***
Tôi cũng còn nhớ một kỷ niệm sâu sắc về chuyện tôi và anh Vũ Lai Trường được Quân chủng cử đi báo cáo nhanh với Bí thư thứ nhất và Ban bí thư Ban chấp hành Trung ưcmg Đảng sau khi ta đánh thắng cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972. Lúc đó tôi là trường phòng Nghiên cứu Kỹ thuật và anh Vũ Lai Trường là trưởng phòng Khoa học Quân sự của Quân chủng.
Sau chiến thắng chưa đến hai ngày, vào một ngày đầu năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn hẹn đúng 14 giờ chúng tôi phải có mặt ở nhà riêng của anh. Tôi và anh Vũ Lai Trường đến nhà anh Lê Duẩn, kéo chuông. Thật bất ngờ, không phải người bảo vệ hoặc người công vụ ra mở cổng cho chúng tôi mà đích thân anh Lê Duẩn đón chúng tôi ngay ở cổng và dẫn chúng tôi vào nhà. Ở đó, đã có anh Trần Quỳnh đang chờ. Tôi được cử báo cáo trước về tình hình gây nhiễu của địch, đặc biệt về nhiễu của máy bay B-52, các dạng nhiễu và kết quả khắc phục của ta. Tôi đã mang theo một tờ bìa lớn trên đó dán các ảnh nhiễu được phóng to, nên đã trình bày được rõ ràng, đầy đủ. Anh Vũ Lai Trường báo cáo về kết quả đánh rơi B-52. Nghe xong, anh Lê Duẩn quay lại anh Trần Quỳnh như muốn anh Trần Quỳnh phát biểu. Tôi đã biết anh Trần Quỳnh là trợ lý rất gần gũi của Bí thư thứ nhất Lẽ Duẩn về lĩnh vực khoa học, đã từng công tác ở ủy ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước. Anh Trần Quỳnh không nói gì. Sau một lúc yên lặng, anh Lê Duẩn khen ngợi quân chủng Phòng không - Không quân trong trận chống tập kích đường không bằng B-52 của địch, nói về ý nghĩa thắng lợi này đối với kết quả đàm phán giữa ta và Mỹ, đã tạo thêm thế và lực cho phái đoàn ta ở hội nghị Paris và nhắc phải tiếp tục nghiên cứu địch, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu tốt hơn. Tôi thoáng nhớ đến lời động viên và nhắc nhở Quân chủng đêm Noel 24/12/1972 của anh Lê Duẩn; hôm ấy anh đã xuống sở chỉ huy Quân chủng ở Chùa Trầm, nói chuyện với toàn hội nghị sơ kết đánh B-52 vào cái đêm mà địch nghỉ đánh.
Sáng hôm sau, tôi và anh Vũ Lai Trường lại đến trụ sở của Ban bí thư Trung ương Đảng báo cáo những gì mà chúng tôi đã báo cáo với bí thư thứ nhất Lê Duẩn ngày hôm trước. Ban bí thư có các anh Lê Văn Lương, Nguyễn Trân nghe báo cáo. Sự vui mừng hồ hởi nổi rõ trên nét mặt hai anh đó.
Thế đấy, Đảng đã theo dõi từng bước đi, bước trưởng thành của Quân đội. Sự động viên của Đảng là nguồn cổ vũ và làm nhẹ nỗi gian nan, mệt nhọc của Quân đội mà trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc nước ta thì Quân chủng Phòng không - Không quân là nòng cốt.
Chúng tôi về báo cáo với Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng sự cổ vũ động viên của Đảng với Quân chủng, niềm vui của cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, một niềm vui bắt nguồn từ chiến thắng to lớn của Quân chủng Phòng không - Không quân.
Nghe mãi về bom và đạn, tôi muốn dừng lại chút ít để kể một câu chuyện về tình yêu, tình yêu của tôi trong những ngày đó. Chắc rằng, mỗi gia đình chúng ta cũng đều có một vài kỷ niệm nho nhỏ trong những ngày lịch sử này.
Vào cuối tháng 10/1972, sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân ở Bạch Mai được di chuyển về sở chỉ huy K12 đặt trong hang của Chùa Trầm, huyện Chương Mỹ, Hà
Đông. Đơn vị tôi cũng đóng quân ở gần đó, cùng địa điểm trường cấp 3 Trưng Vương, nơi vợ tôi dạy học, sơ tán về (xã Tân Phú, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây). Cả hai nơi đó đều rất gần quê tôi là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, họp thành ba đỉnh của một tam giác. Vì vậy, vợ tôi đưa hai con và bà ngoại các cháu về sơ tán ở quê tôi, tiện lợi cho cả tôi và vợ tôi khi muốn về thăm mẹ vợ, các con và cả ba mẹ đẻ của tôi, lúc đó cũng sơ tán ở đó.
Khi thấy tình hình im ắng, vợ tôi lại đưa hai con tôi và bà ngoại các cháu về Hà Nội. Nhưng sau đó, tình hình đột ngột căng thẳng và nhiều khả năng, Mỹ sẽ đưa B-52 ra ném bom Hà Nội. Vợ chồng chúng tôi bàn bạc và quyết định đưa gia đình sơ tán về quê ngoại ở xã Long Hưng, huyện Vãn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tôi xin nghỉ một buổi chiều để đưa gia đình đi sơ tán. Với hai chiếc xe đạp, vợ tôi đèo bà ngoại, tôi phải làm sao đèo cho được hai đứa con, một đứa chị 8 tuổi và đứa em trai mới 14 tháng tuổi. Tôi đóng một cái hộp bằng gỗ đủ lớn để thằng bé có thể nằm vừa, bốn cạnh hộp được viền cao khoảng lOcm. Hộp được cố định vào ghi-đông xe đạp. Lòng hộp được trải vải êm và con trai tôi được buộc chặt vào đó. Đằng sau xe, tôi đèo con gái Thu Hà.
Khi đi từ nhà đến cầu Long Biên thì tạm được, nhưng khi lên đến cầu, vì mặt cầu có những tấm ván đặt ngang gồ ghề nên bánh xe trước cứ nảy lên. Thằng bé vừa bị nảy vừa bị lắc lư theo chiều lái của ghi-đông xe đạp. Không chịu được độ nảy và sự lắc lư đó, nó cứ ngóc đầu dậy và khóc, tôi phải xuống xe và dắt xe qua hết cầu Long Biên. Xét thấy con đường đê đi từ Gia Lâm đến Văn Giang đường xấu, có nhiều ổ gà, còn khó khăn hơn khi đi trên cầu nhiều, chúng tôi phải tìm cách khác để có thể về được quê ngoại. Khi qua phố Gia Lâm, vợ chồng tôi đã thuê được một chiếc xe xích lô để đi, còn gần hai chục kilomet nữa. Xe xích lô chở ba bà cháu, còn tôi và vợ tôi thì đạp xe.
Sáng hôm sau, khi trời chưa sáng, tôi đã phải đạp xe trở lại Hà Nội, qua ngả Phú Thụy, đường số 5 và Gia Lâm. Chiều và tối hôm đó, tôi đã phải có mặt ở trận địa tên lửa để theo dõi chiến đấu.
Sau khi địch dội bom đánh phá bệnh viện Bạch Mai, khu phố Khâm Thiên, vợ tôi lại đi nhờ xe con của anh Thịnh, trưởng phòng Quân khí, cục Kỹ thuật Quân chủng, mang hai con về Hà Nội tại căn hộ của chúng tôi ở nhà 8A khu tập thể Nam Đồng mà tôi không hề hay biết gì, trong khi B-52 vẫn còn đang ném bom Hà Nội.
Sau ngày B-52 ngừng ném bom, tôi mới về xem nhà cửa, bất ngờ bắt gặp vợ con, tôi quá bàng hoàng, ôm chầm lấy họ, những người liều lĩnh không thể tưởng tượng được. Tôi bật hỏi vợ tôi: "Sao em lại dám thi gan với B-52 hả?”. Mãi sau vợ tôi mới thổ lộ: “Em nhớ và lo cho anh quá, cái chết không làm em sợ hơn là mất anh". Thế đấy, sức mạnh của tình yêu còn quyết liệt hơn cả B-52! Tôi cảm động, không nói được gì hơn, chỉ dặn lại vợ tôi: “Lần sau, đừng làm thế, em đã đành nhưng các con thì sao?”.
Làm gì có lần sau chứ!