Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:04:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 2  (Đọc 8375 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2021, 07:45:50 pm »

Anh hùng Trừ Văn Thố
(Liệt sĩ)


Trừ Văn Thố sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Thanh Hòa, quận Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, vào du kích tháng 10 năm 1961, nhập ngũ tháng 4 năm 1962. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ trinh sát đặc công, đơn vị Q.272.(sau này là trung đoàn 2 - sư đoàn 9).


Thời gian ở du kích cũng như khi chuyển sang đơn vị chủ lực, dù nhận bất cứ nhiệm vụ gì Trừ Văn Thố luôn luôn tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, có quyết tâm cao trong học tập, bình tĩnh, vững vàng trong mọi tình huống ác liệt, khó khăn, đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch, tạo điều kiện cho toàn đơn vị xung phong giành thắng lợi hoàn toàn cho trận đánh.


Năm 1961, trong một trận đánh địch càn vào xã, đồng chí bị thương ở ngực, vẫn bám trận địa chiến đấu, cổ vũ đồng đội kiên cường chặn địch, buộc chúng phải lui quân.

Năm 1962 đơn vị Trừ Văn Thố hoạt động ở chiến khu Đ gian khổ, bị địch truy quét thường xuyên, ác liệt, đồng chí vẫn vững vàng bám trụ, nắm tình hình địch chính xác, kịp thời giúp cấp trên tổ chức nhiều trận đánh thắng lợi. 

Tháng 4 năm 1963, đồng chí được cử đi học trinh sát, rồi về bổ sung vào đơn vị đặc công Q.272.

Trong trận đánh bốt Cây Trường (ngày 18 tháng 10 năm 1963), đồng chí đã lập chiến công xuất sầc. Cây Trường là một vị trí án ngữ đường số 13 và khu tam giác Dinh Điền - Cẩm Xe - Văn Hữu. Đó cúng là nơi tập kết để bọn biệt kích, ác ôn xuất phát đi đánh phá chiến khu Long Xuyên, vì vậy, bọn địch bố trí phòng thủ bảo vệ rất chặt chẽ. Hàng tháng ròng, Trừ Văn Thố len lỏi vào vị trí nắm địch tình, giúp trên hạ quyết tâm chiến đấu chính xác. Ngày nổ súng, đồng chí được giao nhiệm vụ cùng tổ đánh khu cố thủ (trên lô cốt cố thủ còn có pháo đài cao 7 mét) ở hướng chủ yếu. Do giữ được bí mật bất ngờ, nên ngay loạt tiếng nổ đầu tiên, quân ta đã đánh sập luôn lô cốt B, C mở xong hàng rào tiền duyên và bắn vỡ pháo đài. Nhưng từ lô cốt A (khu cố thủ), hỏa lực địch vẫn quét mạnh cản đường. Nhiều chiến sĩ ở hướng chủ yếu, trong đó có hai tổ viên của tổ đồng chí đã bị thương và hy sinh. Căm thù sôi sục nhưng vẫn hết sức bình tĩnh Trừ Văn Thố quan sát đường tiến rồi ôm bộc phá trườn lên. Một loạt trung liên từ lỗ châu mai bắn ra, đạn xuyên qua đùi, làm đồng chí tê dại cả một bên chân. Đồng chí nghiến răng chịu đau, lê lên đặt bộc phá áp sát vào lô cốt. Một cột lửa bùng lên, tiếp theo một tiếng nổ dậy đất. Lô cốt địch lặng đi vài giây rồi hỏa lực từ lỗ châu mai lại tiếp tục phụt ra. Trừ Văn Thố rút 2 trái thủ pháo ném tiếp vào lỗ châu mai địch, nhưng hỏa điểm vẫn chưa bị dập tắt. Đội hình tiến quân của ta ùn lại, đồng đội tiếp tục bị thương vong. “Bằng giá nào cũng phải diệt được lô cốt địch, mở đường cho xung kích tiến lên”. Chăm chú   nhìn lô cốt địch, mắt nảy lửa hờn căm, chợt nhớ đến gương Phan Đình Giót, đồng chí thấy lúc này chính là lúc phải hy sinh dũng cảm, hành động như người anh hùng Điện Biên Phủ năm xưa. Trừ Văn Thố nén đau, ráng sức toài dần lên, rồi bất ngờ bật dậy, lao người vào lỗ châu mai, dùng thân mình bịt kín họng súng liên thanh của địch, tạo thời cơ cho đồng đội ào ạt xung phong.


Gương hy sinh dũng cảm, xả thân vì nhiệm vụ của Trừ Văn Thố đã góp phần cống hiến xuất sắc cho trận đánh thắng lợi.

Khi còn sống, Trừ Văn Thố là một chiến sĩ hiền lành, chất phác, sống giản dị, khiêm tốn, hết lòng thương yêu đồng đội, được mọi người tin cậy, mến yêu.

Ngày 5 tháng 5 nãm 1965, Trừ Văn Thố được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2021, 07:01:27 pm »

Anh hùng Ngô Minh Trị
(Liệt sĩ)


Ngô Minh Trị (tức Ba Bảy) sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Thanh Tuyền, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé nhập ngũ năm 1957. Khi hy sinh, đồng chí là tiểu đội phó đơn vị đặc công 60, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Gia đình đồng chí rất nghèo, vừa làm ruộng thuê, vừa đi làm ở sở cạo mủ cao su để sinh sống. Sau Cách mạng tháng Tám, Ngô Minh Trị được nuôi dưỡng và lớn lên trong vùng căn cứ kháng chiến cũ của ta, do đó sớm có lòng yêu nước nồng nàn và căm thù giặc sâu sắc.


Năm 1954, sau ngày ký Hiệp nghị Giơ-ne-vơ Ngô Minh Trị làm công tác ở Đoàn thanh niên xã, rồi được giới thiệu vào lực lượng vũ trang huyện, năm 1957, được chọn vào đơn vị đặc công 60. Đồng chí đã tham gia nhiều trận đánh lớn, lập công xuất sắc.


Năm 1957, trong trận đánh tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch khi chúng định phá rừng, mở đường quân sự ở Sông Bé - Mã Đà, Ngô Minh Trị tỏ ra rất dũng cảm, gan dạ, quyết tâm vượt qua mọi gian khổ khó khăn, thực hiện bằng được nhiệm vụ. Trong trận tập kích đồn Minh Thạnh - Bình Long, đồng chí đã góp phần diệt và làm tan rã hơn 2 đại đội địch. Trong trận đánh quận lỵ Dầu Tiếng (tháng 8 năm 1958) Ngô Minh Trị là tổ trưởng tổ thọc sâu đánh vào khu vực sở chỉ huy của địch, đã cùng với anh em hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng đơn vị diệt và làm tan rả 5 đại đội địch, thu trên 200 súng các loại...


Trong trận đánh vào cứ điểm sư đoàn 21 ngụy ở Tua Hai (Tây Ninh) ngày 5 tháng 1 năm 1960, Ngô Minh Trị được chọn vào tổ mũi nhọn, đánh thẳng vào sở chỉ huy sư đoàn địch, phát tiếng nổ đầu tiên làm hiệu lệnh cho toàn đơn vị tiến công. Giữa lúc các mũi, hướng còn đang luồn sâu cách bờ thành khoảng 200 mét, địch “đánh hơi” thấy. Chúng liền thổi kèn báo động tất cả 5 tiểu đoàn, đồng thời điều một đoàn xe chở một trung đoàn từ Tây Ninh xuống ứng cứu. Nhận được lệnh cấp trên cho nổ súng chiến đấu, tổ của đồng chí (lúc này đã vượt qua hàng rào, vào trong bờ thành và qua một con mương sâu 1,5 mét, rộng 3 mét) lập tức xung phong, sở chỉ huy sư đoàn 21 ngụy chỉ còn cách 400 mét, nhưng trước mặt là 2 tiểu đoàn địch đang bố trí dày đặc. Phát hiện quân ta, chúng bắn chặn mãnh liệt. Tổ có 3 người, thì 1 đã hy sinh, 2 người còn lại đều đã bị thương ca. Bằng bất cứ giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ, nghĩ vậy Ngô Minh Trị nén đau đớn, ôm trái phá tiếp tục trườn lên. Địch thấy có một mình Ngô Minh Trị liền xô lại định bắt sống. Ngô Minh Trị miệng hô xung phong, tay chuẩn bị rút kĩp nổ, xông thẳng vào giữa đội hình địch. Chúng hốt hoảng sợ chết vội tản rộng ra xung quanh. Lợi dụng khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, đồng chí vọt thẳng vào khu sở chỉ huy địch, tung trái nổ, phát lệnh cho toàn trận đánh. Hai con chó béc-giê nhảy lại cào cấu, Ngô Minh Trị ném lựu đạn hơi đánh cho chó giạt ra, rồi lại xông lên, ném tiếp trái nổ thứ hai. Trong khói đạn mịt mù, đồng chí xông xáo chiến đấu hết sức dũng cảm, đoạt súng giặc giết giặc, cho tới khi bị thương lần thứ ba, thủng bụng Ngô Minh Trị vẫn không rời tay súng.


Ngô Minh Trị hy sinh, nhưng đã góp phần tích cực để trận đánh thắng lợi giòn giã. Quân ta đã diệt 800 tên địch, bắn bị thương 700, bắt sống 500, thu 1.540 súng các loại. Trận đánh gậy chấn động rất mạnh trong quân ngụy, làm cho cả hệ thống đồn bốt địch ở Y.1 và Y.4 phải rút chạy, vùng giải phóng của ta được mở rộng thêm...


Ngô Minh Trị là một chiến sĩ sống trung thực, giản dị, chan hòa cùng đồng đội, luôn luôn được mọi người tin cậy thương yêu. Khi đồng chi hy sinh, cả đơn vị đều xót xa, thương tiếc.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Ngô Minh Trị được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2021, 07:02:03 pm »

Anh hùng Hồ Văn Bé


Hồ Văn Bé (tức Hồng Hải) sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, nhập ngũ ngày 6 tháng 4 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng công binh đặc công của huyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trong kháng chiến chống Pháp, cha mẹ Hồ Văn Bé đều tham gia hoạt động cách mạng. Bố làm xã đội trưởng nhiều năm, năm 1949 bị giặc Pháp bắt giam 44 tháng liền, sau ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lại bị Mỹ - Diệm cầm tù 18 tháng nữa, mẹ làm giao liên, cũng bị địch bắt vào tù, tra tấn cho đến chết. Mang truyền thống gia đình cách mạng, lại được cán bộ giúp đỡ, Hồ Văn Bé đã sớm tham gia công tác, làm liên lạc, rải truyền đơn, canh gác bảo vệ cho cán bộ; lớn lên trở thành đội viên du kích rồi gia nhập bộ đội.


Đồng chí đã tham gia 57 trận, đánh đổ 2 cầu sắt, phá sập và hỏng 9 cầu xi măng, phá hủy 5 xe, diệt 29 tên địch, trong đó có 8 sĩ quan Mỹ, 1 trung tá tỉnh trưởng Mỹ Tho, 1 tỉnh đoàn phó bảo an và 6 sĩ quan khác, làm bị thương 19 tên.


Trong chiến đấu, đồng chí đã tỏ ra rất dũng cảm. Khi đánh tập kích thường đi đầu tổ mũi nhọn; khi phá cầu, đánh xe dù địch canh phòng cẩn mật đến đâu, đồng chí cũng kiên quyết tìm cách lọt vào được, đánh xong còn binh tĩnh ở lại xem xét kết quả để rút kinh nghiệm.


Trong trận Trung Hà - Chợ Gạo (1962), trung đội của đồng chí bị 700 quân lính thủy đánh bộ bao vây. Đồng chí tự nguyện xin cho tiểu đội của minh ở lại chiến đấu kìm chân địch, yểm hộ cho 2 tiểu đội bạn rút trước. Địch tiến công nhiều lần, nhưng đều bị đánh bật trở ra. Trời tối dần, chúng buộc phải co cụm lại, song tiểu đội đồng chí cũng thương vong gần hết, chỉ còn lại Hồ Văn Bé và một chiến sĩ nữa đã bị thương. Dù rất mệt và đói đồng chí cố gắng cõng bạn vượt vòng vây, đưa về gửi một gia đình cơ sở nhờ chăm sóc, rồi dẫn anh em du kích trở lại tìm kiếm rất cẩn thận, không để sót một tử sĩ nào trên trận địa.


Trong trận đánh cầu Trịnh Hà, tháng 11 năm 1963, Hồ Văn Bé vào ra 6 đêm liền để nghiên cứu cách đánh. Cách cầu 120 mét có một cơ quan tham mưu Mỹ và 1 tiểu đoàn ngụy đóng. Chúng tuần tra, canh gác suốt đêm, bố trí hỏa lực dày đặc xung quanh để bảo vệ cầu. Xét thấy đánh đêm không ổn, đồng chí quyết định đánh ban ngày. Lợi dụng lúc địch sơ hở giữa hai phiên đổi gác, Hồ Văn Bé đã táo bạo cải trang, đưa mìn vào đặt và đánh sập cầu.


Cuối tháng 3 năm 1964, chấp hành chỉ thị của cấp trên phải tìm mọi cách diệt bằng được bọn chỉ huy tiểu khu đầu sỏ của địch. Hồ Văn Bé đá theo dõi, điều tra nhiều lần dọc lộ Hòa Tịnh cho tới khi nắm được quy luật của bọn sĩ quan Mỹ, ngụy qua lại lộ này. Ngày 8 tháng 4 năm 1964, Hồ Văn Bé cải trang thành người bắt ếch trà trộn với dân đi làm đồng, chuẩn bị đánh địch. Bỏ qua những xe to chở lính và trang bị, đồng chí kiên trì chờ tới 4 giờ chiều nhằm đúng lúc 2 chiếc xe con (thường chở bọn sĩ quan cao cấp) chạy tới, đồng chí mới nổ mìn, chiếc đi đầu bị đứt làm đôi; 2 tên cố vấn Mỹ, 3 tên sĩ quan ngụy và tên phiên dịch tan xác; chiếc đi sau bị hất quay ngang rồi lao đầu xuống ruộng, thêm 3 tên nửa bỏ mạng.


Ngày 24 tháng 4 năm 1964, biết tin tên trung tá tỉnh trường Trần Hoàng Quân sẽ qua lộ Phú Kiết, Hồ Văn Bé liền đặt mìn mai phục. Bỏ qua các xe cảnh sát, xe chở lính bao vệ, đồng chí chờ khi chiếc xe con xuất hiện đúng vị trí đặt mìn mới điểm hỏa. Trái mìn nổ đã hất tung chiếc xe con xuống rạch: cả 2 tên tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng cùng với 2 cố vấn Mỹ cao cấp, cả tên quận trưởng với tên lính bảo vệ đi cùng đều chết ngay tại chỗ.


Hồ Văn Bé luôn luôn gương mẫu trong mọi công tác, chấp hành nghiêm mọi chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên, đoàn kết, thương yêu, tận tình giúp đỡ đồng đội, nhất là trong những lúc nguy hiểm khó khăn, được anh em tin yêu, mến phục.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, nhiều lần được cấp trên cấp giấy khen, bằng khen.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Hồ Văn Bé được ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:30:00 pm »

Anh hùng Lê Quang Công


Lê Quang Công (tức Thanh Long) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xá Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, nhập ngú ngày 8 tháng 7 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng đại đội 2 bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trước khi vào quân đội, Lê Quang Công là du kích của xã, đã tham gia một số trận đánh, diệt 2 cảnh sát, 18 lần phá thế kìm kẹp của địch, bắt và cảnh cáo 40 tề ngụy, nhiều lần chiến đấu bảo vệ cán bộ qua lộ an toàn. Gần 5 năm ở quân đội, đồng chí đã dự 62 trận đánh (không kể các trận nhỏ, lẻ), tự tay diệt 26 tên địch (trong đó có 1 cố vấn Mỹ), làm bị thương 35 tên, bắt sống 12 tên, thu 27 súng, 60 lựu đạn, góp phần cùng đơn vị bắn rơi 1 máy bay, bắn bị thương 5 chiếc khác và bắn cháy 2 xe lội nước.


Lê Quang Công là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần kiên quyết xung phong, liên tục tiến công quân địch, khi bố trí chặn địch thì ngoan cường, dũng cảm giữ vững trận địa, tìm thế phản công, phát hiện địch sơ hở là nắm thời cơ nhanh chóng phản xung phong tiêu diệt địch, giành thắng lợi.


Tháng 11 năm 1963, nắm thời cơ địch vừa đảo chính lật đổ nhau, còn đang hoang mang, đơn vị đồng chí phối hợp với đơn vị bạn đánh địch suốt 6 ngày đêm liền, diệt 10 đồn bốt ở địa phương, phá 6 ấp chiến lược. Sau đợt này, đồng chí lại đưa đơn vị xuống hoạt động ở vùng Chợ Gạo, chiến đấu liên tục 33 ngày đêm nữa.


Trong trận đánh đồn Tân Thành, đội xung kích một gặp khó khăn không lên được, đồng chí lúc đó đang ở phía sau, nhận được lệnh lên chỉ huy, đã kiên quyết tổ chức xung phong, dẫn đầu đơn vị xông vào cứ điểm, tiêu diệt gọn đồn địch. Trong trận này, đồng chí bị tới 13 vết thương trên lưng, nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy đơn vị cho tới khi hoàn thành được nhiệm vụ.


Trong trận tập kích bốt Cầu Cả Quới, nhằm mở rộng thắng lợi của đợt hoạt động, đồng chí được phân công chỉ huy tổ xung kích, đánh trong điều kiện ta chưa trinh sát nắm địch. Vừa vào tới hàng rào thứ hai thì bị lộ, địch bắn ra dữ dội, Ngô Quang Công xử trí rất nhanh, bật dậy ném liền 2 quả lựu đạn vào lô cốt đầu cầu, rồi chỉ huy tổ xông lên đánh chiếm, sau đó phát triển thẳng vào trung tâm. Do bị đánh nhanh, mạnh, địch không kịp đối phó nên trận đánh đã dứt điểm nhanh, gọn.


Trong trận chống càn Mỹ Tịnh An (tháng 7 năm 1963), địch dùng 2 máy bay tiêm kích, 1 máy bay lên thẳng vũ trang, 3 xe bọc thép và 15 xe lội nước bắn phá dữ dội vào trận địa ta, rồi 3 tiểu đoàn bộ binh dàn hàng ngang tiến vào. Ngô Quang Công đã bình tĩnh chỉ huy phân đội, phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, ngăn chặn địch rất quyết liệt. Sau 2 giờ, địch bị đánh bật trở ra, phải củng cố và gọi máy bay đến oanh tạc, sau đó 9 máy bay lên thẳng tới đổ thêm 1 tiểu đoàn, mở tiếp 2 đợt tiến công nữa. Ngô Quang Công vẫn bình tĩnh quan sát và chỉ huy phân đội chiến đấu, bắn rơi thêm 1 máy bay địch, giữ vững trận địa. Đến tối, được lệnh rút, đồng chí đã tổ chức chỉ huy đơn vị vừa đánh địch, vừa đưa toàn bộ thương binh, tử sĩ ra ngoài. Tính chung ngày hôm đó, đơn vị đồng chí đã đánh lui 4 đợt xung phong của 4 tiểu đoàn địch, diệt 50 tên, bắn rơi 1 máy bay.


Trong trận chống càn Qướn Long ngày 20 tháng 7 năm 1963, địch huy động 8 tiểu đoàn, 27 tàu chiến, 42 xe lội nước, 23 máy bay, 8 khẩu pháo 105 và 155 mi-li-mét, ồ ạt bắn phá và tổ chức liên tiếp 4 đợt xung phong hòng áp đảo quân ta. Ròng rã suốt 1 ngày, chúng không sao đánh chiếm được Qướn Long. Đơn vị Lê Quang Công đã giữ vững trận địa đến tối và rút ra ngoài an toàn theo mệnh lệnh. Trong trận này, địch chết và bị thương 380 tên (có một số Mỹ), mất 1 máy bay HU.1-A và 1 xe lội nước.


Lê Quang Công luôn luôn gương mẫu trong mọi mặt công tác, ngoài nhiệm vụ chiến đấu, đồng chí còn chú ý xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.


Đồng chí đã được thưởng 2 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 2 giấy khen, bằng khen và được bầu là Chiến sĩ thi đua của quân khu.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Lê Quang Công được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:30:52 pm »

Anh hùng Trần Dưỡng


Trần Dưỡng (tức Trần Phát), sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nhập ngũ ngày 12 tháng 9 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chiến sĩ trinh sát đơn vị V.10 của tỉnh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh trưởng trong một gia đình cách mạng, mẹ bị giặc Pháp bắn chết, cha là cán bộ xã, bị Mỹ - Diệm bắt và thủ tiêu trong vụ Vĩnh Trinh năm 1955, Trần Dưỡng ôm mối thù sâu với bọn đế quốc và bè lũ tay sai, đến năm 18 tuổi, đồng chí rủ 4 thanh niên cùng chí hướng đi tìm cách mạng. Nhập ngũ chưa đầy 5 năm, đồng chí đã đánh 29 trận, giết và làm bị thương 59 tên địch, bắt sống 26 tên, thu 19 súng các loại.


Là một chiến sĩ trinh sát, Trần Dưỡng luôn luôn thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, táo bạo, lúc chuẩn bị chiến trường bao giờ cũng tìm mọi cách điều tra nắm chắc tình hình địch và địa hình phục vụ đắc lực cho các trận đánh. Khi chiến đấu, đồng chí thường phụ trách tổ dao nhọn thọc sâu của đơn vị. Trường hợp hãn hữu bị địch vây, đồng chí dũng cảm đánh gần, đánh thọc sườn quân địch, mở đường máu phá vây.


Trong trận đánh vào trụ sở bảo an, nơi ngụy quyền Sài Gòn tổ chức cuộc bầu cử tổng thống của chúng năm 1961. Mặc dù kẻ địch đã tổ chức canh phòng cẩn mật, Trần Dưỡng vẫn chỉ huy một tổ bí mật, táo bạo, ém vào phục trong một cái tủ lớn ở phòng họp. Khi chúng khởi sự, bất ngờ tổ đồng chí đạp tung cánh tủ lao ra chiến đấu, diệt nhiều địch, phá vỡ cuộc bầu cử. Đồng bào có mặt hôm đó rất phấn khởi và khâm phục.


Tháng 6 năm 1962, trên đường đi lấy gạo, đơn vị sa vào ổ phục kích của 1 đại đội bảo an và 3 trung đội thuộc tổng đoàn biệt kích ngụy. Tổ đồng chí đi trước, ngay phút đầu, đã hành động nhanh chóng chuyển từ bị động sang tiến công, diệt gọn ổ trung liên địch, rồi dùng luôn súng đó bắn vào giữa đội hình địch bảo vệ cho toàn đơn vị ở phía sau. Phát hiện thấy địch cơ động một bộ phận lực lượng, có đại liên yểm hộ, địch đánh tạt sườn, hòng ép ta ra bờ sông, Trần Dưỡng liền dẫn tổ xông thẳng tới, diệt ổ đại liên, chặn đứng mũi tiến quân của địch, rồi tự nguyện chỉ huy tổ ở lại chặn địch, yểm hộ cho toàn đơn vị rút. Thoát khỏi trận địa phục kích của địch, vừa lui tới đầu cầu, đơn vị lại sa vào ổ phục kích khác của 1 trung đội bảo an. Trần Dưỡng liền nhanh chóng dẫn tổ của mình vận động ra phía sau địch, nổ súng xung phong. Địch không dám đánh, vội vàng bỏ chạy. Đường thông, ta có thể rút được an toàn, nhưng ba thương binh còn nằm trong trận địa. Đồng chí lại xin nhận nhiệm vụ cho tổ của mình trở lại đưa anh em ra, vừa chiến đấu diệt thêm một số địch, vừa cõng được ba thương binh về hậu cứ an toàn.


Trong trận đánh tổng đoàn Xuân Phú tháng 9 năm 1962, Trần Dưỡng ra vào trinh sát 2 lần. Lần thứ nhất, cải trang thành dân vệ, đi thẳng vào ấp, xem xét công khai. Lần thứ hai, Trần Dưỡng đi trinh sát đêm, luồn qua các hàng rào, vào nắm tình hình tận trong các khu vực địch ở. Đêm thứ ba, đồng chí vừa là người dẫn đường, vừa chỉ huy tổ đảm nhiệm mở hàng rào, đánh sâu tới khu vực trung tâm.


Do điều tra nắm vững địch, kế hoạch tác chiến chính xác, tỉ mỉ, nên trận đánh diễn ra rất nhanh, ta diệt gọn toàn bộ quân địch.


Tháng 2 năm 1963, Trần Dưỡng chuyển về đội công tác Quế Xuân, hoạt động trong vùng sâu rất gian khổ và căng thẳng, nhưng đã kiên trì công tác, xây dựng được nhiều cơ sở trung kiên, đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, diệt trừ ác ôn, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy đấu tranh. Trần Dưỡng đã hoàn thành xuất sâc nhiệm vụ.


Trong chiến đấu, Trần Dưỡng rất mưu trí, dũng cảm, có tác phong linh hoạt, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, lấy được nhiều vũ khí, xung phong nhận mọi nhiệm vụ khó, nguy hiểm về mình, với đồng đội thì chí nghĩa, chí tình.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Trần Dưỡng được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 17 Tháng Sáu, 2021, 07:05:16 pm »

Anh hùng Huỳnh Văn Đảnh


Huỳnh Văn Đảnh (tức Thanh) sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, tham gia cách mạng từ năm 1955 vào du kích tháng 7 năm 1960 nhập ngũ ngày 18 tháng 10 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên trung đội bộ đội địa phương huyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nhà nghèo, phải đi ở từ năm lên 9 tuổi, lại sống trong hoàn cảnh đất nước bị kẻ thù chia cắt, xã hội miền Nam bị bộ máy cai trị của Ngô Đình Diệm đè nén, cho nên đến năm 16 tuổi, được cán bộ tuyên truyền, Huỳnh Văn Đảnh giác ngộ cách mạng, hăng hái tham gia công tác. Lúc đầu, đồng chí nhận nhiệm vụ làm liên lạc, rồi vào du kích xã, sau được cử làm bí thư chi bộ và chính trị viên trung đội bộ đội địa phương huyện, ở cương vị một người du kích, Huỳnh Văn Đảnh dũng cảm, gan dạ và có tài bắn súng trăm phát trăm trúng, nên đã được mệnh danh là "nhà thiện xạ". Ở cương vị người chỉ huy, đồng chí tỏ ra mưu trí, linh hoạt, kiên quyết và là một cán bộ giỏi, có nhiều kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh. Trong thời gian ở du kích xã, đồng chí đã chiến đấu 134 trận, diệt trên 100 tên địch, trong đó có một cố vấn Mỹ, ba sĩ quan ngụy, 1 trưởng đồn và bắn bị thương 1 máy bay lên thẳng. Riêng năm 1963, chỉ với 75 viên đạn, Huỳnh Văn Đảnh đã hạ 78 tên địch.


Năm 1962, một tiểu đoàn địch càn vào xã thực hiện âm mưu "xúc dân" lập ấp, chúng tàn phá dã man, đốt đi 90 nóc nhà. Để phá tan âm mưu địch, đồng chí đã cùng chi bộ thống nhất lãnh đạo, phát động quần chúng ngay đêm hôm đó làm lại 90 ngôi nhà khác; đồng thời tổ chức rào làng chiến đấu, phát động toàn dân tham gia đánh giặc, đề phòng địch cản trở lại.


Ngày 13 tháng 6 nãm 1963, địch lại càn vào, lực lượng dân quân lúc đó chỉ còn Huỳnh Văn Đảnh và một du kích nữa, đa số anh em đều đi công tác cả, chưa về. Hai người đã bình tĩnh bàn với nhau kiên quyết tổ chức đánh địch. Lợi dụng đường ngang ngõ tắt, hai anh em cơ động lúc chỗ này, lúc chỗ khác, nổ súng diệt 13 tên địch, riêng Huỳnh Văn Đảnh bắn 8 viên diệt 9 tên (có 1 viên xuyên táo 2 tên), khiến địch hoang mang phải rút chạy.


Trong trận đánh bốt Tân Trụ, do đã điều tra nắm vững quy luật hoạt động của địch, đồng chí bò vào gài 2 quả mìn ở đầu cầu chợ trước khi ta pháo kích. Quả nhiên lúc súng nổ, bọn địch trong đồn chạy ùa cả ra chiếm địa hình có lợi, tập trung ở đầu cầu chợ khá đông, ta nổ mìn diệt và làm bị thương một số lớn.


Chấp hành chủ trương của huyện ủy bức bọn địch phải rút khỏi đồn Triêm Đức, Huỳnh Văn Đảnh đã chỉ huy phân đội du kích kiên trì bao vây, bắn tỉa. Địch tuy bị thiệt hại, mất ăn mất ngủ 20 ngày đêm liền, chúng vẫn không chịu bỏ đồn rút chạy. Quân tiếp viện vào thì được nhưng ra là bị đánh. Chúng tức tốc dùng pháo 105 mi-li-mét bắn không ngớt vào các trận địa bao vây của quân ta. Đồng chí đổi cách đánh, càng ngày càng vây lấn vào sát hàng rào, vừa tránh được pháo, vừa tăng cường uy hiếp địch. Từ khoảng cách 300 mét, Huỳnh Văn Đảnh đã tự tay bắn chết tên lính gác, rồi bắn thêm hai phát nữa lần lượt hạ 2 tên chỉ huy trong bọn ra lấy xác, khiến số còn lại hốt hoảng bỏ chạy, chờ đêm xuống mới dám ra nhặt xác đồng bọn. Bị ta ép mạnh, địch không chịu nổi, cuối cùng phải bỏ đồn, rút. Không còn địch kìm kẹp, đồng bào nổi dậy phá ấp chiến lược, trừng trị bọn tề ngụy ác ôn, thành lập chính quyền cách mạng.


Là một cản bộ cơ sở, Huỳnh Văn Đảnh luôn luôn gương mẫu trong mọi công tác, sâu sát nhân dân, tận tụy với phong trào; là cán bộ chỉ huy, đồng chí chú ý xây dựng phân đội tiến bộ về mọi mặt, bản thân gương mẫu, chiến đấu dũng cảm, có kỹ thuật giỏi nhưng rất khiêm tốn, giản dị, được đồng đội và nhân dân tin yêu. Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Huỳnh Văn Đảnh được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 17 Tháng Sáu, 2021, 07:05:50 pm »

Anh hùng Nguyễn Hội


Nguyễn Hội (tức Nguyễn Phúc Ánh) sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, nhập ngũ năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chĩ là đại đội trưởng bộ đội địa phương tỉnh Binh Thuận, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, cha mẹ đều chết sớm, Nguyễn Hội ở với người chị gái, sau vì nhà nghèo quá, đồng chí phải lang thang đi ở hết nơi ngày đến nơi khác.


Trong những ngày cực kỳ khó khăn của cách mạng miền Nam, Nguyễn Hội luôn luôn thể hiện lòng trung thành với cách mạng, thiết tha với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đó là động lực thúc đẩy đồng chí vượt qua mọi khó khăn, gian nguy, vào sinh ra tử, hoàn thành mọi nhiệm vụ.


Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ trung đội rồi đại đội, Nguyễn Hội đã tham gia chiến đấu 32 trận, diệt và bắt sống hơn 100 tên địch, thu 41 súng các loại. Trong chiến đấu, đồng chí luôn luôn dũng cảm, xông xáo, nơi nào khó khăn ác liệt nhất đều có mặt, chỉ huy kiên quyết, mưu trí và linh hoạt. Nguyễn Hội thường cùng đi với tổ xung kích mũi nhọn, đánh thọc sâu chia cắt làm rối loạn đội hình địch, tạo điều kiện cho trận đánh dứt điểm nhanh, gọn.


Trong trận Bắc Ruộng, tuy bị thương từ ngoài, đồng chí vẫn giữ vững quyết tâm, cùng đồng đội lợi dụng địa hình tiến lên dùng tiểu liên, lựu đạn diệt lô cốt đầu cầu, sau đó, lại tiếp tục chỉ huy đơn vị diệt đồn chính, rồi chuyển sang đánh quân lỵ, giải quyết thắng lợi, nhanh, gọn trận đánh và tổ chức đưa gần 5.000 dân ở khu tập trung về căn cứ an toàn.


Trong trận Tâm Tân, Nguyễn Hội chỉ huy tổ xung kích đánh chiếm lô cốt đầu cầu, nhưng bờ thành cao, lại gặp chướng ngại vật bất ngờ, anh em không lên được; không chần chừ, chậm trễ, đồng chí lấy thân mình làm thang cho đồng đội nhảy lên qua thành, nhanh chóng tiêu diệt gọn bọn địch trong đồn, rồi chuyển qua đánh nhà tên quận trưởng, giải quyết nhanh trận đánh.


Suốt 18 năm chiến đấu liên tục, Nguyễn Hội luôn luôn gương mẫu đi đầu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chiến đấu và công tác. Đồng chí luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ từng bước chắc chắn, vững vàng, hết lòng thương yêu, giúp đỡ anh em, được mọi người tin yêu, mến phục.


Nguyễn Hội đã được tặng 2 bằng khen.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Nguyễn Hội được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thường Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 17 Tháng Sáu, 2021, 07:06:31 pm »

Anh hùng Phạm Văn Hai


Phạm Văn Hai (tức Lam Sơn) sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Hòa, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 2 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đội trưởng đội biệt động 65 nội thành Sài Gòn, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, cha, chú đều bị giặc Pháp bắt tù, 12 tuổi Phạm Văn Hai đã phải bỏ học, vào thành phố làm thuê cho một hãng thủy tinh người Hoa. Thù cha mang nặng, lại nhiều năm sống dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, đồng chí thấy rõ sự bóc lột và đối xử thậm tệ của bọn chủ, nên khi được gần gũi một cán bộ hoạt động bí mật và được tuyên truyền giáo dục, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng và tham gia công tác từ năm 14 tuổi. Đến khi 16 tuổi, Phạm Văn Hai vào quân đội, rồi suốt từ đấy (1947) cho đến cuộc kháng chiến chống  Mỹ, cứu nước, đồng chí luôn bám trụ ở quê hương, len lỏi trong lòng địch, nhận và hoàn thành xuất sâc mọi công tác được giao: trinh sát, chống càn, đưa đón cơ sơ ra vào thành phố, cất giấu tài liệu, vũ khí và bảo vệ cán bộ của Đảng, đột nhập vào trung tâm đô thị gây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, v.v. Trước mọi khó khăn, đồng chí luôn luôn bình tĩnh, vững vàng, dù nguy hiểm vẫn tìm mọi cách đưa thương binh về hậu cứ an toàn; biết tận dụng chỗ sơ hở của địch để tiến công và bảo toàn lực lượng khi hoạt động; khi không may sa vào tay giặc, dù bị tra tấn dã man, vẫn giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng.


Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Phạm Văn Hai đã đánh trên 30 trận, trận nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngày 8 tháng 6 năm 1950, đồng chí được kết nạp vào Đảng. Sau đó, trong một lần hoạt động, không may bị địch bắt, mặc dù bị cực hình đánh đập rất dã man, đồng chí không hề khai báo, dù lúc ấy Phạm Văn Hai đang giữ một hầm vũ khí và tài liệu quan trọng. Không có chứng cớ cụ thể, địch buộc phải thả đồng chí.


Trong trận tiêu diệt kho bom Phú Thọ Hòa ngày 1 tháng 6 năm 1954, Phạm Văn Hai cùng tổ trinh sát đặc công từ ngoài vùng căn cứ hành quân bí mật suốt ngày đêm liền, vượt qua 8 con sông, rạch và hàng chục lộ nguy hiểm, vào sát mục tiêu. Bốn lần, đồng chí cùng đồng đội luồn qua 12 lớp kẽm gai, nhiều bãi mìn, chòi gác, trong sự canh giữ cẩn mật của 2 tiểu đoàn địch ở vòng ngoài và 1 đại đội lính Âu Phi (có cả chó béc-giê) ở bên trong, để điều tra nắm vững quy luật tuần tiễu của địch. Các đồng chí đã đếm từng quả bom trong các nhà hầm, khui từng hòm đạn, đo từng bồn xăng, để lên một phương án tác chiến hoàn chỉnh.


Phạm Văn Hai giữ cương vị mũi trưởng mũi chủ yếu trong trận tập kích kho bom Phú Thọ Hòa. Do chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ nên trận đánh đã thắng lợi giòn giã. Kho bom nổ suốt 2 ngày đêm liền. 9.345 tấn bom đạn các loại, 10 triệu lít xăng dầu, và cả đại đội lính Âu Phi bị thiêu hủy. Gần 400 tên trong lực lượng ứng cứu bị thương vong nặng. Trận đánh đã gây tiếng vang lớn khắp Sài Gòn - Gia Định. Trong trận tiêu diệt đồn Gò Đen (tháng 7 năm 1954), giữa lúc tình hình chiến đấu đang diễn biến căng thẳng, địch dồn ra lô cốt 3, điên cuồng chống cự đánh trả ta quyết liệt, đồng chí đã không do dự xông lên, tự tay đánh liền 2 trái đầu đạn, phá tan lô cốt, tạo thời cơ cho toàn trận đánh giành thắng lợi. Trong trận này, đồng chí đã diệt hơn 30 tên địch, thu 11 súng.


Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1964), đồng chí đã tham gia hơn 30 trận, đồng thời góp công sức lớn vào việc gây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng, phát triển quần chúng, đưa phong trào cách mạng ở địa phương lên cao.


Ngay từ năm 1954, Phạm Văn Hai đã xây dựng xong đường dây từ chiến khu vào nội thành, tổ chức hoạt động bên lộ 15 (Chợ Lớn) vạch mặt Ngô Đình Diệm, vận động đồng bào không đi bỏ phiếu. Năm 1956, đồng chí đã tổ chức được cơ sở trong một số nghiệp đoàn, chuẩn bị chỗ cho cán bộ đi về hoạt động.


Năm 1958, Phạm Văn Hai trở về xây dựng lực lượng quanh khu tỉnh ủy đóng để đảm bảo bí mật an toàn cho cơ quan lãnh đạo chỉ huy đầu não. Năm 1959, đồng chí lại xuống các quận diệt ác ôn, phá kìm kẹp, xây dựng lực lượng ở quận Bình Tân - Gò Môn. Đến tháng 2 năm 1962, đồng chí chuyển hẳn sang làm đội trưởng đội biệt động 65 của thành phố.


Trong những năm tháng đánh Mỹ, đội biệt động của Phạm Văn Hai đã đánh nhiều trận xuất sắc, như các trận phục kích trên lộ 10, trận đánh vào các đồn Trung An, Tân Thạnh Tây, Tây Nhất, Phú Thọ Hòa, trận đánh Mỹ ở rạp Kinh Đô (ngày 21 tháng 9 năm 1963, trận đánh 73 xe Mỹ và đánh sập kho súng ở Gò Vấp, và trận đánh chìm tàu sân bay Mỹ ngày 2 tháng 5 năm 1964 tại bến Bạch Đằng...


Phạm Văn Hai là một cản bộ gương mẫu, tận tụy, dũng cảm trong mọi hoàn cảnh, mọi công tác, luôn luôn chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng lớn mạnh không ngừng; bản thân đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, được đồng đội tin yêu, mến phục.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, 1 súng ngẳn, nhiều bằng khen, giấy khen.

Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Phạm Văn Hai được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dận giải phóng. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 20 Tháng Sáu, 2021, 08:12:11 pm »

Anh hùng Tạ Thị Kiều
   

Tạ Thị Kiều (tức Mười Lý) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê xã An Thạnh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương từ năm 1958, nhập ngũ tháng 11 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là cán bộ ban chỉ huy quân sự huyện Mỏ Cày, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân từ một gia đình có truyền thống yêu nước (cha, anh đều đi hoạt động cách mạng, gia đình là cơ sở nuôi cán bộ bí mật), Tạ Thị Kiều sớm được giác ngộ, căm thù giặc Mỹ và bè lũ tay sai đàn áp nhân dân, chia cắt đất nước, đồng chí đã tích cực, hăng hái hoạt động và trở thành người cán bộ nòng cốt trong phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng chí đã tổ chức và tham gia 107 lần đấu tranh chính trị trực diện với địch, chiến đấu 33 trận, diệt 7 tên địch, bắn bị thương 11 tên, bắt sống 13 tên, thu 24 súng các loại. Trong chiến đấu, Tạ Thị Kiều luôn luôn bình tĩnh, dũng cảm, chỉ huy vững vàng, gan dạ và mưu trí.


Tháng 1 năm 1960, địch tăng cường củng cố khu trù mật Thành Thới để kìm kẹp nhân dân và đánh phá cơ sở của ta. Được phân công gây dựng phong trào, tổ chức cơ sở, đồng chí đã kiên trì vận động nhân dân và xung phong đi đầu trong các cuộc đấu tranh trực diện với địch, khéo léo làm công tác binh, địch vận, tranh thủ người tốt, phân hóa, cô lập bọn ác ôn ngoan cố, tích cực phát triển lực lượng nòng cốt trong hàng ngũ địch. Qua gần 7 tháng, Tạ Thị Kiều đã tổ chức được 107 cuộc đấu tranh chính trị, phát triển được 3 tổ nòng cốt trong lực lượng cách mạng, vận động được 13 gia đình binh sĩ, tuyên truyền được 4 lính ngụy về với nhân dân, tổ chức được 2 người khác giúp ta hoạt động tốt, gây cho địch một số thiệt hại và hạn chế được tác hại do hành động tội ác của chúng.


Để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, Tạ Thị Kiều tổ chức một tiểu đội du kích, thường xuyên hoạt động: rải truyền đơn, treo băng cờ, khẩu hiệu, phá rào ấp chiến lược, gài mìn, phá dường, đốt chòi canh, cảnh cáo, diệt ác ôn... khiến bọn địch ngày càng hoang mang, nao núng.


Trong trận đánh bốt An Bình, tuy lực lượng ta ít, nhưng do đồng chí đã xây dựng được cơ sở và nắm địch tốt, mưu trí tìm nhiều cách phân tán và đánh lừa địch, nên tạo điều kiện cho đồng đội xung phong lấy gọn bốt, quân ta an toàn và vẫn giữ được thế đấu tranh hợp pháp.


Trong trận đánh bốt Kinh Quang, Tạ Thị Kiều đã vạch ra kế hoạch và lại trực tiếp thực hiện, dụ bọn địch ra bờ kênh, tạo cơ hội cho anh em xông vào lấy đồn không tốn một viên đạn.


Tháng 10 năm 1961, đồng chí chỉ huy đội du kích phục kích đánh xe địch trên đường Mỏ Cày đi Thom, bắn cháy 1 xe ngay khi địch mới lọt vào strận địa. Lực lượng địch còn đông, ỷ thế mạnh, dùng hỏa lực áp đảo, bắn mạnh vào chỗ du kích ta bố trí, đồng thời bọn lính trên xe đi sau cũng triển khai, đánh trả ta quyết liệt. Xét tình thế bất lợi, đồng chí đã bình tĩnh một mình ở lại cơ động, chiến đấu, chặn địch cho anh em rút hết, sau đó, khi rút còn đưa được cả thương binh ra an toàn.


Tạ Thị Kiều luôn luôn gương mẫu, xung phong đi đầu trong mọi công tác, tận tình gắn bó với nhân dân, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng đội, được quần chúng mến phục, tin yêu.


Đồng chí đã được tặng thướng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì và 2 năm liền (1963 - 1964) là Chiến sĩ thi đua của quân khu.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Tạ Thị Kiều được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 20 Tháng Sáu, 2021, 08:12:37 pm »

Anh hùng Nguyễn Kim


Nguyễn Kim (tức Nguyễn Kích), sinh năm 1935 dân tộc Kinh quê ở xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nhập ngũ năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng bộ đội địa phương tỉnh Bình Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trong 4 năm, từ đầu năm 1960 đến hết năm 1963, Nguyễn Kim đã trực tiếp chiến đấu 20 trận, diệt hơn 70 tên địch, thu 26 súng các loại, đặc biệt đã chỉ huy một tổ độc lập thọc sâu phá 13 “ấp chiến lược”, giải tán nhiều khu dồn dân của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong các trận đánh, đồng chí đã luôn luôn thể hiện rõ tinh thần chiến đấu dũng cam ngoan cường, dù trong điều kiện khó khăn, ác liệt thế nào cũng kiên quyết tiến công tiêu diệt địch với tác phong chiến đấu rất linh hoạt và xông xáo.    


Trong trận Hòn Câm, Nguyễn Kim bị thương khi vượt qua cửa mở, nhưng vẫn dùng tiểu liên nằm bắn kiềm chế hỏa điểm địch cho đồng đội xung phong. Khi địch ở dưới hầm ngầm ngoan cố chống cự, Nguyễn Kim đã bò đi gom bộc phá của đồng đội bị thương lại, rồi cố lê đến đánh sập hầm ngầm, góp phần quan trọng cùng đơn vị tiêu diệt gọn đồn địch.


Trong trận đánh vào Mỹ Tho, tổ bộc phá của đồng chí có nhiệm vụ mở cửa đột phá ở hướng thứ yếu và đánh vào lô cốt số 2. Do địa hình hạn chế, lúc đầu các đồng chí phải bố trí khá xa, để bộ phận chính tập trung lực lượng được thuận lợi ở hướng chủ yếu. Khi mũi chính đã nổ súng tiến công, đồng chí bật dậy ôm ống bộc phá lao lên, vượt qua một cái dốc cao và một khoảng trống trải dưới hỏa lực địch. Trong khi đó, lô cốt chính chưa bị đánh sập nên địch càng tập trung bắn về phía đồng chí dữ dội. Đang chạy, Nguyễn Kim bỗng thấy chân trái đau nhói, một bàn chông sắt đã cắm sâu vào ống chân làm cho mỗi bước đi càng thêm đau buốt, nhưng với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, đồng chí nghiến răng chịu đựng cố hết sức vượt lên đặt bộc phá, phá tung lớp hàng rào. Tiến vào trong, thấy chiếc bàn chông lủng lẳng ở chân mà không sao rút ra được, đồng chí liền giật phăng cái đế gỗ quẳng đi rồi nén đau, tiếp tục xông lên đánh sập cả lô cốt số 1 và lô cốt số 2, tạo điều kiện cho xung kích ào ạt xông lên tiêu diệt gọn quân địch, làm chủ trận địa.


Nguyễn Kim luôn luôn gương mẫu trong mọi mặt công tác, sống khiêm tốn giản dị, đoàn kết thương yêu, tận tình giúp đỡ đồng đội, được mọi người quý mến, tin yêu.  


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 3 năm liền là chiến sĩ thi đua.


Ngày 5 tháng 5 năm 1965, Nguyễn Kim được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thương Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.  
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM