*
* *
Dù sao thì đến ngày chợ cũng là đến những ngày thong thả trong một năm ở Phiềng Sa. Người suốt dọc suối Nậm Ma tận dưới Ná Đắng xa mấy buổi đường cũng lặn lội lên.
Có đoàn ngựa buôn ông khách Sìn về, Phiềng Sa thành chợ đông mấy ngày trên bãi đá ngang lưng núi.
Từng đám các cô gái xuống chợ, lưng cõng địu, tay xe lanh, váy áo lam lũ bạc dã như đi nương. Chỉ khác một vẻ: bước đi tất tưởi, rộn ràng hơn. Đến mỏm núi bên kia chợ, mấy cô rẽ vào khe đá, đặt địu, lấy váy áo, khăn, thắt lưng mới ra thay.
Những cô gái nhà nghèo thì vẫn đi thẳng, đến lúc gặp người trai lạ mới dừng lại. Nếp váy cũ rách tỏa ra, cô không dám bước. Con mắt xấu hổ, nhìn quanh dưới đất, không biết nhìn đâu, trốn đi đâu. Đành đứng lại cho người qua rồi mới lại đi. Đến cửa chợ, một tay với cất lanh lên địu, một tay ngượng ngùng khép cái ngực áo không có yếm. Cái địu trĩu trên dáng lưng cúi gò, cô len lén bước vào chợ.
Sớm nhất chợ có bà hàng rượu. Bà hàng đến ngả chõng, đặt chồng bát, hạ chum rượu cõng trên lưng xuống, rồi tìm đá kê làm ghế cho khách ngồi. Khách đã hóng sẵn cả đấy. Mấy ông già đói muối về tìm mua muối. Người ta hỏi nhau: hôm nay quan đồn bán muối hay ông Sìn bán muối? Chẳng biết có còn bán nữa không?
Có những ông già năm nào cũng đi chợ, nhưng cả đời không biết đến hột muối, mặt mũi cứ hốc hác trắng bệch. Tuy vậy, người đói muối cũng như người nhịn muối và người không ăn muối bao giờ, các cụ hãy ghé vào hàng, ngồi chống tay lên má, lặng lẽ, nghĩ ngẫm, hớp một vài cân rượu đã.
Mỗi chốc, ngựa về buộc quanh gốc đào càng nhiều, đuôi ngựa hoa lên như múa. Ngựa ấy đi chợ, ngựa ấy đem về bán.
Người hút thuốc phiện nằm ngổn ngang trong các lều giữa bãi, rì rầm chuyện bán súng, bán lậu bạc trắng sang Miến Điện. Những người buôn các thứ hàng hiếm này ở tận đâu đến, không ai biết. Họ không thèm để mắt tới món nước thịt
thắng cố1 hay bánh ngô nướng ngoài chợ. Họ cũng không ra ngồi chõng rượu ngô của bà người Mèo..Họ đêm ngày chè chén trong quán người Hoa. Và, chủ quán ra mời khách, phải xách theo cái hũ sành đựng rượu. Rồi đổ rượu xuống lòng bàn tay, đánh cái diêm châm. Lửa rượu xanh lét bùng lên, hắt ngọn lửa từ lòng bàn tay ra. Có rượu mạnh thế, khách mới chịu vào quán.
Tiếng súng bắn thử, tiếng chửi, tiếng cười, tiếng kêu khóc của những người đằng kia chen vào mua muối, cùng tiếng khèn rờn rợn nhảy tập tòe suốt đêm.
Càng về trưa càng đông, đông nhất đám trai gái. Tuổi trẻ chưa biết thế nào là khó nhọc. Có anh đi mấy ngày mới về tới. Khi đi cái sáo giắt túi ngực, khi về vẫn một cái sáo ấy giắt túi áo ngực. Chẳng mua bán gì mà vẫn đến chợ.
Ai cũng thấy ở chợ có thứ cần, thứ lạ, thứ thích - chợ cuối năm mới có, mà hiếm tiền mua. Họ đi ngắm những chiếc lọ, chiếc hũ, cái chum sành, cái thìa, cái bát của người Hoa và người Lừ buôn bên kia biên giới sang.
Lưỡi cày, lưỡi cuốc, lưỡi rìu của các bác thợ đúc người Mèo Xanh đem bán; bác thợ đúc bắt nẹt người mua, phải đem ba lưỡi hỏng với hai đồng bạc trắng đến mới đổi được một lưỡi cày mới. Nhiều người chịu không thể mua nổi, đành trở về cày mãi cái lưỡi cho đến khi mòn tròn lên tận bắp.
Nhưng có tiền đút cho quan thống lý thì những cái to hơn, hiếm hơn lại đến tay được dễ dàng. Đấy là những đám buôn lậu đem bán súng, đổi súng lấy thuốc phiện. Người thử súng bắn đòm đòm lên trời từng phát, bắn thử cả đêm, bắn nhiều đến những con ngựa cũng dạn súng, nghe nổ mà vẫn đứng cúi mõm, điềm nhiên phất đuôi.
Hàng ông Sìn, xúm xít, vòng trong vòng ngoài, người đông ních cả mấy gian của lính đồn vừa mang bạt ra dựng.
Hàng ông Sìn bán toàn những thứ quen, ai cũng mê mà ít ai sắm được. Nào muối, dầu hỏa, lại diêm, hạt tiêu, các loại kim và chỉ mầu, các thứ vải đỏ, vải đen, láng xanh, khăn mặt tổ ong trắng cho đàn ông quấn đầu, và mũ dạ, ô đen, đèn pin bán cho các ông thống lý, thống quán - còn ông
xéo phải là quan hang bé nhất trong làng cũng thèm có tiền để lấy mỗi thứ một cái, nhưng chưa bao giờ mua được.
Ông Sìn mua hàng vào thì mua nhiều lắm. Ông Sìn đưa một trăm con ngựa lên. Nhiều con chỉ mang nạng thồ không, đợi hàng mua vào. Mặt hàng ông Sìn đậm mua nhất là thuốc phiện, vừa nhẹ vừa lắm tiền, rồi đến gạc hươu, gạc nai, xương hổ, mật gấu, xương thú mua được đem nấu thành cao ngay giữa chợ, rồi mật ong, da hổ da báo, sợi lanh, củ tam thất, sa nhân, hoàng liên già, có bao nhiêu cũng vét hết.
Người không tiền đem các thứ của rừng kiếm được đến đổi ông Sìn cho được đồng nào mừng đồng ấy, bán như đổ của đi. Cả một bộ xương hổ, xương khỉ đem đổi được có một bát muối. Nhưng biết làm thế nào!
Ông khách Sìn cứ nằm trong nhà quan thống lý, hút thuốc phiện cả ngày. Năm thoảng ba thì mới ra đứng hàng. Ông chỉ thích đứng bán, đứng đổi cho các cô con gái. Cô nào đẹp đến xem hàng, ông Sìn cho không một con chỉ đỏ. Nhưng ai nhận của ông cho rồi phải ra hàng uống chung với ông một bát rượu - ông Sìn bắt thế.
Người ta sợ chết khiếp, chẳng ai dám uống rượu ông Sìn. Bởi vì uống thế thì khác nào mượn bát rượu mà thề lấy nhau.
Mặc ông Sìn mời khéo và đưa cho tha hồ ngắm nghía những con chỉ đỏ mỡ, óng mượt, và thân hình ông ấy cũng béo trắng những mỡ, mồm ông ấy cười đầy răng vàng, ông thật là giàu nhưng chỉ có vài cô gái Nhắng, gái Thái, gái Lừ, là người hầu quan hay bọn vợ lính ở trại con gái dưới châu Yên lên, các ả này ra uống rượu để được ông Sìn thưởng cho chỉ đỏ.
Chợ chỉ đông những người đi xem, người đói, người cả đời không biết mặt hạt muối và những người lũ lượt kéo đi tìm muối, tìm lưỡi cày. Chợ chỉ nhiều những người ấy.
Muối ông Sìn bán riêng một chỗ đằng kia. Cả ngày cả đêm quanh hàng muối, người cứ nghìn nghịt leo lên nhau, chồng đống như đá đè. Tiếng chửi rủa kêu khóc lúc nào cũng vang một góc núi . Chẳng mấy hôm không có người chen mua muối bị chết bẹp.
Những ông già về chợ, chẳng xem mà cũng chẳng muốn mua. Những ông già nằm giữa trời hút thuốc phiện, có người vợ lụ khụ che ô ngồi bên cạnh.
Những người khác thừ mặt, mắt thờ ơ nhìn đi đâu. Họ quây quanh cái bàn bày rượu, uống đã tàn mấy chồng bát, cứ hớp cạn một bát lại cãi cọ nhầm bát chưa uống. Say rồi ngã ra đấy.
La liệt người say nằm khắp nơi. Người vợ nhẫn nại lẳng lặng mở ô che cho chồng say vừa ngã thiếp xuống giữa đường mà còn quềnh quàng quơ tay lên như vẫn đang chen mua muối! Đến lúc nào tỉnh, người vợ chạy đi mua cho chồng bát
thắng cố đem ăn với bột ngô. Có gói bột ngô, bấy giờ mới chịu lấy ở địu ra, cùng ăn.
Chợ ấy có cái đông, có cái khổ, lại có cái buồn, đủ cả.
Trai gái thì nhởn nhơ đằng kia. Các cô các cậu mới nhớn lên, còn chưa quen lo, không biết cạnh đấy có những người vợ nhịn nhục ngồi như đá mọc, che ô suốt buổi chầu chồng vì bực tức, uất ức mà say rượu, say thuốc phiện đến thế.
Cô gái thắng bộ váy áo mồi, đứng thành dẫy, lưng tựa vách đá. Trước mặt, các cậu mặt rượu đỏ bứ, cầm khèn, thi nhau thổi bài khèn "xuân". Cậu thì nhảy vòng rộng điệu "đi chơi”, cậu đương lò cò điệu "cuốn chỉ" sang qua sang lại. Tiếng khèn vun vút nâng nhịp bài "múa hát" rộn ràng. Các cô vuốt dải khăn đào, mủm mỉm, nhìn theo người trai tài hoa đã khéo thổi khéo múa gắng vượt qua cả ba điệu khèn "xuân” mồ hôi vã đầy mặt rồi mà vẫn nhấp nhô đánh gót, tung cả hai chân lên, thật tài, ai cũng mê.
Đằng góc chợ trước bỗng nhốn nháo. Tiếng kêu, tiếng quát chửi ầm ầm. Mấy chị người Dao nhút nhát bưng địu chạy. Như có cướp có cướp đến phá chợ.
Nhưng không, đấy là toán lính dắt ngựa nhà quan thống lý đến lấy thuế. Mười con ngựa đi lấy thuế, lưng đeo những chiếc giỏ to kệt, xồng xộc vào thẳng giữa đám đông. Người chen ngột lên, lại quát, lại kêu, lại chửi, nhốn nháo chẳng biết tiếng người đi chợ chửi quan hay tiếng lính chửi người ta.
Lính lấy thuế mà thu đủ các thứ, đầy đến ních mấy chục cái địu, trĩu hai bên lưng ngựa mới thôi. Ai bán bắp ngô nộp thuế ngô. Mười lạng thuốc phiện thu một lạng. Người Lừ đi bán ba cái túi cũng phải nộp thuế một. Tấm vải Thái tốt lành, lính đem lục tung ra, cắt lấy hai sải. Ông cụ người Hà Nhì đi chợ bán ghế mây phải nộp thuế sống hai chiếc ghế. Bà già người Dao tần ngần đưa ra cho chú lính nhận hai xâu men rượu. Rau thì lấy đủ hai thồ rau cải, mấy chục bó hẹ. Còn lính vào hàng lính ăn, lính uống, lính lấy gì, không kể như thuế.
Ngựa quan đến đầu, lấy thuế hai bên hàng chợ đến đấy, đến đâu cũng lại dậy lên tiếng kêu, tiếng thét, tiếng đập đánh và người chửi, người chạy.
Lính dắt ngựa thuế ra đến tận vách núi chỗ trai gái đứng chơi, tìm người bán hàng. Đám chơi không phải thuế. Nhưng các cô gái sợ lính, chạy tỏa đi. Mấy anh nhảy khèn đương hăng thế mà cũng ngơ ngác lủi mất. Tan đám.
Bọn lính thu thuế ra khỏi, cái chợ vừa ngớt kêu khóc, ngớt chửi, lại thấy đằng trước mặt rầm rầm những người chạy dạt ra. The thé có tiếng kêu:
- Chết rồi! Chết rồi!
- Ma! Ma!
Trông ra, chỉ thấy Thào Nhìa và bé Mỵ.
Thằng bé Thào Nhìa nhợt nhạt. Vệt sẹo trên trán nó kéo dài tận mang tai trái, rét quá, thâm sịt lại.
(Năm trước, Nhìa đương ngồi đầu nhà, có con gấu đi qua, tát một cái vào mặt. Vết đau khỏi, để lại chiếc sẹo dài, tím bầm ngang trán).
Lúc ấy, Thào Nhìa và bé Mỵ, hai anh em đứng đầu chợ, một đứa che lưng một cái tết đệp đay móc đen, tóc sã bết kết xuống. Chẳng khác hai cơn gấu nhỏ vừa chui từ trong rừng kín ra núi tranh trống, đương còn choáng váng, ngơ ngác, tựa vào nhau để chống đỡ phòng những con thú khác xông tới cắn chết.
Cả chợ lại nháo nhác.
Thào Nhìa và bé Mỵ, hai anh em đưa nhau đi chợ thật. Mỗi Tết, đến ngày chợ, mẹ vẫn cấm không cho các con xuống chợ. Mẹ sợ các con gặp người dữ, họ giết mất.
Các làng đổ về chợ, lũ lượt qua dưới cửa rừng, hôm nào cũng đông. Đứng tận trong im vắng rừng sâu vẫn còn nghe vẳng vào tiếng khèn than thở, tiếng vòng bạc róc rách cổ tay các cô gái đi chợ - Thào Nhìa cứ đoán rồi bảo em thế.
Thào Khay thì chẳng tò mò háo hức gì cả. Mới hơn mười tuổi Thào Khay không thiết chợ, Thào Khay chỉ chăm đào củ mài và bẫy chuột.
Thào Nhìa lớn hơn, đã đến tuổi thổi sáo. Thào Nhìa tìm cây trúc khoét ống sáo ngồi thổi một mình trong rừng. Tai mình lại nghe tiếng sáo của mình, chỉ thấy buồn và sinh nghĩ thêm. Thào Nhìa thèm đi chợ, thèm thấy người. Bé Mỵ nghe anh kể có nhiều các cô gái làng đi chợ thì thích, bé Mỵ cũng mong được xuống chợ.
Nhưng mẹ nói:
- Con ơi, mày xuống chợ thì người ta giết mày.
- Sao người ta giết, hả mẹ?
Lời mẹ dọa cũng không khiến bé Mỵ sợ.
Hôm ấy, Thào Nhìa và bé Mỵ ra nương - mẹ tưởng vậy. Thế là hai anh em chạy luôn xuống chợ Phiềng Sa.
Anh em Thào Nhìa ở rừng từ năm còn nhỏ dại, chưa biết chợ, không biết thế nào là cái chợ. Bây giờ mới nhìn ra cái chợ thật khác cái rừng. Cái chợ đầy người, đầy khói thịt thơm, gì cũng thấy lạ, thấy sướng.
Thào Nhìa muốn lân la đến chơi chỗ đám trai gái ríu rít khèn sáo kia. Nhưng không dám. Thào Nhìa chỉ đứng mãi đằng này, bên cạnh cái lều người nhà ông Sìn đương nhộn nhịp nấu cao hổ và đóng hàng - hàng mua đến đâu, đóng dần đến đấy.
Thào Nhìa nhìn vào đám chơi trong chợ, mê quá, rút ống sáo ra lăm lăm cầm tay. Bé Mỵ thì đương mê mải hoa cả mắt vì những con chỉ đỏ óng nuột lắc lắc trên tay một ông răng vàng, béo tròn, béo trắng. Mũi bé Mỵ muốn ngạt vì mùi chảo nước suýt thắng cố. Vô số người chầu quanh chảo có người cầm muôi cắm cúi múc vào trong chảo. Mới trông người ta húp đã thấy ngon, nếu được ăn thì ngon đến đâu.
Đứng xa tận đây, khuất quá. Dần dần, càng thích thì bạo hơn. Thào Nhìa không còn nhớ hai anh em là "con nhà Giàng Súa có ma" vừa ở rừng xuống. Thào Nhìa chỉ thấy mình đương đứng giữa mọi người, như mọi người. Thào Nhìa dắt em mon men ra chỗ trống.
Bỗng có người dáng chừng nhận ra, kêu choáng. Thế là bốn bên đã đầy những tiếng kêu, tiếng quát:
- Lũ ma nhà Giàng Súa kìa!
- Ma! Ma! Ma!
Cả cái chợ, lần nữa, lại nhốn nháo như có cướp đến.
Đầu tiên, Thào Nhìa ngớ ra, không hiểu. Mình đi chợ, sao người kia sợ? Không phải. Anh em mình là trẻ con, ai sợ gì mình? Có phải không? Sau nghe tiếng hô hoán mỗi lúc một to, Thào Nhìa lại nhận thấy nhiều người đương sừng sộ chạy đến, hầm hầm muốn giết hai anh em - như mẹ đã bảo thế. Thào Nhìa liền lôi em đi. Mỵ cuống quýt giằng tay anh ra. Mỵ đương thích xem các thứ ở chợ. Mỵ không nghe tiếng quát, Mỵ không biết, Mỵ không sợ ai hết. Nhưng Nhìa thì thào rít vào tai em: “Mẹ bảo rồi! Người đến giết mình kìa!”. Mỵ nhớ ra. Thế là hai anh em bỏ chạy.
- Bắt! Bắt nó!
- Ma chài muốn làm chết cả cái chợ này đây!
- Chết thôi!
- Bắt nó!
- Trời ơi!
Những người già đương nốc rượu lại hò bắt rầm rĩ nhất. Các tay say thuốc phiện vẫn nằm bẹp đấy thì cứ nhắm mắt mà kêu. Các ông rượu đứng lên, một chân bước ra một chân lùi vào, lắc la lắc lư quanh quẩn vẫn một chỗ. Và chỉ lát sau, các bàn rượu tiếp tục bề bộn, từng chồng bát xếp ra với đủ mọi chuyện cưới xin, mua bán, vay nợ, mai ai bán muối, mua lưỡi cày ở đâu và những chuyện thân nhau hay thù nhau, muốn giết nhau. Người tư lự thì chống tay lên má, mặt rượu lẩn mẩn thần ra, im im. Lại như lúc trước.
Đằng kia, đám đông chen mua muối càng chồng đống lên. Người nhà ông Sìn đứng bán muối đương kêu mệt, sắp nghỉ bán. Thế là cái giọng nó muốn vòi tiền đấy. Cố chen vào nếu không lại phải khổ đận nữa, phải vào quỳ lạy tận nhà ông thống lý, phải có thuốc phiện bỏ ra thì mới đổi được muối. Mặc người kêu dưới chân, người hét sau lưng, có người tắc thở, đương giẫy đành đạch tụt xuống, cũng không ai buồn ngoảnh ra. Tất cả cứ húc, cứ đạp thục mạng.
Còn sót lại có một anh trai mải nhảy khèn quanh mấy cô gái đứng tựa vai nhau, mặt đỏ lừ. Các cô đương truyền tay húp nốt bát rượu. Truyền đến anh thổi khèn giỏi nhất còn lại thì anh ấy đã chạy lao vào đám xúm xít mua muối lúc nào rồi.
Cũng không ai còn bụng dạ đuổi bắt hai đứa trẻ nhà ma Giàng Súa nữa!
Thào Nhìa và bé Mỵ chạy trốn qua cái khe dưới mé đồi giữa chân đồn quan ba với nhà quan thống lý. Trên lô cốt lởm chởm đá tai tường, có lính đứng thò súng xuống. Những hòn đá to tướng như đương lăn theo.
Trên đầu hai đứa trẻ, bóng đồn cao và bóng nhà thống lý sập xuống. Nhà thống lý thì oai nghiêm như cái núi. Lúc nào cũng lũ lượt có đến mấy chục người cõng nước dưới suối lên, chia nhau đi đổ bể nước bên đồn và đổ vào ao cá bên quan thống lý.
Được quãng xa, Nhìa và Mỵ đứng lại. Hai anh em vẫn thèm chợ, muốn trở lại. Nhưng trông lên đồn thấy những cái tai tường và mũi súng, thì hoảng quá, lại chạy. Hai anh em đã chạy xa.
Một lúc, lại đứng lại, lại thèm chợ. Và không hiểu tại san người ta đánh đuổi chẳng cho anh em mình đi chợ?
-------------------------------------------------------------------------------
1. Một thứ nước suýt luộc thịt dê, thịt bò, thịt trâu, thịt ngựa...