Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:54:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng  (Đọc 5259 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:05:57 am »





ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH - CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

(Hồi ký)


NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA – SỰ THẬT
2015

Nguồn: dangcongsan.vn



« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 12:21:32 pm gửi bởi ptlinh » Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #1 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:09:34 am »

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

 

Cuộc đời hoạt động của nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh để lại nhiều dấu ấn quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Sinh ta và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến cảnh người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới gót giày thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Từ khi còn trẻ, đồng chí đã tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế; tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, đồng chí tham gia quân đội và bắt đầu cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã tôi luyện ý chí và tài năng, giúp đồng chí không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng trên các cương vị được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-1975...

Từ năm 1976 đến 1980, đồng chí được giao các chức vụ Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980. Ngày 29-6-1981, đồng chí được bổ nhiệm làm Thủ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.

Năm 1982, đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V bầu vào Bộ Chính trị; năm 1984, đồng chí được thăng quân hàm Đại tướng và giữ các trọng trách của Quân đội như: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 1986): Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (năm 1987).

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Ngày 23-9-1992, Quốc hội khóa IX đã bầu đồng chí làm Chủ tịch nước.

Sau khi thôi chức vụ ủy viên Ban Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 4-2001), đồng chí được nghỉ hưu. Đến nay, Đại tướng Lê Đức Anh đã có gần 80 năm hoạt động cách mạng và 77 năm tuổi Đảng. Trong quá trình hoạt động cách mạng, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng đều nỗ lực, làm tròn nhiệm vụ của mình với tình cảm cách mạng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã viết: "Đồng chí Lê Đức Anh một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta".

Để giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn hồi ký Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng do Đại tá Nguyễn Trọng Dinh thể hiện. Nội dung cuốn hồi ký được chia thành 11 chương, gắn với những giai đoạn, bước ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng.

Cuốn hồi ký đã phác thảo khá đầy đủ, toàn diện cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, gắn với những sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước. Nội dung cuốn sách được viết ra từ những ký ức của Đại tướng, do vậy các nhân vật, sự kiện, biến cố lịch sử được phản ánh một cách sinh động qua nhãn quan của người trong cuộc. Trong quá trình biên soạn biên tập bản thảo Đại tá Nguyễn Trọng Dinh và Nhà xuất bản đã cố gắng tra cứu, đối chiếu các nhân vật, sự kiện với các tài liệu đã công bố, song do có nhiều sự kiện diễn ra cách đây đã lâu, việc lưu trữ tài liệu trong thời kỳ chiến tranh ác liệt có nhiều khó khăn nên nội dung sách khó có thể tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Nhà xuất bản rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện cuốn sách trong lần xuất bản sau.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc

 


Tháng 8 năm 2015

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA – SỰ THẬT

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #2 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:19:43 am »

Chương 1

TUỔI THƠ VÀ NHỮNG NGÀY ĐẦU THAM GIA CÁCH MẠNG

 
Tôi tuổi đã cao nên quên nhiều... Nhưng, quê hương với 1 những kỷ niệm thời thơ ấu và những ngày tham gia cách mạng, đi theo Đảng vẫn in đậm trong trí nhớ.

Tôi sinh ngày 1-12-1920 trong một ngôi nhà tranh tại gia đình ông bà nuôi ba tôi ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Quê gốc của tôi ở xứ Truất, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Tên ba má đặt là Lê Văn Giác. Năm đầu tiên đi học, mắt kém, lại tên là Giác, vần G thì phải ngồi ở phía sau, nên thầy giáo nói với ba má tôi đổi tên sang vần A để được ngồi lên phía trên, nhìn bảng cho rõ hơn. Ba má tôi nhất trí với thầy đổi tên Giác thành tên Anh. Và tôi mang tên Lê Đức Anh từ đó.

Gia đình tôi mấy đời làm ruộng. Ông nội tôi là Lê Thảng, sinh ngày 6-11-1861, mất ngày 11-5-1939. Ông là một sĩ phu từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Bà nội là Cung Thị Quyến, ngày tháng năm sinh, gia đình không nhớ, chỉ nhớ là bà mất ngày 18 tháng 9. Ông bà sinh được sáu người con (hai trai, bốn gái). Ba tôi là con trai cả, tên khai sinh là Lê Quang Túy, sinh ngày 25-11-1885, dân làng thường gọi là "Thầy khóa Túy". Ba tôi mất ngày 23-6-1969. Khi đó, tôi đang cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 9 chỉ huy đánh địch trên chiến trường miền Tây Nam Bộ. Má tôi là Lê Thị Thoa, sinh năm 1886, mất ngày 16-11-1967. Khi đó, tôi đang cùng Bộ Chỉ huy Miền khẩn trương chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Ông bà nội, ông bà ngoại và ba má tôi đều ở xứ Truồi, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc. Phú Lộc là huyện cửa ngõ phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế 39 km.

Quê tôi có núi Truồi và sông Truồi. Sông Truồi bắt nguồn từ vùng rừng núi phía tây của huyện Phú Lộc đổ ra phá Tam Giang. Sông Truồi có nguồn nước dồi dào làm cho làng xóm hai bên bờ trở nên sầm uất và làm cho cánh đồng quê tôi tươi tốt.

Bà cô của ba tôi là Lê Thị Kiêm lấy chồng ở làng Trường Hà, xã Vĩnh Phú, huyện Phú Vang. Chồng bà là ông Lý Quang Cảnh làm thầy thuốc và dạy chữ Nho. Ông bà sống hiền lành, chân chất nhưng không có con. Theo sự sắp xếp của gia đình, ba tôi sang làm con nuôi của ông bà. Ông bà nuôi truyền nghề làm thuốc Đông y cho ba tôi và cho ba tôi học chữ Nho, rồi cưới vợ cho. Ba má tôi sinh được 13 người con, 4 người chết lúc nhỏ, còn 9 người. Anh chị em chúng tôi đều sinh ra ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang.

Trường Hà là một làng quê nghèo bên phá Tam Giang. Ruộng canh tác rất ít, đất pha cát rất khó cấy trồng và trồng cây gì cũng phải khổ công chăm bón. Ngày trước, người dân quê tôi thường xuyên phải chịu cảnh làm ruộng nhờ trời. Mùa màng thất bát liên miên. Đa số các gia đình trong làng quanh năm thiếu ăn, nên người dân phải đi các nơi làm thuê kiếm sống. Người dân đi làm cật lực từ lúc gà gáy sáng đến tối mịt mới về, vậy mà tiền công chỉ được một hào mỗi ngày; trong khi đó còn phải nộp thuế thân, mỗi suất đinh là một đồng mỗi năm.

Thực dân Pháp coi chế độ thuế thân là nguồn thu quan trọng. Thuế điền thổ cũng là gánh nặng đối với nông dân. Ai không có tiền nộp thì bọn hương kiểm, trương tuần bắt ra đình làng, lấy cây đóng nẹp dưới nền đất và cột hai chân vào đó. Người nhà phải mang khoai sắn ra nuôi, rồi chạy cầm cố ruộng nương, vườn tược để lấy tiền đóng sưu nộp thuế. Thừa cơ, bọn địa chủ lợi dụng lúc người dân khó khăn xùy tiền, xùy thóc cho vay nặng lãi. Nhà thiếu sưu thuế, có người đau ốm phải đến vay để thuốc thang, chạy chữa. Vay đến hạn không trả nổi thì địa chủ xiết ruộng đất, nhà cửa và cho người đến ăn vạ, đòi nợ. Khi nào gia đình trả hết nợ, chúng mới ra khỏi nhà. Quê hương xơ xác, tiêu điều, người dân lương thiện sống lam lũ, khổ nhục, ốm đau, sợ hãi quanh năm suốt tháng. Bộ máy cai trị ở quê tuy ít nhưng quản lý người dân rất chặt. Nhà nào, người nào làm gì, đi đâu hương kiểm đều biết hết. Người dân sống nghèo đói nên thường xuyên ốm đau, bệnh tật mà không có thuốc chữa. Những trận dịch đậu mùa, rồi dịch thổ tả như những cơn gió độc đã quét đi hàng loạt mạng sống của người dân. Một trận dịch đậu mùa đã khiến tôi bị hỏng một bên mắt trái, đôi chân yếu không đi lại được. Tôi tự luyện tập kiên trì cũng phải mất một năm trời. Nạn đói kém, ốm đau, bệnh tật, cộng với sự bóc lột hà khắc của chế độ thực dân, phong kiến đã đẩy người dân quê tôi đến bước khốn cùng. Tôi đã nghe nhiều cụ già than thở: Cơ sự thế này thì rồi dân làng mình cũng chết mòn chết mỏi hết thôi!

Sự nghèo đói cũng đi liền với thất học. Hầu hết người dân quê tôi không biết chữ, một vài người được gọi là có học thì cũng chỉ học được một ít chữ Nho, biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ, và biết mấy phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Muốn học lên tiếp thì phải đi xa nhà, nhưng cũng chỉ được đi học một vài năm khi còn nhỏ tuổi, lớn lên một chút là phải đi làm để kiếm sống.

Nhà tôi, ông và ba tôi có thêm nghề thầy thuốc, phần lớn là chữa bệnh cứu người, làm phúc, song cuộc sống cũng đỡ cơ cực hơn. Tuy nhiên, gia đình đông con nên ba má tôi phải tần tảo, bươn chải, vừa làm ruộng, vừa làm thuốc, vừa đi làm thuê kiếm sống.

Làm lụng vất vả, ăn uống kham khổ, khoai sắn là chính, nhưng ba má tôi vẫn chăm lo cho các con học hành. Tôi được ba má cho là sáng dạ nên ưu tiên cho đi học từ nhỏ. Lên 5 tuổi, tôi học chữ Nho tại nhà. Từ 6 tuổi đến 10 tuổi, tôi học chữ Quốc ngữ ở làng Dưỡng Mong và trường An Lương Đông, huyện Phú Lộc. Trường xa nhà, nên buổi sáng đi học tôi thường nhịn đói. Ngày ấy, những đứa học trò nhà quê như chúng tôi không có giày dép, đi đâu cũng chân trần. Trên chặng đường tới trường ở Dưỡng Mong phải qua một trảng cát, những ngày trời nắng, cát bỏng như rang, chúng tôi phải lấy những cái bẹ nang của cây tre, rồi dùng dây bẹ chuối cột dưới bàn chân để đi qua trảng cát cho đỡ bỏng chân.

Năm tôi 11 tuổi, ba má cho tôi ra thành Vinh (Nghệ An) để chị gái Lê Thi Hiệp (tức Nở) và anh rể nuôi ăn học. Anh rể tôi là Trần Quát, cũng người làng Trường Hà, Phú Vang, làm nghề dạy học ở thành Vinh. Người xứ Nghệ cũng nghèo, bữa ăn chỉ khoai, sắn, tương, cà, thường có canh chua và một món rất phổ biến, hầu như nhà nào cũng có, đó là sơ mít muối với dọc mùng, dân xứ Nghệ gọi là món "nhút". Tôi ở với anh chị, hằng ngày ăn cơm độn khoai, sắn, với canh chua và món "nhút" cổ truyền ấy. Dân thành Vinh hồi đó sống trong không khí trầm lặng bao trùm, suốt ngày cặm cụi làm ăn. Thực ra đây là kết quả của sự đàn áp, kìm kẹp của chính quyền thực dân Pháp. Sau khi cao trào cách mạng 1930 -1931, mà đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh bị Thực dân Pháp dìm mong "biển máu", phong trào cách mạng ở Nghệ - Tĩnh những năm sau đó gặp muôn vàn khó khăn. Cuộc khủng bố, tàn sát những năm 1930, 1931 để lại nỗi uất hận, buồn đau cho người dân nơi đây. Phú Vang quê tôi cũng nghèo khó, nhưng thỉnh thoảng còn có chút văn nghệ, người dân vừa làm nương vừa hát đôi câu hò xứ Huế để vơi bớt nhọc nhằn. Còn ở Nghệ An thì không khí thật buồn. Thời gian đầu, nhớ nhà, nhớ quê..., tôi định bỏ về, vì anh tôi lương cũng chẳng có bao nhiêu, nay lại phải nuôi thêm tôi ăn học và gửi tiền nuôi em ăn học ở Huế. Anh chị nhủ tôi:

- Nhiều no, ít đủ, em cố gắng nán lại học thêm chút đỉnh.

- Anh chị xem có việc gì để em làm thêm, giúp anh chị?

Tôi hỏi anh chị.

- Em cứ tập trung học cho tốt, về quê không có điều kiện để học đâu - Anh chị tôi lại động viên.

Người xứ Nghệ hiếu học, cùng học với tôi có nhiều bạn học giỏi và rất thương nhau.

Học trò tiểu học phải học toàn bằng tiếng Pháp. Những ngày sống ở thành Vinh, một hình ảnh đã ăn sâu trong ký ức của tôi là dân ta nghèo khổ quá, đói triền miên.

Học hết tiểu học ở trường Vinh, tôi trở về quê Phú Vang giúp đỡ ba má, ông bà làm nông nghiệp. Các anh chị tôi dạy tôi cách trồng khoai, trồng sắn. Hằng ngày, tôi và chị tôi lội xuống phá Tam Giang lấy cây rong về làm phân và phủ lên luống khoai, luống sắn, rồi gánh nước tưới cho khoai, sắn. Khoai, sắn quê tôi trồng trên đất cát nên rất ngon, khoai ngọt, sắn bùi, nhiều bột. Anh chị em tôi sống và lớn lên nhờ củ khoai, củ sắn là chính.

Ba má tôi yêu thương nhau hết mực và tất cả vì con cái, sống chan hòa, gắn bó với bà con xóm giềng. Ba má tôi luôn dạy con cái phải biết thương yêu, kính trọng mọi người, biết ơn những người giúp đỡ gia đình lúc khó khăn.

Ba má tôi quanh năm làm lụng vất vả, bươn chải để nuôi 9 anh chị em tôi gồm 2 trai, 7 gái. Tôi là con thứ bảy. Các gia đình anh chị em tôi đều tích cực tham gia hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có gia đình nuôi giấu cán bộ cách mạng dưới hầm nhà; hai anh đều là liệt sĩ: anh Trần Mạnh Kiếp - chồng chị Lê Thị Ngọc Tỷ và anh Hồ Nguyên - chồng chị Lê Thị Kha - đã anh dũng hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đến nay, sáu anh chị tôi đã qua đời, chỉ còn tôi và hai em gái Lê Thị Thể (hiện đang sống ở Đà Nẵng) và Lê Thị Xoan (hiện sống ở Huế).

O Lê Thị Xoan, thường gọi là Soan, tham gia cách mạng từ lúc còn trẻ, làm cán bộ Hội Phụ nữ cứu quốc huyện Phú Lộc trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Còn nhớ, cuối năm 1953, sau khi dự hội nghị ở Việt Bắc, tôi trở vào Nam Bộ, về đến chiến khu Phú Lộc, tình cờ tôi gặp o Xoan hoạt động ở đây. Phải mấy phút sau o Xoan mới nhận ra tôi. O xúc động nói:

- Anh Lê Đức Anh phải không? Trời ơi, khi em đọc tờ báo Nhân Dân có bài "Đồng Tháp Mười đánh giặc" ký tên anh, thì em và gia đình mới tin là anh còn sống. Anh gầy và đen quá.

- Gia đình, ba má cùng các anh chị và các em vẫn khỏe chứ? – Tôi hỏi.

- Gia đình ta trong vùng địch hậu, em hoạt động ở chiến khu nên cũng ít gặp - O Xoan trả lời.

- Em hãy giữ gìn sức khỏe, hoạt động công tác cho tốt. Anh có ít tiền công tác phí, nhờ em mua tấm vải lụa may quần áo cho ba má và nói là anh gửi về biếu ba má để ba má vui - Nói xong, tôi lại vội đi theo đoàn.

Thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ, o Xoan làm Bí thư Chi bộ làng Bàn Môn, bám trụ hoạt động ở quê nhà. O Xoan bị địch bắt, kết án và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ ba năm. Sau giải phóng miền Nam, o Xoan công tác tại trường trung cấp y tế tại Huế. Nay o Xoan đã nghỉ hưu.

Hồi đó, sáng sáng ba tôi ăn khoai hoặc sắn luộc, uống nước chè xanh rồi đi làm đồng, trưa về ăn mấy bát cơm độn khoai hoặc sắn rồi ngồi đọc sách chữ Nho. Do tính tình ba tôi cởi mở, hiền hòa nên bạn bè chòm xóm thường đến nhà tôi trò chuyện vào các buổi tối và những lúc rỗi việc nông. Bên ấm nước chè xanh và điếu thuốc rê, chuyện mùa màng, chuyện làng, chuyện nước thật rôm rả.

Má tôi rất cần cù, quanh năm suốt tháng bận việc đồng áng, việc nội trợ gia đình hầu như không lúc nào ngơi tay. Má tôi ít khi kêu ca, phàn nàn điều gì. Có lẽ cuộc sống khó khăn đã rèn luyện cho má tôi đức tính kiên nhẫn. Má thường dạy chúng tôi phải biết kiên trì vượt lên khó khăn và luôn vui vẻ đón nhận khó khăn. Chính tính nhẫn nhịn, chịu thương, chịu khó của má tôi và người dân quê tôi đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của anh chị em tôi.

Ông bà nuôi coi ba má tôi như con đẻ và yêu quý chúng tôi như cháu ruột của mình. Ba má tôi ngày ngày chăm sóc tận tình ba má nuôi lúc khỏe cũng như lúc đau yếu và chúng tôi cũng rất yêu quý, kính trọng ông bà nuôi.

Khi bố nuôi của ba tôi qua đời, đám tang được tổ chức rất lớn, người dân cả vùng đến đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó, mẹ nuôi của ba tôi cũng qua đời. Ba má và anh chị em tôi sinh sống ở đây một thời gian, rồi gia đình trở về xứ Truồi, làng Bàn Môn, huyện Phú Lộc phụng dưỡng ba má đẻ.

Các ông cậu bên ông bà ngoại rất quý ba má tôi nên tới thăm luôn và thường ngồi góp chuyện thân tình với xóm giềng. Các ông thích nói "chuyện nước" xưa và nay về các danh nhân, những người có công với dân, với nước, rồi kể chuyện Phan Đình Phùng, chuyện Phan Bội Châu, v v.. Tôi tò mò nên cũng chăm chú nghe. Những lúc mọi người chuyện trò, bàn luận, ba tôi thường chỉ im lặng. Ông Giảng - cậu tôi - là người theo đạo Cơ Đốc. Có người hỏi ông tại sao theo đạo Cơ Đốc, ông bảo:

- Tôi theo Chúa nhưng đâu có bỏ tổ tiên, ông bà, mà tôi cầu Chúa phù hộ cho ông bà, tổ tiên, vì Chúa là người nhân từ, ưa làm việc thiện, ghét điều ác.

Ông Giảng hay tranh luận với ông Lê Bá Dị - cũng là cậu tôi, ông Giảng nói:

- Dân ta nghèo là tại Tây. Tây đô hộ, bảo vua ta, chính phủ ta làm gì thì phải làm theo.

Thấy ông giải thích và lý luận như vậy, ba tôi vẫn ngồi im chẳng nói gì. Còn ông Lê Bá Dị thì hay ca ngợi một người có tên là Nguyễn Ái Quốc. Ông bảo:

- Nguyễn Ái Quốc cũng là người An Nam, là người của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Tôi tin là Nguyễn Ái Quốc sẽ cứu được nước ta ta khỏi cảnh nô lệ của Tây.

Hai ông cậu tranh luận nhau nhưng không gay gắt và không mâu thuẫn. Còn ba tôi thì chỉ ngồi nghe.

Ông Dị thường bảo:

- Cộng sản họ có cờ búa liềm. Búa là biểu tượng cho thợ thuyền, còn liềm là hình ảnh của dân cày, hai lực lượng này sẽ hợp nhau lại để tranh đấu cho quyền lợi của thợ thuyền và dân cày.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #3 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:22:54 am »

Năm 15 tuổi, tôi đi làm gia sư, dạy chữ Quốc ngữ cho một số con cháu của người bà con trong làng, chủ yếu là ở Dưỡng Mong. Ngoài giờ đi làm gia sư, tôi còn đọc báo, đọc sách cho ba má, anh chị em trong gia đình và những người bạn của ba tôi đến chơi cùng nghe vì ở nông thôn, những người ít tuổi mà biết chữ Quốc ngữ, biết tiếng Pháp không nhiều. Tôi đọc các tờ báo lưu hành công khai lúc bấy giờ như Nhành lúa, Lao động, Thời báo, Dân,... Nhà sách Hương Giang đã phát hành những cuốn sách như Vấn đề dân cày, Đông Dương với vấn đề phòng thủ, Giá trị lao động..., những sách báo này được ông Lê Bá Dị đưa về cho ba má tôi. Mọi người được nghe đọc sách báo rất thích. Hồi đó, những cuốn sách viết về dân An Nam khởi nghĩa chống lại sự xâm lược và đô hộ của các triều đình phương Bắc nhiều lắm, mà Tây cũng không cấm, cứ đọc thoải mái. Mọi người còn thích nghe tôi đọc các truyện đưa về Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, rồi truyện Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, v.v.

Làm gia sư ở làng Dưỡng Mong một thời gian, tôi xin ba má đi làm gia sư ở Huế. Hồi đó Huế là kinh đô của nước An Nam. Huế rất buồn. Chiều tối trên dòng Hương Giang, những câu hò Huế lại ngân lên, nghe buồn da diết, đến nay tôi vẫn còn nhớ:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm,
Ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non


Ở Huế, hầu hết quan Tây, quan ta đều đi lại bằng ôtô và xe kéo tay. Người làm nghề kéo xe cực lắm, có lúc phải trèo tới ba người, xe nặng, khi kéo lên dốc mồ hôi vã ra ướt như tắm. Đã thế khách lại hay dận gót giày xuống sàn xe, giục "Nhanh lên". Có lần tôi hỏi một phu xe làm nghề kéo xe cực thế sao bác không kiếm nghề khách thì họ bảo đói, đầu gối phải bò. Ở thành Huế thời ấy, cảnh phu kéo xe tay rất phổ biến và cách kiếm sống lao lực này đã hằn sâu trong trí nhớ tuổi thơ của tôi, đến nỗi hễ nghĩ tới "Huế xưa" là cảnh xe kéo lại hiện về. Chỉ làm gia sư ở Huế một thời gian thôi, nhưng Huế đã để lại trong tôi một nỗi buồn trầm mặc.

Đến năm 1935, có những tài liệu nói về nước Nga Xôviết, mặc dù thực dân Pháp cấm không cho lưu hành, nhưng ông Lê Bá Dị và những người bạn của ông vẫn đưa cho tôi đọc. Về Nguyễn Ái Quốc thì chỉ nghe kể chứ không có tài liệu, báo cũng không có, vì bị kiểm soát rất chặt chẽ.

Thời gian này, ba tôi thường ngồi trầm ngâm. Thỉnh thoảng ông có đọc thơ, nhưng toàn thơ buồn, rồi ngâm Kiều. Tôi nghe ba ngâm câu "Buồn trông cửa bể chiều hôm; Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa" mà tưởng rằng cụ Nguyễn Du viết về quê mình. Vì quê tôi cũng có cửa biển Tư Hiền, dọc phá Tam Giang và các thuyền buồm ở đây thường chở hàng (chủ yếu là đường và chiếu) ra Huế và ngược lại, chở hàng từ Huế vào Quảng Nam.

Từ năm 1936 trở đi, tình hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước có những chuyển biến quan trọng. Năm 1936, Mặt trận Bình dân ở Pháp thắng cử, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp cử phái viên Gustin Godart (Guýtxtanh Gôđa) thuộc Đảng Xã hội sang điều tra tình hình kinh tế - xã hội ở Đông Dương. Sự kiện này đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng nước ta. Có khá nhiều tài liệu từ Pháp gửi về nước, chủ yếu là các bài viết của Nguyễn Ái Quốc vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với người dân ở các nước thuộc địa, trong đó có Đông Dương và An Nam, và nói về cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động ở nước Nga Xôviết. Tại Thừa Thiên - Huế quê tôi, dạo đó, tài liệu được truyền nhau công khai. Tôi được biết ở Nghệ An thành Vinh, sau những ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh bị đàn áp, phong trào cách mạng cũng lớn mạnh. Hội nghị Trung ương tháng 7-1936, quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh đòi tự do cơm áo, dân chủ, hòa bình. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã kịp thời phát động một phong trào đấu tranh rầm rộ khắp các địa phương theo tinh thần mà Trung ương đã chỉ ra. Trong tôi lúc đó đã xuất hiện một khao khát, tuy còn mơ hồ, chưa rõ nét, nhưng nó đang lớn dần. Từ không khí của phong trào dân chủ, sự hiểu biết của tôi cũng được nâng lên rất rõ.

Tôi đọc các tin hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế Đảng Xã hội Pháp, sau đó là đọc các sách của Mác để tìm hiểu về các vấn đề như giai cấp là gì, chủ nghĩa tư bản,... Khi đọc về chủ nghĩa tư bản, tôi đọc cả bản tiếng Pháp và bản dịch của Hải Triều, nhưng đọc nhiều lần vẫn chưa hiểu do trình độ học vấn thấp. Rồi đọc về cương lĩnh của các đảng, tôi thấy các cương lĩnh, kể cả Cương lĩnh của Đảng Xã hội Pháp cũng không nói về giải phóng thuộc địa, chỉ có Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Pháp là nói về giải phóng thuộc địa. Ông Lê Bá Dị nói Nguyễn Ái Quốc là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Đảng Cộng sản Pháp là thành viên của Đệ tam Quốc tế. Từ việc đọc sách báo, tôi cũng hiểu thêm về Nguyễn Ái Quốc và Mặt trận Bình dân của nước Pháp. Những tài liệu này đã có ảnh hưởng mạnh tới phong trào cách mạng của nước ta. Với riêng tôi, đã bắt đầu có nhận thức về chính trị - xã hội và cái niềm khát khao ban đầu còn mơ hồ thì nay đã rõ dần, là muốn làm một điều gì đó cùng với người dân lam lũ quê tôi đặng thay đổi cuộc sống lầm than, cơ cực. Có lần ông Lê Bá Dị bảo tôi:

- Cháu đã được đọc nhiều, cháu có hiểu biết, cháu hãy cố gắng làm việc tốt để giúp gia đình và giúp người dân quê ta.

- Dạ, cháu sẽ số gắng - Tôi trả lời nhỏ nhẹ.

Bạn bè làng xóm cùng trang lứa với tôi cũng có nhiều, nhưng từ nhỏ tôi chơi thân với anh Hoàng Văn Viễn, anh hơn tôi 3 tuổi, mọi người vẫn gọi anh là Viết. Vì thích đọc sách báo nên tôi hay đến nhà anh. Bố anh Viết tên là Hiến (thường gọi là Kiểm Hiến). Quê tôi cát trắng bạc màu, nhưng ông lại có cái vườn khá tươi tốt và hấp dẫn. Xung quanh vườn, ông đào mương và trồng những hàng cây dương để giữ ẩm, bên trong trồng cam, quýt làm cho mảnh vườn rất đẹp. Từ thu nhập của vườn này ông cho con lên Huế học chữ. Anh Viết vừa đi học, vừa làm vườn giúp cha. Năm 1936, anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Người dìu dắt và gợi ý với tổ chức bồi dưỡng, thử thách và kết nạp anh Viết là ông Lê Bá Dị. Mãi sau này, tôi mới biết ông Lê Bá Dị là Tỉnh ủy viên, ông cùng trang lứa và hoạt động với ông Đô Tram - Huyện ủy viên huyện Phú Vang. Anh Hồ Nguyên lầ anh rể tôi và là láng giềng với ông Đỗ Tram. Anh Hồ Nguyên cũng được ông Đỗ Tram kết nạp vào Đảng. Anh Hoàng Văn Viễn và anh Hồ Nguyên hoạt động cùng thời với nhau và trước tôi. Mỗi lần đọc sách báo cho mọi người nghe, những điều chưa biết hoặc chưa hiểu, tôi thường hỏi ông Dị và ông đã giải đáp cho tôi hiểu rồi hướng dẫn tôi cách tuyên truyền bằng sách báo.

Cuối năm 1936, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta và dư luận tiến bộ Pháp, chính quyền thực dân Pháp buộc phải trả tự do cho một số chính trị phạm. Nhiều tù chính trị được trả tự do trong đó có ông Đỗ Tram.

Hưởng ứng cuộc vận động "Đông Dương Đại hội" của Đảng, ngày 20-9-1936, Đại hội nhân dân toàn kỳ được từ chức, Phú Vang có một số đồng chí tham dự. Tại đại hội này, đại biểu các ngành, các giới đã lớn tiếng đòi tự do, dân chủ, đòi các quyền lợi kinh tế, chính trị. Lần đầu tiên trên diễn đàn của Viện Dân biểu, tiếng nói của công nông và những người thiết tha với tự do, dân chủ đã gây được ấn tượng mạnh mẽ.

Từ chỗ được giao việc đọc sách, báo cho dân chúng nghe, tôi được giác ngộ và năm 17 tuổi tôi chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương. Đầu năm 1937, nghe tin đại diện của Chính phủ Pháp sẽ sang điều tra tình hình ở Đông Dương, một cuộc vận động rất sôi nổi đã diễn ra ở Thừa Thiên - Huế. Tôi được anh Hồ Nguyên giao nhiệm vụ đi vận động lấy chữ ký của nông dân các làng vào danh sách yêu cầu đối với thực dân Pháp. Cuộc vận động hồi đó gọi là "lấy yêu cầu" chứ không nói là "yêu sách", trong đó có hai nội dung rất thiết thực đối với dân chúng, một là giảm thuế điền thổ, hai là bỏ thuế thân. Hồi đó, chúng tôi tích cực đi vận động. Lúc này ba tôi vui lắm và động viên tôi hoạt động. Có thể nói, "phong vào dân chủ" đã nhanh chóng trở nên sôi nổi, rộng khắp. Từ chỗ đấu tranh đòi giảm thuế đã tiến tới đòi giảm đi xâu, giảm sưu, giảm phu phen lao dịch, đòi tự do, hòa bình. Đây là cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu, thể hiện khí thế đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện khẩu hiệu của Mặt trận Dân chủ do Đảng lãnh đạo. Lúc này tôi hiểu thêm những việc làm của ông Đỗ Tram thông qua anh Hồ Nguyên và ông Lê Bá Dị.

Tôi tham gia hoạt động cách mạng bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, trao đổi với nhau về tình hình đất nước bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ,.... ở làng quê.

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động (1-5-1938), ông Đỗ Tram và ông Lê Bá Dị, sau đó anh Hồ Nguyên và anh Hoàng Văn Viễn (tức anh Huỳnh Văn Viết) đến nhà tôi. Ông Đỗ Tram nói: Hôm nay Chi bộ đồng ý cho cháu Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản. Anh Huỳnh Văn Viết và anh Hồ Nguyên là hai người giới thiệu. Anh Viết chính là cậu thiếu niên mà tám năm trước (năm 1930) đã giao cho tôi cất giấu lá cờ cách mạng. Và, đêm 30 tháng 4, rạng ngày 1-5-1930, tôi đã bí mật trao lá cờ cho anh Viết treo trên ngọn phi lao ở chợ Trường Hà bên phá Tam Giang.

Phải nhận rõ trong bối cảnh xã hội những năm 1930 - 1940, khi mà người ta tình nguyện vào Đảng Cộng sản tức là sẵn sàng đón nhận mọi sự nguy hiểm, bắt bớ, tra tấn, tù đày từ bộ máy cai trị của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến, thì mới hiểu được bằng, lúc đó muốn giác ngộ quần chúng để phát triển lực lượng cách mạng, cán bộ, đảng viên cộng sản phải chọn nơi tin cậy mà nơi tin cậy đầu tiên chính là những người thân trong gia đình, họ mạc của mình. Ông Lê Bá Dị và ông Đỗ Tram đã giác ngộ và kết nạp ba chúng tôi vào Đảng (tôi, anh Hồ Nguyên và anh Hoàng Văn Viễn) trong bối cảnh như vậy.

Cuối năm 1938, đầu năm 1939, ở nước Pháp, Chính phủ của Đảng Xã hội bị đổ, phái hữu lên nắm quyền. Sự biến động về chính trị này lập tức ảnh hưởng trực tiếp đến các nước thuộc địa của Pháp, trong đó nó Đông Dương. Bắt đầu diễn ra một cuộc khủng bố, bắt bớ quyết liệt, nhiều đảng viên và người yêu nước đã bị bắt.

Tháng 10-1939, thực dân Pháp thực hiện cuộc khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đồng chí đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Hệ thống cơ sở bị vỡ, phong trào cách mạng Phú Vang bị tổn thất nặng nề; số cơ sở còn lại phải rút vào hoạt động bí mật nhằm bảo đảm duy trì những hoạt động của Đảng sau này. Anh Hồ Nguyên bảo tôi: "Cậu phải lánh đi ngay không là nó bắt". Nhưng rồi ngay sau đó anh Nguyên và anh Viễn cũng bị chúng bắt. Trước tình hình đó, tổ chức cộng sản chủ trương: tất cả đảng viên rút vào hoạt động bí mật, tự thân di tản để bảo toàn lực lượng, khi có thời cơ thì tìm cách bắt liên lạc với tổ chức tiếp tục hoạt động cách mạng.

Một ngày cuối năm 1939, tôi bí mật ra đi. Đêm hôm trước, tôi và ba tôi đã tâm sự nhiều điều. Biết tình hình địch vây ráp, bắt bớ, nên ba tôi khuyên:

- Trong thời buổi khó khăn này, con phải tự lo cho bản thân và giữ sức khỏe. Ba má và gia đình rất tin tưởng con.

Thế là một quãng đời mới của tôi bắt đầu - quãng đời xa quê hương, tự lực kiếm sống để có điều kiện hoạt động, sớm tìm đến với tổ chức cách mạng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #4 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:30:23 am »

Chương 2

TỔ CHỨC CÁC NGHIỆP ĐOÀN Ở ĐỒN ĐIỀN CAO SU LỘC NINH VÀ THAM GIA ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

 
Để tránh sự truy lùng của địch, cuối năm 1939, tôi lánh vào Hội An - Quảng Nam, ở nhà chị gái là Lê Thị Búp. Đầu năm 1940, tôi vào Phan Rang và đi xe lửa lên Đà Lạt.

Đến Đà Lạt, tôi ở nhà chị gái Lê Thị Trĩ. Một tháng sau, tôi xin vào làm công tại khu nghỉ mát của sở Nam Kỳ. Hồi  đó, bọn chủ vẫn gọi những người lao động là cu ly. Công việc hằng ngày là quét dọn trong nhà, ngoài sân và quét lá thông ở tất cả các đồi. Họ trả lương 15 đồng một tháng. Tiền ăn đã hết 12 đồng, chỉ còn lại 3 đồng, phải tằn tiện, chắt bóp lắm mới đủ tiêu vặt cho những sinh hoạt thường nhật. Làm cu ly được hai tháng, tôi thấy mình phải cố gắng học lấy một nghề, bởi có nghề ổn định mới kiếm được tiền sinh sống và tiếp tục hoạt động cách mạng. Tìm hiểu xung quanh, tôi xác định được hai nghề là đánh máy chữ và chế biến thực phẩm. Vì tôi thấy ở gần đó, có hai vợ chồng người Tây tên là Bêgăng, là lính đã giải ngũ, quản lý 10 ngôi biệt thự. Ngoài công việc quản lý, Bêgăng còn làm các món ba tê, xúc xích, dầm bông để bán. Lúc đầu tôi xin vào làm thêm ngoài giờ là đứng xay thịt, Bêgăng đồng ý và trả tôi thêm 3 đồng một tháng. Thấy tôi làm nhanh, ông bắt đầu hướng dẫn tôi làm ba tê, xúc xích. Vợ Bêgăng làm kế toán, kiêm luôn đánh máy chữ. Tôi cũng đi thuê một cái máy chữ về tập đánh. Khi đã thông thạo, tôi bảo vợ Bêgăng cho tôi đánh các văn bản và bà ta đồng ý.

Như vậy, suốt một năm, tôi vừa làm cu ly quét dọn, cùng những người cu ly khác hằng ngày dọn dẹp 10 ngôi biệt thự và quét lá thông trên mấy quả đồi, vừa làm thuê chế biến thực phẩm nguội vừa đánh máy chữ. Người Tây quản lý nhân công rất chặt chẽ nên khu biệt thự và đồi thông lúc nào cũng sạch sẽ. Việc chế biến thực phẩm thì tôi làm ngoài giờ và ban đêm.

Những người bồi bếp ở mấy khu biệt thự gần đó đến mua ba tê, xúc xích đã khuyên tôi về Sài Gòn. Tôi cũng muốn về Sài Gòn, nhưng rất khó. Hồi đó, Trung Kỳ là đất bảo hộ, từ Huế, Đà Nẵng vào Ninh Thuận đi bằng tàu hỏa thì dễ, nhưng từ Ninh Thuận, Bà Rịa, Biên Hòa hoặc từ Đà Lạt xuống Sài Gòn đều khó, vì Nam Kỳ là đất thuộc địa của Pháp, từ Trung Kỳ vào Nam Kỳ chúng xét dữ lắm. Một người Tây là chủ Công ty Cao su nhiệt đới ở khu biệt thự bên cạnh, rất thích ăn ba tê xúc xích, dăm bông do tôi làm nên thường sai đầu bếp hoặc vợ sang mua. Về sau người Tây này hỏi tôi:

- Mày làm như vậy lương được bao nhiêu?

- Cả lương cu ly quét dọn và làm thực phẩm được trả 18 đồng một tháng - Tôi trả lời.

Nghe vậy, người Tây này bảo: Đi làm cho tao, tao sẽ trả hơn. Tôi đồng ý ngay. Nhưng ông ta không thuê tôi làm trực tiếp mà lại giới thiệu tôi với một người Tây khác ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Người này có xe ô tô đưa tôi về Sài Gòn, sau đó đưa tôi về đồn điền cao su Lộc Ninh làm xúc xích và dăm bông, họ trả cho tôi mỗi tháng 30 đồng.

Những năm trước Cách mạng Tháng Tám, nạn đói ở Bắc Kỳ đã khiến một số đông người từ miền Bắc di cư vào phía Nam để kiếm sống. Từ chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, tôi thấy từ Vinh vào Huế đến Đà Nẵng, Hội An chỉ có những xưởng sửa chữa nhỏ, ngành cơ khí chưa có gì đáng kể, số lượng công nhân không nhiều. Còn người dân lao động chỉ tập trung chủ yếu ở ba nơi: hầm mỏ, đường xe lửa và đồn điền cao su. Phần lớn dân ở đồn điền cao su Lộc Ninh là người từ các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông1, Nam Định, Thái Bình,... phu cao su ở đây được quy định lao động một ngày 8 giờ. Chủ Tây đi kiểm tra cả về số lượng và chất lượng rất chặt chẽ. Việc phòng bệnh, chữa bệnh cũng được thực hiện để công nhân có sức khỏe làm việc. Nếu phát hiện ra người ốm giả vờ thì người quản lý khiển trách và xử phạt. Chủ Tây cho xây nhà thờ Cơ Đốc giáo và khuyến khích phu cao su đi lễ nhà thờ. Đồn điền thì rộng lớn, những người cai quản không nhiều, cai cũng là người làm thuê, hằng ngày trụ ở đồn điền, bám các lô cao su để cai quản những người phu và công việc, còn chủ thực sự của đồn điền thì ở Sài Gòn. Giám đốc, phó giám đốc điều hành thực chất cũng là Tây làm thuê cho Tây chủ đồn điền. Dưới giám đốc điều hành là thầy xu, dưới thầy xu là cặp rằng, mỗi nhóm từ 15 đến 20 phu cao su thì Tây chỉ định một đội trưởng phụ trách gọi là cặp rằng. Như vậy, thầy xu và cặp rằng đều là người làm thuê. Chủ Tây của đồn điền cao su Lộc Ninh khi thì ở thành phố Sài Gòn, khi thì về sống ở Thủ đô Paris (Pari). Mọi việc điều hành của đồn điền ông ta giao cho Giám đốc điều hành tên là De Lalane (Đờ Lalăng), Phó giám đốc là Mandon (Manđông). Mandon là người Do Thái.

De Lalane trả lương cho tôi một tháng là 30 đồng. Thấy ba tê, xúc xích tôi làm ăn ngon nên ông ta yêu cầu làm thêm để bán cho các đồn điền kế cận và mang về Sài Gòn. De Lalane trả thêm cho tôi 15 đồng mỗi tháng để đi phân phát lương thực. Như vậy, mỗi tháng tôi có thu nhập đều đặn 45 đồng. Có tiền dư dật, công việc lại không bị quản chặt như phu cạo mủ cao su nên tôi có điều kiện đến các làng tiếp xúc với phu cao su vận động, xây dựng phong trào của phu cao su và tôi cũng bắt đầu nghĩ đến việc tìm và bắt liên lạc với tổ chức cách mạng.

Giám đốc điều hành đồn điền De Lalane thì ở công ty, còn cai quản trực tiếp ở Lộc Ninh là Manđon. Dưới đồn điền được chia thành nhiều lô cao su, mỗi lô là một "làng", tiếng Pháp đọc là Đivisung và cử một người Việt Nam phụ trách. Đồn điền cao su Lộc Ninh ngày đó có 12 "làng", công nhân ở đây là lực lượng sản xuất chính của đồn điền - những người trồng cây, chăm bón và cạo mủ cao su. Cùng với hoạt động sản xuất của các "làng" còn có "Nhà đèn", là nơi cung cấp và quản lý hệ thống điện của cả đồn điền; có gara bảo dưỡng và sửa chữa 20 chiếc ôtô con và 5 chiếc xe cam nhông hằng ngày chở mủ cao su; có xưởng mộc xẻ cây đóng bàn ghế, dụng cụ cạo mủ; có xưởng rèn dao, cuốc cung cấp cho 12 làng công nhân và một đội thợ xây. Nhà máy đèn do ông Lê Văn Gián (tức Ba Đèn) phụ trách. Các xưởng còn lại gọi chung là xưởng cơ khí do anh Lê Văn Định, con trai ông Ba Đèn phụ trách.

Phu cao su từ miền Bắc vào phần lớn là thanh niên, nhiều người đã có vợ ở quê, có một số là nữ. Chủ Tây làm hợp đồng thuê lao động với từng người, ký hợp đồng 10 năm một, trả trước một ít lương cho gia đình, còn lại để chi cho ăn uống, thuốc men và tiền tiêu vặt hằng tháng tại đồn điền. Không giống như các đồn điền khác, riêng ở đồn điền cao su Lộc Ninh, bình quân mỗi phu cao su một ngày được hưởng 800g gạo, 200g cá tươi hoặc thịt; nếu là cá khô thì 100g, ngoài ra còn có rau, đậu phụ. Nằm ngủ cũng có mùng để chống muỗi. Cái mà họ thiếu nhất là tinh thần. Ngày này qua tháng khác, lúc nào người phu cũng làm việc quần quật, dãi dầu, cắm mặt với những lô cao su, không quan hệ, tiếp xúc với xã hội bên ngoài, không đọc sách báo, không nghe nhạc và cũng không chơi thể thao. Ngoài giờ làm chỉ có đánh bạc và uống rượu là thứ giải trí duy nhất. Mà đã ngồi vào chiếu bạc thì trăm người như cả trăm, lập tức nhiễm ngay cái máu ăn thua. Thế là cứ đánh từ tối cho tới đêm khuya. Có người buồn ngủ rã rời nhưng cũng cố đánh. Khi ngủ thì nằm vật ra, chẳng mắc mùng, mặc cho muỗi đốt. Thiếu ngủ, lúc nào người cũng mệt mỏi, mặt xanh xao, sức yếu đi liền với chây lười, làm việc uể oải, cạo mủ, vun cây thì làm hỏng cây. De Lalane đi kiểm tra thấy thì mắng chửi thầy xu, thầy xu quay xuống quát nạt cặp rằng, thế là cặp rằng liền chửi mắng phu, thậm chí còn đánh đập.

Tôi tìm hiểu tình hình và biết rõ thực trạng cuộc sống của những người lao động trong từng lô cao su. Tôi lựa lời bàn với họ làm sao giúp nhau để bảo đảm cho đời sống của người phu đỡ cực khổ. Tôi nói chuyện với các thầy xu và bàn với họ: Phải làm sao để chủ Tây không chửi mắng, không khinh người Việt ta quá thể. Họ nói: Chú không biết làm thế nào. Số phu này không lười, còn chủ Tây chửi mình cũng thấy nhục lắm, nhưng không biết phải làm sao đây. Tôi nhủ họ: Chủ Tây quy định cho các anh mỗi người phụ trách mấy chục, mấy trăm mét vuông và bao nhiêu cây cao su. Tới kỳ cạo mủ, bón phân, làm cỏ,... anh cứ phân ra cho từng tốp 10 người một, rồi trong từng tốp lại phân ra cho từng người, cứ khoán cho họ làm, làm xong thì nghỉ. Thầy xu nói: "Được". Đầu tiên làm thử một làng, sau đó phổ biến ra các nơi. Kết quả, anh em chăm bón cây cao su tốt và làm đúng quy trình kỹ thuật. Ngày nào chủ Tây cũng ngồi ôtô đi kiểm tra cả 12 làng và khen thầy xu quản phu làm tốt. Lao động có hiệu quả, chủ Tây không chê, không chửi mắng nữa, người phu thấy đỡ căng thẳng, không khí lao động dễ chịu hơn. Tôi nói với các thầy xu phải làm sao những thứ chủ Tây cấp cho từng người lao động được đưa xuống đủ để họ có sức làm việc. Trước hết, người Việt ta làm và đối xử với nhau cho tốt và cố gắng không đánh mắng nhau; vận động, nhắc nhở phu đi ngủ phải mắc mùng, không để muỗi đốt, ngừa sốt rét. Rồi nói với họ hạn chế dần chuyện đánh bạc, cho đánh chơi, giải trí ngày chủ nhật. Nơi ăn, ở phải giữ cho sạch sẽ. Bằng cách đó, tôi đã nối được quan hệ giữa thầy xu với cặp rằng. Từ đó, từ thầy xu đến phu đồn điền bước đầu đã có lòng tự tôn dân tộc và có sự thông cảm, chia sẻ, biết quan tâm đến nhau hơn lúc lao động cực nhọc hay đau ốm.

Hồi đó, rau tươi hiếm, trong bữa ăn của phu cao su chỉ có cơm với cá khô và tương. Xung quanh nhà ở của người phu có nhiều đất, tôi nói với các thầy xu khuyến khích người phu trồng rau muống cạn, nơi ao chuôm có nước thì trồng rau muống nước. Bữa ăn, có rau muống luộc chấm tương, người phu ăn thấy ngon miệng hơn. Rau muống ăn không hết thì họ cắt bán cho công ty. Các lô khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Sự căng thẳng giữa người phu với cặp rằng và thầy xu giảm dần. Tôi bàn với thầy xu và cặp rằng, mỗi lô chọn một người phu có uy tín lo việc ăn uống và nhận lương cấp phát cho anh em. Đọc báo, thấy bên Pháp có tổ chức Nghiệp đoàn thợ thuyền và được luật pháp quy định, nên khi tôi xin tổ chức Nghiệp đoàn cao su thì chủ Tây đồng ý. Sau đó, việc này lan tỏa ra cả khu đồn điền cao su Lộc Ninh.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #5 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:39:03 am »

Trước ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra và bị thất bại. Từ đó cho đến năm 1943, thực dân Pháp đàn áp khủng bố khốc liệt. Cơ sở của ta bị vỡ, nhiều cán bộ bị bắt, tù đày, tử hình 1, tổ chức cách mạng tan rã. Một số chạy lên các đồn điền cao su để tránh đòn khủng bố ráo riết của quân Pháp, trong số đó có anh Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hữu Đang và Hoàng Dư Khương. Mãi sau này, khi anh Khuông đã là ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, gặp lại tôi, anh mới nói:

- Hồi đó, mình ở Quản Lợi nhưng mình nằm im không hoạt động. Mình thấy cậu hoạt động nhưng mình không bắt liên lạc.

Tôi hỏi lúc đó anh làm gì, thì anh trả lời bằng tiếng Pháp:

- Cápôral Capôreax (Cabôran đề Cabôrô), tức là "Cặp rằng của những cặp rằng" (cai của những người cai).

Ở Lộc Ninh, thông qua việc vận động các thầy xu, cặp rằng, tôi thực hiện được ý định đầu tiên là tổ chức, củng cố đời sống vật chất và tinh thần cho những người phu cao su, hâm nóng và thắp sáng trong họ lòng tự tôn dân tộc. Khi công việc này đã có những kết quả khả quan, tôi nghĩ đến việc chọn những người tiêu biểu để giác ngộ và gây dựng lực lượng đầu tiên cho cách mạng ở vùng này. Nhưng muốn tiến hành việc đó, trước hết phải tìm cách bắt được liên lạc với tổ chức của Đảng. Lúc này, với đồng lương và sự tiết kiệm trong chi tiêu đã giúp tôi có điều kiện để thực hiện ý định này.

Như nên đã nói, do làm công việc phân phối thực phẩm nên tôi có điều kiện đi lại, tiếp xúc với nhiều người ở trong và ngoài đồn điền cao su. Tại đồn điền cao su Lộc Ninh này, năm 1942 tôi gặp được người em của anh Nguyễn Văn Tạo (sau này anh Tạo là Bộ trưởng Bộ Lao động). Tôi được dẫn về nhà bố mẹ anh Tạo ở Bình Chánh - Sài Gòn. Từ đây, tôi chính thức bắt được liên lạc với tổ chức cách mạng.

Nói thì ngắn gọn như vậy, nhưng thực tế cũng mất nhiều công mới bắt được liên lạc. Thoạt đầu về Sài Gòn, tôi tìm đến Nhà in Phú Hữu do ông Phú Hữu phụ trách tại đường Galêry. Ông Phú Hữu cũng biết anh Nguyễn Văn Trấn hoạt động công khai cho Đảng Cộng sản (sau Cách mạng Tháng Tám, anh Trấn làm Chính ủy Khu 9). Trong bữa cơm tại nhà ông Hữu, anh Trấn nói: "Tôi có người em làm ở Lộc Ninh gọi là cô Bảy, lấy chồng là anh Tư". Lần thứ hai về Sài Gòn, tôi lại đến nhà ông Hữu và tình cờ gặp anh Tư. Tôi nói, tôi cũng đang làm ở Lộc Ninh. Sau đó chị vợ anh Tư dẫn tôi về nhà cha mẹ mình ở Bình Chánh, nhưng không gặp được anh Nguyễn Văn Tạo. Hóa ra anh Nguyễn Văn Tạo, một người hoạt động cách mạng nổi tiếng, là con thứ ba của ông bà, chị vợ ông Hữu là con thứ tư, chị thứ sáu là vợ anh Nguyễn Văn Trấn, kế đó là chị Bảy. Sau đó tôi thường qua lại, được gia đình quý mến, coi như người con của gia đình, mọi người gọi tôi là Tám. Chị Bảy hiện nay, tuy tuổi đã ngoài 90 nhưng còn khỏe. Những lần có việc vào Thành phố Hồ Chí Minh, tôi thường đến thăm chị ở nhà số 16, quốc lộ 1A, phường Thành Lộc, quận 12. Hồi đó, qua tiếp xúc với bạn bè của ông Hữu, anh Tư, tôi thấy ai cũng muốn giành độc lập. Từ những cuộc gặp gỡ này, tôi mới được anh Trấn và chị Tư giới thiệu đến gặp một người đã từng làm chủ bút tờ báo Lao động ở Sài Gòn thời kỳ 1936-1939, báo phát hành ra tận Huế và Hà Nội. Người này đồng thời là Chủ tịch Nghiệp đoàn thợ may Sài Gòn, tên là Văn Công Khai, là đảng viên cộng sản. Thế là chúng tôi gặp nhau ở đó và gặp cả anh Nguyễn Văn Trấn là con rể gia đình anh Tạo, làm ở đồn điền cao su Dầu Tiếng. Anh Trấn là người hoạt động trong phong trào dân chủ năm 1936-1939 sau đó, anh cũng là người tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1945. Tôi nói với anh Văn Công Khai:

- Tôi gặp được anh là nhờ những cuộc gặp gỡ tình cờ ở nhà ông Phú Hữu.

- Phú Hữu là người có cảm tình với cách mạng nhưng theo tư tưởng cải lương. Cách mạng vô sản thực sự phải là Nguyễn Ái Quốc, là Đệ tam Quốc tế - Anh Khai nói.

- Giờ anh ra sao? - Tôi hỏi.

- Tao đi cúp dạo (cắt tóc), cứ gọi tao là thằng Văn, mọi người sẽ biết. Mày cứ xây dựng cơ sở ở trên đó cho tốt, còn tao sẽ xây dựng cơ sở ở đây cho tới thị xã Thủ Dầu Một. Khu vực Chơn Thành và tuyến xe lửa Sài Gòn - Lộc Ninh thì giao cho thằng Trung đang làm ở ngành xe lửa, làm sếp ga Chơn Thành.

Khi biết những việc tôi đã tổ chức làm ở Lộc Ninh, anh Khai bảo:

- Mày làm được! Phải xây dựng những người nòng cốt đại diện cho quyền lợi của công nhân lao động, những người đó phải kiên định.

Lời khuyên của anh Khai giúp tôi thận trọng hơn, tự tin hơn trong công việc tổ chức, lãnh đạo cũng như trong hoạt động cách mạng.

Tôi gặp anh Văn Công Khai trong lúc thực dân Pháp tổ chức lùng bắt, ruồng bố gắt gao. Anh Khai gầy yếu, áo quần rách rưới. Tôi hỏi:

- Anh có đủ ăn không?

- Tao đói, mày có cho tao ít - Anh bảo.

Từ đó, mỗi tháng tôi đưa cho anh Khai từ 7 đến 10 đồng.

Tôi bảo:

- Anh cắt tóc dọc bên bờ sông và trong các làng phu cao su phải thận trọng, phải chọn khách, đừng có dễ tin mà nó biết mặt.

Anh cũng nói cho tôi nghe những kinh nghiệm hoạt động bí mật ở Sài Gòn và Nam Bộ. Anh nói:

- Nếu Xôviết Nghệ - Tĩnh bị tổn thất về cơ sở thì Nam Kỳ khởi nghĩa tổn thất lớn về lãnh đạo.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phong trào công nhân và phong trào cách mạng chung trong toàn tỉnh, đầu năm 1943, tại làng 1, đồn điền cao su Dầu Tiếng, Tỉnh ủy lâm thời (gọi là Ban Cán sự Đảng) tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập do anh Văn Công Khai làm Bí thư. Tôi được bổ sung vào Tỉnh ủy. Tỉnh ủy phân chia địa bàn hoạt động ra làm hai vùng phía bắc và phía nam, phân công cán bộ chỉ đạo trực tiếp các vùng. Tôi và anh Nguyễn Văn Trung chỉ đạo phong trào Lộc Ninh và toàn bộ vùng phía bắc.

Sang năm 1943, phong trào công nhân ở đồn điền cao su Lộc Ninh đã vững, tôi phát triển sang Công ty Cao su Đất đỏ, gồm: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch. Anh Trung hoạt động có hiệu quả trên tuyến đường sắt. Còn anh Khai vẫn trong vai "cắt tóc dạo", đi lại như con thoi từ Dầu Tiếng về thị xã Thủ Dầu Một. Cả ba chúng tôi đảm nhiệm gây dựng và phát triển phong trào cách mạng của tỉnh Thủ Dầu Một. Buổi đầu tiên ba chúng tôi gặp và bàn bạc công việc tại nhà ông Sáu Trạng ở thị trấn Bến Cát thuộc Thủ Dầu Một.

Tháng 2-1944, một chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập ở Lộc Ninh gồm năm đảng viên2. Tôi là Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một kiêm Bí thư chi bộ và phụ trách vấn đề dân tộc thiểu số. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy, Chi bộ Lộc Ninh trước mắt khẩn trương gây dựng phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và nhân dân vùng Hớn Quản, chuẩn bị đón thời cơ phát động quần chúng công nhân và đồng bào các dân tộc vùng lên khởi nghĩa.

Từ sau khi ra đời, Chi bộ Lộc Ninh thường lấy nhà thầy giáo Nhuận (tại chợ Lộc Ninh) làm một trong những nơi hội họp, cất giấu tài liệu mật của Đảng, đồng thời cũng là nơi liên lạc nhận tài liệu từ cấp trên đưa xuống.

Giữa năm 1944, Xứ ủy chủ trương xúc tiến việc thành lập các đoàn thể Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ. Tinh Thủ Dầu Một đề ra phương châm: nơi nào đã Phục hồi cơ sở đảng thì tổ chức các hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc), sau đó phát triển đến các nơi khác. Ở Lộc Ninh, Chi bộ Đảng sau một thời gian gây dựng cơ sở đã thành lập nhóm trung kiên gồm các ông Mé, Ký Trinh, Khiêm, Ba Đèn, Cai Loại và Hai Định, làm nòng cốt vận động phong trào Việt Minh. Đến đầu năm 1945, vùng Lộc Ninh đã có một số hội cứu quốc.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp, giành quyền cai trị Đông Dương.

Lực lượng Nhật chiếm đóng ở Lộc Ninh do một tên quan tư Nhật chỉ huy. Chúng sử dụng các đơn vị bộ binh giữ những vị trí quan trọng ở thị trấn, các đồn điền cao su Lộc Ninh, Hớn Quan và Bù Đớp. Cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị, chúng thiết lập hệ thống kho tàng trong các đồn điền.

Việc quản lý xã hội của quân Nhật trở nên rất lỏng lẻo, đây là thời cơ tốt để ta phát triển lực lượng cách mạng. Trên thực tế, lực lượng cách mạng ơ Nam Bộ nói chung và ở Thủ Dầu Một nói riêng, trong những ngày này, đã phát triển cả về tổ chức và lực lượng.

Về lực lượng, ta tổ chức và phát triển phần lớn là lực lượng hợp pháp, hoạt động công khai; một bộ phận là bất hợp pháp, hoạt động bí mật. Thanh niên cứu quốc và Phụ nữ cứu quốc là tổ chức hoàn toàn bí mật, còn tổ chức Thanh niên tiền phong lấy biểu tượng cờ vàng, sao đó thì hoạt động công khai, hợp pháp.

Tháng 6-1945, tổ chức Thanh niên tiền phong ra đời nhằm tập hợp mọi tầng lớp thanh niên Nam Bộ để chuyển hóa thành lực lượng cách mạng. Thanh niên tiền phong phát triển rất nhanh, trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, hoạt động đất sôi nổi.

Bấy giờ, ở tỉnh Thủ Dầu Một và khá nhiều tỉnh khác trong Nam Bộ không nhận được văn bản chính thức Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương. Đến khi anh Văn Công Khai ra họp ở Nha Trang trở vào, triệu tập cuộc họp Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại nhà ông Sáu Trạng ở thị trấn Bến Cát (có anh Trấn - phái viên của Xứ ủy xuống dự) thì anh em mới được rõ. Anh Nguyễn Văn Trấn, anh Hoàng Dư Khương và anh Nguyễn Hữu Đang là những cán bộ đảng lên hoạt động ở đồn điền cao su. Anh Khương là người gốc Quảng Nam, sau này làm Bí thư Khu ủy miền Đông. Anh Đang là đảng viên năm 1930. Lúc đầu nghe tin anh cũng trốn lên đồn điền cao su, nhưng tôi không bắt liên lạc được. Khi anh qua đời để lại ba người con trai, cháu đầu tên là Phú - một thanh niên nhanh nhẹn, làm kinh tế giỏi. Những năm sau này, cháu Phú đến thăm tôi luôn, bây giờ cháu Phú làm ở cơ quan xử lý môi trường. Khi họp, anh Bảy Trấn nói rằng Xứ ủy chủ trương tổ chức Thanh niên tiền phong để hoạt động công khai. Anh nói về tình hình thế giới, bên châu Âu, Hồng quân Liên Xô đã giải phóng hoàn toàn Moscow (Mátxcơva) và nhiều vùng rộng lớn, bây giờ đang tấn công sang phía Belin (Béclin). Ta phải chuẩn bị lực lượng để sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ đến... ở vùng đồn điền cao su, lực lượng nòng cốt của cách mạng là các nghiệp đoàn công nhân do chi bộ đảng vận động và toà chức. Mỗi làng tổ chức một nghiệp đoàn. Ở đồn điền cao su Lộc Ninh có 12 làng là 12 nghiệp đoàn, cùng với các nghiệp đoàn thợ cơ khí, thợ điện, thợ xây, thợ mộc,.. tích cực hoạt động. Lúc đầu chưa tổ chức đội vũ trang nhưng tất cả đã thống nhất với nhau, bí mật chuẩn bị vũ khí gồm gậy tầm vông vót nhọn, giáo mác, anh em người dân tộc Xtiêng thì có cung nỏ, vì chúng tôi thấy không thể chỉ nổi dậy khởi nghĩa bằng biểu tình mà phải có vũ khí, có đội vũ trang làm nòng cốt. Tôi trực tiếp sang tỉnh Krachie (Crachiê) của Campuchia để mua súng rồi vận chuyển về. Lúc đầu viên tỉnh trưởng Krachie cho người chặn đường thu súng. Chúng tôi đấu tranh, bà con Việt kiều thì có quà biếu nên tỉnh trưởng bảo: "Các anh đã bỏ tiền ra mua thì tôi cho trả lại". Việt kiều yêu nước ở Campuchia tự động mua súng gửi về cho cách mạng nước nhà. Số súng tôi sang mua, bà con Việt kiều cũng trả tiền, khoảng trên dưới 100 khẩu các loại, có cả trung liên và đại liên. Tôi còn nhớ trong việc mua súng, người đại diện Việt kiều ở bên đó có tên là Vượng, sau này anh Vượng về nước tham gia công tác ở ngành thông tin bưu điện.

Đến khi nghe tin quân Nhật sắp đầu hàng Đồng minh, chúng tôi chủ trương chọn những người trẻ tuổi, khỏe mạnh, hăng hái tập hợp thành một đội vũ trang. Chỉ tính riêng số anh em người dân tộc Xtiêng đã có khoảng 40 người, tất cả bí mật rời khỏi đồn điền cao su, tập trung về vị trí xóm Bưng để chuẩn bị khí giới và luyện tập vũ trang háo hức chờ lệnh khởi nghĩa.

Với sự tích cực vận động, tổ chức vụ chỉ đạo sâu sát của Đảng, cho đến tháng 8-1945 ở Lộc Ninh, lực lượng quần chúng đã hình thành các hội cứu quốc (Việt Minh), Thanh niên tiền phong, các đội thanh niên bán vũ trang, đội tự vệ. Lực lượng này đứng chân trên địa bàn phía bắc, góp phần đáng kể cho toàn tỉnh "hình thành một lực lượng bán vũ trang đông đảo gồm 150 đoàn Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc có hơn 2 vạn đoàn viên3 sẵn sàng chờ lệnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.

Trong khi đó, khắp các vùng quê của tỉnh Thủ Dầu Một, Tỉnh ủy đã chỉ đạo chuyển phong trào lập nhóm cứu quốc lên hội cứu quốc trong nông dân, công nhân, phụ nữ, thanh niên. Cùng với việc lập hội cứu quốc là phong trào tự sắm vũ khí, mỗi nơi có biện pháp sáng tạo riêng, nhưng đều đem lại kết quả tốt. Các thợ rèn trước đây chỉ sản xuất nông cụ, nay tự nguyện rèn dao găm, kiếm, mã tấu để ủng hộ đội tự vệ. Công nhân đề bô xe lửa Dĩ An làm vũ khí đưa ra cơ sở Việt Minh để đồng chí Đào Sơn Tây lập đội tự vệ ở xung quanh nhà máy. Trong tổ chức Thanh niên cứu quốc, hầu hết đoàn viên đều tự trang bị từ dây trói đến gậy tầm vông, dao găm, búa, xà beng, cung tên, luyện tập võ nghệ. Lợi dụng sơ hở của địch, nhiều công nhân tìm cách lấy súng địch đem về cho tổ chức (bà Trình Thị Hạ - một bồi bếp cho chủ đồn điền - một mình mang về một khẩu súng trường và một khẩu súng ngắn). Ngoài ra, một số chị phụ nữ còn lập mưu giao thiệp với quân ngụy và binh lính Nhật để mua súng, lựu đạn, rồi kết hợp với thanh niên tự vệ cướp súng của Nhật.

Lúc đó, ông Trần Văn Giàu giao cho ông Phạm Ngọc Thạch làm Chủ tịch Thanh niên tiền phong. Đồng chí Nguyễn Văn Đợi trước đây phụ trách Thanh niên cứu quốc, nay kiêm phụ trách Thanh niên tiền phong của Thủ Dầu Một. Ngày 15-7-1945, Đoàn đại biểu Thanh niên tiền phong Thủ Dầu Một kéo về Sài Gòn dự lễ tuyên thệ lần thứ nhất tại vườn ông Thượng cùng với 5 vạn đoàn viên Thanh niên tiền phong các tỉnh. Mọi người đồng thanh với thủ lĩnh Phạm Ngọc Thạch xin thề: Trung thành với Tổ quốc; trung thành với nhân dân; giữ gìn phẩm chất cao đẹp! Phong trào thanh niên toàn Nam Kỳ đã góp phần tăng cường lực lượng cách mạng của toàn dân.

Tại tỉnh lỵ Thủ Dầu Một và các quận, quân đội Nhật rất hoang mang khi nghe tin Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh. Chúng chôn giấu một số vũ khí, cấm binh sĩ không được ra khỏi đồn bốt, doanh trại. Một vài sĩ quan ở thành Phú Hòa mổ bụng tự tử. Hầu hết lính Nhật mong muốn sớm được trở về nước; một số ít bỏ trốn, ở lẫn trong dân để đi theo Việt Minh. Nắm lấy cơ hội này, Tỉnh ủy cử cán bộ đến yêu cầu chúng án binh bất động để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho chúng, còn ta thì càng thuận lợi cho việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa.

Tại các đồn điền cao su Lộc Ninh, Hớn Quản, Dầu Tiếng, tổ chức Thanh niên cứu quốc, Thanh niên tiền phong có nhiều hình thức hoạt động phong phú, công khai tuyên truyền khởi nghĩa, dán khẩu hiệu "kiên quyết giành độc lập dân tộc" ở các làng công nhân. Đội vũ trang thì ráo riết luyện tập chuẩn bị vũ khí. Nhìn chung, từ ngày 18 tháng 8 trở đi ở Bến Cát, Tân Uyên, Dĩ An, Lộc Ninh,... địch đang trên đà suy sụp, rệu rã. Thế ta mạnh, lực lượng ta đông nên đã làm chủ tình hình ở những vị trí xung yếu nên toàn tỉnh. Lực lượng cách mạng chỉ còn chờ lệnh khởi nghĩa phát ra là sẽ đứng lên giành lấy chính quyền về tay nhân dân.

Ở Nam Bộ, các cấp bộ đảng thấm nhuần tinh thần của Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", đã chủ động, linh hoạt, sáng tạo, tích cực đón thời cơ khởi nghĩa. Khi được tin phát xít Nhật đầu hàng và nhất là được tin Hà Nội cướp chính quyền thắng lợi, nhân dân các địa phương gấp rút nổi dậy. Trong khi chưa liên lạc được với anh Nguyễn Văn Trung, tôi đã triệu tập cuộc họp tại Lộc Ninh gồm 10 người, trong đó có các ông Ba Đèn, Lợi, Lộc, Sang,... bàn việc cướp chính quyền. Lực lượng khởi nghĩa lúc này ngoài các đội tự vệ, thanh niên quyết chiến, Thanh niên tiền phong còn có đoàn thể công đoàn cứu quốc và tất cả mọi người dân yêu nước đang náo nức làm một cuộc đổi đời cho chính mình và cho cả dân tộc.

Sau khi dự Hội nghị Xứ ủy về, anh Văn Công Khai liền tổ chức cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng (từ ngày 21 đến 23-8-1945). Hội nghị quyết định: giành chính quyền ở tỉnh vào ngày 25-8-1945, giành chính quyền ở các quan và thị trấn ngày 24 hoặc 25-8-1945, không được chậm trễ. Hội nghị cũng quyết định thành lập ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thủ Dầu Một do anh Văn Công Khai làm Chủ tịch.

Sau hội nghị, anh Văn Công Khai phân công từng người về triển khai các biện pháp thực hiện. Tôi được giao nhiệm vụ phụ trách các quận Hớn Quản, Bù Đốp và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sau khi giành chính quyền xong, tổ chức lực lượng chi viện cho thị xã Thủ Dầu Một và Sài Gòn cướp chính quyền.

Ngày 23-8-1945, tin tức về thắng lợi của cuộc đấu tranh chính trị ở Sài Gòn và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Tân An nhanh chóng dội đến Thủ Dầu Một, càng thôi thúc các địa phương sục sôi nổi dậy.

Sáng ngày 24-8-1945, hàng nghìn công nhân các làng, đồn điền cao su Lộc Ninh - Đa Kia cùng nông dân các địa phương nhất tề nổi dậy. Từng đoàn người cầm gậy tầm vông vạt nhọn, xà beng, giáo mác, cung tên tiến vào các nhà máy, xí nghiệp đồn điền cao su. Làn sóng người ào ào vượt rào, leo tường, trương cờ đỏ sao vàng hô vang khẩu hiệu: "Chính quyền về tay Việt Minh", "Việt Nam độc lập muôn năm!", "Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!".

Quần chúng biểu tình chiếm các trụ sở hành chính, trụ sở cảnh sát trong thị trấn. Binh lính, hạ sĩ quan ngụy nộp vũ khí và được khoan hồng. Tại Bù Đốp, lực lượng khởi nghĩa thu được kho súng máy của địch.

Cùng với Lộc Ninh, các quận Tân Uyên, Lái Thiêu, Bến Cát nổi dậy giành chính quyền trong buổi sáng ngày 24-8-l945. Lộc Ninh là một trong những nơi giành chính quyền sớm trong tỉnh, có 22 người hy sinh. Ngay tối hôm đó, công nhân, nhân dân các làng cùng với chi bộ đảng tổ chức lễ mừng chiến thắng và cử hành lễ truy điệu các chiến sĩ đã hy sinh. Tôi tổ chức lực lượng gồm 300 người, trang bị vũ khí vừa thu được và giáo mác, tầm vông,... kẻo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia tổng khởi nghĩa.

Nói đúng ra, lực lượng cách mạng ở vùng Hớn Quản, Bù Đốp và các quận trong tỉnh đã giành chính quyền từ đêm 28 rạng ngày 24 tháng 8. Đêm 24 tháng 8, lực lượng cách mạng từ các quận, huyện, đồn điền rầm rập tiến về thị xã... Đến 7 giờ sáng ngày 25-8-1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể trước tòa thị chính quận Châu Thành. Sau khi làm lễ chào cờ, đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân. Ngay sau đó, chúng tôi cử một đoàn đại diện về Sài Gòn để tham gia diễu hành. Đoàn đã trên hai xe ôtô cam nhông, có trang bị súng tiểu liên và cung tên.

Trong hoàn cảnh ở xa, điều kiện liên lạc rất khó khăn, nhưng nhân dân Lộc Ninh đã nổi dậy tiến hành khởi nghĩa nhanh và rất gọn khi thời cơ đến. Thắng lợi ấy là kết quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người cộng sản và quần chúng cách mạng, trải qua những bước thăng trầm và bao hy sinh mất mát và là kết quả trực tiếp của cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những tháng ngày khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa giành chính quyền.

Bây giở tuổi đã cao, trí nhớ giảm, tôi không thể mường tượng lại đầy đủ những công việc, những con người và không khí hừng hực của ngày Tổng khởi nghĩa đó, cũng không thể nhớ hết bản thân mình đã làm được gì. Nhờ có bạn bè, đồng chí nhắc lại đã giúp tôi nhớ đôi chút. Chẳng hạn, ngày 8-5-2000, trong lá thư của anh Trần Văn Canh ở 73A Trần Bình Trọng, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh gửi cho tôi có đoạn viết: "Tôi và vợ tôi rất vui mừng nhận được quà quý do anh chị gửi tặng nhân kỷ niệm 25 năm Ngày miền Nam giải phóng. Gói quà mang đậm đà tình đồng chí, tình anh em, gợi cho tôi nhớ ngày nào... Ngày ấy, ở nhà hát của Sở Cao su Quản Lợi, anh phất cờ đỏ sao vàng kêu gọi công nhân, viên chức làm cách mạng, đánh đổ phát xít Nhật và thực dân Pháp, giành độc lập cho Tổ quốc. Lời kêu gọi hấp dẫn của anh đã được toàn thể quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng, hô to: "Việt Nam độc lập muôn năm!". Tôi đi kháng chiến tưởng đâu không được gặp lại người mở đường cho mình. Ai ngờ qua hơn một năm sau, không những được gặp mà còn may mắn được người ấy dìu dắt nâng đỡ...".

Trong Cách mạng Tháng Tám, lãnh đạo giành chính quyền ở thị xã là anh Văn Công Khai, còn ở trên vùng cao su do tôi đảm nhiệm. Cả Lộc Ninh và Quản Lợi đều nằm trong quận Hớn Quản. Đây là vùng rộng lớn. Giành được chính quyền, tôi hỏi anh em nên cử ai làm chủ tịch. Anh em bảo nên cử người mới. Tôi đề xuất bác sĩ Hồ Văn Huê làm Chủ tịch Công ty Cao su Quản Lợi đồng thời làm Chủ tịch ủy ban Hớn Quản. Về sau anh làm công tác y tế ở Khu 7, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và trở thành một đảng viên cộng sản. Sau anh chuyển ra ngoài quân đội, làm Thứ trưởng Bộ Y tế. Mỗi lần ôn lại kỷ niệm về Cách mạng Tháng Tám, tôi tâm đắc một điều: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta giỏi quá? Giỏi ở việc chọn thời cơ và chớp thời cơ phát lệnh khởi nghĩa. Thời điểm đó, ta phát lệnh khởi nghĩa sớm hơn là không được mà chậm hơn cũng không được. Vì nếu phát lệnh khởi nghĩa sớm hơn thì quân Nhật còn mạnh, chưa tuyên bố đầu hàng Đồng minh và sớm hơn nữa thì quân Nhật còn chưa bị đánh bại ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương. Nếu phát lệnh khởi nghĩa muộn hơn thì thời cơ sẽ qua đi, quân Đồng minh sẽ vào tước vũ khí quân Nhật sau khi Nhật đầu hàng. Vì vậy, không thể chậm trễ, phải giành chính quyền sau khi Nhật đầu hàng và trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương và Việt Nam. Thời gian thích hợp với điều kiện đó là nửa cuối tháng 8-1945. Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 14 và 15-8-1945 khẳng định: Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới. Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải tập trung, thống nhất, kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám đã nêu lên một mẫu mực về vấn đề tận dụng thời cơ, cơ hội thuận lợi, đồng thời chủ động vượt qua những khó khăn, thách thức, hạn chế tác động tiêu cực của nguy cơ. Giá trị lý luận và chính trị - thực tiễn đó đã được Đảng ta chú trọng vận dụng vào quá trình lãnh đạo cách mạng từ đó đến nay, nhất là trong sự nghiệp đổi mới.

Bài học về chọn thời cơ, chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám cũng là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi.





-------------
1. "Theo số liệu địch: tính từ tháng 1-1941 đến năm 1944, chúng bắt 7.048 người, lập Tòa án quân sự xét xử 2.507 người với nhiều mức án: tử hình 218 người, tù chung thân 219 người...". Theo Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến (1945- 1954), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật Hà Nội, 2010, t.I, tr.104.

2. Gồm có tôi và các đồng chí: Lộc - bưu điện, Ba Đèn - thợ điện, Hai Lực - thợ nguội và Cứng - lái xe. Trong bốn người có đồng chí Lộc còn khá trẻ và có trình độ học vấn tú tài, còn ba người kia đã đứng tuổi. Anh Lộc sau này chiến đấu cùng đơn vị tôi và đã hy sinh. Ông Gián là người gốc Chợ Lớn, vì ông phụ trách nhà đèn và hệ thống điện của khu đồn điền nên mọi người quen gọi ông là Ba Đèn. Ông Ba Đèn có con là Lê Văn Định làm ở xưởng cơ khí, thông qua con trai, ông đã tổ chức được Nghiệp đoàn cơ khí. Điều kiện công việc hằng ngày đã tạo cho ông đi nhiều, quan hệ rộng và hoạt động tích cực. Ông là người trung thành, kiên cường dũng cảm. Trong một trận phục kích đánh quân cơ động Pháp, ông bị thương và bị bắt, không khuất phục được ông, giặc Pháp đã mang ông ra bắn tại sân đá banh Lộc Ninh. Còn ông Cứng cũng có người con trai tham gia bộ đội kháng chiến. Cả hai cha con đã hy sinh trong những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sông Bé, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sông Bé, 1995, tr.195-196.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #6 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:42:08 am »

Chương 3

VÀO QUÂN ĐỘI THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

 
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc. Nhưng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đối phó với tình thế vô cùng khó khăn, phức tạp, đó là âm mưu trở lại xâm lược của thực dân Pháp. Ngay từ ngày 2-9-1945, thực dân Pháp đã nổ súng ở Sài Gòn và đến đêm 22 rạng ngày 28-9-1945, chúng đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh tái xâm lược Việt Nam.

Giữa lúc tiếng súng còn đang nổ ran ở nhiều nơi trong thành phố, vào sáng sớm ngày 23-9-1945, Xứ ủy, Ủy ban nhân dân và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ triệu tập cuộc họp liên tịch tại số nhà 629 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị do đồng chí Trần Văn Giàu - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ chủ trì, quyết định: vừa đánh điện báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương, vừa phát động kháng chiến ngay lập tức.

Tại Hà Nội, khi nhận được điện báo cáo, Trung ương nhất trí với quyết tâm của Xứ ủy, Ủy ban nhân dân Nam Bộ và hạ quyết tâm tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của cho nhân dân Nam Bộ. Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập những đơn vị Nam tiến chi viện cho chiến trường Nam Bộ.

Ủy ban kháng chiến Nam Bộ xác định: Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu là tiêu diệt giặc Pháp và tay sai của chúng. Tổng công đoàn Nam Bộ tổ chức các đội vũ trang công nhân. Lực lượng vũ trang công nhân có trên 6.000 người, đóng vai trò nòng cốt trong các lực lượng nội thành. Đội vũ trang của công nhân cao su do tôi phụ trách tuy gọi là trung đội, nhưng quân số có đến hơn 100 người, trong đó có trên 40 người là dân tộc Xtiêng có súng với cung nỏ khoác trên vai, bao tên đeo ngang hông, nên đồng bào gọi là "Đội quân áo nâu”, "Đội quân cung tên". Ủy ban kháng chiến Nam Bộ thành lập bốn mặt trận ở ngoại thành, bao quanh thành phố Sài Gòn, thực hiện chiến thuật “trong đánh ngoài vây".

Tôi tổ chức một bộ phận có súng và cung nỏ, dao, mã tấu (từng đóng vai trò xung kích làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương trước đó) kéo quân từ Lộc Ninh, Hớn Quản về tham gia chiến đấu tại mặt trận số 2 (còn gọi là mặt trận phía bắc).

Các chiến sĩ trong "Đội quân áo nâu” đã chiến đấu kiên cường, góp phần đáng kể vào việc cầm chân địch suốt hơn một tháng, làm thất bại ý đồ "đánh nhanh thắng nhanh" của địch.

Những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, lực lượng vũ trang ở đây khá phức tạp, có nhiều thành phần. Một số tôn giáo, phe phái lại có lực lượng vũ trang riêng và một vài người cầm đầu các tổ chức này tìm cách khống chế được một số quần chúng, tuy nhiên qua một thời gian đấu tranh, họ đã bị sàng lọc.

Trong khi đó, cơ quan lãnh đạo cách mạng ở Nam Bộ lúc này chưa có sự thống nhất. Hai nhóm "Tiền phong” và "Giải phóng” vẫn song song tồn tại trong Xứ ủy. Tình hình trên đặt ra cho cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ hàng loạt nhiệm vụ cấp bách phải giải quyết để vượt qua khó khăn, trở ngại, tạo ra những bước đi căn bản, vững chắc bảo đảm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Ngày 15-10-1945, Hội nghị cán bộ toàn xứ được triệu tập gồm các đồng chí đại diện cho Xứ ủy Tiền phong, Xứ ủy Giải phóng cũ, các đồng chí ở nhà tù Côn Đảo mới về. Tiếp đó, ngày 25 tháng 10, diễn ra Hội nghị Xứ ủy mở rộng tại Thiên Hộ (Cái Bè, Mỹ Tho). Hội nghị đã đề ra chủ trương về xây dựng, củng cố tổ chức đảng, tổ chức Việt Minh và các đoàn thể kháng chiến; phương hướng xây dựng, hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng.

Tại các tỉnh, cấp ủy và chính quyền các cấp đều tổ chức các đội tự vệ chiến đấu và du kích. Một số nơi đã tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung với quy mô từ một trung đội đến một đại đội. Những đơn vị này hoạt động rất tích cực và đều là những đơn vị tiền thân của các chi đội chủ lực sau này.

Cùng sát cánh chiến đấu với các đội vũ trang của công đoàn, tự vệ, du kích và các đơn vị bộ đội nói trên còn có lực lượng “Quốc vệ đội" và “quốc gia tự vệ cuộc", tiền thân của lực lượng Công an nhân dân sau này. Tại tỉnh Thủ Dầu Một, lực lượng này do đồng chí Hồ Văn Nâu phụ trách. Những lực lượng kể trên là lực lượng vũ trang trung kiên do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tuy buổi đầu còn nhỏ và yếu, vũ khí còn thiếu và thô sơ, nhưng cán bộ, chiến sĩ rất hăng hái.

Sự đánh trả quyết liệt của các đơn vị trong nội đô Sài Gòn cùng với sự phối hợp bao vây của các đơn vị vũ trang ven đô và các tỉnh lân cận đã làm cho quân Pháp trong nội thành Sài Gòn gặp nhiều khó khăn, thiếu điện, nước, lương thực, thực phẩm, đi đến đâu cũng bị ta đánh chặn, đánh trả, phục kích. Ngày 23 tháng 10, Binh đoàn thiết giáp Massu (Mátxuy) đến miền Nam, Leclerc (Lơcle) quyết phá vỡ vòng vây xung quanh Sài Gòn và đánh nống ra. Quân Pháp dùng xe tăng và thiết giáp phá vỡ phòng tuyến tây nam Sài Gòn, theo đường 4 tiến công Tân An, Mỹ Tho. Quân Anh đánh chiếm Biên Hòa và Thủ Dầu Một rồi giao cho Pháp.

Ngay từ ngày 24-9-1945, nhiều tỉnh Nam Bộ gửi các đơn vị vũ trang đến Sài Gòn và các tỉnh bao quanh Sài Gòn để tham gia chiến đấu. Đặc biệt, những đội quân các dân tộc thiểu số từ Biên Hòa đến Thủ Dầu Một, mặc trang phục dân tộc, sử dụng vũ khí truyền thống đã sát cánh cùng quân và dân Sài Gòn trên các mặt trận Thị Nghè, Cầu Bông,...

Những ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, nhiều thanh niên hăng hái xung phong vào đội vũ trang. Khi quân Pháp quay lại đánh phá ráo riết thì anh em trụ lại chiến đấu kiên cường và đều là những chiến sĩ trung kiên. Có nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm đã gây ấn tượng không thể phai mờ trong tâm khảm tôi. Chẳng hạn như ông Ba Đèn là một trong bốn công nhân cao su Lộc Ninh mà tôi giác ngộ và kết nạp Đảng đầu tiên. Ông hoạt động tích cực trong phong trào công nhân cao su trước và trong Cách mạng Tháng Tám. Khi Nam Bộ kháng chiến, cả hai bố con ông (ông và con trai) xung phong vào đội vũ trang cầm súng đánh quân Pháp xâm lược. Trong một trận chúng tôi đánh phục kích ở Lộc Ninh, ông Ba Đèn bị địch bắn què chân và bị bắt. Chúng hết tra tấn lại dụ dỗ, nhưng ông không chịu dụ người con trai trở về quy hàng. Cuối cùng, chúng mang ông ra bắn ngay tại sân đá banh Lộc Ninh. Hay như cậu Nghĩa, một thiếu niên mới 16 tuổi mà rất hăng hái tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền. Cậu là một trong những người đầu tiên đánh vào thị xã Hớn Quản. Khi vào tiếp quản quận đường, nhặt được sợi dây chuyền vàng, cậu đã mang lên nộp cho người chỉ huy.

Tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh phái hai cán bộ cao cấp là Vũ Đức và Nguyễn Bình vào Nam Bộ. Ngày đầu vào Nam Bộ, đồng chí Vũ Đức xây dựng căn cứ ở Thuận Lợi. Theo yêu cầu của đồng chí Vũ Đức, tôi cho một lực lượng lên để bảo vệ Tổng hành dinh. Từ Sài Gòn, binh đoàn Leclerc tổ chức tiến công vào căn cứ Thuận Lợi. Chúng tôi được giao nhiệm vụ chặn địch ở cầu Phước Hòa. Ngày đầu, chúng tôi đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, buộc chúng phải lui về phía sau củng cố lực lượng, ba ngày sau chúng mới dám tiến công trở lại. Đồng chí Vũ Đức rút về miền Tây.

Anh Nguyễn Văn Hội và anh Lê Danh Cát được bổ sung vào tiểu đoàn của tôi. Tiểu đoàn dừng chân và hoạt động ở nam - bắc Bến Cát và Hớn Quản, do anh Nguyễn Văn Ngọ làm Tiểu đoàn trưởng, tôi làm Chính trị viên. Tiểu đoàn có ba đại đội. Đại đội ở bắc Bến Cát do anh Lê Danh Cát phụ trách. Đại đội ở nam Bến Cát do anh Ngọ phụ trách và đại đội ở Hớn Quản do tôi phụ trách. Tiểu đoàn của chúng tôi đứng chân trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một, đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một nhưng được độc lập về hoạt động quân sự.

Sau khi đồng chí Vũ Đức rút đi một thời gian thì đồng chí Nguyễn Bình vào lập tổng hành dinh ở Lạc An, Biên Hòa. Đồng chí Bình yêu cầu Tỉnh ủy Thủ Dầu Một cho đơn vị chúng tôi đưa quân về Lạc An để bảo vệ tổng hành dinh của ông. Theo sự phân công của Tỉnh ủy, tôi đưa đơn vị lên đóng quân ở Giáp Lạc và phái một trung đội tăng cường, có trung liên với đủ súng đạn đứng chân ở Thường Lang và giao cho anh Trần Quang Sang, Trung đội phó, phụ trách lực lượng này.

Một hôm, khoảng gần 5 giờ chiều, quân Pháp tổ chức thành hai cánh, một cánh đi bằng tàu thủy, một cánh đi đường bộ tấn công vào tổng hành dinh của đồng chí Bình. Các anh Nguyễn Văn Hội, Lê Danh Cát và một số cán bộ của đơn vị Nam tiến trụ lại tổng hành dinh này. Bộ đội của anh Huỳnh Văn Nghệ chặn đánh quân Pháp một ngày ở Tân Uyên. Tôi tổ chức cho đơn vị đánh chặn địch một ngày ở Thường Lang để cho đồng chí Bình và cơ quan rút về Gia Định. Chúng tôi đánh chặn chúng tiếp một ngày nữa ở Lạc An để các cơ quan và công binh xưởng rút đi an toàn. Khoảng gần 10 ngày sau, khi đồng chí Bình chuyển về tới An Phú Xã thuộc tỉnh Gia Định, quân địch tới bao vây khóa chặt các hướng. Tới gần sáng hôm đó, tôi và anh Hội mới về Phú An Thôn, bụng đói, vừa mua được hai bát phở, chưa kịp ăn thì đã nghe tiếng súng nổ gần, chúng tôi chỉ huy quân ra đánh chặn quân Pháp ở cầu Ông Cộ sát Phú An Thôn, để đồng chí Bình rút qua xã An Thành, nam Bến Cát an toàn... Sau trận này, đồng chí Bình thưởng cho chúng tôi hai tờ giấy bạc 500 đồng tiền Đông Dương, tôi đưa cho cậu Liên quản lý bếp ăn để mua gạo cho bộ đội.

Sau trận thoát hiểm này, đồng chí Nguyễn Bình rút xuống Đức Huệ và gọi tôi tới bảo đơn vị của tôi cùng đi với ông. Tôi nói Đức Huệ thuộc địa phận của tỉnh Chợ Lớn, đơn vị tôi được giao đảm nhiệm địa bàn Thủ Dầu Một, đề nghị đồng chí lấy bộ đội của Chợ Lớn hoặc Gia Định để bảo vệ sở chỉ huy. Ông đồng ý. Tôi báo cáo với Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, một là để đơn vị tôi bảo vệ vùng Hớn Quản - Thủ Dầu Một, hai là để phát động, xây dựng phong trào cách mạng ở vùng cao su thì phải đánh vào thị trấn Hớn Quản. Tỉnh ủy đồng ý. Tôi kéo quân về vùng cao su Hớn Quản. Lúc này quân Pháp đã bình định hết cả vùng cao su và các địa bàn xung quanh.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #7 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:45:04 am »

Trước tình hình đó, chúng tôi quyết tâm thực hiện một trận đánh vào quận lỵ Hớn Quản. Tôi tổ chức lực lượng thành hai mũi tiến công. Một mũi dùng lực lượng một trung đội do anh Trần Quang Sang, tức Trần Văn Phước phụ trách, đánh dọc theo đường xe lửa vào. Mũi thứ hai dùng lực lượng một đại đội thiếu do tôi chỉ huy, vận động dọc theo quốc lộ đánh thẳng vào trung tâm quận lỵ. Cậu Nghĩa, lính trinh sát dẫn đường (sau này Nghĩa đi trinh sát vũ trang để chuẩn bị xây dựng lại cơ sở cách mạng trong đồn điền cao su, cả tốp trinh sát bị địch phục kích bắn chết).

Trận tập kích quận lỵ Hớn Quản thắng lợi. Quân địch phải co lại, không dám hành quân càn quét tràn lan như trước nữa. Chúng tôi tranh thủ tung người vào các vùng cao su để bắt liên lạc, gây dựng lại cơ sở cách mạng. Và ngay sau đó, ban liên lạc được tổ chức lại, hoạt động tích cực. Còn ở phía Lộc Ninh, tôi cử đồng chí Son vào bắt liên lạc với cơ sở cũ trong đồn điền cao su. Người đầu tiên mà Son gặp là Nguyễn Đức Nhuận. Anh Nhuận hoạt động tích cực trong phong trào công nhân cao su, sau này, trong một trận đánh, anh Nhuận bị giặc Pháp bắt và đưa đi mất tích. Mãi gần đây anh Thái Văn Sa mới tìm được căn cứ và làm các thủ tục đề nghị công nhận liệt sĩ cho anh Nhuận (anh Thái Văn Sa trước khi nghỉ hưu là Đại tá, Chánh án Tòa án quân sự Quân khu 7).

Sau trận đánh quận lỵ Hớn Quản, tôi cho củng cố bộ đội, phái một trung đội về gây dựng phong trào du kích chiến tranh ở nông thôn, còn hai trung đội bố trí hoạt động ở đồn điền cao su trên địa bàn Hớn Quản và các trục giao thông. Anh Nguyễn Văn Tiết và anh Văn Công Khai thì ở lại vùng Lái Thiêu, Chơn Thành, thị xã Thủ Dầu Một gây dựng lại cơ sở cách mạng ở vùng ven thị xã để đánh địch. Sau trận đánh vào quận lỵ Hớn Quản thắng lợi, nhân dân phấn khởi và chúng tôi đã thực hiện được việc xây dựng lại các nghiệp đoàn cao su.

Ngày 10-12-1945, Hội nghị Xứ ủy mở rộng ở Bình Hòa Nam (nay thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An) triển khai quyết định của Chính phủ Trung ương về việc chia Nam Bộ thành ba chiến khu (Chiến khu 7, Chiến khu 8 và Chiến khu 9) và việc cử Bộ Chỉ huy chiến khu (gọi tắt là Khu bộ).

Đồng chí Nguyễn Bình là Khu bộ trưởng Khu 7. Lực lượng vũ trang của Nam Bộ từ các đơn vị tự vũ trang tiền thân đã tổ chức thành các chi đội. Mỗi chi đội đứng chân và hoạt động ở một tỉnh.

Chi đội 1 đứng chân ở tỉnh Thủ Dầu Một. Chi đội có ba đại đội: Đại đội 1, Đại đội 2, Đại đội 3. Ba đại đội, nhưng quân số và tổ chức tương đương ba tiểu đoàn. Chi đội 1 ở tỉnh Thủ Dầu Một được hình thành khi quân xâm lược cơ bản chiếm đóng được các vùng thị xã, thị trấn, đường giao thông quan trọng và bắt đầu càn quét "bình định" vùng nông thôn, các đồn điền cao su rộng lớn của ta. Đơn vị hoạt động trên một chiến trường rộng trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, Hớn Quản.

Sau khi thống nhất lực lượng giải phóng quân, các cơ quan và Ban Chỉ huy Chi đội 1 đóng sở chỉ huy ở quận Lái Thiêu. Sang năm 1946, các chi đội của các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ lần lượt được thành lập. Cả Nam Bộ có 25 chi đội. Chi đội 1 của Thủ Dầu Một là chi đội thành lập sớm nhất và cũng là chi đội mạnh với số lượng quân đông và nhiều súng đạn nhất.

Đầu năm 1946, hai anh Văn Công Khai và Nguyễn Văn Tiết nói với tôi: Xứ ủy yêu cầu anh Nguyễn Khắc Cần về công tác ở Đài Phát thanh Nam Bộ. Tỉnh ủy đã nhất trí điều anh Lê Đức Anh làm Chính trị viên Chi đội 1 thay anh Cần.

Tôi làm Chính trị viên Chi đội 1 được một thời gian, anh Huỳnh Kim Trương, Chi đội trưởng nói với tôi:

- Đảng Cộng sản giải tán rồi, anh vận động cái gì?

- Đảng Cộng sản không hề giải tán mà chỉ rút vào hoạt động bí mật thôi - Tôi trả lời.

Anh Trương là đảng viên Đảng Dân chủ, hoạt động hăng hái, sau đó, anh bỏ Đảng Dân chủ, tự nguyện phấn đấu để gia nhập Đảng Cộng sản. Đến năm 1947, anh Huỳnh Kim Trương được kết nạp vào Đảng Cộng sản.

Một thực tế không thể tránh khỏi là cuộc chiến đấu của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn. Với lực lượng vũ trang còn non yếu, ta không ngăn được sức tiến công của một đội quân nhà nghề Pháp được trang bị đầy đủ vũ khí. Quân xâm lược chiếm đóng tất cả các thành phố, thị xã, đường giao thông quan trọng ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và bắt đầu càn quét "bình định" vùng nông thôn Nam Bộ rộng lớn. Chính quyền và các đoàn thể của ta ở nhiều nơi bị tan vỡ. Bộ đội ta và lực lượng kháng chiến đang đứng trước tình hình hết sức khó khăn. Vũ khí, gạo, quần áo, thuốc men đều thiếu, nhất là ở miền Đông, có nơi bộ đội phải ăn cháo, ăn củ rừng.

Chính trong những ngày gay go ác liệt này, các đơn vị vũ trang Nam Bộ đã xác định được phương hướng xây dựng, thống nhất củng cố và phát triển để có đủ sức chiến thắng kẻ thù xâm lược. Một hình thái chiến tranh nhân dân bắt đầu hình thành và phát triển.

Ngày 6-3-1946, Hiệp định Sơ bộ giữa Pháp và Việt Nam được ký kết. Quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng Giới Thạch. Lực lượng của Pháp ở trong Nam giảm, tạo thêm điều kiện để Nam Bộ phát triển lực lượng cách mạng chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.

Mặc dù Hiệp định Sơ bộ đã được Chính phủ Pháp phê chuẩn, nhưng phe chủ chiến trong chính giới Pháp vẫn tìm cách phủ nhận và dựng lên cái gọi là "vấn đề Nam Kỳ" thực hiện âm mưu "chia để trị". Chúng tuyên bố "Hiệp định Sơ bộ không hề ràng buộc Nam Kỳ" và tách Nam Kỳ thành một "xứ tự trị"... Do đó, ở Nam Kỳ (và cả nam vĩ tuyến 16), Pháp vẫn tiếp tục thực hiện biện pháp quân sự tàn bạo để "bình định" nông thôn, tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, thi hành thủ đoạn chính trị nham hiểm tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Đến cuối tháng 3-1946, thực dân Pháp chiếm đóng gần như toàn bộ Nam Kỳ và cực Nam Trung Bộ.

Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (có cán bộ từ chiến trường Nam Bộ ra dự) vào cuối tháng 5-1946 đã phân tích âm mưu mở rộng chiến tranh của địch và nhấn mạnh "phải thống nhất chỉ huy", "giữ quyền chủ động tác chiến", “phát triển vũ trang tuyên truyền”, "quấy rối ở các thành phố".

Tháng 3-1946, đồng chí Lê Duẩn nhân chuyến ra Bắc báo cáo tình hình, đã ghé qua miền Đông Nam Bộ. Đồng chí giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Đức Thuận giữ trách nhiệm Bí thư Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ và cử đồng chí đi địa phương cùng các tỉnh ủy củng cố lại tổ chức. Ngay sau đó, tại Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng chí Nguyễn Đức Thuận đã triệu tập cuộc họp bất thường, các cán bộ chủ chốt của tỉnh đều tham gia họp. Được sự ủy nhiệm của đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Nguyễn Đức Thuận đã chỉ định danh sách Tỉnh ủy Thủ Dầu Một gồm bảy đồng chí1. Đồng chí Nguyễn Văn Tiết được chỉ định làm Bí thư và đồng chí Văn Công Khai làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

Giữa năm 1946, một tổn thất lớn của Đảng bộ Thủ Dầu Một là đồng chí Văn Công Khai, Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên, người cán bộ lãnh đạo trung kiên lúc này đang là Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh đã anh dũng hy sinh.

Giữa tháng 11-1946, tại chiến khu Đồng Tháp Mười, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức. Hội nghị đã quán triệt chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng về kiện toàn Đảng bộ Nam Bộ, đề ra một số biện pháp nhằm củng cố tổ chức đảng các cấp, củng cố tổ chức Mặt trận Việt Minh, xác định quyền lãnh đạo trực tiếp và duy nhất của Đảng Cộng sản đối với cuộc kháng chiến trên cơ sở tập hợp sự đoàn kết, thống nhất các lực lượng chính trị, trong đó có Đảng Dân chủ.

Hội nghị đã kiện toàn Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ Nam Bộ gồm các đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh, Hoàng Dư Khương, Phạm Hùng, Nguyễn Thị Thập, Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Thuận, Trần Văn Trà. Đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh được cử làm Thường trực Xứ ủy (trong khi đồng chí Lê Duẩn còn đang công tác ngoài Bắc). Đến đây tình trạng phân biệt "Tiền phong" và "Giải phóng", "Việt Minh cũ” và "Việt Minh mới" trong Xứ ủy cũng như trong toàn Đảng bộ Nam Bộ đã được xóa bỏ, sự thống nhất về tổ chức lãnh đạo được xác lập.

Hội nghị Xứ ủy đã đạt được một số vấn đề cơ bản và quan trọng là sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức lãnh đạo của Đảng bộ Nam Bộ. Nhưng những vấn đề vừa hệ trọng, vừa cơ bản, vừa bức thiết là phương hướng, sách lược, chiến lược, phương châm lãnh đạo kháng chiến giành thắng lợi thì phải đến Hội nghị Xứ ủy mở rộng do đồng chí Lê Duẩn, sau khi từ Việt Bắc trở vào, triệu tập tháng 4-1947 tại Đồng Tháp Mười mới mở ra. Có tỉnh cử hai, ba người đi dự, tỉnh ít cũng một người. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một cử tôi đi dự. Sài Gòn - Chợ Lớn có anh Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), lãnh đạo phong trào thanh niên có anh Trần Bạch Đằng. Ngoài ra, tôi còn nhớ các anh Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Kỉnh,... có tham dự. Anh Lê Duẩn phát biểu đã trình bày tất cả các vấn đề, lời lẽ khúc chiết, mạch lạc, vừa minh chứng bằng ví dụ cụ thể, vừa có tính khái quát, lý luận rành rẽ, chúng tôi nghe mà thấy sáng ra nhiều vấn đề. Hội nghị đã kiểm điểm ba tháng thực hiện tổng tấn công “quấy rối, phong tỏa, phá hoại" trên các chiến trường, hơn thế đã quán triệt đẩy đủ và sâu sắc đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh" của Đảng; đề ra các biện pháp xây dựng, phát triển lực lượng quân sự mạnh trên cơ sở lực lượng chính trị rộng khắp. Đặc biệt, Hội nghị nhấn mạnh việc củng cố tổ chức cơ sở đảng từ Xứ ủy đến cơ sở. Tại Hội nghị này, Xứ ủy chính thức được thành lập, thay Xứ ủy lâm thời thành lập tháng 11-1946. Hội nghị nhất trí bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy.


--------------------------------------------------------------
1. Bảy đồng chí lấy bí danh theo bảy chữ: Chánh - Phủ - Cộng - Hòa - Dân - Chủ - Việt: Nguyễn Văn Tiết bí danh là Trần Minh Chánh, Văn Công Khai bí danh là Văn Công Phủ, Hồ Văn Nâu bí danh là Hồ Cộng, Lê Đức Anh bí danh là Lê Phú Hòa, Nguyễn Văn Thi bí danh là Nguyễn Văn Dân, Phan Ân bí danh là Phan Dân Chủ, Dương Danh Thắng bí danh là Dương Thanh Việt.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #8 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:50:29 am »

Hoàn cảnh chiến đấu của bộ đội và cán bộ các ngành dân, chính, đảng trong nửa đầu năm 1946 cực kỳ khó khăn. Tỉnh Thủ Dầu Một ruộng ít, rừng nhiều, lương thực tại chỗ không đủ ăn cho dân địa phương, lại bị địch càn quét, bắn giết, cướp của, phá hoại kinh tế nên càng khó khăn về đời sống sinh hoạt. Sau trận chúng tôi đánh vào quận lỵ Hớn Quản, đánh vào Xa Cam, Xa Cát, quân giặc đã lồng lộn quay lại đốt phá Tân Khai. Chính nơi đây, chúng đã chặt đầu đồng chí Chín thu và đổ hết gạo xuống giếng. Gạo ngâm nước sau mấy hôm vớt lên đã có mùi thối, nhưng anh em vẫn phải đem phơi cho ráo nước và nấu ăn.

Trong những ngày cam go đó, công nhân cao su Hớn Quản, Dầu Tiếng đã bớt phần gạo ăn của mình và gia đình để nuôi bộ đội. Thật cảm động khi có những chị em phu cao su xin thuốc ký ninh, chủ đồn điền bắt phải uống tại chỗ, chị em giả bộ uống, sự thật thì chỉ ngậm sau đó ra ngoài nhả ra, đem về phơi khô gửi cho các chiến sĩ Đại đội 3 của chúng tôi. Tuy gặp nhiều khó khăn, gian khổ nhưng bộ đội vẫn kiên trì chịu đựng, tìm cách khắc phục để sống và chiến đấu. Trong hoàn cảnh ấy, các đơn vị đều quyết tâm đánh địch để cướp vũ khí tự trang bị cho ta, có lúc còn thu được cả lương thực và quân trang quân dụng. Anh em Đại đội 3 còn nhớ mãi hai trận chống càn tại xã An Tây (Bến Cát) làm nức lòng nhân dân địa phương, một trận diễn ra tháng 6 và một trận diễn ra tháng 8-1947, Đại đội 3 đã đánh tan hai đại đội địch, thu được nhiều vũ khí và có cả súng máy. Sau đó, cuối năm 1947 trận tiêu diệt "chiến khu quốc gia" Bình Quốc Tây của Chi đội 1 đã được ghi vào lịch sử.

Đến cuối năm 1946, thực dân Pháp leo thang xâm lược, đưa chiến tranh ra toàn cõi Việt Nam. Pháp thực hiện kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh. Chúng chủ quan cho rằng với lực lượng hiện có thì một, hai năm có thể bình định xong Việt Nam. Nhân dân ta "nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"1, không có con đường nào khác là đứng lên kháng chiến bảo vệ độc lập, tự do. Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ!

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tại một địa bàn có đông công nhân, nhân dân lao động và đồng bào dân tộc thiểu số, cuối năm 1946, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một quyết định thành lập Quận ủy lâm thời Hớn Quản, tôi được phân công làm Bí thư Quận ủy lâm thời. Trong Ban Thường vụ còn có năm đồng chí: Ba Phước (Phó Bí thư), Chín Thành, Hai Lĩnh, Mười Canh, Mì. Kể từ đây, phong trào kháng chiến của vùng Lộc Ninh, Hớn Quản đã có sự lãnh đạo thống nhất của Quận ủy.

Từ cuối năm 1946 đến cuối năm 1947, lực lượng vũ trang được bổ sung cho Nam Bộ là bộ đội hải ngoại. Đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ các đơn vị này là con em Việt kiều ở Thái Lan, Lào và một số ở Campuchia tòng quân về nước cùng cùng bào Nam Bộ kháng chiến.

Tháng 9-1947, Xứ ủy Nam Bộ chính thức quyết định thành lập Phòng Dân quân do đồng chí Lê Duẩn làm trưởng phòng.

Chi đội 1 chúng tôi thường xuyên cử người đến các địa phương hướng dẫn, tập luyện cho dân quân, du kích và tự vệ. Những năm ấy, mối quan hệ giữa bộ đội, dân quân và tổ chức phụ nữ rất khăng khít. Bộ đội giúp dân quân huấn luyện quân sự, giúp phụ nữ tổ chức các lớp học chính trị - quân sự; còn phụ nữ đi vận động quyên góp quần áo, lương thực, thực phẩm, thuốc men cho bộ đội. Đến cuối năm 1947, toàn tỉnh Thủ Dầu Một đã xây dựng được nhiều đội du kích mạnh. Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp tập trung 12.000 quân có đủ thủy, lục, không quân mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến và tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta.

Cuối tháng 10-1947, Chi đội 1 cùng lực lượng vũ trang địa phương đã tổ chức một loạt trận giao thông chiến trên các chiến trường trong tỉnh, trong đó trận đánh ở Bến Ông Khương (ngày 30-10-1947) là trận đạt hiệu suất cao. Cùng ngày, Đại đội 902 (Chi đội 1) cùng du kích thị xã đánh quân tiếp viện cách chợ Thủ Dầu Một 5km, làm thiệt hại nặng một đại đội địch, phá hủy 2 đại bác, 2 thiết giáp.

Mười tám ngày sau, quân Pháp mở rộng cuộc hành quân càn quét vào căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh, cũng là hậu cứ của Đại đội 1 (Chi đội 1). Chúng tiến công bao vây căn cứ. Chúng tôi tổ chức lực lượng Chi đội 1 gồm Đại đội 1, Đại đội 2 kết hợp cùng các đội du kích của các xã đánh địch, chống càn.

Cuối năm 1947, Thủ tướng Chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị Lê Văn Hoạch tổ chức "Chiến khu quốc gia" bên bờ sông Sài Gòn. Nắm được ý đồ của địch, dựa vào cơ sở của ta trong tín đồ Cao Đài, Ban Chỉ huy Chi đội 1 đã cài cắm người vào đơn vị vũ trang của Lê Văn Hoạch tại chiến khu quốc gia trong đó có đồng chí Hoàng Của, Trưởng Ban Quân báo Chi đội 1. Đồng chí Hoàng Của đã nhanh chóng gây được cảm tình và được chúng tín nhiệm cử làm Tham mưu phó. Lực lượng của ta tổ chức cài cắm vào "Chiến khu quốc gia" (trong nhiều tháng liên tục) lên tới một đại đội.

Đến ngày 10-12-1947, thời điểm diệt "Chiến khu quốc gia" đã chín muồi. Sau khi nghiên cứu, điều tra kỹ, một kế hoạch tác chiến tỉ mỉ của Ban Chỉ huy Chi đội 1 được thông qua. Đồng chí Hoàng Của xây dựng cơ sở và đưa người của ta vào. Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng chí Lương Đường Minh và Trần Ngọc Lên tổ chức đơn vị chiến đấu xóa chiến khu Bình Quới Tây, bắt toàn bộ quân địch, sau đó ta thả hết. Quân ta thu toàn bộ súng đạn, giấy tờ và rút ra bờ sông, nơi có ghe thuyền của tổ liên lạc quân sự và của các má đang đón sẵn. Từ số chiến lợi phẩm của trận này, với lực lượng sẵn có, đủ để ta tổ chức thêm một đại đội nữa.

Tại Hội nghị Xứ ủy mở rộng, trận đánh Bình Quới được đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy và các đại biểu rất khen ngợi.

Trong trận đánh Bình Quới, đồng chí Trần Ngọc Lên, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 là một trong những người có công lớn. Sau này anh nói với tôi muốn xin vào Đảng Cộng sản. Tôi bảo anh không nên vào Đảng lúc này, dễ bị lộ, địch dễ khủng bố, anh cứ ở trong hàng ngũ của Cao Đài thì sẽ có lợi cho cách mạng hơn. Anh đã nghe tôi. Sau này anh trở hành một chức sắc có tầm cỡ của Tòa thánh Cao Đài, đã đóng góp nhiều và có hiệu quả cho cách mạng.

Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã buộc thực dân Pháp phải thay đổi chiến lược chiến tranh từ đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh lâu dài, quay lại bình định vùng chiếm đóng và lấn chiếm vùng tự do của ta. Nam Bộ trở thành vùng "bình định" trọng điểm của thực dân Pháp. Chúng đề ra chủ trương chiến lược là nhanh chóng tiến hành "bình định", biến Nam Bộ thành nơi dự trữ chiến lược cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương, thực hành lấy “chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt".

Thực hiện chủ trương trên, chính quyền Pháp đã xúc tiến tăng cường thêm quân, điều chỉnh lực lượng, tập trung cho kế hoạch "bình định" Nam Bộ.

Tỉnh Thủ Dầu Một vừa phát động phong trào "Thi đua ái quốc" vừa phổ biến rộng rãi tập sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã nâng cao được nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân viên trong tỉnh về cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Bộ đội và nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ. Niềm tin ấy trở thành sức mạnh trong hoạt động hằng ngày, trong xây dựng lực lượng cũng như chiến đấu.

Hồi đó, đời sống của bộ đội chúng tôi do đồng bào nuôi. Dân làm nhà cho bộ đội ở. Chi đội 1 nổi tiếng là đơn vị chấp hành nghiêm kỷ luật, với khẩu hiệu "ba không": nhà cửa chưa dọn sạch - không được đi; nước chưa múc đầy ang - không được đi; chưa trồng cây, trồng rau để lại cho đồng bào - không được đi. Vì vậy nhân dân rất thương bộ đội. Thanh niên xung phong tòng quân giết giặc, nhiều em xin đầu quân vào Chi đội 1. Tỉnh ủy giao cho Chi đội 1 tổ chức Trường Thiếu sinh quân và thu nạp các em vào học tập, rèn luyện. Chính các lớp thiếu sinh quân này đã trở thành nguồn bổ sung lực lượng rất tốt cho các đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Tháng 7-2003, nhân dịp tôi vào thăm Quân khu 7, anh chị em đã tổ chức cuộc gặp mặt sau 56 năm, có đại diện của năm trung đoàn thiếu sinh quân miền Đông Nam Bộ thời kỳ chống thực dân Pháp. Nhiều anh chị em đã cùng tôi đi suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ, hết đánh Pháp lại đánh Mỹ. Cũng không ít đồng chí còn cùng tôi làm nhiệm vụ quốc tế 10 năm trên đất Campuchia. Nhiều đồng chí đã trở thành Dũng sĩ diệt Mỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, thành cán bộ cao cấp trong và ngoài quân đội. Cuộc gặp mặt thật đầm ấm và xúc động. Anh chị em cùng ôn lại cái thời gian khổ, thiếu thốn.. Miền Đông hiếm gạo, anh em phải lặn lội xuống miền Trung Nam Bộ để mua gạo cõng lên. Nhân dân và một số sư sãi nhà chùa cũng quyên góp tiền, tìm mọi cách mua gạo gửi vô cho bộ đội. Anh em đói, rách, ghẻ lở đầy người, chị vợ anh Huỳnh Kim Trương chuyên nấu nước lá khế cho anh em tắm, trị ghẻ nên đơn vị gọi là "Chị Hai lá khế". Anh chị em còn kể lại, lúc mới về đơn vị được bộ đội dạy cho cách gác, cách chống càn và tổ chức đội hình tác chiến ra sao, cảnh giác thế nào mà Chi đội 1 không bao giờ bị tập kích bất ngờ. Hồi đó, đi đánh giặc thì tổ chức "liên quân" bộ đội và dân quân du kích, tự vệ, ở nhà là lực lượng "quốc vệ dân" - quốc là quốc vệ đội, tức công an, dân là dân quân du kích - hai lực lượng này lo bảo vệ chính quyền. Rồi anh em ôn lại các trận phục kích gọi là "giao thông kinh tế chiến", đánh các đoàn xe convoy (công voa) của Pháp để lấy lương thực.

Trên cơ sở cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trong tỉnh phát triển cao, Chi đội 1 trở thành chi đội mạnh cả về chính trị, tư tưởng, lực lượng trang bị, vũ khí cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 phát triển lên 1.500 người, 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên. Trong quá trình chiến đấu, chiến lợi phẩm như súng đạn, quân trang quân dụng Chi đội thu được, ngoài trang bị cho các đơn vị trong Chi đội, Ban Chỉ huy Chi đội còn hỗ trợ các xã chiến đấu.


---------------------------------------------------------------
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #9 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2020, 09:51:54 am »

Giữa tháng 3-1948, giặc Pháp mở một cuộc càn lớn vào chiến khu Thuận An Hòa, bộ đội Đại đội 1 Chi đội 1 cùng với du kích các xã Tân Phước Khánh, Thái Hòa, Bình Chuẩn, An Phú, Thuận Giao, Hòa Lâm đã anh dũng chiến đấu. Địch có quân đông, trang bị mạnh quyết bao vây để tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Nắm được chỗ yếu của địch, trên cơ sở tác chiến của du kích, Tiểu đoàn 1, Chi đội 1 đã tổ chức một trận đánh vào ban chỉ huy hành quân của địch, làm phá sản cuộc hành quân của địch.

Đầu năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra chỉ thị xây dựng các trung đoàn bộ đội tập trung trên toàn xứ. Ngày 27-3-1948, Khu ủy Khu 7 họp hội nghị thảo luận việc xây dựng các trung đoàn trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Hội nghị quyết định trên cơ sở các chi đội sẵn có, phát triển thành 10 trung đoàn. Địa bàn hoạt động của trung đoàn vẫn chủ yếu trong phạm vi của tỉnh. Ngày 14-6-1948, Chi đội 1 của Thủ Dầu Một được đổi tên là Trung đoàn 301 do anh Huỳnh Kim Trương làm Trung đoàn trưởng, tôi làm Chính trị viên. Trung đoàn biên chế thành ba tiểu đoàn và một số đại đội trực thuộc: Đại đội 1 thành Tiểu đoàn 901 hoạt động ở vùng Lái Thiêu, Thủ Dầu Một; Đại đội 2 thành Tiểu đoàn 902 hoạt động ở quận Châu Thành; Đại đội 3 thành Tiểu đoàn 903 với ba Đại đội 2707, 2708, 2709 hoạt động ở Bến Cát, Hớn Quản, Lộc Ninh.

Từ những đơn vị lẻ, đến giữa năm 1948, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã hình thành hệ thống các trung đoàn bộ binh chủ lực, nhưng thực tế đó là những trung đoàn bộ binh địa phương.

Tháng 6-1948, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gởi điện vào công nhận Ban Quân sự Nam Bộ và cử Trung tướng Nguyễn Bình giữ chức ủy viên quân sự. Tháng 10-1948, Bộ Tư lệnh Nam Bộ được thành lập thay cho Ban Quân sự Nam Bộ, do Trung tướng Nguyễn Bình làm Tư lệnh. Nam Bộ có Khu 7, Khu 8, Khu 9 và Khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

Tháng 12-1948, Bộ Chỉ huy Khu 7 và Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đổi lên là Bộ Tư lệnh khu. Các khu chấn chỉnh lại một bước nhân sự và tổ chức các cơ quan. Khu 7 do Huỳnh Văn Nghệ làm Tư lệnh, Nguyễn Văn Trí (tức Hai Trí) làm Chính ủy; Khu Sài Gòn - Chợ Lớn do Tô Ký làm Tư lệnh, Phan Trọng Tuệ làm Chính ủy, tôi làm Tham mưu trưởng.

Ngày 18-8-1949, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị: "Xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân" trong cả nước. Tháng 9-1949, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị quân sự Nam Bộ nhằm quán triệt chỉ thị trên và tiến hành kiểm điểm toàn diện công tác kháng chiến trong bốn năm qua, đồng thời đề ra nhiệm vụ trong thời gian tới. Hội nghị có đoàn phái viên của Trung ương, dẫn đầu là anh Lê Đức Thọ vào dự. Trong phát biểu, anh Lê Đức Thọ khen rất ít mà phê phán dữ lắm. Toàn hội nghị không ai nói gì hết. Anh Lê Duẩn lên phát biểu đã nhận hết khuyết điểm và phân tích sâu thêm về yếu tố khách quan, chủ quan, trong đó rõ nhất là tư tưởng quân sự đơn thuần, coi nhẹ vai trò của dân quân du kích, mối quan hệ giữa ba thứ quân và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ thiết thực trước mắt để đưa cuộc kháng chiến ở Nam Bộ tiếp tục tiến lên hòa nhịp với chiến trường cả nước. Anh Thọ còn phê phán tư tưởng coi nhẹ đô thị và đề nghị tiếp tục cử anh Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) vào xây dựng phong trào và xây dựng lực lượng ở Sài Gòn.

Sau Hội nghị, Bộ Tư lệnh Nam Bộ đã tổ chức phân bố lại chiến trường, củng cố nhân sự chủ chốt ở cấp khu và cấp tỉnh. Khu 7 còn lại ba tỉnh: Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm Tư lệnh, đồng chí Phan Trọng Tuệ làm Chính ủy. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn gồm Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và Tây Ninh do đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, tôi làm Tham mưu trưởng.

Bước sang năm 1950, tình hình trong và ngoài nước có những chuyển biến rất quan trọng. Cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949. Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên phạm vi cả nước sang trên đà phát triển. Thực dân Pháp ngày càng lúng túng. Đế quốc Mỹ ra sức tìm cách giúp đỡ thực dân Pháp và can thiệp trực tiếp vào Đông Dương.

Tại chiến trường Nam Bộ có một số thay đổi về tổ chức chỉ huy. Trung tướng Nguyễn Bình - Tư lệnh Nam Bộ - được điều động ra Trung ương. Trên đường hành quân, bị địch phục kích, đồng chí đã hy sinh. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy – trực tiếp giữ chức Chính ủy kiêm Tư lệnh Nam Bộ, đồng chí Dương Quốc Chính làm Phó Tư lệnh. Thực hiện sự lãnh đạo qua Xứ ủy và Bộ Tư lệnh Nam Bộ, tại khắp các tỉnh miền Đông. Ta tổ chức một đợt hoạt động quân sự - chính trị trên cả ba vùng kháng chiến. Các căn cứ kháng chiến được xây dựng tương đối ổn định trở thành hệ thống hậu phương tại chỗ đáp ứng được phần lớn nhu cầu của cuộc kháng chiến.

Tại thành phố Sài Gòn và các thị xã, thị trấn, ta chủ trương mở rộng phong trào đấu tranh chính trị trong toàn thể công nhân, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân đô thị, hướng mục tiêu đấu tranh vào chống chính phủ bù nhìn và chống thực dân Pháp.

Giai đoạn này ở Nam Bộ, thực dân Pháp áp dụng chiến thuật De Latour (Đờ Latua) một cách ráo riết, triệt để. De Latour là một vị tướng có kinh nghiệm về bình định lãnh thổ được điều sang Việt Nam, sau khi nghiên cứu, y đã đề ra sách lược gồm năm điểm: Một là, rút bỏ những khu vực hẻo lánh khó cầm giữ. Hai là, dùng giáo dân vũ trang để chống phá kháng chiến của Việt Minh. Ba là, hợp tác với các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo để chống phá kháng chiến của Việt Minh. Bốn là, dùng chiến thuật đồn bốt tháp canh. Năm là, bao vây căn cứ địa Đồng Tháp Mười, căn cứ Chiến khu Đ của Việt Minh kiểm soát vùng kinh tế trù phú Hậu Giang. Nội dung, bản chất của chiến thuật đồn bốt tháp canh là tổ chức phòng vệ vững chắc các trục lộ giao thông và vùng kinh tế quan trọng, tạo thành một hệ thống đồn bốt, tháp canh theo ô vuông để vừa bảo vệ vững chắc các trục giao thông và địa bàn chiếm đóng, vừa chia cắt, khống chế các hoạt động của Việt Minh. Chúng thường xây tháp canh hình vuông bằng gạch, mỗi canh 4 đến 5 mét, cao 8 đến 10 mét. Xung quanh có tường bao bằng đất dày, có lỗ châu mai, bên ngoài đào hào và rào dây kẽm gai, gài chông mìn, nuôi chó dữ và thả ngỗng. Cứ 5 đến 7 tháp canh con lại có một tháp canh mẹ. Tháp canh mẹ được xây kiên cố hơn, xung quanh phạm vi phòng thủ có lô cốt chiến đấu, ở giữa có lô cốt chỉ huy. Mỗi tháp canh, chúng bố trí từ một tổ đến một tiểu đội bộ binh tăng cường, trang bị vũ khí đầy đủ. Riêng tháp canh mẹ có thêm vũ khí bắn cầu vồng và trang bị máy truyền tin. Từ hệ thống tháp canh này kết hợp với những đội lính cơ động (Commando - Commăngđô), chúng quản lý chặt chẽ các đô thị, các khu kinh tế quan trọng và các trục đường giao thông huyết mạch. Chúng cũng lấy hệ thống đồn bốt, tháp canh làm căn cứ xuất phát để tổ chức những cuộc hành quân càn quét và lấn chiếm nông thôn, đánh phá vùng tự do và căn cứ kháng chiến của ta.

Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết tâm tìm mọi biện pháp để phá chiến thuật De Latour, phải tìm ra cách tiêu diệt tháp canh. Trước đó, đêm 19-3-1948, tổ du kích Tân Uyên do đồng chí Trần Công An chỉ huy đã diệt tháp canh Cầu Bà Kiên bằng phương pháp bí mật đột nhập, dùng thang leo lên thả lựu đạn vào trong tháp. Trận đánh thu được thắng lợi, nhưng sau đó bọn địch tăng cường đề phòng canh gác nên rất khó tiếp tục dùng thang leo lên. Lúc đầu ta dùng lối đánh của đồng chí Trần Công An để diệt tháp canh, kết hợp đưa dân quân ra phá đường và đã phá được. Sau địch dùng pháo lớn bắn ra, dân quân không phá được nữa.

Ngày 21-1-1950, Bộ Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định mở chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát. Ban chỉ huy chiến dịch gồm: Tô Ký - Chỉ huy trưởng, tôi - Tham mưu trưởng. Sở chỉ huy đặt tại Thanh Tuyền (đầu chiến dịch) và An Thành (cuối chiến dịch). Mục đích của chiến dịch là mở rộng và nối liền hai căn cứ của ta từ Gia Định sang Thủ Dầu Một, cắt đường vận tải và tiếp tế ở Dầu Tiếng, tiêu diệt và tiêu hao địch, bổ sung lực lượng ta. Mục tiêu của chiến dịch nhằm tiêu diệt các đoàn convoy và lực lượng tiếp viện của địch, tiêu diệt đồn Bến Súc, phá đường sá, phá cầu, bao vây bức rút các đồn, tháp canh còn lại (Bến Cát, Suối Dứa, Cần Nôm, Ông Cộ, Xi Nô, Rạch Kiến, Xóm Bưng). Ban chỉ huy phân công công tác chuẩn bị về đạn dược, lương thực, thực phẩm, y tế,... phải đầy đủ cả số lượng và chất lượng trước ngày nổ súng. Ngày mở màn chiến dịch được ấn định: ngày 15-1-1950. Đến ngày 24-1-1950, mọi chuẩn bị cho chiến dịch đã hoàn tất.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm một tiểu đoàn chủ lực của liên Trung đoàn 306 - 312, một tiểu đoàn chủ lực và một đại đội độc lập của liên Trung đoàn 301 - 310, một đại đội độc lập của huyện Bến Cát, lực lượng dân quân du kích hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp và lực lượng công đoàn cao su đồn điền Dầu Tiếng.

Chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát thực chất là đợt hoạt động quân sự trong ba ngày (từ ngày 25 đến 27 tháng 1) đã làm gián đoạn giao thông của địch trong một thời gian dài (địch phải dùng máy bay tiếp tế cho đồn điền cao su Dầu Tiếng). Quân địch buộc phải bị động đối phó. Đợt hoạt động đã để lại những kinh nghiệm thiết thực cho quá trình chiến đấu về sau. Nó là cuộc diễn tập quan trọng cho chiến dịch Bến Cát diễn ra vào cuối năm khá thành công.

Tại chiến dịch này, tôi nhớ mãi một chuyện là trong đồn Rạch Kiến có một khẩu pháo cỡ lớn bắn ra rất dữ làm cho bộ đội và dân quân không thực hiện được nhiệm vụ phá đường giao thông. Chúng tôi cùng với bộ đội bàn bạc để tìm ra cách phá khẩu pháo lớn này. Anh em thấy rất khó, vì nếu bí mật vượt tường và hàng rào bao quanh đồn để vào tận nơi đặt khẩu pháo thì sẽ bị ngỗng và chó dữ chúng nuôi trong đồn phát hiện. Cuối cùng, cậu Nguyễn Văn Rỡ nghĩ ra một cách là: Cậu ta tắm xong để trần nằm phơi sương cho bay mất hơi người. Quả nhiên khi bò vào đồn, chó, ngỗng không thấy hơi lạ nên không phát hiện được. Vào bên trong, tìm được khẩu pháo 15 ly, rỡ bốc cát sỏi bỏ vào nòng pháo. Quân ta tổ chức đốt đuốc reo hò và phá đường để khiêu khích địch. Chúng liền báo động lính ra vị trí chiến đấu và hùng hổ cho nạp đạn vào khẩu pháo rồi giật cò, khẩu pháo bị hỏng. Từ kinh nghiệm đầu tiên này, đồng chí Thuần, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 302 cho tổ chức huấn luyện để nhân rộng. Sau đó, anh em đã nghĩ ra cách lấy lén hoặc nhờ chị em đến chỗ bọn lính thuê giặt ủi để mua lại quần áo cũ của chúng. Như vậy, anh em không phải cởi trần phơi sương đêm nữa. Khi anh em đột nhập vào đồn, chó dữ thấy mùi quen thuộc của lính thì không sủa. Cũng từ sáng kiến của cậu Rỡ, anh em còn nghĩ ra cách bơi không tiếng động, dùng ống thở và đậy lá lên mặt để bí mật vượt qua trạm gác của địch. Bộ đội ta đã đưa được thuốc nổ vào phá cầu Bến Cát. Tuy cầu không sập hoàn toàn, nhưng đã làm cho xe cơ giới của địch không đi được. Đó là sáng kiến thứ hai tại chiến dịch này.

Việc thứ ba là, anh em đánh sập được bốt tiền tiêu của đồn Bến Súc bằng cách thoạt đầu dùng đạn lõm thổi thành một lỗ thủng thành lô cốt (loại đạn do đồng chí Tâm - kỹ sư cơ khí học từ bên Pháp về, tham gia kháng chiến chế tạo ra), sau đó lao gậy có buộc bộc phá ở đầu gậy vào đồn, bộc phá nổ đã làm sập bốt, bọn lính trong bốt bị chết nhiều. Nhưng khi anh em bộ binh xung phong vào đánh đồn thì không giải quyết được và xung lực của ta yếu, mặc dù đặc công đã đánh chiếm đầu cầu. Ở trận này cậu Ty, Đại đội trưởng hy sinh (Ty là con trai đồng chí Cứng, lái xe của đồn điền cao su Lộc Ninh, một trong bốn người mà tôi đã giác ngộ cách mạng và kết nạp vào Đảng Cộng sản đầu tiên của chi bộ cao su). Sau trận này, ta tổ chức rút kinh nghiệm. Chính vì vậy mà khi tổ chức đánh đồn Bùng Binh phía bên kia sông Sài Gòn, ta dùng hai mũi đặc công mở hai cửa, đồng loạt xông vào nên đã chiếm gọn được đồn và bắt sống toàn bộ quân địch.

Từ cách đánh tháp canh của tổ đồng chí Trần Công An, cách làm mất hơi người để bí mật đột nhập vào đồn địch của Nguyễn Văn Rỡ, cách dùng đạn lõm và bộc phá để diệt lô cốt đầu cầu, đến cách dùng hai mũi đặc công cùng tiến hành mở hai cửa mở cho trận đánh đồn, tuy lúc đầu còn sơ lược, nhưng đã hình thành và mở ra cách đánh mới mà sau này gọi là "cách đánh đặc công". Đây là sáng kiến, là công lao của anh em, trong đó có vai trò tổ chức của đồng chí Phạm Quang Thuần - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 302. Sau khi tập dượt kỹ, chúng tôi cho đánh thử vào đồn địch, và đã thắng lợi gọn gàng. Tại hội nghị tổng kết chiến dịch Bến Cát, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy, đã nói: "Chiến dịch Bến Cát đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của lực lượng vũ trang Khu 7, đưa phong trào kháng chiến của quân dân miền Đông Nam Bộ hòa nhập với cuộc kháng chiến trên chiến trường cả nước"1.

Sau chiến dịch Dầu Tiếng - Bến Cát, tôi được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Anh Nguyễn Đăng, vốn là kỹ sư canh nông, làm Tham mưu trưởng bảo tôi rằng, anh lo cái chung, còn tôi lo về tác chiến.


---------------------------------------------------------------
1. Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ: Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội 2003, tr.132.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM