Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:28:56 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 2  (Đọc 8396 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2021, 08:05:55 pm »

Anh hùng Võ Lai


Võ Lai, sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Giang, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 1 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó thuộc tiểu đoàn 52 bộ đội địa phương tỉnh Bình Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sống trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống cách mạng bất khuất (bà con đều tham gia công tác cách mạng, ba anh em đều gia nhập bộ đội), Võ Lai hiểu rõ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuối năm 1959, đồng chí trốn khỏi vùng địch tạm chiếm lên căn cứ tham gia lực lượng vũ trang và là một trong số những chiến sĩ giải phóng đầu tiên của tỉnh.


Võ Lai đã tham gia chiến đấu 48 trận, giết 40 tên giặc, thu 2 súng, trận nào cũng thể hiện rõ tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, có tác phong chỉ huy mưu trí, xông xáo. Trong nhiều trận chiến đấu chống càn rất gay go, quyết liệt, đồng chí đã bình tĩnh xử lý nhiều tình huống phức tạp rất thông minh và táo bạo.


Ngày 16 tháng 12 năm 1965, hành quân đến xã Bình Thuận - nơi mới giải phóng - giúp dân củng cố cơ sở và xây dựng làng chiến đấu, đại đội tổ chức đi nghiên cứu địa hình ngay và vạch ra nhiều phương án tác chiến, sẵn sàng đánh địch càn vào xã. 5 giờ 30 ngày 18 tháng 12 năm 1965, sau khi máy bay ném bom và pháo binh bắn dữ dội, từng đàn máy bay lên thẳng tới đổ quân Mỹ càn vào xã. Đại đội trưởng đi vắng, Võ Lai chỉ huy đơn vị vừa chiếm lĩnh vị trí chiến đấu như phương án đã định, vừa cơ động bắn máy bay lên thẳng, bắn rơi liền 2 chiếc khi chúng chưa kịp đổ hết quân. Đồng chí điều thêm lực lượng kịp thời đánh chặn ngay 5 đại đội Mỹ đổ xuống bãi phía bắc trận địa. Phán đoán địch sẽ đổ quân thêm hướng tây nam để đánh vào, Võ Lai dũng cảm băng qua lửa đạn, trực tiếp chỉ huy một phân đội tới trước chiếm vị trí có lợi. Ta vừa bố trí xong, địch đổ quân ngay xuống bãi trước mặt. Bị diệt một số và 1 máy bay lên thẳng, địch phải giãn ra xa, hình thành thế bao vây ta. Suốt cả ngày hôm đó, Võ Lai như một con thoi lao dưới làn đạn của địch, kiểm tra, đôn đốc, chỉ huy các phân đội, cổ vũ, động viên anh em giữ vững quyết tâm chiến đấu, đánh lui nhiều đợt phản kích điên cuồng của bọn Mỹ. Đại đội của đồng chí đã tiêu diệt 376 tên Mỷ, bắn rơi 10 máy bay lên thẳng, giữ vững trận địa. Đến tối, được lệnh, Võ Lai đã tổ chức cho đơn vị đưa toàn bộ thương binh, tử sĩ về vị trí an toàn. 


Trong trận đánh quân Nam Triều Tiên tại xã Bình An (tháng 4 năm 1966), đồng chí bình tĩnh, dũng cảm đi sát từng phân đội, giành giật từng vị trí với địch, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chỉ huy phân đội xuất kích diệt từng bộ phận địch. Tới 10 giờ, Võ Lai bị thương vào cổ, máu ra nhiều, anh em định đưa về tuyến sau, nhưng đồng chí vẫn kiên quyết ở lại chỉ huy trận đánh, giữ vững trận địa cho đến tối. Được lệnh chuyên đơn vị ra ngoài, đồng chí mưu trí tổ chức cho anh em đưa thương binh và nhân dân ra nơi an toàn.


Trong công tác chỉ huy và xây dựng đơn vị, cũng như trong việc chấp hành mọi chính sách, giữ nghiêm kỷ luật, Võ Lai đều gương mẫu, xung phong đi đầu, có tác dụng lôi cuốn mọi người. Sống khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, tận tình chăm sóc, giúp đỡ đồng đội và nhân dân trong lúc thường cũng như lúc chiến đấu gay go, quyết liệt, được mọi người tin yêu, mến phục.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Võ Lai được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng
thương Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:21:56 pm »

Anh hùng Lý Văn Lâm


Lý Văn Lâm (tức Lý Ngọc Báu) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở phường 4 thị xã Cà Mau, tỉnh Minh Hải, tham gia du kích năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân từ một gia đình nghèo khổ, lại sống ở vùng địch chiếm, hàng ngày chứng kiến tội ác của kẻ thù, Lý Văn Lâm sớm chịu ảnh hưởng của bố là người kháng chiến cũ, một lòng hướng theo cách mạng, thiết tha với nhiệm vụ chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.


Khi chưa vào du kích, đồng chí đã hăng hái, tự giác làm nhiều việc của cán bộ giao cho: rải truyền đơn của cách mạng, tham gia phá cầu trên đường địch thường đi tuần tra, nắm tình hình hoạt động của chúng báo cáo kịp thời.


Hoạt động thoát ly từ năm 1959 đến năm 1967, lúc nào Lý Văn Lâm cũng nêu cao quyết tâm diệt địch, vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Suốt 8 năm, tham gia chiến đấu, Lý Văn Lâm đánh 56 trận, luôn luôn thể hiện tinh thần gan dạ, có nhiều cách đánh mưu trí, táo bạo, đã diệt và làm bị thương 101 tên địch, bắt sống 4 tên, thu nhiều vũ khí.


Có lần, một mình Lý Văn Lâm táo bạo gỡ dây thép gai và lựu đạn gài, đột nhập đồn giặc, bí mật luồn sâu dùng ét-xăng đốt cháy cơ quan hội đồng xã.


Nhiều lần đồng chí dẫn anh em du kích đi đánh địch cả trên bộ, trên sông, hoặc vào tận hang ổ của chúng để trừ diệt bọn tề điệp gian ác.


Từ năm 1959 đến cuối năm 1961, Lý Văn Lâm đã chiến đấu 35 trận, diệt 29 tên địch, làm bị thương 17 tên, bắt sống 4 tên, thu một số vũ khí, tài liệu.


Tháng 11 năm 1961, trong một trận đánh, đồng chí bị thương mờ cả hai mắt, cụt bàn tay phải, bàn tay trái cũng bị cụt ngón giữa rất khó cử động. Sau khi đi điều trị về, đồng chí một mực xin được tiếp tục chiến đấu. Làm ấp đội trường ấp Giồng Kè, Lý Văn Lâm tận tình hướng dẫn anh em cách dùng vũ khí thô sơ để diệt địch, đồng thời kiên trì tập kéo cò súng bằng cùi tay phải. Mỗi lần bắn, súng giật khiến vết thương cũ lại chảy máu, đau nhức, song đồng chí vẫn quyết tâm rèn luyện đến khi bắn được thành thạo.


Đồng chí thường xuyên dẫn anh em đi phục kích, tập kích địch, làm công tác vũ trang tuyên truyền. Với tài trí linh hoạt, nhiều mưu mẹo đánh địch, trận nào đồng chí cũng giành thắng lợi. Từ sau khi bị thương đến tháng 3 năm 1967, Lý Văn Lâm đánh thêm 21 trận, tự tay diệt 55 tên địch.    Nắm vững phương châm đánh địch bằng cả quân sự, chính trị và binh vận, từ năm 1960 đến năm 1966, Lý Văn Lâm đã trực tiếp xây dựng nòng cốt và lãnh đạo 180 cuộc đấu tranh chính trị ở xã, ấp chống địch bắt người, đòi bồi thường tài sản; đồng thời vận động 60 binh lính ngụy đấu tranh với bọn chỉ huy, trong đó có một số người nhận làm nội ứng cho cách mạng.


Lý Văn Lâm còn góp phần xây dựng cơ sở ở ấp tiếp giáp với vùng địch kiểm soát, tuyên trụyền, giáo dục hàng chục thanh niên để giới thiệu vào Đoàn, vào Đảng, để bổ sung cho lực lượng du kích và bộ đội.


Bất kỳ trong hoàn cảnh khó khăn nào, Lý Văn Lâm cũng luôn luôn bám đất, bám dân, dũng cảm, ngoan cường, tích cực tiến công địch, lập nhiều thành tích, được đồng chí, đồng bào thương yêu, tin cậy.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Lý Văn Lâm được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:22:36 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Lên


Nguyễn Văn Lên (tức Nguyễn Văn Tới), sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thuộc đội trinh sát đặc công huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, có cha và anh là bộ đội hy sinh trong chiến đấu, Nguyễn Văn Lên phải ở đợ coi trâu cho địa chủ từ năm lên 6 tuổi. Đến năm 15 tuồi, đồng chí bỏ trốn đi cạo mu cao su cho đến năm 1961 mới trở về quê làm ruộng, tham gia hoạt, động kháng chiến, làm cống tác thông tin, liên lạc, rải truyền đơn... Từ năm 1962 đến đầu năm 1967, đồng chí đã chiến đấu 66 trận, giết và làm bị thương trên 760 tên giặc (có hơn 400 tên Mỹ), phá huy 24 xe cơ giới (có 18 xe tăng), 3 khẩu pháo 105 mi-li-mét, thu 20 khẩu súng các loại, diệt 1 máy bay lên thẳng. Nguyễn Văn Lên nêu tấm gương sáng về tinh thần tích cực, chủ động tiến công tiêu diệt địch, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, táo bạo, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng đội và nhân dân.


Trận đánh "ấp chiến lược" Bình Mỹ tháng 9 năm 1963, khi phát triển vào sâu gặp khó khăn, đồng đội bị thương vong, Nguyên Văn Lên một mình ở lại đánh chặn địch và cử 3 chiến sĩ ra ngoài lấy thêm thủ pháo vào tiếp tục chiến đấu. Kết quả, tổ vượt qua được 3 tuyến phòng thủ, chiếm sở chỉ huy của địch, phối hợp cùng đơn vị tiêu diệt hoàn toàn 1 đại đội lính ngụy, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược.


Trận đánh bốt Tống Bảng tháng 6 năm 1964, trong lúc đang cắt rào thi cả tổ bị thương vì địch ném lựu đạn ra, Nguyễn Văn Lên bình tĩnh động viên đồng đội quyết tâm chiến đấu. Tiến vào một đoạn nữa, tuy chỉ còn một mình và vết thương chảy máu nhiều, đồng chí vẫn kiên quyết xông lên ném lựu đạn đánh chiếm lô cốt. Phát hiện địch có hầm ngầm, đồng chí gọi trung liên của ta ở bên ngoài bắn chi viện rồi dùng thủ pháo diệt hỏa điểm, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt địch và hoàn toàn làm chủ trận địa. Sau trận đánh, tuy rất mệt vì bị thương, chảy nhiều máu, Nguyễn Văn Lên vẫn cố gắng cõng anh em thương binh nặng hơn đến trạm cấp cứu.


Cuối tháng 11 năm 1966, giặc Mỹ mở cuộc càn quét dọc đường số 16. Suốt 7 ngày đêm, đồng chí dẫn anh em trong tổ liên tục đi bám địch, dùng mìn định hướng, lựu đạn tập kích, diệt trên 100 tên, 2 khẩu pháo 105 mi-li-mét, 5 xe tăng và xe bọc thép.


Tháng 1 năm 1967, giặc Mỹ lại càn lớn vào căn cứ của ta. Nguyễn Văn Lên đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy đơn vị liên tục đánh nhiều trận, có ngày đồng chí bị ngất đến hai lần vì quá mệt, nhưng khi tỉnh dậy lại tiếp tục chiến đấu, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của giặc. Qua 6 ngày chống càn, Nguyễn Văn Lên đã chỉ huy đơn vị giết và làm bị thương 450 tên Mỹ, thu nhiều súng, đạn.


Nguyễn Văn Lên nhiều lần mưu trí, linh hoạt dùng mìn định hướng diệt máy bay lên thẳng, dùng thủ pháo, lựu đạn diệt xe tăng và xe bọc thép. Đồng chí rất chú trọng xây dựng đơn vị, chăm sóc, giúp đỡ đồng đội lúc thường cũng như trong chiến đấu, hết lòng bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.


Nguyễn Văn Lên đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 lần Chiến sĩ thi đua tỉnh, 1 lần Chiến sĩ thi đua quân khu, 4 lần đạt các danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, Dũng sĩ diệt Mỹ cấp I, Dũng sĩ Quyết thâng, Dũng sĩ diệt cơ giới.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Văn Lên được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:23:14 pm »

Anh hùng Kpa-Kơ-Lơng


Kpa-Kơ-Lơng, sinh năm 1948, dân tộc Gia Rai, quê ở xã I-a Pia, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, nhập ngũ tháng 3 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội phó trinh sát quận 5, Gia Lai, Quân khu 5.


Sống trong một gia đình nông dân nghèo, cha mất sớm, hai anh bị giặc đánh đập tàn phế, Kpa-Kơ-Lơng sẵn có lòng căm thù sâu sắc giặc Mỹ và bè lũ tay sai. Năm 15 tuổi, đồng chí vào du kích. Trong quá trình chiến đấu, đồng chí đã cùng đội du kích đánh địch 12 trận, tự tay diệt 124 tên giặc (trong đó có 6 tên Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự, 25 lần tham gia phá đường giao thông, phá ấp chiến lược, khi vào bộ đội chiến đấu 7 trận, cùng đơn vị diệt 18 tên giặc, 1 xe M.113, thu 4 súng.


Khi còn ít tuổi chưa được chấp nhận vào du kích, Kpa-Kơ-Lơng một mình tự động vót chông, đào hầm, làm cạm bẫy, dùng ná, tên thường và tên thuốc độc diệt 8 tên  giặc. Năm 15 tuổi khi được vào du kích, nhiều lần đồng chí xin nhận vũ khí, tự chọn lấy trận địa, kiên trì phục kích, bám địch diệt 32 tên, bắn bị thương 22 tên, phá hủy 1 xe, thu nhiều vũ khí mang về trang bị cho du kích. Thành tích đánh xe của đồng chí đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào du kích diệt xe địch trong vùng.


Kpa-Kơ-Lơng là một chiến sĩ trinh sát gan dạ, đánh mìn giỏi, bắn súng tài, phục vụ chiến đấu tốt, là một trong những người đạt thành tích diệt nhiều địch nhất trên chiến trường Tây Nguyên.


Trong trận phục kích 1 trung đội địch trên đường dinh điền Lệ Ngọc, bọn địch phát hiện trận địa của ta trước. Thấy nguy hiểm, đồng chí nhanh chóng giật mìn, diệt một số tên. Khi đơn vị rời khỏi trận địa, đồng chí rút sau và bị thương nên phải dừng lại trên đường. Bọn giặc hò hét, kêu nhau lần vết máu đuổi theo. Mặc cho vết thương đau nhói, Kpa-Kơ-Lơng bình tĩnh ném một quả lựu đạn diệt 3 tên đi đầu, rồi bắn liên tiếp vào đội hình chúng. Bọn địch thấy bắn rát liền hốt hoảng rút lui. Đồng chí tự băng bó vết thương rồi trở về căn cứ.


Trong các trận chống càn, đồng chí dũng cảm bám sát địch. Có lần, với 3 viên đạn còn lại, Kpa-Kơ-Lơng bám riết địch từ sáng đến chiều, đứng núp cách 5 mét, chờ chúng tập hợp hàng dọc mới bắn diệt 7 tên, làm bị thương 1, rồi băng rừng chạy về phía sau. Một lần khác, khi đang làm nhiệm vụ canh gác trên rẫy thì phát hiện địch kéo vào, Kpa-Kơ-Lơng mưu trí tìm vị trí có lợi bắn 2 phát diệt 4 tên, bọn còn lại hoảng hốt tháo chạy. Kpa-Kơ-Lơng quyết tâm diệt Mỹ khi chúng vừa đặt chân lên chiến trường Tây Nguyên. Biết bọn Mỹ khi chiến đấu thường hay chiếm điểm cao, đồng chí bố trí mìn trên đường, rồi chiếm điểm cao trước nằm phục kích. Bọn địch từ Plây Me hành quân bị trúng mìn, chết một số tên. Một tốp xách súng chạy lên điểm cao bị đồng chí ném lựu đạn, diệt 4 tên.


Tháng 3 năm 1965, Kpa-Kơ-Lơng vào bộ đội huyện làm trinh sát; trong điều kiện ác liệt của chiến trường Plây Me, đồng chí dũng cảm, không ngại khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Một lần trên đường đi công tác, thấy đơn vị bạn đang đánh địch, đồng chí chủ động ghép mình vào đơn vị bạn chiến đấu, tự tay diệt 2 tên Mỹ và 2 tên ngụy. Đến nơi làm nhiệm vụ lại gặp quân Mỹ đi càn, Kpa-Kơ-Lơng cùng du kích địa phương tổ chức đánh mìn, phá hủy 1 xe địch trên đường số 19.


Tháng 5 năm 1966, địch càn vào khu căn cứ, đồng chí cùng tổ trinh sát vừa bám địch, vừa chiến đấu tiêu diệt 5 tên ngụy và 1 tên Mỹ.


Kpa-Kơ-Lơng là một chiến sĩ trẻ luôn luôn xông xáo, gương mẫu trong mọi công tác, vui vẻ nhận khó khăn về mình, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cán bộ, đồng đội, nhân dân. Đoàn kết, tận tình giúp đỡ nhau, đồng chí được đồng đội yêu mến. Mấy năm liền, đồng chí được bầu là Chiến sĩ thi đua ở cơ sở, là Chiến sĩ thi đua miền Trung Trung Bộ, được thưởng 3 bằng khen và giấy khen, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Kpa-Kơ-Lơng được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:24:12 pm »

Anh hùng Kan Lịch


Kan Lịch sinh năm 1943, dân tộc Tà Ôi (Pa Cô), quê ở xã Hồng Bắc. huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó huyện đội vùng B, tỉnh Thừa Thiên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ một cô gái nghèo khổ người dân tộc thiểu số, được sự giáo dục của cách mạng, Kan Lịch giác ngộ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, giải phóng quê hương, thống nhất, đất nước và trở thành một cán bộ xuất sắc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân, luôn luôn hăng hái, đi đầu trong mọi nhiệm vụ, chiến đấu dũng cảm, linh hoạt, có quyết tâm cao tiêu diệt địch, góp phần tích cực đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của địa phương.


Kan Lịch đã chiến đấu nhiều trận, tự tay bắn chết 49 tên địch (chưa kể số địch thương vong vì chông, mìn và số địch bị diệt trong các trận đồng chí chỉ huy  đánh tập trung), bắn rơi 1 máy bay vận tải và bắn hỏng 1 chiếc khác, phá sập 2 nhà ở của địch.


Năm 1961, vào du kích, lúc đầu được phân công làm nhiệm vụ canh gác và phục vụ cơm nước cho anh em, Kan Lịch vui vẻ chấp hành nhiệm vụ, đồng thời tranh thủ thời gian hăng say luyện tập quân sự và vận động chị em làm chông, bẫy, tham gia chiến đấu, dần dần gây được lòng tin trong bà con buôn làng là con gái cũng đánh được giặc.


Năm 1963, trong một trận đánh, mặc dù chân bị chông đâm bị thương, Kan Lịch vẫn kiên quyết xin được nhận nhiệm vụ. Cùng tổ du kích lọt vào bốt địch giữa lúc chúng đang ngủ, nhưng do đêm tối khó nhìn, Kan Lịch dùng mưu cất tiếng gọi to, làm chúng hốt hoảng ngồi dậy. Lập tức, các đồng chí nổ súng tiêu diệt được 4 tên, riêng đồng chí bắn chết 1 tên.


Hai ngày sau khi địch càn lên khu căn cứ, Kan Lịch cùng tổ bò vào nơi địch đóng quân để cắm chông, gài lựu đạn, khiến chúng bị thương vong một số, sau đó đợi địch đến thật gần các đồng chí mới nổ súng, diệt tại chỗ 2 tên và tiếp tục đánh lui các đợt tiến công của địch.


Tháng 5 năm 1964, Kan Lịch dẫn tổ du kích vào nằm phục sát sân bay A Lưới, giữa đồi tranh nắng gát như thiêu, nhịn đói, khát liền 2 ngày rưỡi, kiên trì chờ bắn rơi chiếc máy bay vận tải, diệt cả bọn, trong đó có tên đại tá Mỹ, đồng thời bắn chết 4 tên địch trong sân bay.


Tháng 3 năm 1965, sau một đêm vào điều tra trong sân bay A Lưới, khi trở ra, tổ du kích bị giặc phục kích bất ngờ, bắt mất một tổ viên. Qua phút bị động ban đầu, đồng chí bình tĩnh tổ chức chiến đấu giành lại chủ động giết chết 3 tên địch, cứu thoát đồng đội từ tay giặc, đưa cả tổ trở về hậu cứ an toàn.


Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1965, chỉ huy cụm du kích các xã Hồng Bắc, Hồng Nam, Hồng Trung và 1 trung đội bộ đội địa phương bao vây đồn A Lưới, Kan Lịch đã lãnh đạo anh chị em khắc phục mọi khó khăn, gian khổ giữa mùa mưa, liên tục vây hãm địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại, khiến chúng hoảng sợ không dám ra khỏi chỗ đóng quân.


Trong trận đánh lô cốt Tà Rê, do tính toán kỹ và tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, đồng chí chỉ huy rất tài tình, diệt tên gác và đồng loạt nổ súng tiến công đúng lúc bọn địch tập trung giữa sân ăn cơm chiều, diệt gọn 1 trung đội địch (trong đó có 2 tên Mỹ).


Bị thua đau, địch xây lại lô cốt kiên cố và canh gác nghiêm ngặt hơn. Sau khi đã điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình địch, đồng chí lại dẫn tổ du kích đi đánh tiếp trận nữa, diệt thêm hàng chục tên, buộc địch phải bỏ chạy khói lô cốt Tà Rê. Kan Lịch còn nhiều lần dẫn các tổ nam, nữ du kích còn ít kinh nghiệm chiến đấu đi đánh bọn địch tuần tiễu, hoặc bí mật lọt vào lô cốt của chúng để rải truyền đơn, cắt dây điện thoại..., lần nào cũng thu được thắng lợi, khiến anh chị em rất phấn khởi, tin tưởng, trưởng thành mau chóng.


Kan Lịch luôn luôn chú ý xây dựng đội du kích ngày càng vững mạnh, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương phát triển không ngừng. Đồng chí thường xung phong nhận làm trước những việc khó khăn, lấy kết quả để động viên mọi người cùng tin tưởng làm theo. Ngoài nhiệm vụ đánh giặc, giữ làng, Kan Lịch còn gương mẫu và vận động nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, được bà con rất tin yêu, mến phục.


Đồng chí đã được tặng thương 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Kan Lịch được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quần công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:24:59 pm »

Anh hùng Trần Văn Lư


Trần Văn Lư sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xà An Trường, huyện Càng Long, tinh Trà Vinh, nhập ngũ tháng 5 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là bác sĩ, đội trưởng đội phẫu thuật sư đoàn 5, bộ đội chủ lực Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đồng chí sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, cha bị bọn ấp trưởng bắt đánh chết, mấy mẹ con phải đi ở đợ, làm thuê kiếm sống. Cách mạng tháng Tám thành công, được giác ngộ cách mạng, 5 anh em đều lần lượt gia nhập quân đội cầm súng giết giặc. Vào bộ đội, Trần Văn Lư được điều về bệnh xá thuộc chi đội 20 làm liên lạc. Căm thù sâu sắc bọn đế quốc, phong kiến, suốt những năm kháng chiến chống Pháp, đồng chí không quản gian khổ, khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí còn luôn luôn chịu khó học tập để phục vụ cách mạng nhiều hơn nửa.


Cuối năm 1954, đồng chí tập kết ra Bắc. Trong những năm ở miền Bắc, Trần Văn Lư gương mẫu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và kiên trì học tập văn hóa và chuyên môn. Vừa học tập trung, vừa tự học, từ trình độ lớp 3, đồng chí học xong lớp 10 và tốt nghiệp bác sĩ y khoa trong nhà trường xã hội chủ nghĩa.


Sau khi học xong, ra công tác (năm 1963), Trần Văn Lư xin tình nguyện trở về miền Nam tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần vào công cuộc chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng chí tham gia phục vụ 8 chiến dịch và nhiều trận đánh lớn ở chiến trường, luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, bám sát đơn vị chiến đấu, kịp thời cứu chữa thương binh ở hỏa tuyến. Trong hoàn cảnh chiến đấu gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, Trần Văn Lư nêu cao quyết tâm phục vụ thương binh, bệnh binh vô điều kiện, nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Tháng 10 nàm 1964, lần đầu tiên Trần Văn Lư được giao phụ trách tổ phẫu thuật phục vụ trận đánh đồn Gò Dầu. Tuy chưa có kinh nghiệm tổ chức và hoạt động trong chiến đấu, người phục vụ ít, thương binh dồn về nhiều, đồng chí kiên trì động viên đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ, bản thân đồng chí đứng mổ liên tục 1 ngày, 1 đêm, bảo đảm an toàn tuyệt đối các ca mổ. Trong chiến dịch Bình Giã, đội phẫu thuật của Trần Văn Lư đi phục vụ một mũi của chiến dịch. Có lúc bị địch càn, đội mất liên lạc với trên, đồng chí cùng 4 tá, phục vụ hơn 200 thương binh suốt 4 đêm ngày. Đặc biệt có một số ca cấp cứu thương binh nặng vượt quá khả năng của mình, nhưng đồng chí kiên trì tìm mọi cách để cứu sống đồng đội. Ca phẫu thuật một đồng chí bị vết thương ở túi phồng động mạch cổ, khi mổ tới phần trong túi, máu chảy ra nhiều, tưởng như thương binh có thể chết trên bàn mổ, Trần Văn Lư tỉnh táo, bình tĩnh tìm được động mạch, kẹp lại rồi khâu bảo đảm an toàn ca mổ.


Trong trận Bù Đốp, do yêu cầu cấp bách phải giải quyết tại chỗ, Trần  Văn Lư mạnh bạo tiến hành ca mổ cho một đồng chí thương binh vỡ gan 15 cen-ti-mét, thủng 4 lỗ ruột. Suốt 2 giờ liền, đồng chí mổ, khâu gan, cắt nối lại ruột, cứu sống được đồng chí thương binh, được sự tin yêu và cảm phục của toàn đơn vị.


Có lúc gặp khó khăn thiếu gạo, hoặc trời mưa, không đủ vải ni-lông che, Trần Văn Lư gương mẫu làm trước và vận động anh em nhân viên ăn cháo, nhường gạo cho thương binh, chịu ướt, rét để bảo đảm cho thương binh có vải che mưa.


Trong cuộc sống, đồng chí có tác phong khiêm tốn, giản dị, chịu khó học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, hết lòng thương yêu đồng đội, giúp đỡ, hướng dẫn những đồng nghiệp, xây dựng phân đội tiến bộ toàn diện.


Trần Văn Lư đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 10 bằng khen và giấy khen, 3 năm (1964 - 1965 - 1966) lá Chiến sĩ thi đua.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Trần Văn Lư được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nim tặng thương Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:25:37 pm »

Anh hùng Đoàn Hoàng Minh


Đoàn Hoàng Minh (tức Đoàn Văn Tới) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xã Hương Mỹ, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 2 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thông tin, bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.    Xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, ở một địa phương có phong trào cách mạng và kháng chiến cao, Đoàn Hoàng Minh sớm giác ngộ và tích cực tham gia hoạt động ở cơ sở, đấu tranh chống giặc Mỹ và bè lũ tay sai, chống bọn địa chủ ngóc đầu dậy cướp đất của nông dân. Cuối năm 1959, đồng chí vào du kích, chiến đấu 22 trận, diệt ác ôn, trừ tề điệp, hỗ trợ tích cực cho đồng bào trong xã đồng khởi, giải phóng quê hương. Năm 1961, Đoàn Hoàng Minh vào bộ đội chủ lực được phân công làm chiến sĩ thông tin liên lạc, sau đó được chọn đi học trường huấn luyện kỹ thuật thông tin chiến đấu. Ra trường, phục vụ đơn vị, đồng chí đã  tham gia đánh 29 trận lớn nhỏ, luôn luôn tỏ ra một chiến sĩ dũng cảm khắc phục khó khăn, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo nghiệp vụ luôn luôn thông suốt, phục, vụ đắc lực cho chỉ huy chiến đấu.


Một lần, Đoàn Hoàng Minh cùng đi trong đoàn gần 100 cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị chiến trường. Sau khi vượt qua những đoạn đường sát đồn bốt địch trên đường số 20, khi đến sông Bé thì nước sông đang dâng lên cuồn cuộn, trong đêm tối không có một chiếc thuyền. Nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường khẩn trương, lúc này gặp nhiều khó khăn chưa có gì khắc phục, Đoàn Hoàng Minh xung phong băng sông lặn lội tìm kiếm mang về một chiếc xuồng, sau đó tự tay chèo chống lần lượt đưa hết đoàn cán bộ, chiến sĩ vượt lũ sang sông an toàn, trước trời sáng.


Phụ trách một tổ thông tin vô tuyến điện, đồng chí cùng anh em trong tổ nhiều lần mưu trí linh hoạt, tìm đặt vị trí có lợi nhất phục vụ đắc lực cho cấp trên nắm chắc tình hình diễn biến khẩn trương, điều động lực lượng chủ động đánh địch giành thắng lợi.


Đặc biệt, trong 2 trận liền 3 ngày từ 10 đến 12 mang 5 năm 1965, ở Thuận Lợi, tổ thông tin vô tuyến điện của đồng chí có 2 người làm đài liên lạc giữa trung đoàn và các tiểu đoàn, đã bí mật trèo lên chiếm lĩnh một điểm cao đột xuất rất bất ngờ đối với địch ở sát sân bay, ở đó có thể quan sát rộng bao quát toàn khu vực dự kiến tác chiến. Địa điểm rất hẹp, không đủ chỗ ngồi cho 2 người, đặt chân rất vướng, bốn bề nắng chói chang hun nóng, lại rất dễ bị địch phát hiện, nhưng tổ của đồng chí khắc phục khó khăn, nguy hiểm, bám vững ở đó. Sau khi địch đổ quân xuống, trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt ngay chung quanh vị trí của tổ thông tin. Có lúc hàng đàn máy bay lên thẳng quần đảo, rà sát ngay dưới chỗ các đồng chí đang nép mình, đạn bay chéo qua trên đầu, bom nổ dưới chân.


Trong tình huống như vậy, Đoàn Hoàng Minh kịp thời báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn nhiều tin tức quan trọng để cấp trên ra mệnh lệnh cho bộ binh, pháo binh diệt nhiều địch mới đổ xuống. Có lần, phát hiện 1 đại đội địch hoảng loạn đang rút về phía tây sân bay, đồng chí thấy tình huống rất khẩn trương, phải giải quyết thật nhanh, nên qua làn sóng điện, Đoàn Hoàng Minh vừa báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn, vừa đề nghị thẳng với tiểu đoàn ở gần đấy nhất vận động kịp thời đến, nên đã diệt gọn đại đội này trong vòng 7 phút. Đến ngày thứ 3, lúc trận đánh đang diễn biến mau lẹ, quan sát thấy quân địch đang rút vào khu rừng cao su, đồng chí vừa báo cáo về trung đoàn, vừa đề nghị một cánh quân của ta đánh vào bên sườn và một đơn vị khác vòng ra lộ khóa đuôi, diệt gọn bọn địch này.


Liền trong 3 ngày đêm, trụ bí mật trên "điểm cao" theo dõi, nắm chắc tình hình địch vận động như nhìn trên bàn cờ, Đoàn Hoàng Minh báo cáo kịp thời, chính xác tình hình và truyền đạt mệnh lệnh của trung đoàn chỉ huy tiến công, bao vây, chặn địch, truy kích, bắn súng cối đúng mục tiêu, diệt gọn 1 tiểu đoàn địch trong trận chặn viện ở Thuận Lợi. Có lần máy liên lạc bị hỏng, Đoàn Hoàng Minh bàn bạc cùng đồng chí tổ viên bí mật lợi dụng đêm tối vượt qua nhiều chỗ địch bố trí, trở về sở chỉ huy lấy máy khác lên vị trí tiếp tục nhiệm vụ.


Sau trận chiến đấu, Đoàn Hoàng Minh bị cảm nắng, khắp mình tê dại, nhưng đồng chí vẫn vui vẻ vì tổ thông tin đã giữ vững làn sóng điện phục vụ liên tục cuộc chiến đấu thắng lợi giòn giã.


Đoàn Hoàng Minh nêu cao tinh thần quên mình vì nhiệm vụ, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, không kể nguy hiểm đến tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu thắng lợi, luôn luôn đoàn kết thương yêu đồng đội, gương mẫu, khiêm tốn, được cấp trên tin tưởng, đồng đội mến phục.    


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 6 bằng khen, 8 giấy khen, là Chiến sĩ thi đua trung đoàn, Dũng sĩ Quyết thắng.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Đoàn Hoàng Minh được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thướng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2021, 08:26:10 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Mốt


Nguyễn Văn Mốt sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thới Trung, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 1 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đoàn 149, Cục hậu cần Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sớm giác ngộ cách mạng, Nguyễn Văn Mốt tham gia hoạt động bí mật ở thành phố Sài Gòn, đến tháng 7 năm 1960 cơ sở bị lộ, đồng chí được tổ chức cho thoát ly. Sau một thời gian, bị địch bắt, đồng chí tìm cách trốn thoát và sau đó được điều lên công tác tại khu căn cứ và được giao nhiệm vụ quân lương, vận tải lương thực, thực phẩm. Nhận công tác mới, gặp nhiều khó khăn, lúng túng, đồng chí luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, tìm nhiều biện pháp tốt hoàn thành nhiệm vụ, khi đánh địch để bảo vệ tài sản, kho tàng của cách mạng, thì tỏ ra dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, lập công xuất sắc.


Trong công tác, Nguyễn Văn Mốt tìm cách cải tiến để hợp lý hóa động tác, đỡ lãng phí thời gian và sức người. Hàng ngày, đồng chí tranh thủ mọi lúc chuẩn bị sẵn sàng tranh, tre, lạt, cây cột để khi làm kho là có đủ, khỏi mất thời gian chờ đợi, rút ngắn thời gian làm kho xuống còn 1, 2 ngày. Khi chuyển hàng, mặc dù ít người, phải đảm bảo mỗi đêm từ 80 đến 100 xe, nếu gặp trời mưa, mỗi người chỉ vận tải được 25 đến 30 ki-lô-gam lương thực, Nguyễn Văn Mốt nghĩ cách cải tiến mang vác và tìm ra con đường mới vừa gần, vừa khô ráo, dễ đi, nên đưa năng suất vận chuyên lên 120 ki-lô-gam/chuyến, đảm bảo vượt mức kế hoạch vận chuyển.


Trong lúc giữ kho, đồng chí không quản ngại nắng, mưa thường xuyên kiểm tra, ngăn chặn kịp thời mối mọt; chuột bọ phá hoại. Nguyễn Văn Mốt thường nghĩ: "Đây là tài sản của cách mạng, người giữ kho phải biết bảo vệ cho tốt, để phục vụ bộ đội được đầy đủ". Khi kho bị máy bay địch oanh tạc, đồng chí không sợ hy sinh, vượt qua lửa đạn, xông vào cứu kho, đồng thời động viên anh em phải bám chắc lấy kho, phải bảo vệ kho. Nguyễn Văn Mốt đào hào giao thông tránh máy bay oanh tạc ở ngay tại kho để khi ngớt bom lại tiếp tục công tác và nhanh chóng sửa chữa lại kho tàng. Việc làm gương mẫu của đồng chí lôi cuốn anh em trong đơn vị làm theo, nên mỗi khi ngớt bom đạn, kho vẫn giao hàng kịp thời cho các đơn vị.


Ngày 22 tháng 6 năm 1966, địch cho máy bay đánh phá khu vực kho rồi bất ngờ đổ xuống 2 tiểu đoàn hòng phá hoại căn cứ hậu cần của ta. Mặc dù hầu hết anh em chưa trải qua chiến đấu, nhưng đồng chí bình tĩnh, mưu trí phán đoán các hướng tiến công của địch, căn cứ vào kế hoạch tác chiến, bố trí các tổ chiến đấu. Nguyễn Văn Mốt đi sát các tổ, động viên anh em kiên quyết bám địch, đánh địch, bảo vệ kho tàng. Suốt cả ngày 23 tháng 6, tiểu đội Nguyễn Văn Mốt đã kiên cường chiến đấu đánh lui 8 đợt xung phong của địch, bảo vệ được kho, diệt được nhiều địch. Đến ngày 24 tháng 6, tiểu đội Nguyễn Văn Mốt được lệnh rút, nhưng lúc đó địch lại mở đợt tiến công mới, đồng chí động viên 11 anh em trong tiểu đội quyết tâm chiến đấu đánh lui 4 đợt tiến công của địch, diệt 30 tên, phá hủy 1 đại liên. Đến chiều, đồng chí đã cùng một tổ bí mật ở lại bám địch, chờ cho địch kéo vào cách 20 mét, mới nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch chết nhiều, phải dùng máy bay lên thẳng đến chở xác. Sau khi địch rút, đồng chí và tổ lại xông lên cứu chữa kho, thu nhặt tài sản.


Nguyễn Văn Mốt luôn luôn gương mẫu đi đầu trong mọi mặt công tác và chiến đấu, nêu cao tinh thần không ngại gian khổ, khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, dũng cảm, mưu trí đánh địch bảo vệ kho tàng, tải sản của cách mạng. Đồng chí vui vẻ, cởi mở và thương yêu đồng đội nên được anh em trong đơn vị và khách hàng tin yêu, quý mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 12 giấy khen, 4 năm liền là Chiến sĩ thi đua và Dũng sĩ diệt Mỹ cấp I.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Văn Mốt được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2021, 06:51:11 pm »

Anh hùng Nguyễn Đức Nghĩa


Nguyễn Đức Nghĩa, sinh năm 1945, dân tộc Kinh quê ở xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 7, trung đoàn 16 bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đồng chí vừa là một chiến sĩ bộc phá xuất sắc, vừa là một chiến sĩ xung kích dũng cảm, mưu trí, táo bạo, cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh địch trong công sự vững chắc, nhiều trận tập kích với quy mô lớn. Trong tình huống chiến đấu gay go, Nguyễn Đức Nghĩa dũng cảm, mưu trí tìm cách vượt qua khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Cuối năm 1964, trong trận đầu đánh quân địch ờ trong công sự vững chắc, đồng chí dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh bộc phá, phá thông cửa mở, sau đó tiếp tục cùng tổ xung kích đánh mạnh, thọc sâu, tạo điều kiện cho đơn vị đánh nhanh, diệt gọn đồn địch.


Đầu năm 1965, đánh chi khu của địch ở Tây Nguyên, tuy đồng chí đã bị thương nhưng vẫn bình tĩnh, dũng cảm vượt qua lưới lửa của địch, nhiều lần xông vào đánh bộc phá, mở được cửa mở cho đơn vị tiến lên diệt địch. Mặc dù bị sức ép của bộc phá làm chảy máu, Nguyễn Đức Nghĩa vẫn cùng tổ xung kích tiếp tục lao vào chiến đấu cho đến khi tiêu diệt toàn bộ quân địch.


Trong một trận khác, đơn vị đang gặp khó khăn ở cửa mở vì địch ngoan cố dùng hỏa lực đại liên kiềm chế mạnh, ngăn chặn xung kích của ta, đồng chí kịp thời phát hiện và báo cáo với ban chỉ huy xin lên diệt hỏa điểm địch. Được lệnh, đồng chí dũng cảm, mưu trí tìm cách đến gần tiêu diệt hỏa điểm lợi hại của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị tiến lên diệt gọn đồn địch, giảm bớt được thương vong cho đồng đội.


Trận đầu đánh Mỹ ở Chà Dơ (Dương Minh Châu - Tây Ninh), trong 2 ngày 8 và 9 tháng 11 năm 1966, Nguyễn Đức Nghĩa chỉ huy trung đội chặn đánh một cánh quân Mỹ tiến công vào trận địa. Tuy địch đông gấp bội và có máy bay, pháo binh đánh phá rất ác liệt mở đường, đồng chí vẫn bình tĩnh đến từng công sự động viên anh em chờ địch đến thật gần mới nổ súng, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Trận đánh kéo dài 2 ngày, Nguyễn Đức Nghĩa động viên anh em lấy súng địch để tiếp tục chiến đấu. Riêng đồng chí bò dưới làn đạn địch, cướp được khẩu đại liên bắn diệt hàng chục tên, góp phần đánh lui nhiều đợt tiến công của địch. Trung đội Nguyễn Đức Nghĩa đã cùng toàn trung doàn đánh quy lữ đoàn 196 Mỹ, diệt trên 800 tên, góp phần đánh bại cuộc càn lớn của Mỹ vào vùng căn cứ kháng chiến.


Nguyễn Đức Nghĩa là một cán bộ gương mẫu, luôn luôn nêu cao ý chí quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho hạn, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng đội, chú ý xây dựng phân đội trưởng thành toàn diện, được anh em yêu mến, tín nhiệm.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 5 bằng khen và được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp II.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Đức Nghĩa được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2021, 06:52:27 pm »

Anh hùng Phạm Đình Nghiệp


Phạm Đình Nghiệp, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó đại đội đặc công bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ngãi, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Được sự giáo dục của cán hộ cách mạng và gia đình (cha và mẹ đều là đảng viên), Phạm Đình Nghiệp rất thiết tha với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với lòng yêu nước nồng nàn đó, đồng chí tham gia hoạt động ở cơ sở, góp phần diệt tề, phá ấp chiến lược, giải phóng nhân dân.


Vào bộ đội, từ năm 1962 đến năm 1966, Phạm Đình Nghiệp tham gia chiến đấu 30 trận, tự tay diệt và bắt sống 79 tên giặc, thu 33 khẩu súng các loại, đánh hỏng một xe M.113. Đồng chí có quyết tâm chiến đấu rất cao, dám xả thân mình để cứu đồng đội, trận đánh nào cũng tỏ ra ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, xử trí linh hoạt những tình huống khó khăn, đảm bảo đơn vị đánh thắng.


Trận Bến Thóc (xã Đức Thọ, huyện Mộ Đức), ngày 5 tháng 2 năm 1964, tuy địch đông gấp nhiều lần, Phạm Đình Nghiệp và anh em trong tổ vẫn quyết tàm tập kích. Bò tới cách địch 10 mét, đồng chí một tay lựu đạn, một tay thu pháo ném liên tiếp vào quân địch, phối hợp với anh em tiêu diệt một số tên giặc ngay từ phút đầu. Đang đuổi theo tốp địch trước mặt, chợt thấy phía sau có 1 tên giặc cầm trung liên, Phạm Đình Nghiệp định bắn nhưng súng hết đạn. Đồng chí nhanh trí hô nghi binh, đồng thời ra hiệu cho tổ trưởng vòng sau lưng diệt tên này, lấy súng địch tiếp tục chiến đấu. Kết quả chỉ có 4 người đã tiêu diệt gọn 2 trung đội biệt kích địch, riêng đồng chí giết chết 8 tên, bắn bị thương 6 tên, bắt sống 2 tên, thu 8 khẩu súng, 1 máy bộ đàm.


Đêm 15 tháng 1 năm 1965, đánh địch ở Liên Trì (huyện Bình Sơn), Phạm Đình Nghiệp chỉ huy tiểu đội diệt sở chỉ huy địch. Sau khi dẫn tiểu đội bí mật vào cách địch 20 mét, Phạm Đình Nghiệp cùng một đồng chí nữa luồn qua toán lính gác, dùng bộc phá, lựu đạn, tiểu liên đánh mạnh từ trong ra. Lúc này đồng đội bị thương, lại chưa bắt được liên lạc với anh em bên ngoài, nhưng khi nghe thấy bọn địch trao đổi, nói lộ mật khẩu, đồng chí bình tĩnh mưu trí, dùng mật khẩu của địch để tiến gần chúng, diệt hết toán này đến toán khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ tiến vào. Trận này, tiểu đội của đồng chí diệt gọn 1 trung đội địch, thu nhiều súng, đạn.


Đêm 28 tháng 11 năm 1965, đánh đồn Đầu Voi (xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh) ở trên đồi cao, dốc đứng, Phạm Đình Nghiệp bình tĩnh, lên xuống nhiều lần theo con đường độc nhất mà địch thường báo động bắn ra, dẫn từng chiến sĩ vào vị trí chiến đấu. Khi ta nổ súng, địch đối phó mạnh. Phát hiện 2 khẩu trung liên bắn ra cửa mở, đồng chí dùng lựu đạn diệt ngay rồi cùng anh em đánh thẳng vào sở chỉ huy. Phạm Đình Nghiệp nhanh như sóc, lúc nhặt lựu đạn địch ném trở lại, diệt địch dưới chiến hào, lúc dùng tiểu liên quét bọn đang nhốn nháo chạy trên sân. Sau 20 phút chiến đấu, trung đội của đồng chí diệt 75 tên và 1 sở chỉ huy đại đội địch. Riêng đồng chí diệt 17 tên, thu 7 khẩu súng (có 1 súng cối, 1 đại liên).


Đêm 12 tháng 9 năm 1966, đánh trận Núi Giàng (cách quận lỵ Đức Phổ 1 ki-lô-mét về phía đông bắc), Phạm Đình Nghiệp dẫn một tổ đột phá đi trước cắt rào, gỡ mìn, rải lộ tiêu rồi đưa đơn vị bí mật tới bố trí sát hàng rào thứ nhất. Đồng chí bắn một phát B.40 làm cho hỏa lực chính của địch tê liệt ngay từ phút đầu, rồi nhanh chóng chỉ huy các tổ đánh vào sở chỉ huy, khu điện đài và trận địa pháo binh địch. Chỉ trong7 phút, trung đội của đồng chí hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt 6 trung đội địch, thu 85 súng các loại, phá hủy 2 khẩu pháo 105 mi-li-mét, 2 đại liên, 2 kho đạn, phá tan 10 lô cốt, 2 hầm ngầm.


Phạm Đình Nghiệp thường xuyên sâu sát chiến sĩ, tận tình giúp đỡ đồng đội, tranh thủ mọi thời gian để huấn luyện đơn vị, gương mẫu chấp hành chính sách dân vận, chính sách chiến lợi phẩm, phát huy bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng, được đồng đội và đồng bào tin yêu, mến phục.    Phạm Đình Nghiệp đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, là Chiến sĩ thi đua liền 2 năm 1965 - 1966.


Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Phạm Đình Nghiệp được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM