng không bắn máy bay.

Nhiệm vụ đánh Đồng Xoài được giao cho Sư đoàn 7 của anh Lê Nam Phong. Hướng tiến công chủ yếu giao cho Trung đoàn 141 do các đồng chí Lê Dương Liễu làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Danh làm Chính ủy, được tăng cường hai tiểu đoàn bộ binh, ba khẩu cối 160 ly, hai khẩu lựu 122 ly, một khẩu cối 120 ly, một pháo 105 ly, bốn khẩu pháo 85 ly và hai tiểu đoàn súng phòng không; giao cho Trung đoàn 201 chặn phía nam, Trung đoàn 209 chặn phía tây căn cứ diệt viện địch từ Phước Vĩnh lên và Châu Thành sang ứng cứu. Đến 5 giờ sáng 26 tháng 12, Trung đoàn 141 nổ súng tiến công Chi khu Đồng Xoài. Đến 15 giờ cùng ngày thì đơn vị diệt mục tiêu cuối cùng là chốt cầu số 2. Sau khi đánh được Đồng Xoài thì phát triển lên đánh Chi khu Phước Bình, gồm cả sân bay Phước Bình và cao điểm Bà Rá; đồng thời, điều Trung đoàn 16 ở Trảng Bàng - Củ Chi lên phía bắc thị xã Phước Long, sẵn sàng phối hợp đánh vào thị xã Phước Long khi có lệnh. Khi ta đánh Bà Rá, Phước Bình, sân bay Phước Bình và xuất hiện Trung đoàn 16 ở phía bắc thị xã Phước Long, thì địch trong thị xã Phước Long hoảng loạn bỏ chạy. Đến ngày 5-1-1975, địch bỏ chạy hết.

Chiều ngày 6-1-1975, quân ta vào Phước Long. Tôi ra lệnh cho anh em phá hầm ngầm ở trung tâm hành chính, ta làm chủ hoàn toàn thị xã Phước Long, kết thúc thắng lợi chiến dịch.

Sau 24 ngày chiến đấu tiến công, ta đã diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng tỉnh Phước Long. Ngay sau khi giải phóng Phước Long, anh Võ Văn Kiệt đã điều mấy chục công nhân lên tiếp nhận và quản lý nhà máy chế biến mủ cao su ở đồn điền Phú Riềng thuộc Công ty cao su Thuận Lợi.

Chiến thắng đường 14 - Phước Long đã góp phần làm thay đổi cục diện trên địa bàn chiến lược quan trọng này, làm thay đổi đáng kể tương quan về thế giữa ta và địch trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, làm suy yếu hệ thống phòng thủ của địch trên hướng bắc Sài Gòn.

Qua "sự kiện Phước Long", ta hiểu địch hơn. Quân địch không đủ khả năng đối phó cùng một lúc với nhiều hướng tiến công của ta, không đủ khả năng chiếm lại một thị xã bị đánh chiếm. Còn Mỹ không dễ can thiệp trở lại miền Nam bằng bất cứ hình thức nào để cứu quân đội Sài Gòn. Chiến thắng đường 14 - Phước Long còn là một đòn mạnh đánh vào tinh thần của quân địch.

Ở đây, tôi rút ra một điều là, cán bộ chỉ huy các cấp luôn phải phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong quá trình phát triển chiến đấu. Khi cấp trên ra lệnh, dù chưa hiểu rõ tình hình ở cấp dưới, thì cấp dưới vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành, nhưng tùy từng tình hình mà có những quyết định cho đúng, quyết định kịp thời, quyết định tại chỗ đúng nguyên tắc. Mạnh dạn quyết định dùng chủ lực và hỏa lực tăng cường để tiến công quyết liệt khi biết rõ quân địch đã dao động, hoang mang, quân ta đang ở thế thượng phong thì phải dấn tới giành chiến thắng cao nhất.

Từ trước đến nay, diệt địch hành quân dã ngoại, địch đi cứu viện..., nghĩa là diệt địch ở bên ngoài cứ điểm là sở trường của ta. Khi ta đưa được pháo lớn vào đánh thì bộ đội rất phấn khởi; khi ta đánh được quân địch trong căn cứ có công sự, lô cốt vững chắc thì quân địch lập tức hoang mang, dao động. Kế hoạch lúc đầu xác định Đồng Xoài là trận then chốt, nhưng trên không cho đánh. Ta chuyển sang đánh Bù Đăng rồi phát triển tiến công vào Bù Đốp và đánh luôn Bù Na, thu được hai khẩu pháo và nhiều đạn pháo, sau đó phát triển đánh sang Đồng Xoài, anh em rất phấn khởi, hăng hái, còn quân địch thì hoang mang, dao động. Có thể nói, đây là thời cơ phát sinh tại chỗ cả về chiến dịch và chiến thuật. Đến lúc ta đưa tăng, đưa pháo vào, quân địch hoảng hốt, không chống cự mà bỏ chạy. Trung đoàn 16 và đơn vị tăng, pháo còn đứng nguyên chưa phải đánh. Như vậy là, khi ta đánh đòn phủ đầu mà trúng huyệt hiểm thì địch rã. Nếu ta lừng chừng không chớp thời cơ xốc tới mà để chậm, địch đưa lên một liên đoàn biệt động tăng cường cho núi Bà Rá và thị xã Phước Long thì ta sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều. Đây không phải là chủ trương có trước của Bộ Tư lệnh Miền, mà tình hình cụ thể đòi hỏi phải xử lý như vậy.

Có thể nói, chiến thắng đường 14 - Phước Long và núi Bà Đen đối với mặt trận B2 đã tạo ra cho chúng ta thế làm chủ một địa bàn chiến lược quan trọng, uy hiếp trực tiếp phía đông quốc lộ 13 và hệ thống phòng thủ của địch trên hướng bắc Sài Gòn, làm thay đổi đáng kể tương quan và thế trận trên chiến trường Đông Nam Bộ có lợi cho ta. Đối với Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu thì chiến thắng Đồng Xoài - đường 14 - Phước Long có ý nghĩa là "trận trinh sát chiến lược" thăm dò khả năng quân đội Sài Gòn và sự can thiệp của Mỹ, làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Lịch sử có nhiều việc tưởng như ngẫu nhiên nhưng lại mang tính quy luật. Chiến thắng Đồng Xoài - đường 14 - Phước Long, lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, lại diễn ra đúng lúc Hội nghị Bộ Chính trị đang họp và tập trung bàn về quyết tâm chiến lược, thực hiện nốt nửa sau tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ: "Đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Khái quát lại hai năm 1973-1974 thì thấy rất rõ là, sau Hiệp định Paris, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đánh khá ác liệt vào các vùng giải phóng, nhiều nơi ta mất đất, mất dân. Điều đó chứng tỏ quân đội và chính quyền địch đã tương đối vững. Mỹ cho rằng chính quyền Sài Gòn đủ sức đương đầu với ta, Mỹ có thể yên tâm mà rút. Để mất đất, mất dân đã khiến cho ta gặp nhiều khó khăn, nhưng cũng làm cho địch chủ quan, kết hợp với sự kiện ở Rạch Bắp, huyện Bến Cát - Thủ Dầu Một (ta dùng một trung đoàn bộ binh chủ lực được tăng cường xe tăng và pháo đánh một đại đội nhưng không thành công, bị thương vong, nên phải lui quân), càng làm cho chúng thêm tự mãn.

Khi ta huấn luyện cách đánh mới, đánh nhanh, mở cửa mở bằng sự kết hợp đồng thời cách truyền thống với cách dùng đặc công bí mật gỡ vật cản mở trước một hướng, rồi tấn công bằng bộ binh cộng thêm pháo bắn thẳng để đánh chi khu quân sự của địch, thì địch hoàn toàn bị bất ngờ. Khi đánh Chi khu Bù Đăng và đột kích vào trận địa pháo của địch, ta đã thu rất nhiều đạn pháo. Trận này không được báo cáo lên trên là đã "đánh chi khu". Thực ra Bù Đăng là một chi khu quân sự mà địch bố trí còn hiểm hơn Đồng Xoài. Ngoài Bắc cũng không được thông tin trong này đã chuẩn bị trước, tức là tổ chức tập huấn ba tháng liền cho cán bộ ở khu vực Đồng Pan trong vùng chiến khu Dương Minh Châu. Khi Sư đoàn 3 của anh Sáu Hưng đánh Bù Đăng thắng lợi thì lực lượng Sư đoàn 7 của anh Lê Nam Phong lót sẵn đã đánh thẳng vào Chi khu Đồng Xoài. Thực chất cả hai nơi này, ở mỗi nơi ta chỉ dùng lực lượng là một trung đoàn bộ binh cộng với pháo có mức độ. Lực lượng còn lại của Sư đoàn 7 chủ yếu bố trí đón lõng để đánh viện binh. Còn Sư đoàn 9 bố trí ở khu vực Dầu Tiếng - Bến Củi thì kiềm chế, thu hút Sư đoàn 25 và lực lượng địch ở khu vực núi Bà Đen và sẵn sàng đón đánh Sư đoàn 7 địch từ Thủ Dầu Một lên chi viện cho quân địch ở Phước Long. Sư đoàn 9 do đồng chí Ba Hồng chỉ huy có nhiệm vụ kiềm chế hai sư đoàn địch. Đánh xong chi khu ta mới đột phá vào thị xã và đã gây bất ngờ lớn cho địch. Sau khi đánh và giải phóng thị xã Phước Long ta mới có thêm cơ sở khẳng định rằng tại các thành phố, thị xã - cơ quan đầu não của địch - lại chính là nơi chúng yếu nhất; bởi vậy ta có thể dùng biệt động, đặc công kết hợp với bộ binh, có pháo bắn chế áp để đột phá vào, kết hợp với lực lượng quần chúng tại chỗ nổi dậy thì sẽ thành công.

Ta đánh thắng trận này trong một tư thế mới - tư thế quân đội Sài Gòn thua đau mà quân Mỹ không dám trở lại. Ta cũng đã chuẩn bị phương án đối phó với địch phản công quyết liệt bằng bộ binh và phi pháo, nhưng địch đã không dám làm, mà chỉ cho khoảng một tiểu đoàn nhảy dù xuống. Do đó, có thể nói cái dở ở đây đã chuyển thành cái hay. Trận thắng Đồng Xoài - Phước Long đã thực sự trở thành cơ sở đáng tin cậy để Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam.

Trước đó, tháng 11-1974, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và sơ bộ quyết định kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam tương đối sát. Tiếp đó, tháng 1-1975, Bộ Chính trị cùng Quân ủy Trung ương và các đồng chí chủ trì chỉ huy chiến trường một lần nữa soát xét lại tình hình, chính thức thông qua quyết tâm và kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

Chiến thắng Phước Long đến giữa lúc Bộ Chính trị họp, là nhân tố mới đến từ thực tiễn sinh động, kịp thời để Bộ Chính trị hạ quyết tâm thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM