Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 04:28:18 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 2  (Đọc 8688 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #130 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 05:02:16 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Bửu


Nguyễn Văn Bửu (tức Hai Tân) sinh năm 1934 dân tộc Kinh, quê ở xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, nhập ngũ tháng 4 năm 1956. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là quân y sĩ, chính trị viên đại đội quân y, Mặt trận Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Khi còn ở địa phương, Nguyễn Văn Bửu đã hăng hái tham gia công tác cách mạng, làm giao thông liên lạc bí mật cho cán bộ.


Sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn Bửu tham dự một số trận chiến đấu đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, cuối năm 1959 đồng chí được cấp trên cho đi học cứu thương.


Trong công tác quân y phục vụ mặt trận, Nguyễn Văn Bửu đã trưởng thành từ người chiến sĩ cứu thương lên y tá, rồi làm quân y sĩ, sau đó được cấp trên giao nhiệm vụ phụ trách chính trị viên đội quân y. Ở cương  vị công tác nào, đồng chí cũng nêu tấm gương tận tụy, dũng cảm công tác với ý nghĩ “Thà hy sinh mình, quyết không để thương binh rơi vào tay giặc”.


Trong trận chiến đấu tại thị xã Cần Thơ, Nguyễn Văn Bửu nhường hầm cho thương binh, bản thân đứng ở cửa hầm cầm súng cùng đơn vị chiến đấu quyết liệt với quân địch, giữ từng tấc đất để bảo vệ thương binh. Trận đánh kết thúc, sau khi đơn vị đã rút, cùng với bộ phận làm công tác thương binh mặt trận, đồng chí không quản mệt nhọc, len lỏi lội sông, lội ruộng suốt đêm sát bốt địch tìm được 2 chiếc thuyền để chở 18 thương binh về căn cứ an toàn.


Sau trận Bình Thủy, đơn vị vượt nhiều kênh rạch, nhiều đồn bốt địch suốt 2 đêm rnới đưa được thương binh đến mương lộ thì trời vừa sáng. Vừa lúc gặp địch càn vào. Nguyễn Văn Bửu nhanh chóng và khéo léo cùng anh em trong đơn vị đưa thương binh đi cất giấu, chỉ còn một chiến sĩ bị chấn thương sọ não chưa kịp đưa đi thì địch đã ập đến. Đồng chí bình tĩnh và nhanh trí đặt thương binh xuống công sự, ngụy trang kín đáo rồi cùng đơn vị chiến đấu suốt 1 ngày tiêu diệt nhiều địch. Bọn địch được tăng thêm quân, trụ lại tại chỗ củng cố lực lượng hòng tiếp tục trận càn vào sáng hôm sau. Đến tối, đơn vị rút quân khỏi trận địa và đem theo các thương binh đã cất giấu. Được phân công tìm đồng chí thương binh sọ não, đồng chí đã không quản nguy hiểm, mưu trí và gan dạ trà trộn vào chỗ địch trú quân tìm bằng được và cõng đồng chí thương binh ra ngoài an toàn.


Một lần khác, đang chuyển thương binh đi bằng thuyền thì gặp địch chặn sông. Đồng chí bình tĩnh nghiên cứu tình hình địch và địa hình chung quanh rồi nhanh chóng quyết định đổi hướng hành quân. Nguyễn Văn Bửu cùng một số anh em trong đội kiên trì kéo thuyền suốt đèm trên ruộng bùn lầy, đi vòng xa gần 1 ki-lô-mét, đưa thương binh vượt qua vùng đóng quân của địch về căn cứ an toàn.


Là chính trị viên đội quân y, Nguyễn Văn Bửu gương mẫu cùng tập thể xây dựng đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. vì vậy, đơn vị được cấp trên tặng lá cờ “Quên mình phục vụ thương binh”.


Nguyễn Văn Bửu luôn luôn tận tụy trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu để bảo vệ thương binh, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân tốt, được anh em và đồng bào địa phương nơi đội đóng quân yêu mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 5 giấy khen, 7 bằng khen, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hang ba, được bầu là Chiến sĩ thi đua 2 năm liền.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Nguyễn Văn Bửu được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #131 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 05:10:29 pm »

Anh hùng Hoàng Đạo Cật

Hoàng Đạo Cật, sinh năm 1947, dân tộc Kinh, quê ở thôn Trạch Lỗi, xã Trạch Mỹ Lộc, huyện Tùng Thiện, tỉnh Hà Tây, nhập ngũ tháng 5 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó đại đội 2, trung đoàn 2 bộ đội đặc công Tây Nam Bộ, đảng viên Đằng Cộng sản Việt Nam.


Hoàng Đạo Cật xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, có cha là dân quân đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp và anh tham gia Quân giải phóng miền Nam. Được giáo dục trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa về nghĩa vụ vẻ vang của người thanh niên đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, năm 18 tuổi Hoàng Đạo Cật nối bước cha, anh, lên đường vào miền Nam chiến đấu.


Trong 2 năm 1968 - 1969, đồng chí trực tiếp tham gia 17 trận, diệt 110 tên địch (trong đó có 32 tên Mỹ), phá hủy 2 pháo 105 và 155 mi-li-mét, thu 5 súng M.72 và nhiều đạn dược.


Trong chiến đấu, Hoàng Đạo Cật rất linh hoạt, tháo vát, gặp khó khăn gian khổ thì xung phong đi đầu không hề nao núng, có quyết tâm tiêu diệt địch cao, rất nhiều lần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong đợt 1 và 2 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, bước vào đợt 3, Hoàng Đạo Cật nhận nhiệm vụ dẫn 1 tiểu đội vào quận 6 Sài Gòn bắt liên lạc với cơ sở xây dựng hầm bí mật, tạo ra một căn cứ ngay trong lòng địch để nắm tình hình và thường xuyên báo tin tức về trung đoàn. Sau khi bắt liên lạc, cơ sở báo tin ra là hầm bí mật chỉ chứa được 3 người, Hoàng Đạo Cật liền cùng 1 đại đội phó và 1 tiểu đội trưởng vượt các vành đai đồn bốt của giặc vào cơ sở. Suốt 5 tháng, 3 người ở trong một căn hầm giữa một lung bùn lầy, rộng mỗi chiều không quá 1 ki-lô-mét. Ngày nào địch cũng bắn pháo, ném lựu đạn bừa bãi vào lung, ngày nào cũng có địch ở cách từ 50 - 100 mét, có lúc chúng ngồi ngay trên nóc hầm. Bởi vậy các đồng chí chỉ có thể đi gặp cơ sở nắm tình hình vào ban đêm. Càng về sau địch đánh phá càng ác liệt làm cho tổ Hoàng Đạo Cật mất liên lạc với trung đoàn. Hai trong nhóm 3 người ra bắt liên lạc, 1 đồng chí hy sinh, 1 bị thương nặng không quay lại được. Còn một mình Hoàng Đạo Cật kiên trì vượt qua những khó khăn, thiếu thốn để hoạt động. Hàng ngày tuy phải kiếm rau bầu bí ăn và quần áo thì đã rách nát, nhưng đồng chí vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, kiên quyết bám cơ sở, nắm tình hình. Khi được lệnh rút ra, Hoàng  Đạo Cật mưu trí vượt qua hàng chục đồn bốt, bãi mìn, trở về đơn vị an toàn.


Núi Sam là một điểm cao 300 mét có 1 trung đội giặc tăng cường chốt giữ, có 3 khẩu pháo khống chế cả một vùng. Dưới chân núi là “ấp chiến lược” trong đó có một bọn ác ôn mang nhiều nợ máu với nhân dân. Vành ngoài còn có 1 căn cứ hải thuyền và 2 tiểu đcàn ngụy. Hoàng Đạo Cật nhận nhiệm vụ trinh sát cho trận đánh điểm cao này với thời gian chuẩn bị chỉ có 3 ngày. Đêm thứ nhất, vì không biết đường nên mới đến “ấp chiến lược” thì trời sắp sáng, đồng chí phải rút ra. Đêm thứ hai, Hoàng Đạo Cật vượt qua nhiều dốc đá cheo leo, khi tới đỉnh núi thì đã 12 giờ đêm. Sau khi nghiên cứu địa hình rất tỉ mỉ, thăm dò lực lượng bố trí của địch, đồng chí đề nghị lên cấp trên một phương án tác chiến. Được chuẩn y, Hoàng Đạo Cật đắp sa bàn cho 20 người cùng nhau nghiên cứu thật tỉ mỉ. Đêm 19 tháng 5 năm đồng chí hướng dẫn đơn vị lên núi Sam, bí mật luồn qua các lớp rào thép gai, bãi mìn, vào sâu bên trong vị trí địch. Sau khi ném 1 quả lựu đạn vào sở chỉ huy của địch làm lệnh công kích, Hoàng Đạo Cật cùng các mũi phát triển rất nhanh theo đúng kế hoạch hiệp đồng. Bởi vậy chỉ sau 40 phút chiến đấu, các đồng chí diệt 80 tên địch, phá hủy 3 khẩu pháo, nhiều nhà ở của lính, hầm ngầm, lô cốt, pháo đài của địch. Trong đội không một ai bị thương.


Cuối năm 1969, ở Hòn Me, Hoàng Đạo Cật được trung đoàn giao nhiệm vụ chỉ huy 130 thương, bệnh binh từ nhiều đơn vị ghép lại trú quân ở đây. Địch dùng 2 trung đoàn bao vây, có máy bay B.52 ném bom và thả hóa chất độc xuống Hòn Me. 72 ngày đêm ở trên đảo là những ngày đêm vô cùng gian khổ, ác liệt, vừa đánh địch, bảo vệ thương, bệnh binh, vừa tổ chức lấy gạo, kiếm thực phẩm nuôi anh em. Đến khi có lệnh rút khỏi đảo, Hoàng Đạo Cật tổ chức anh em đi mượn xuồng của đồng bào, mưu trí dựa vào dân, giành đi giật lại với địch mấy lần mới có xuồng đưa anh em rời đảo an toàn.


Hoàng Đạo Cật là một cán bộ gương mẫu, luôn luôn có dũng khí tiến công tiêu diệt địch, kiên cường vượt mọi gian khổ, ác liệt, tìm mọi cách để chiến thắng quân địch, đối với đồng đội thì hết lòng thương yêu, tận tình giúp đỡ, bao giờ cũng nhận phần khó khăn về mình, nên được anh em tin yêu, mến phục.


Đồng chí đã được tặng 3 giấy khen, 8 bằng khen, 3 lần là Dũng sĩ diệt Mỹ, 4 lần Dũng sĩ Quyết thắng, 2 năm là Chiến sĩ thi đua, được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Hoàng Đạo Cật được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.  
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #132 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 05:11:17 pm »

Anh hùng Lê Văn Tuân


Lê Văn Tuân, sinh năm dân tộc Kinh, quê ở xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, nhập ngũ ngày 20 tháng 6 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng bộ binh thuộc tiểu đoàn 207, bộ đội địa phương tỉnh Rạch Giá, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, có anh ruột tham gia bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, Lê Văn Tuân sớm có tinh thần yêu nước và lòng căm thù sâu sắc đế quốc xâm lược. Vào bộ đội từ năm 16 tuổi và liên tục chiến đấu ở một chiến trường có nhiều khó khăn gian khổ, Lê Văn Tuân luôn luôn thể hiện quyết tâm cao, tích cực tiến công, mưu trí, táo bạo. Tham gia chiến đấu hàng trăm trận, riêng đồng chí diệt hơn 200 tên địch, thu 5 súng, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng.


Trong trận mở đầu đợt tiến công Tết Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968), nhận nhiệm vụ chỉ huy 1 tổ chặn  đánh 1 tiểu đoàn địch phản kích ban ngày trong thị xã Rạch Giá, Lê Văn Tuân phán đoán đúng chỗ yếu, sơ hở của địch táo bạo bất ngờ, cùng tổ xông vào giữa đội hình địch, nổ súng mãnh liệt, ngay từ phút đầu diệt hàng chục tên. Bị đánh bất ngờ, rối loạn đội hình, địch hoang mang vội vàng dừng lại và xin quân tiếp viện. Lê Văn Tuân mưu trí chỉ huy tổ cơ động sang hướng khác, chiếm trước địa hình có lợi, chặn đánh phủ đầu toán quân mới đến làm cho chúng hoảng hốt bắn lẫn nhau. Kết quả trong trận này, tổ đồng chí diệt và làm cho chúng bắn nhau chết trên 100 tên địch, thu 5 súng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chặn địch, hỗ trợ đắc lực cho đơn vị bạn phát triển tiến công vào thị xã. Riêng Lê Văn Tuân diệt hơn 40 tên địch, thu 2 súng.


Trận ngày 16 tháng 3 năm 1969 ở kênh xáng Tân Hội, khi phát hiện địch phục kích căn cứ của bộ phận hậu cần, trong đó có một số thương binh, đồng chí nhanh chóng chỉ huy anh em vòng phía sau nổ súng, buộc địch phải quay lại đối phó, tạo thời cơ cho anh em thương binh chuyển địa điểm. Thấy lực lượng ta ít, địch đổ thêm quân tiếp viện hòng vây gọn quân ta. Lê Văn Tuân bình tĩnh, linh hoạt chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình đánh địch quyết liệt, bảo vệ thương binh, bảo vệ kho! Địch tiếp tục tăng quân và gọi máy bay lên thẳng đến định bốc đi một số hàng chúng lục soát được. Đồng chí và anh em vẫn kiên cường chiến đấu, vừa bắn bộ binh vừa bắn máy bay, buộc máy bay địch không hạ cánh được. Trận đánh kéo dài đến tối, địch bị diệt 50 tên phải rút chạy trước sức chiến đấu bền bỉ, kiên cường của đơn vị đồng chí. Nhờ đó thương binh và kho tàng của ta được bảo vệ tốt.


Lê Văn Tuân luôn luôn gương mẫu trong mọi công tác, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, kỷ luật chiến trường, làm tốt công tác dân vận, đoàn kết giúp đỡ đồng đội, được anh em và đồng bào tin yêu.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Lê Văn Tuân được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #133 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:26:38 pm »

Anh hùng Lâm Tương


Lâm Tương, sinh năm 1942, dân tộc Khơ Me, quê ở xã Vĩnh Châu, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, nhập ngũ tháng 6 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đội phó công binh, bộ đội địa phương tỉnh Sóc Trăng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Căm thù sâu sắc chế độ áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến đối với gia đình cũng như đối với đồng bào, với quê hương đất nước, Lâm Tương một lòng một dạ đi theo cách mạng, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Trong chiến đấu, những lúc gay go ác liệt nhất, Lâm Tương vẫn luôn luôn nêu cao quyết tâm khắc phục khó khăn, kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Chỉ tính trong 2 năm 1968 - 1969, đồng chí đã tham gia 28 trận, diệt 150 tên địch, phá hủy 12 xe  quân sự, loại khỏi vòng chiến đấu 70 tên phòng vệ dân sự, đánh sập 2 cầu sắt, 15 cống, phá hủy 1 khẩu pháo 105 mi-li-mét.


Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, tổ công binh của Lâm Tương có 5 người được giao nhiệm vụ cắt đứt đường số 38, không cho địch chi viện lẫn nhau. Liên tục chiến đấu với địch, tổ đồng chí đã tiêu diệt 31 tên, đầy lui hàng chục đợt phản công của giặc, cắt đứt và làm chủ đoạn lộ dài 1 ki-lô-mét trong 2 tháng.


Trong một trận càn, địch đưa 2 khẩu pháo 105 mi-li-mét về bắn bừa bãi vào ấp, gây nhiều tội ác đối với nhân dân. Đồng chí nghiên cứu tình hình, lập kế hoạch chu đáo, cùng tổ tiến công địch, phá hủy 1 khẩu pháo và làm hỏng khẩu kia, diệt 2 xe và 28 tên địch, làm thất bại cuộc càn quét của địch. Cầu Vĩnh Châu là một cầu lớn, nước sông chảy xiết, địch canh gác hết sức cẩn mật. Được giao nhiệm vụ đánh sập cầu, Lâm Tương điều tra nghiên cứu 15 ngày đêm, tính toán phương án đánh bằng cách đưa một quả bom 500 ki-lô-gam cách cầu 4 ki-lô-mét và khi vào cách cầu 50 mét, phải hạ bom xuống dưới mặt nước rồi lặn đẩy vào. Đồng chí còn tính chỗ đặt bom tốt nhất, sao cho đánh sập cầu mà vẫn có luồng nước chảy cho thuyền bè nhân dân đi lại được. Đúng như dự kiến, vào lúc 4 giờ sáng, bom nổ làm sập cầu về một phía, thuyền bè của nhân dân sau đó vẫn qua lại bình thường.


Trận ấp Na Dong, tổ Lâm Tương chỉ có 5 người chống lại 400 tên địch đi càn. Anh em chiến đấu rất dũng cảm, diệt một số tên và tuy cả 5 người đều bị thương, song anh em đều dìu nhau mang đủ vũ khí vượt vòng vây của địch trở về căn cứ an toàn. Đơn vị đồng chí luôn luôn bám chắc địa phương, tích cực vận động nhân dân phá kế hoạch Bình Định của địch. Sau khi tổ chức diệt 8 tên ác ôn, Lâm Tương vận động quần chúng đi vạch rõ tội ác của bọn ác ôn này và tuyên truyền chính sách của Mặt trận giải phóng, làm tan rã đơn vị phòng vệ dân sự gồm 70 tên, thu toàn bộ súng đạn.


Lâm Tương chỉ huy 1 phân đội nhỏ mà lập được thành tích lớn, hỗ trợ đắc lực cho phong trào kháng chiến ở địa phương. Biết dựa vào dân, vào tập thể, đồng chí có nhiều sáng kiến, không ngừng nâng cao hiệu suất tiêu diệt địch, được bà con và anh em yêu mến, tin cậy.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Lâm Tương được Chính phù cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #134 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:23:38 pm »

Anh hùng Lê Minh Xuân
(Liệt sĩ)


Lê Minh Xuân, sinh năm 1932, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nhập ngũ tháng 4 năm 1959. Khi hy sinh đồng chí là trung đoàn phó bộ binh bộ đội chủ lực, mặt trận Sài Gòn, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trước khi nhập ngũ, ở địa phương Lê Minh Xuân đã tham gia nhiều phong trào của quần chúng đòi Mỹ - ngụy phải   thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, chống âm mưu chia cắt đất nước và đấu tranh đòi thống nhất nước nhà. Năm 1959, đồng chí nhập ngũ và được cấp trên điều về bộ đội địa phương tỉnh Long An. Lê Minh Xuân nêu cao quyết tâm chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đồng chí liên tục chiến đấu 10 năm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ trung đoàn, đồng chí đà tham gia hơn 100 trận lớn nhỏ, phần nhiều đánh sâu vào trong thành phố, cùng đơn vị tiêu diệt nhiều địch. Trong chiến đấu, Lê Minh Xuân rất dũng cảm, thường có mặt nơi gay go ác liệt nhất, không sợ nguy hiểm, hy sinh, chỉ huy và cổ vũ đơn vị tiến công tiêu diệt địch.


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Lê Minh Xuân nhận lệnh chỉ huy tiểu đoàn tiến công vào Sài Gòn. Trên đường hành quân thọc sâu vào thành phố, đơn vị đồng chí chiến đấu quyết liệt với địch ở lộ 14, trường đua Phú Thọ, diệt hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe tăng. Sau đó, đơn vị phát triển đến khám Chi Hòa và trụ lại đánh địch suốt 12 ngày đêm ở đó. Trong cuộc chiến đấu tiến công này, Lê Minh Xuân bị thương vào đầu và tay, nhưng đồng chí vẫn giữ vững vị trí chỉ huy, tổ chức và động viên anh em chiến đấu.


Suốt đợt 1 tiến cóng vào Sài Gòn, tiểu đoàn do Lê Minh Xuân chỉ huy đã tiêu diệt khoảng 1.700 tên Mỹ, ngụy, phá hủy nhiều xe tăng, xe bọc thép, thu nhiều súng đạn.


Sang đợt 2, tối 29 tháng 5 năm 1968, tiến quân vào quận 5, đơn vị ở múi này chỉ còn 55 đồng chí đánh một lực lượng địch khoảng 1 sư đoàn trong thành phố. Trong đợt này, tuy bị thương một lần nữa, song Lê Minh Xuân vẫn bình tĩnh, sáng suốt, cùng ban chỉ huy tiểu đoàn tổ chức đơn vị đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt nhiều tên và chỉ huy đơn vị phát triển theo đúng phương án tác chiến của mặt trận. Khi quân ta tiến đến lộ Nguyễn Trãi, một hỏa điểm địch bất ngờ bắn xối xả chặn đường tiến của đơn vị. Nhanh chóng phát hiện chỗ sơ hở của hỏa điểm địch, đồng chí một mình dùng tiểu liên AK chiến đấu trước mặt kiềm chế hỏa lực địch và thu hút sự chú ý của chúng, đồng thời cho một phân đội bí mật vòng phía sau đánh vào chỗ sơ hở của địch, dập tắt hỏa điểm này.


Trong đợt 2 tiến công vào Sài Gòn, Lê Minh Xuân cùng ban chỉ huy tiểu đoàn có lần bị lạc đơn vị trong lúc đạn và lương thực đã hết, mà quân địch thì tăng lực lượng bao vày hòng truy tìm mũi thọc sâu của quân ta vào thành phố. Các đồng chí mưu trí và gan dạ dựa vào quần chúng cách mạng, tìm cách thoát được ra ngoài vòng nguy hiểm bắt liên lạc được với đơn vị.


Là cán bộ tham mưu của mặt trận, tháng 12 năm 1968, đồng chí xuống vùng 2 chỉ đạo xây dựng cơ sở đánh địch. Trong một trận chiến đấu chống 1 tiểu đoàn Mỹ để bảo vệ lực lượng của cơ sở, Lê Minh Xuân dũng cảm đánh thu hút địch ra ngoài thôn, diệt 10 tên Mỹ và đồng chí đã anh dũng hy sinh.


Lê Minh Xuân là một can bộ chỉ huy luôn luôn chăm lo xây dựng đơn vị lớn mạnh (tiểu đoàn của đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì). Gắn bó với tập thể, đồng chí được tập thể bồi dưỡng trưởng thành nhanh chóng. Đồng chí có tác phong đi sâu đi sát đơn vị trong mọi lúc, chăm sóc anh em, nêu gương tốt chấp hành kỷ luật, chính sách chiến trường, được anh em mến phục, cấp trên tin tưởng.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công Giải phong hạng ba, 9 bằng khen và 2 năm (1965-1966) được bầu là Chiến sĩ thi đua.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Lê Minh Xuân được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhán dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #135 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:24:11 pm »

Anh hùng Bùi Văn Cường


Bùi Văn Cường (tức Bùi Văn Sợi), sinh năm 1946, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng xã Đức Lập Hạ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh trưởng ở địa phương có phong trào kháng chiến cao, ở trong một gia đình có nhiều người thân tham gia công tác kháng chiến, Bùi Văn Cường được giác ngộ cách mạng, được bồi dưỡng lòng căm thù sâu sắc quân cướp nước và bè lũ bán nước. Do đó đồng chí có quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Từ khi là chiến sĩ dân quân đến khi là xã đội trưởng, Bùi Văn Cường đã tham gia chiến đấu tại địa phương 190 trận lớn nhỏ, cùng anh em tiêu diệt 134 tên (trong đó có 35 tên Mỹ và 3 tên ác ôn bị diệt giữa ban ngày), bản thân trực tiếp diệt 1 xe tăng, 1 xe M.113, 1 xe GMC và chỉ huy đơn vị diệt hàng chục xe quân sự các loại của địch. Bùi Văn Cường tích cực góp phần cùng cấp ủy Đảng và cán bộ xây dựng lực lượng dân quân lớn mạnh, do đó đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở xã, hỗ trợ tích cực cho đồng bào đấu tranh chính trị làm công tác binh vận. Đồng chí còn  vận động hàng trăm gia đình bỏ “ấp chiến lược” trở về quê cũ làm ăn, bám đất, bám làng, phá tan âm mưu bình định gom dân của Mỹ - ngụy. Trong chiến đấu, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần tiến công tiêu diệt địch, xung phong đi đầu làm gương cho mọi người noi theo. Trận đánh đoàn bình định số 5 của địch gần sân bay Đức Lập, do nắm chắc tình hình địch, Bùi Văn Cường chỉ huy trận đánh thành công tốt đẹp: diệt 22 tên ác ôn bình định, phá hủy 12 súng, đốt cháy 3 nhà lính. Thắng lợi của trận nảy không những phá tan âm mưu gom dân của địch, mà còn đẩy mạnh phong trào toàn dân đánh giặc ở xã, thúc đẩy công tác xây dựng lực lượng ta lớn mạnh.


Trong năm 1969, Bùi Văn Cường thực hiện nhiệm vụ do cấp ủy Đảng phân công là phải trừng trị bọn ác ôn đầu sỏ, bọn có nhiều nợ máu với nhân dân. Được cơ sở nhân dân báo tin, che giấu, đồng chí đã mưu trí đánh mấy trận thành công: diệt tên ấp trưởng ác ôn giữa nhà hắn; cùng tổ dân quân cải trang giả địch giết chết 1 tên thám báo dẫn đường cho bọn địch vào càn quét ấp Đức Hạnh; kiên trì mai phục rồi bí mật bò vào sát chỗ tên hạ sĩ an ninh đã từng giết hại hơn 60 cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, bắn chết hắn tại chỗ, trả thù cho đồng bào, đồng chí. Những trận diệt bọn ác ôn đầu sỏ nguy hiểm đã góp phần phá thế kìm kẹp của địch ở địa phương, làm cho đồng bào rất phấn khởi, tin tưởng ở cách mạng.


Bùi Văn Cường là một cán bộ quân sự địa phương, suốt 7 năm bám dân, bám đất, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, hết lòng vì nhân dân phục vụ. Đồng chí được đồng bào tin yêu, che chở, giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng chí hoạt động. Đối với đồng đội, đồng chí thương yêu đoàn kết chân thành, xung phong gương mẫu nên được mọi người tin yêu, mến phục.


Đồng chí 2 năm liền được bầu là Chiến sĩ thi đua của tỉnh, được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, nhiều bằng khen và giấy khen, 2 lần là Dũng sĩ Quyết thắng cấp ưu tú.


Ngày 5 tháng 9 năm 1970, Bùi Văn Cường được Chính phủ cách mạng lảm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #136 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:24:47 pm »

Anh hùng Nguyễn Hùng Lễ
(Liệt sĩ)


Nguyễn Hùng Lễ, sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Tường, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1961. Khi hy sinh, đồng chí là thiếu úy, phân đội trưởng phân đội 1 thuộc đoàn 126 Bộ tư lệnh Hải quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1965 đến tháng 2 năm 1968, Nguyễn Hùng Lễ tham gia chiến đấu nhiều trận bắn máy bay Mỹ ở Lạch Trường, cửa Hội, sông Gianh và đánh tàu địch trên sông cửa Việt. Trong chiến đấu, đồng chí luôn dũng cảm, kiên cường, dù khó khăn gian khổ thế nào cũng vượt qua. Nguyễn Hùng Lễ đã cùng đơn vị đánh chìm, đánh hỏng hàng chục chiếc tàu chiến của địch. Riêng đồng chí đánh chìm 3 chiếc.


Trận đánh tàu địch ở cảng cửa Việt đêm 29 tháng 6 năm 1967, Nguyễn Hùng Lễ vượt qua nhiều trạm gác của địch, dùng kỹ thuật bơi nhái đưa khối thuốc nổ vào áp sát mục tiêu. Anh là người đầu tiên trong đơn vị dùng kỹ thuật bơi này đánh chìm tàu địch, rút được nhiều kinh nghiệm cho đoàn chỉ đạo chung.


Tháng 9 năm 1967, Nguyễn Hùng Lễ làm nhiệm vụ trinh sát tàu địch ở cảng Đông Hà, hơn 10 đêm liền lặn lội, tuy bị sức nước ép, bị choáng, nhưng anh vẫn cố gắng bơi, lặn để điều tra nghiên cứu. Sau khi nắm chắc cách bố phòng và vị trí tàu địch đậu, Nguyễn Hùng Lễ dẫn đầu tổ vào đánh chìm 5 tàu và đánh hỏng nặng 2 chiếc khác.


Đêm 5 tháng 2 năm 1968, Nguyễn Hùng Lễ chỉ huy tổ vào đánh cầu Đông Hà. Bọn địch tổ chức canh phòng rất nghiêm ngặt. Chúng thường xuyên quét đèn pha, bắn súng và ném lựu đạn xuống nước. Tổ Nguyễn Hùng Lễ tiến cách cầu 30 mét thì bị lộ, địch bắn ra dữ dội, anh bị thương nặng. Trước tình huống khó khăn, phức tạp, Nguyễn Hùng Lễ nói: "Bằng mọi giá, phải hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời phải hạn chế thương vong. Các đồng chí lùi ra ngay"... Anh em định đưa Nguyễn Hùng Lễ ra ngoài băng bó, nhưng anh kiên quyết ở lại, cố hết sức kéo khối thuốc nổ vào sát chân cầu, đánh sập cầu. Nguyễn Hùng Lễ đã anh dũng hy sinh sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Đồng chí được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 20 tháng 9 năm 1971, Nguyễn Hùng Lễ được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #137 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:25:20 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Thái


Nguyễn Văn Thái sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Phú Hưng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhập ngũ năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng đại đội 21 đặc công thuộc tiểu đoàn 21 thành phố Huế, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1964 đến tháng 5 năm 1969, Nguyễn Văn Thái tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội, ở cương vị nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Năm 1967, Nguyễn Văn Thái được lệnh chuẩn bị đánh địch ở khách sạn Hương Giang (Huế), anh đã nhiều lần vào trinh sát, điều tra tình hình, sau đó chỉ huy đơn vị vượt qua nhiều khu vực canh phòng nghiêm ngặt vào đánh địch. Bằng cách đánh táo bạo, bất ngờ, đơn vị Nguyễn Văn Thái đã diệt 400 tên Mỹ (có nhiều sĩ quan cao cấp và nhân viên kỹ thuật). Trận đánh thắng lợi đã cổ vũ được tinh thần nhân dân, đồng thời làm bọn địch hoang mang, lo sợ.


Trận đánh trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai cuối năm 1967, Nguyễn Văn Thái phụ trách mũi chủ yếu. Khi vào đến hàng rào cuối cùng, địch bắn ra mãnh liệt, đơn vị không tiến lên được. Chiến sĩ giữ súng ĐKZ bị thương. Nguyễn Văn Thái cũng bị thương nhưng anh vẫn nhanh chóng dùng ĐKZ bắn 2 phát đạn, làm sập lô cốt, diệt được hỏa điểm của địch. Địch cho xe tăng và thiết giáp ra phản kích. Chỉ 1 quả đạn, Nguyễn Văn Thái bắn cháy chiếc M.113 đi đầu. Chớp thời cơ, anh dẫn đầu đơn vị xung phong, cùng các đơn vị bạn tiêu diệt gọn trung đoàn thiết giáp ngụy.


Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Nguyễn Văn Thái bị thương trong lúc đánh địch ở khách sạn Thuận Hóa. Được đi điều trị, vết thương chưa khỏi hẳn, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ chiến đấu khẩn trương, anh kiên quyết xin về đơn vị. Nguyễn Văn Thái được giao nhiệm vụ chỉ huy tổ tập kích cụm cơ giới địch ở Khê Xá. Khi tiến đánh, anh bò gần tới mục tiêu thì bị lộ. Tên lính gác hỏi, Nguyễn Văn Thái bình tĩnh trả lời rồi nhanh chóng thủ tiêu tên này. Sau đó, anh chỉ huy tổ xung phong tiêu diệt gọn quân địch trong cụm cơ giới, phá toàn bộ 17 xe tăng.


Trận đánh địch ở quận lỵ Hữu Ngạn cuối năm 1968, anh em dùng quả bộc phá 7 ki-lô-gam đánh nhà để tài liệu của địch, nhưng khi ném, bộc phá vướng cánh cửa sổ văng ra ngoài. Không sợ nguy hiểm, Nguyễn Văn Thái xông lên ôm quả bộc phá đang cháy, ném rất mạnh qua cửa sổ, lọt hẳn vào trong nhà. Bộc phá nổ làm căn nhà và toàn bộ tài liệu của địch bị thiêu hủy. Nguyễn Văn Thái bị sức ép văng ra ngoài, ngất đi, khi tỉnh dậy lại tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu.


Tháng 5 năm 1969, đơn vị đánh địch càn quét ở Lê Xá, Nguyễn Văn Thái chỉ huy linh hoạt, mưu trí, dũng cảm, luôn dẫn đầu đơn vị xung phong tiêu diệt địch, đồng chí bị thương nặng và bị địch bắt. Mặc dù phải chịu mọi cực hình tra tấn của Mỹ - ngụy, Nguyễn Văn Thái vẫn một lòng trung thành với cách mạng, được các đồng chí trong nhà tù cùa địch cảm phục.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 3 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua.


Ngày 20 tháng 9 năm 1971, Nguyễn Văn Thái được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #138 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:25:57 pm »

Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm
(Liệt sĩ)


Lê Thị Hồng Gấm sinh năm 1951, dân tộc Kinh, quê ở xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Khi hy sinh, đồng chí là trung đội phó bộ binh thuộc bộ đội địa phương quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 12 năm 1967 đến tháng 5 năm 1968, Hồng Gấm làm giao liên cho xã, cùng tổ 3 người (đều là nữ) có nhiệm vụ đưa công văn, tài liệu từ huyện xuống các cơ sở. Địa bàn hoạt động hẹp nhưng vô cùng gian khổ, nguy hiểm. Mỗi lần làm nhiệm vụ, chị đều phải vượt qua các khu căn cứ và vành đai của địch. Cuối năm 1968, trong tổ có 1 người hy sinh, 1 người thấy khó khăn, gian khổ quá, không hoạt động nữa, chỉ còn mình Hồng Gấm, có ngày phải chuyển tới 7 chuyến công văn, nhưng vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Trong công tác, trên 10 lần Hồng Gấm gặp nguy hiểm như chạm mặt địch trên đường, bị địch phục kích, đang bơi trên kênh gặp tàu địch tuần tra..., lần nào chị cũng bình tĩnh đối phó với địch kịp thời, chuyển thế bị động thành chủ động. Có lần đang trên đường làm nhiệm vụ, gặp bọn Mỹ đi tuần, biết không thể tránh được, Hồng Gấm buộc tài liệu vào bắp chân, bôi bùn đất lên quần áo, giả làm người đi làm đồng về. Khi bị chúng bắt, chị khôn khéo tranh thủ tên phiên dịch, cuối cùng bọn Mỹ phải để Hồng Gấm đi.


Tháng 12 năm 1968, Hồng Gấm được huyện chỉ định làm xã đội phó xã Long Hương. Trong giai đoạn này, địch tăng cường khủng bố, đàn áp nhân dân, cơ sở cách mạng của ta còn rất ít. Trong nhân dân, môt số người hoang mang, lo sợ, không dám tham gia hoạt động hoặc bỏ làng đi nơi khác. Trước khó khăn đó, Hồng Gấm bàn bạc với ban lãnh đạo xã, kiên trì thuyết phục nhân dân bám làng, bám đồng ruộng sản xuất và ủng hộ cách mạng. Chị xuống từng ấp vận động nhân dân tham gia du kích, chiến đấu giết giặc, trừ gian, bảo vệ xóm làng.


Qua một thời gian tuyên truyền vận động quần chúng, Hồng Gấm đã góp phần cùng ban lãnh đạo xã xây dựng được 5 trung đội dân quân tự vệ, 5 tổ du kích. Đồng chí đã cùng du kích xã chiến đấu 49 trận, giết và làm bị thương 217 tên địch (có 22 tên Mỹ, 4 tên ác ôn). Nhiều lần, Hồng Gấm đặt mìn giết hàng chục tên Mỹ, ngụy. Chị thường xuyên dẫn đầu trung đội đi phục kích, tập kích địch, hoặc vào tận nhà trừng trị những tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân.


Tháng 8 năm 1969, do yêu cầu phát triển lực lượng và nhiệm vụ chiến đấu, Hồng Gấm được điều làm trung đội phó du kích vành đai liên xã. Tháng 3 năm 1970, trung đội sáp nhập vào bộ đội địa phương huyện. Hơn 8 tháng chiến đấu, Hồng Gấm đã cùng đơn vị đánh 10 trận, diệt 63 tên địch, bắn rơi 1 máy bay, thu 4 súng.


Đặc biệt, ngày 18 tháng 4 năm 1970, để chuẩn bị cho trận đánh ban đêm, Hồng Gấm cùng 2 nữ du kích ra tiệm mua sắm thức ăn cho trung đội. Khi ra giữa cánh đồng (cách căn cứ Bình Đức 500 mét) thì bị máy bay địch phát hiện. 2 chiếc máy bay lên thẳng HU1A sà thấp định đổ quân bắt sống cả 3 người. Trước tình hình nguy hiểm đó, Hồng Gấm nói với hai chị kia: "Tôi có thể chạy thoát được nhưng nguy hiểm cho hai chị, nếu cả ba người cùng ở lại chiến đấu thì không đủ vũ khí, thương vong vô ích. Tôi có súng sẽ ở lại chiến đấu, đồng thời thu hút hỏa lực của chúng, còn hai chị chạy thoát ngay đi!". Nói xong, Hồng Gấm chỉ hướng cho hai chị chạy vào vườn, còn mình lợi dụng địa hình chiến đấu với địch. 2 chiếc máy bay lên thẳng lượn quanh bắn uy hiếp hòng buộc chị đầu hàng. Nhưng Hồng Gấm bắn lại rất anh dũng, 1 chiếc bị trúng đạn rơi tại trận. Chiếc thứ hai sà xuống đổ quân, vừa bao vây vừa gọi hàng. Hồng Gấm bình tĩnh chiến đấu, diệt thêm 3 tên địch. Cho tới khi hết đạn, Hồng Gấm hủy súng và anh dũng hy sinh.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay, 3 lần là Dũng sĩ diệt Mỹ, 4 bằng khen và giây khen.


Ngày 20 tháng 9 năm 1971, Lê Thị Hồng Gấm được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #139 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2022, 03:26:31 pm »

Anh hùng Lê Mã Lương


Lê Mã Lương sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1967. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng sĩ, chính trị viên phó đại đội 7 bộ binh thuộc tiểu đoàn 4, trung đoàn 24, sư đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1968 đến năm 1971, Lê Mã Lương tham gia chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội, ở cương vị nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lê Mã Lương đã tham gia đánh 14 trận, góp phần cùng đơn vị diệt hàng trăm tên địch. Riêng anh diệt 37 tên, bắn cháy 1 xe tăng, phá huy 1 đại liên, thu 1 súng.


Trong trận đánh Làng Vây năm 1968, Lê Mã Lương bị thương hỏng mắt trái. Sau khi điều trị, đơn vị cho anh chuyển về hậu phương nhưng Lê Mã Lương thiết tha xin ớ lại chiến đấu.


Ngày 28 tháng 6 năm 1969, Lê Mã Lương chỉ huy trung đội đánh địch phản kích ở Pa Trang. Địch tổ chức nhiều đợt tiến công dữ dội. Lê Mã Lương cùng trung đội chiến đấu quyết liệt, diệt 55 tên Mỹ, riêng anh diệt 10 tên.


Ngày 13 tháng 2 năm 1971, Lê Mã Lương là chính trị viên phó đại đội, trực tiếp chỉ huy 1 tiểu đội chốt giữ chân điểm cao 863, chặn bọn địch từ đỉnh điểm cao này nống xuống. Sau khi dùng không quân và pháo binh đánh dữ dội, từ trên điểm cao địch ồ ạt đánh xuống hòng chiếm chốt của ta. Lê Mã Lương động viên tiểu đội chiến đấu kiên cường giữ vững chốt. Khi chiến sĩ bắn trung liên bị thương, anh chạy dưới làn đạn địch đến băng bó cho đồng đội, rồi dùng trung liên bắn mãnh liệt vào quân địch. Trung liên bị tắc, Lê Mã Lương vừa dùng lựu đạn đánh địch vừa chữa súng. Bị thương vào gáy và hông, anh không rời trận địa, kiên cường chỉ huy tiểu đội đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững chốt, diệt hàng trăm tên địch. Riêng Lê Mã Lương diệt 15 tên.


Ngày 19 tháng 3 năm 1971, đơn vị Lê Mã Lương phục kích chặn đánh địch rút chạy gần cầu Ka Ki. Khi nhận lệnh, đại đội trưởng đi vắng, Lê Mã Lương chỉ huy đơn vị vận động đến vị trí phục kích, bố trí trận địa bí mật, bất ngờ. Địch lọt vào trận địa, đại đội xuất kích nhanh, đánh chặn quyết liệt, diệt gần 100 tên, phá hủy 15 xe tăng và xe bọc thép. Riêng anh diệt 7 tên, bắn cháy 1 xe tăng.


Lê Mã Lương luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt. Bản thân tích cực rèn luyện, tận tụy công được mọi người tin yêu.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 20 tháng 9 năm 1971, Lê Mã Lương được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nan Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM