Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 12:27:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 6791 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #90 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:10:26 am »

Trong Bộ tham mưu và trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quần cũng có mặt các đại biểu nhiều tầng lớp khác nhau. Có người xuất thân từ tầng lớp địa chủ như Lê Lợi; có người là sĩ phu yêu nước như Nguyễn Trãi, Phạm Văn Xảo; có người thuộc tầng lớp thương nhân như Nguyễn Xí; có người vốn xuất thân từ tầng lớp dân nghèo như Nguyễn Chích, Nguyễn Khuyển; hoặc cũng có mặt những nhà quý tộc yêu nước như Trần Nguyên Hãn và nhiều tù trưởng dân tộc như Xa Khả Tham, Cầm Quý... Tất cả nghĩa quân tuy rất khác nhau về thành phần giai cấp, về chức vị, nhưng "trên dưới đều một dạ cha con" và "hết thảy đều cùng một chí hướng". Mối đoàn kết, thương yêu giữa chủ tướng và quân lính, giữa chỉ huy và binh sĩ, giữa binh lính với nhau là một đặc điểm nổi bật trong khởi nghĩa Lam Sơn. Sức mạnh của nghĩa quân trước hết là sức mạnh của tinh thần yêu nước và chí căm thù, sức mạnh của sự đoàn kết nhất trí trong sự nghiệp cứu nước, sức mạnh tư tưởng, tinh thần chiến đấu ngoan cường.


Nghĩa quân Lam Sơn có một tinh thần chịu đựng gian khố và chiến đấu vô cùng anh dũng. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa, nghĩa quân trải qua biết bao gian lao, thử thách. Nhưng tất cả đều không sờn lòng nản chí, họ đã anh dũng vượt qua tất cả.


Sức mạnh cứu nước của nghĩa quân Lam Sơn không chỉ là sức mạnh trong hàng ngũ nghĩa quân mà còn là sức mạnh đoàn kết đấu tranh của toàn dân. Đó là tư tưởng lớn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Nghĩa quân không chiến đấu một cách cô độc và lẻ loi như quân đội nhà Hồ, mà trưởng thành và chiến thắng trong sự tham gia ủng hộ nhiệt tình của tất cả các tầng lớp nhân dân yêu nước.


Do có tư tưởng và đường lối đúng đắn, do mục đích chính nghĩa, hợp lòng người nên cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nhanh chóng nhận được sự tham gia hưởng ứng của nhân dân.

Nghĩa quân Lam Sơn là đội quân được tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật nghiêm minh, đi đến đâu mặc dù thiếu thốn nhưng vẫn rất tôn trọng và bảo vệ quyền lợi và tài sản của nhân dân, không mảy may xâm phạm đến tài sản của dân. Khi tiến quân vào Nghệ An, có lúc ba ngày thiếu lương thực ăn nhưng nghĩa quân không hề lấy của dân. Nghĩa quân đi đến đâu là "trừ bạo", "an dân" đến đó, đưa lại cho nhân dân vùng giải phóng cuộc sống tự do, yên vui. Vì thế, nhân dân coi nghĩa quân như vị cứu tinh, như người con thân yêu của mình và sẵn sàng đem cả tài năng, sức lực, của cải ra hiến dâng cho công cuộc giải phóng dân tộc. Dưới nhiều hình thức, từ tham gia nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho đến hành động giết giặc..., nhân dân đã thực sự góp phần quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân đi đến đâu chật đất người theo, đầy đường rượu bày và nhân dân khắp nơi dắt díu nhau kéo đến đông như đi chợ. Sau khi hạ thành Trà Long, hơn 5.000 thanh niên xung phong vào nghĩa binh; sau khi giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, hơn 20.000 người xin gia nhập nghĩa quân. Nghĩa quân đi đến đâu, dân chúng nô nức, đứng lên hưởng ứng đến đó: "Gạo nước đón rước, người theo chật đường", hàng vạn trai tráng nhập ngũ. Chỉ trong mấy tháng, toàn bộ các châu huyện từ Thanh Hóa trở vào được giải phóng, trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc chiến tranh giải phóng. Khi Lê Lợi tiến ra bao vây thành Đông Quan, nhân dân khắp nơi vô cùng phấn khởi, ai cũng muốn đem hết công sức mình ra góp phần cùng nghĩa quân để sóm hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, khi nghe tin Lê Lợi đóng quân ở gần thành Đông Quan, "hào kiệt ở kinh lộ và nhân dân các phủ huyện cùng các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập kéo đến cửa quân, xin hết sức liều chết đánh thành giặc ở các xứ"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.260). Lê Lợi, Nguyễn Trãi vô cùng cảm kích, đã ân cần phủ dụ, úy lạo và tiếp đãi mọi người, bảo cho họ biết lẽ thuận nghịch rồi tuyển mộ thêm nghĩa quân, thu nạp thêm nhân tài để bổ sung lực lượng.


Những điều đó khẳng định sự đúng đắn của tư tưởng, đường lối cứu nước của cuộc khởi nghĩa. Không đánh giá đúng vai trò của nhân dân thì không thể có được những bước trưởng thành nhanh chóng và vượt bậc của nghĩa quân nhu Nguyễn Trãi đã mô tả trong một bức thư gửi cho Vương Thông rằng: "Ngày trước ăn không nề hai bữa, mà nay thì với lương thực của các ngươi tích trữ, ăn được ba chục năm; trước kia quân bất quá vài trăm người, mà nay thì binh phụ tử ở Thanh Hóa gần hai vạn, quân có tiếng là tinh tráng dũng cảm ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa cũng không dưới vài vạn, cùng quân đồng tâm đồng lực ở các lộ Giao Châu, không dưới mười vạn người; trước thì thầy bạn thân thích tác tán, mà nay thì những kẻ sĩ trí mưu tài thức, không khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau; trước thì khí giới không trơn mà nay thì thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho"2 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.138).


Khi vây hãm các thành lũy cũng như khi tiến về giải phóng các châu huyện, nghĩa quân Lam Sơn luôn được nhân dân vùng lên cùng tham gia hưởng ứng. Ở Thanh Hóa, Nguyễn Chích đã tự nguyện đến với Lê Lợi và đem toàn bộ lực lượng nghĩa quân của căn cứ núi Nghiêu - Hoàng sáp nhập hẳn vào nghĩa quân Lam Sơn. Ở miền rừng núi Nghệ An, nhiều tù trưởng các dân tộc thiểu số đem cả bản mường theo Lê Lợi, Nguyễn Trãi. Các lực lượng yêu nước đang hoạt động chống Minh ở vùng này như Phan Liêu, Lộ Văn Luật ở châu Ngọc Ma, Nguyễn Vĩnh Lộc ở Diễn Châu, Nguyễn Diên ở châu Nam Trinh... đều gia nhập vào hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Ở Đỗ Gia, Nguyễn Tuấn Thiện vận động nhân dân nổi dậy, lập thành lực lượng vũ trang phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn đánh bại quân Minh, giải phóng cả một vùng quê rộng lớn.


Trong các trận đánh lớn nhất của nghĩa quân như trận Tốt Động - Chúc Động cuối năm 1426, trận Chi Lăng - Xương Giang cuối năm 1427, đều có sự tham gia chiến đấu của đông đảo dân binh, những lực lượng vũ trang của nhân dân địa phương, góp phần vào thắng lợi vang dội của nghĩa quân Lam Sơn.


Khi cần thiết, nhân dân còn di chuyển nhà cửa, lương thực, làm kế "thanh dã" (vườn không nhà trống) để vây hãm quân địch như trường hợp nhân dân vùng Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hóa trong thời gian chuẩn bị diệt viện binh cuối năm 1427. Ngoài ra, nhân dân ở hầu hết khắp mọi nơi đã có rất nhiều hành động yêu nước rất đáng ca ngợi. Đó là nhũng người anh hùng có tên hay không tên, trong sử sách không ghi chép, nhưng vẫn lưu truyền phổ biến trong các làng quê. Họ đều là những người dân yêu nước tự nguyện tham gia đóng góp vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn.


Do có tư tưởng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, với bản chất của cuộc chiến tranh yêu nước chính nghĩa, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thực sự trở thành cuộc chiến tranh mang đậm tính nhân dân. Ngọn cờ Lam Sơn là ngọn cờ đoàn kết đấu tranh của toàn dân ta đầu thế kỷ XV.


Tư tưởng dựa vào dân, phát động cuộc khởi nghĩa nhân dân, chiến tranh toàn dân là nguồn gốc thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tất nhiên trong thời đại phong kiến và dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến, tư tưởng chiến tranh nhân dân - toàn dân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không thể tránh khỏi những mặt hạn chế tất yếu của thời đại và giai cấp, không thể đạt đến mức độ triệt để của những cuộc chiến tranh nhân dân hiện đại do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nhưng xét riêng trong thời đại phong kiến thì khởi nghĩa Lam Sơn có tính nhân dân sâu rộng nhất. Đó là kết quả của tư tưởng khởi nghĩa toàn dân trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #91 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:11:59 am »

c) Tư tưởng chỉ đạo chiến lược, chiến thuật "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh" (dĩ quả địch chúng, dĩ nhược chế cường)

- Tư tưởng chiến lược:

Nguyễn Trãi nói "Tri bỉ tri kỷ, năng nhược năng cường" (biết địch biết ta, hay yếu hay mạnh). Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình địch, ta một cách chính xác, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và Bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn xác định một đường lối quân sự đúng đắn, một quyết tâm đánh giặc cao và một niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng. Sự sáng suốt của Bộ tham mưu, vai trò tích cực của lãnh đạo được biểu hiện rõ ràng và tập trung trong chỉ đạo chiến lược và chiến thuật của cuộc chiến tranh.


Đánh lâu dài (trì cửu chiến) là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt trong quá trình khởi nghĩa và chiến tranh dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài mười năm trời ròng rã. Đánh lâu dài là một đặc điểm quan trọng và cũng là đường lối chiến lược của nghĩa quân Lam Sơn. Tư tưởng chiến lược đó phù hợp với quy luật phát triển khách quan của cuộc chiến tranh giải phóng của một nước nhỏ chống lại sự xâm lược và thống trị của một nước lớn.


Như Nguyễn Trãi nhận định: "Đúng lúc nghĩa binh mới dấy, chính khi thế giặc đương hăng" (Bình Ngô đại cáo). Vào khoảng năm 1417 - 1418, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mới bùng nổ, là lúc mà chính quyền đô hộ của nhà Minh đã được thiết lập và củng cố vững chắc trên phạm vi cả nước ta. Lực lượng quân địch có đến hàng chục vạn - chưa kể đến thổ quân được tổ chức và huấn luyện một cách khá chính quy, trang bị đầy đủ, lại có thành lũy kiên cố, có công cụ chính quyền trong tay. Nghĩa quân Lam Sơn buổi đầu "quân chỉ độ vài nghìn, khí giới thì không trơn". Trong điều kiện từ tay không mà xây dựng lực lượng để chống lại kẻ thù lớn mạnh, có cả quân đội, chính quyền làm chỗ dựa, trong điều kiện" lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh" như vậy thì chỉ có đánh lâu dài mới giành được thắng lợi. Phải có thời gian cùng với sự nỗ lực chủ quan ghê gớm mới dần dần xoay chuyển được tương quan lực lượng, làm cho nghĩa quân từng bước trưởng thành, từ yếu thành mạnh, quân địch từ mạnh thành yếu và cuối cùng cuộc chiến tranh sẽ kết thúc bằng sự toàn thắng của sức mạnh chính nghĩa. Với thời gian, nghĩa quân mới dần dần phát huy được những ưu điểm, những chỗ mạnh cơ bản của mình; khắc phục dần những nhược điểm, chỗ yếu của mình để ngày càng trưởng thành, lớn mạnh. Với thời gian, nghĩa quân sẽ hạn chế dần những chỗ mạnh buổi đầu của quân địch, khơi sâu những nhược điểm căn bản của chúng, làm cho lực lượng của chúng ngày càng hao mòn, suy yếu. Đó là phương hướng, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Lê Lợi và Nguyễn Trãi.


Chủ trương chiến lược đánh lâu dài chứng tỏ Bộ tham mưu nghĩa quân đã "biết địch biết ta", đánh giá đúng tình hình khách quan và chủ quan, mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, nhìn thấy trước xu hướng phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh.


Lê Lợi và Nguyễn Trãi không những biết rõ chỗ mạnh của quân Minh, mà còn thấy được những nhược điểm căn bản của chúng và tính chất tạm thời của những chỗ mạnh ấy. Trong bức thư gửi tướng giặc Phương Chính, Nguyễn Trãi đã vạch rõ nhược điểm và lý do thất bại chủ yếu của quân Minh là bất nhân, phi nghĩa và tàn bạo: "bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương, việc ấy trồi đất không dung, người mà đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.105).


Tư tưởng của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, khi nhìn nhận, đánh giá tình hình địch, không bó hẹp chỉ trong tầm nhìn lực lượng quân địch ở nước ta, mà còn xem xét một cách thấu đáo cả thực trạng triều đình nhà Minh ở Trung Quốc; bởi vì chính quyền đô hộ của địch ở nước ta là một bộ phận khăng khít của bộ máy chính quyền của nhà Minh.


Bấy giờ, triều Minh là một triều đại lớn và cường thịnh. Đó là chỗ mạnh của địch nên trong quan hệ giao thiệp cần có những sách lược thích đáng để cố gắng sớm kết thúc chiến tranh, lập lại quan hệ bang giao bình thường giữa hai nước. Nhưng mặt khác, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cùng nhìn thấy một số khó khăn về đối nội và đối ngoại của triều đình nhà Minh có lợi cho cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta. Đó là nhà Minh đang gặp khó khăn về mọi mặt. Khi viết thư cho Vương Thông, Nguyễn Trãi cũng nói rõ điều đó:

   "- (Ở nước các ông) quân mạnh ngựa tốt nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam...
   - Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không vui, nhao nhao thất vọng...
   - Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến..."2 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.134).


Còn với nghĩa quân, khi mới dấy binh, quân thì ít, lương thực và khí giới đều thiếu thốn. Buổi đầu chỉ là đội quân du kích "tập hợp bốn phương manh lệ", "nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt như sao buổi sớm". Tuy nhiên, theo cách nhìn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, đó là điểm yếu tạm thời của nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân lại có điểm mạnh cơ bản là lấy đại nghĩa mà được lòng dân, cuộc chiến đấu chính nghĩa cứu nước, cứu dân, nên nghĩa quân có thể khắc phục được những khó khăn buổi đầu để càng đánh càng được, đi đến đâu cũng được dân chúng theo về. Nguyễn Trãi cho rằng: Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, mất thời không thế thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy; sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay.


Với tư tưởng và tầm nhìn biện chứng đó, Bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn đã nắm vững thời thế, "biết mình biết người", đề ra chiến lược đúng đắn. Với sức mạnh của chính nghĩa, của lòng dân, với tư tưởng chiến lược đánh lâu dài, từ trong bước đi chập chững đầu tiên của cuộc khởi nghĩa trước muôn vàn khó khăn, gian khổ, đã mở ra một tiền đồ phát triển và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi và Nguyễn Trãi vững tin, qua gian nan, nghĩa quân sẽ "mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn", còn quân địch thì "mạnh biến thành yếu, yên lại thành nguy". Đó là cách nhìn biện chứng, là con đường phát triển tất yếu trong sự nghiệp của nghĩa quân Lam Sơn.


Tư tưởng chiến lược đánh lâu dài dựa trên cơ sở nói trên được quán triệt trong toàn bộ quá trình chỉ đạo và thực hành khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, từ khi mới bắt đầu khởi nghĩa đến kết thúc chiến tranh, từ việc xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ địa cho đến các trận chiến đấu quyết định thắng lợi cuối cùng...


Nghĩa quân Lam Sơn lúc đầu thua xa địch về số lượng và trang bị, kỹ thuật, nhưng sức mạnh của nghĩa quân là ở lòng yêu nước và chí căm thù, tinh thần chiến đấu ngoan cường và sự ủng hộ vô bờ bến của nhân dân. Phải phát huy tính ưu việt đó phục vụ cho phương châm đánh lâu dài thì mới giành được thắng lợi. Do đó, trong tư tưởng Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào dân để xây dựng lực lượng và lấy giáo dục phẩm chất chính trị (hun đúc những lời nhân nghĩa) làm cơ sở cho việc xây dựng, phát triển nghĩa quân. Cùng với từng bước phát triển của cuộc khởi nghĩa, lực lượng nghĩa quân càng được bổ sung bằng sự tham gia nhiệt tình và đông đảo của nhân dân và qua thực tiễn đấu tranh, nghĩa quân phát triển thành một quân đội dân tộc hùng mạnh. Thấm nhuần tư tưởng đánh lâu dài nên nghĩa quân thực hiện "vừa cày ruộng vừa đánh giặc" và dùng ngay lực lượng vật chất của địch làm của ta để quay lại đánh địch. Quá trình đánh lâu dài cũng là quá trình vận động, thuyết phục kẻ thù, nhằm khoét sâu những chỗ yếu, những nhược điểm căn bản của địch để làm tan rã tinh thần chiến đấu của quân thù. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đều coi trọng sách lược "công tâm", tìm mọi cách đánh vào ý chí xâm lược của địch.


Tư tưởng đánh lâu dài được thể hiện trong quá trình chỉ đạo tác chiến, từng bước đưa cuộc chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, từ cách đánh phân tán lên đánh tập trung. Tư tưởng đó phù hợp với quy luật phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng, thực hiện chuyển hóa lực lượng, đánh thắng từng bước, đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #92 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:13:10 am »

Trong những năm hoạt động ở miền núi rừng Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành chiến tranh du kích để bảo tồn và phát huy lực lượng của ta và tiêu hao một phần lực lượng địch. Nhưng từ cách đánh du kích phân tán, phải tiến lên đánh chính quy, tập trung thì mới có thể giành được những thắng lợi quyết định, đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Do đó, cùng với sự trưởng thành của nghĩa quân, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chủ trương tập trung lực lượng đánh lớn, đánh tiêu diệt khi thời cơ đến.


Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh đầu thế kỷ XV, chứng tỏ tư tưởng chiến lược của các lãnh tụ Lam Sơn rất đúng đắn và tư tưởng đó được vận dụng một cách tài giỏi vào việc tổ chức và thực hành cuộc chiến tranh giành lại nền độc lập dân tộc.


Trong chỉ đạo chiến lược, Lê Lợi và Nguyễn Trãi luôn quán triệt tư tưởng tiến công, đặc biệt từ khi chuyển hướng về Trung Nguyên, về vùng đồng bằng, nghĩa quân luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công địch. Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho rằng phải chế ngự người, chứ không để người chế mình, dử người đến chứ không để người dử đến.


Trong suốt 10 năm, từ khi phát động khởi nghĩa ở Lam Sơn đến lúc giành được thắng lợi, hầu như chưa có một tình huống nào Lê Lợi chủ trương phòng ngự để đối phó với địch. Thời kỳ đầu, khi tương quan lực lượng còn quá chênh lệch, quân Minh liên tiếp mở các cuộc tiến công, nhưng Lê Lợi luôn luôn chủ động tìm cách tiến công lại địch bằng lối đánh linh hoạt để đánh bại các cuộc càn quét của giặc. Khi đã có điều kiện, khi lực lượng phát triển, Lê Lợi đã kịp thời phát hiện thời cơ, mở các cuộc phản công, tiến công. Sau cuộc tiến công chiến lược vào Nghệ An thắng lợi, ông liên tiếp tiến công địch, giải phóng Diễn Châu, Thanh Hóa, Tân Bình và Thuận Hóa. Sau đó, biết địch tập trung quân đối phó ở Nghệ An nên phía Bắc sơ hở, Lê Lợi đã chớp cơ hội tiến quân ra Bắc giải phóng các lộ phủ và bao vây Đông Quan. Với tư cách là lãnh tụ tối cao của nghĩa quân, Lê Lợi luôn chú trọng phát huy tài năng của các tướng lĩnh; đồng thời với con mắt tinh tường, ông đã có những quyết đoán chính xác vào những thời điểm quan trọng, nên những cuộc tiến công lớn của nghĩa quân Lam Sơn thường tạo nên sự chuyển biến cục diện chiến trường, tiến lên giành thắng lợi cho chiến tranh.


- Tư tưởng chỉ đạo chiến thuật:

Về phượng diện chiến thuật, căn cứ vào tư tưởng chiến lược và tùy theo tương quan lực lượng trong từng giai đoạn nhất định cùng với hoàn cảnh cụ thế của từng nơi, từng lúc, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh Lam Sơn đã vận dụng chiến thuật một cách linh hoạt, tài giỏi.


Trong điều kiện tương quan lực lượng lúc đó, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương: "Yếu chống mạnh thường đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai phục" (Bình Ngô đại cáo). Văn bia Vinh Lăng ghi: "Năm Mậu Tuất (1418 - TG) dấy hưng nghĩa binh, đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mũi nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.96).


Tập kích, phục kích, đánh mai phục, dùng kỳ binh là tư tưởng chỉ đạo chiến thuật của nghĩa quân Lam Sơn và đó cũng là cách đánh sở trường nhất của nghĩa quân, được sử dụng trong suốt quá trình khởi nghĩa. Lối đánh đặt mai phục, dùng kỳ binh, nhằm chỗ sơ hỏ của địch mà đánh, luôn tạo thời cơ đánh bất ngờ là tư tưởng chiến thuật thích hợp để lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều.


Trong thời kỳ chiến đấu ở núi rừng Thanh Hóa, tuy lực lượng còn yếu, nhưng nghĩa quân vẫn tranh thủ mọi thời cơ và điều, kiện để tập kích vào các đồn lũy nhỏ của địch hay các doanh trại đóng quân tạm thời của chúng trên đường hành quân. Nghĩa quân thường triệt để lợi dụng địa hình hiểm trở của miền núi rừng Thanh Hóa để bố trí mai phục, bẻ gãy những cuộc tiến công ồ ạt của địch và tiêu hao một phần sinh lực địch. Có khi nghĩa quân bố trí phục kích sẵn ở căn cứ chờ quân địch tiến vào mới đánh, nhưng phần nhiều là chọn địa hình, phục kích quân Minh đang hành quân, như ở Bồ Ải, Mường Một... Những trận tập kích đồn Nga Lạc, Quan Du, doanh trại địch ở Ba Lẫm... đã đưa lại thắng lợi rực rỡ. Phục kích và tập kích, mà phần lớn là tập kích, là cách đánh chủ yếu của nghĩa quân trong giai đoạn đầu nhằm lấy tiến công để phòng ngự. Đó là tư tưởng tích cực, chủ động và quyết tâm tiêu diệt địch cao độ của nghĩa quân ngay từ những ngày mới khởi nghĩa.


Sang giai đoạn thứ hai, lực lượng nghĩa quân có những bước trưởng thành nhanh chóng, nghĩa quân chủ trương "bỏ chỗ vững, đánh chỗ yếu; lánh chỗ thực, đánh chỗ hư". Trong tư tưởng chỉ đạo, Bộ chỉ huy nghĩa quân quán triệt tinh thần tích cực, chủ động, phát huy chỗ mạnh của mình, đánh vào chỗ yếu của địch. Nghĩa quân vận dụng chiến thuật bao vây giam chân địch trong những thành trì kiên cố như Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô... rồi chia nhau đánh mạnh vào những "chỗ yếu", "chỗ hư" của địch nhằm những thành nhỏ và giải phóng nông thôn, mở rộng căn cứ địa. Bên cạnh chịến thuật tập kích, phục kích vận dụng trên một quy mô lớn hơn (như trận tập kích đồn Đa Căng, trận phục kích Bồ Lạp, Khả Lưu, Bồ Ải, Đỗ Gia, v.v...), nghĩa quân đã tiến lên sử dụng chiến thuật công thành, vây thành, tiến công vận động. Trận Trà Long là một trận công thành lớn trong giai đoạn này, bằng biện pháp kết hợp cả bao vây, tiến công và dụ hàng quân địch.


Giai đoạn thứ ba là giai đoạn phát triển chiến thuật cao nhất của nghĩa quân. Lúc đó tương quan lực lượng đã có những chuyển biến căn bản, thực lực nghĩa quân đã lớn, nên tư tưởng chỉ đạo của Bộ chỉ huy là mở những cuộc tiến công lớn tiến tới giành thế chủ động hoàn toàn trên toàn bộ chiến trường.


Chiến thuật tập kích, phục kích sở trường của nghĩa quân phát triển lên một trình độ mới cao hơn, kết hợp với những cuộc tiến công vận động và công thành. Trận Tốt Động - Chúc Động và trận Chi Lăng - Xương Giang là những trận phục kích kết hợp tiến công vận động nổi tiếng của nghĩa quân Lam Sơn.


Trong tư tưởng chỉ đạo chiến thuật, Lê Lợi và Nguyễn Trãi không chủ trương đánh thành mà chú trọng vây thành diệt viện kết hợp với vận động quân giặc đầu hàng. Khi biết tin viện binh nhà Minh sắp sang, nhiều tướng yêu cầu Lê Lợi cho hạ gấp thành Đông Quan để diệt trừ nội ứng bên trong, rồi mới dốc toàn lực đánh viện binh. Nhưng Lê Lợi đã nêu rõ quan điểm của mình rằng: "Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành bền vững hàng năm hằng tháng không hạ được, khi ấy quân ta sức mỏi chí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, đó là con đường nguy hiểm. Chi bằng nuôi sức quân, mài giũa tinh thần sắc bén, để đợi viện binh của giặc. Viện binh giặc bị phá thì thành tất phải hàng. Như thế là nhất cử lưỡng tiện, là mưu chước vạn toàn"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.275). Thực tế cuộc chiến diễn ra đã chứng minh quan điểm tư tưởng của Lê Lợi hết sức đúng đắn. Nhìn chung, trong quá trình chiến tranh, nghĩa quân Lam Sơn không chủ trương đánh thành. Tuy nhiên những lúc cần thiết vẫn phải thực hiện công thành, như trận vây đánh thành Trà Long (1424), nhất là các trận công thành Xương Giang, Tam Giang, Điêu Diêu và Thị Cầu, vì các thành này đều nằm trên hai đường hành quân của viện quân nhà Minh từ biên giới đến Đông Quan. Để cô lập thành Đông Quan và chuẩn bị cho kê hoạch diệt viện, chủ trương của Lê Lợi và Bộ tham mưu phải bao vây, tiến công, triệt hạ, bức hàng các thành này trước khi viện binh kéo sang.


Như vậy, trong tư tưởng chỉ đạo chiến thuật, bên cạnh lối đánh tập kích và phục kích, tùy theo từng bước phát triển trưởng thành và yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược, nghĩa quân Lam Sơn còn vận dụng nhiều hình thức chiến thuật khác như tiến công vận động, công thành, vây thành, diệt viện... Tất cả những hình thức tác chiến đó đều chứng tỏ tư tưởng chỉ đạo chiến thuật của Bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn rất linh hoạt với một nghệ thuật quân sự tài giỏi. Tư tưởng chiến thuật đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh" và quá trình chuyển hóa thế và lực trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.


Một cuộc chiến tranh "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh", tất nhiên phải áp dụng chiến lược đánh lâu dài. Nhưng kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã cho thấy rằng, muốn thực hiện chiến lược đánh lâu dài thì về mặt chiến thuật lại phải đánh nhanh, giải quyết nhanh; phải luôn luôn chủ động và cực kỳ linh hoạt; phải lấy tiến công, nhất là tiến công vận động làm chủ yếu. Đó là những đặc điểm chính trong tư tưởng chỉ đạo chiến thuật của nghĩa quân Lam Sơn.


Bộ tham mưu nghĩa quân, mà đầu não là Lê Lợi và Nguyễn Trãi, đã tỏ ra sáng suốt và hoàn toàn thành công trong việc tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nói chung và chỉ đạo chiến lược, chiến thuật nói riêng. Đó là một cống hiến to lớn đối với thắng lợi của cuộc chiến tranh giành độc lập đầu thế kỷ XV và đối với nền khoa học quân sự của nước nhà.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #93 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:02:23 am »

d) Tư tưởng xây dựng căn cứ địa, xây dựng đất đứng chân trong khởi nghĩa Lam Sơn

Xây dựng và phát triển căn cứ địa luôn là một vấn đề chiến lược trọng yếu trong tư tưởng quân sự của các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn. Bởi vì, theo quan điểm của Lê Lợi và các tướng lĩnh Lam Sơn, có căn cứ địa, có đất đứng chân vững chắc thì nghĩa quân mới bảo toàn được lực lượng trước những cuộc tiến công vây quét của địch và mới có chỗ dựa để phát triển lực lượng tiến lên giành thế chủ động tiến công tiêu diệt địch.


Ngay từ khi dựng cờ khởi nghĩa, Lê Lợi - người chỉ huy tối cao của nghĩa quân đã nhận thấy không thế thắng lợi nhanh chóng trước quân Minh đang hùng mạnh, mà phải tiến hành một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ. Vì vậy, Lê Lợi cho rằng công tác xây dựng căn cứ địa, xây dựng đất đứng chân là hết sức bức thiết, đặt lên hàng đầu và có tính chất quyết định việc thành hay bại của cuộc đấu tranh. Căn cứ Lam Sơn đã được chú ý xây dựng từ buổi đầu nhen nhóm phong trào vì lẽ đó.


Lê Lợi chọn Lam Sơn làm căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa chống Minh bởi vùng núi rừng này có đủ những điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa, phù hợp với những hoạt động ban đầu của nghĩa quân. Lam Sơn thuộc huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa (trung tâm ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân) là vùng đồi núi thấp, xen kẽ những dải rừng thưa và cánh đồng hẹp, phía trên tiêp giáp với những núi rừng hiểm trở trùng điệp của thượng lưu sông Mã và sông Chu, vừa là nơi ẩn náu kín đáo của nghĩa quân trước sự bao vây, o ép, tiến công tiêu diệt của quân thù, vừa tạo điều kiện thích hợp cho chiến tranh du kích phát triển. Sông Chu bọc kín mạn nam của Lam Sơn, chảy qua các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, đến Ngã ba Bông thì nhập vào sông Mã rồi xuôi ra biển. Lam Sơn cũng nằm trên con đường thượng đạo có thể vào Nghệ An hay ra Bắc.


Cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, Lam Sơn còn là một vùng rừng núi rậm rạp. Làng Lam Sơn là nơi khai hoang lập ấp của ông tổ ba đời của Lê Lợi là Lê Hối. Trải qua các đời ông nội là Lê Đinh, rồi cha là Lê Khoáng, cơ nghiệp dòng họ Lê đã phát triển, "con cháu ngày một đông, tôi tớ ngày một nhiều. Việc dựng nước mở đất thực gây nền từ đấy. Từ bấy giờ làm chủ một miền"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.95). Người dân Lam Sơn ngày một đông đúc với nhiều nghề cổ truyền như nghề nông, nghề đánh cá, nghề rừng. Chung quanh Lam Sơn vào thời kỳ này đã có nhiều xóm làng cùng huyện Lương Giang hay huyện Lôi Dương, cũng là những nơi gia tộc Lê Lợi có quan hệ họ hàng, bạn bè gắn bó. Đó là quê hương của nhiều tướng lĩnh đã cùng tham gia Hội thề Lũng Nhai với Lê Lợi...


Lê Lợi là một hào trưởng lớn ở vùng Lam Sơn, xuất thân trong một gia đình thuộc tầng lớp địa chủ, là tầng lớp đang phát triển và có vai trò tích cực lúc bấy giờ. Tại Lam Sơn, ngoài việc "lấy kinh sử làm vui, lại chuyên tâm vào sách thao lược", Lê Lợi còn "hậu đãi tân khách, vời người trốn tránh, dùng người làm phản (quân Minh); ngầm nuôi kẻ sĩ mưu trí, bỏ của phát thóc giúp người cô bần; nhún lời hậu lễ để thu hào kiệt"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.47).


Theo lời hịch kêu gọi khởi nghĩa của Lê Lợi, nhân dân nhiều làng xã xung quanh đã góp sức, góp của xây dựng lực lượng và căn cứ đánh giặc. Tại làng Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 người thân tín đã tổ chức Hội thề nguyện đoàn kết, thương yêu như anh em một nhà, trung thành với sự nghiệp đánh giặc, cứu nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #94 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:10:56 am »

Trải qua một thời gian chuẩn bị, núi rừng Lam Sơn đã trở thành một căn cứ khởi nghĩa, buổi đầu lực lượng nghĩa quân chỉ độ vài nghìn người. Hầu như không có làng nào thuộc hai huyện Lương Giang và Cổ Lôi dọc sông Chu không có người gia nhập nghĩa quân. Sự đóng góp sức người, sức của của nhân dân trong vùng là hết sức quan trọng. Đó là kết quả vận động, tổ chức xây dựng cơ sở đầu tiên của Lệ Lợi.


Một gia đình phụ đạo ở thôn Dựng Tú (Kiên Thọ, Ngọc Lạc) có Lê Lai, Lê Lãn, Lê Lô, Lê Lộ, Lê Lâm, cả năm anh em cùng tham gia khởi nghĩa, ở Dao Xá (Xuân Lam, Thọ Xuân) có Nguyễn Lý, Lê Khảo, Lê Thế Vĩ và Lê Bính tham gia. ở Đoán Lương (Xuân Lam, Thọ Xuân) có Lê Sao, Lê Bị và Lê Nhi. Ở Nguyễn Xá có Phạm Vấn, Phạm Lung và Lê Bồi. Ở Thủy Cối có Lê Lan và ba anh em họ Đinh là Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt. Thôn Thụ Mệnh có Trương Lôi, Võ Uy, Phạm Lật, Trương Chiến, Lê Cẩm, hai cha con Lê Văn Lễ và Lê Vũ Bị. Thôn Cao Tri (Xuân Cao, Thường Xuân) có bốn người họ Phạm là Phạm Yên, Phạm Thái, Phạm Oánh, Phạm Nột. Ở làng Bỉ Ngụ có Lê Sát, Lê Tại. Ở Đa Mỹ (Thịnh Mỹ) có Nguyễn Nhữ Lãm và Lê Khuyển, ở Mục Sơn (Xuân Bái, Thọ Xuân) có hai cha con Lê Văn An và Lê Văn Biếm, Nguyễn Thận, Lê Thiệt, Lê Lãnh, Lê Đạt. Làng Đầm có Trần Lựu và Trần Lãn. Ở Hải Lịch (Thọ Hải) có Lê Văn Linh và Lê Xuân Thọ. Làng Bái Đô (Xuân Bái) có Lý Triện, Lê Văn Giáo và Lý Bá Lao...


Nhân dân các dân tộc Mường, Thái cũng có nhiều đóng góp quan trọng. Lê Hiểm có mặt trong Hội thề Lũng Nhai là người Mường ở thôn Ngọc Châu (Lam Sơn). Lê Cố là người Thái thôn Nhân Trầm (Thường Xuân) đã đến với Lê Lợi từ những ngày đầu khởi nghĩa. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Lợi rất chú ý đến lực lượng các dân tộc thiểu số. Và do vậy, việc xây dựng căn cứ, tổ chức lực lượng vũ trang giai đoạn đầu đã nhờ vào sự đóng góp tích cực của đồng bào các dân tộc Mường, Thái. Có thể nói, từ ngày chuẩn bị cho đến năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn hoạt động căn bản dựa vào sự ủng hộ của nhân dân các dân tộc thiểu số vùng rừng núi Thanh Hóa.


Trong những ngày đầu khởi sự, hào kiệt khắp nơi nghe tiếng Lê Lợi, đều tìm về Lam Sơn tụ nghĩa. Trong đó có những nhân vật nổi tiếng như Trịnh Lỗi (Nho Quan, Ninh Bình), Bùi Quốc Hưng (Chương Mỹ, Hà Tây cũ), Phạm Văn Xảo (Đông Quan), Trần Nguyên Hãn (Lập Thạch, Phú Thọ), Lưu Nhân Chú (Đại Từ, Thái Nguyên), Nguyễn Danh Cá (Lệ Thủy, Quảng Bình), V.V... Căn cứ Lam Sơn đã sớm trở thành trung tâm quy tụ các lực lượng yêu nước không phải chỉ giới hạn trong phạm vi Thanh Hóa mà trong cả nước.


Sách Mục Sơn ngày đó là nơi tiền trạm tiếp đón anh hùng hào kiệt bốn phương về tụ nghĩa. Lê Lợi cùng một số người thân tín thường từ Lam Sơn dùng thuyền vượt sông Chu tiếp bè bạn từ các nơi tới. Lam Sơn và các làng lân cận đã sớm tạo thành một vùng căn cứ địa bảo đảm hậu cần cho nghĩa quân. Cùng với việc tập trung lực lượng, Lê Lợi đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất hậu cần cho nghĩa quân. Hai gia thần trung thành là cha con Ngô Kinh, Ngô Từ quê ở Đông Phong (Yên Định) được giao quản lý trang trại Lam Sơn, lo sản xuất binh lương và bảo vệ căn cứ. Sau ngày thắng lợi, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã đánh giá cao công lao của hai cha con Ngô Kinh, Ngô Từ; gia phả họ Ngô ở Thọ Diên còn ghi lời của Lê Lợi: "Trẫm cùng các khanh mưu việc thiên hạ, ẩn náu nơi rừng núi, trông chờ vào hai cha con Ngô Kinh, Ngô Từ giữ gìn căn cứ, cung đãi lương thảo, điều động binh sĩ... Nay cha con Ngô Từ có công giữ gìn căn cứ, lại có thành tích đánh giặc, đáng được thăng đệ nhất công thần".


Trong thời gian ở Lam Sơn, còn có Lê Cố làm công việc "tiến phạn thượng dụng" (dâng cơm); Trần Dung làm việc "tư lương quốc sự" (coi việc lương thực); Nguyễn Công Chuẩn phụ trách tiếp tế quân lương. Trần Thị Ngọc Thảo lo việc trang trại, coi sóc lương thực và phụ trách đội nữ binh. Lê Lợi đã từng khen ngợi Nguyễn Công Chuẩn có công lớn trong việc bảo đảm nuôi quân, phục vụ chiến đấu trong giai đoạn đầu khởi nghĩa như sau: "Từ ngày hội Lam Sơn mở nghiệp lớn, khi quân ta thất tán phải lánh vào rừng, ngươi vẫn giữ khí tiết, không hề nao núng, lo liệu đủ lương thực chuyển đến quân doanh cho quân sĩ không thiếu lương ăn...". Trương Lôi và Võ Uy có tên trong Hội thề Lũng Nhai vốn trước là gia thần của Lê Lợi đã tổ chức cày ruộng, cung ứng lương thực cho nghĩa quân.


Như vậy, ngay từ đầu, Lê Lợi đã suy nghĩ và quan tâm đến vấn đề khai hoang, sản xuất lương thực cung cấp cho nghĩa quân. Ngoài việc nghĩa quân tự lực sản xuất lương thực, trong thời kỳ này, Lê Lợi còn đặc biệt chú ý đến việc huy động tài vật, lương thực trong nhân dân, nhất là trong vùng hoạt động của nghĩa quân. Lê Sao được Lê Lợi tin tưởng giao cho nhiệm vụ đến các làng ở Lang Chánh, Ngọc Lạc, Thường Xuân (Thanh Hóa) và Quỳ Châu (Nghệ An) để vận động nhân dân đóng góp lương thực, của cải giúp nghĩa quân.


Cùng với việc xây dựng lực lượng, tích trữ lương thực và vũ khí, Lê Lợi còn cho đắp lũy để bảo vệ căn cứ địa Lam Sơn. Lũy Lam Sơn hay "Lũy Vua Lê" chạy dài theo tả ngạn sông Chu, qua Dao Xá, Hào Lương xuống đến tận Yên Trường (Thọ Xuân).


Lê Lợi cho nghĩa quân tổ chức luyện tập. Tại thôn Lang Sơn (xã Nguyệt Ấn) hiện còn dấu tích một bãi tập của nghĩa quân, nhân dân trong vùng gọi là "hấp ông Lê" hay "hấp Lê Lợi". Tại vùng núi rừng Lam Sơn còn có Nguyễn Xí được Lê Lợi giao nhiệm vụ nuôi dạy 100 con chó săn để canh gác và đưa tin. Trịnh Đồ, người ở Cổ Mạc (Nông Công), đã đưa những con voi đã thuần đến đóng góp, tạo thêm sức mạnh cho nghĩa quân.


Trong giai đoạn chiến đấu bảo vệ căn cứ Lam Sơn, nghĩa quân nhiều lần bị quân Minh tiến công, truy quét. Bọn Lý Bân, Phương Chính liên tiếp chỉ huy quân lính từ Tây Đô tiến lên vây đánh Lam Sơn. Mặc dù chiến đấu hết sức dũng cảm, nhưng trong tình thế tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân phải ba lần rút lên núi Chí Linh, một ngọn núi hiểm trở ở miền thượng lưu sông Chu. Rút lên núi Chí Linh, Lê Lợi chủ trương dựa vào địa thế cực kỳ hiểm trở ở đây để tránh cuộc truy đuổi của giặc. Và núi Chí Linh đã như một biểu tượng của tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí bền bỉ, ngoan cường của nghĩa quân. Nguyễn Trãi đã ví nó với Cối Kê đã che chở cho Việt Vương Câu Tiễn đánh Ngô Vương Phù Sai. Địa hình hiểm yếu của Chí Linh đã che chở cho nghĩa quân trong những tháng ngày bị quân thù truy kích, nhưng Chí Linh lại xa dân, không phải là căn cứ tốt để nghĩa quân Lam Sơn ẩn náu lâu dài. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã nhận thấy điều đó.


Sau khi quân giặc rút về Tây Đô, nghĩa quân lại trở về căn cứ Lam Sơn. Nhân dân Lam Sơn bị giặc khủng bố tàn khốc, nhưng cũng vì thế lòng căm thù giặc càng cao và nhân dân càng gắn bó, thương yêu nghĩa quân. Nhân dân vùng căn cứ, cả người Kinh, người Mưòng, người Thái đều hết lòng giúp đỡ nghĩa quân xây dựng lại lực lượng. Và do vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân lại phục hồi và khí thế càng nâng cao.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #95 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:15:54 am »

Lợi dụng lúc quân Minh cũng gặp khó khăn, mỏi mệt, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương thương lượng đình chiến. Việc "trá hàng" của Lê Lợi là một sách lược nhằm tranh thủ thời gian để xây dựng căn cứ và củng cố lực lượng: "Bên ngoài giả thác hòa thân" để "bên trong lo rèn chiến cụ", "quyên tiền mộ lính". Nghĩa quân trở về Lam Sơn tiến hành khẩn hoang, sản xuất, tích trữ lương thực và sắm thêm khí giới. Với sự đùm bọc, che chở, ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân Lam Sơn trên thực tế đã làm chủ căn cứ Lam Sơn.


Như vậy, địa thế miền thượng du Thanh Hóa rất hiểm trở, nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ nghĩa quân. Đó là căn cứ và khu vực hoạt động rất thuận lợi cho nghĩa quân Lam Sơn trong buổi đầu của cuộc khởi nghĩa khi lực lượng còn non yếu. Dựa vào lòng dân, dựa vào địa thế của núi rừng, nghĩa quân đã chống lại được nhiều cuộc vây quét lớn của địch, đã tiêu hao một phần sinh lực địch và khi cần thiết có thể rút lui bảo toàn lực lượng. Tuy nhiên, đến năm 1423, khi cuộc khởi nghĩa đã phát triển đến mức độ nhất định thì địa bàn hoạt động ở miền thượng du Thanh Hóa trở nên chật hẹp. Lê Lợi nhận thấy rằng, nếu tiếp tục bám trụ ở miền rừng núi thì sẽ hạn chế việc phát triển lực lượng nghĩa quân, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ lớn lao của cuộc khởi nghĩa. Nếu tiến xuống miền trung du và đồng bằng đông dân, nhiều của thì có thể giải quyết được vấn đề cung cấp lương thực và việc phát triển lực lượng cũng thuận lợi hơn. Qua thực tiễn của cuộc đấu tranh, bằng kinh nghiệm của bản thân, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh Lam Sơn nhận thức được điều đó và đã hoàn toàn nhất trí với kế hoạch sáng suốt của tướng Nguyễn Chích: tiến quân vào Nghệ An để xây dựng đất đứng chân, xây dựng căn cứ địa mới, mở rộng địa bàn, đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống quân thù.


Trong buổi họp của Bộ tham mưu nghĩa quân bàn vấn đề cơ bản mà Lê Lợi đặt ra là: "Chúng ta sẽ đi về đâu để lo việc nước", tức là xác định phương hướng chiến lược cho cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn mới, Nguyễn Chích đã đề ra một kế hoạch nổi tiếng có tầm quan trọng đến toàn bộ quá trình phát triển và thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn. Nguyễn Chích nói rằng: "Nghệ An là nơi hiểm, yếu, đất rộng, người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long, chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ"1 (Văn bia Quốc triều tá mệnh công thần ghi lại lời nói của Nguyễn Chích như sau: "Tôi đã từng lặn lội ở đất Nghệ An, biết rõ nơi hiểm yếu, nơi dễ dàng. Nay cần chiếm lấy trại Cầm Bành châu Trà Lân. Nếu họ thuận theo thì vỗ về, nếu họ chống lại thì đánh thu lấy người, ngựa. Rồi sau đó dần dần tiến ra Đông Đô thì việc lớn có thể thành công được").


Câu nói ngắn gọn của Nguyễn Chích chứa đựng cả một tư tưởng lớn, một kế hoạch chiến lược quan trọng của cuộc khởi nghĩa. Nguyễn Chích muốn rời căn cứ chật hẹp của miền núi rừng Thanh Hóa để tiến vào Nghệ An, xây dựng căn cứ địa mới, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đánh giặc, cứu nước. Tư tưởng và kế hoạch của Nguyễn Chích đã được Lê Lợi và Bộ tham mưu chấp nhận như phương hướng chiến lược mới của nghĩa quân Lam Sơn.


Nguyễn Chích vốn là một nông dân nghèo đã từng khởi xướng và cầm đầu một cuộc khởi nghĩa ở vùng nam Thanh Hóa mà căn cứ của ông xây dựng là vùng núi Hoàng - Nghiêu. Phạm vi hoạt động của Nguyễn Chích lúc đó là khu vực Đông Sơn và trung tâm căn cứ địa là làng ông ở Vạn Lộc. Tại đây, ông đã cho đắp đồn lũy, lập doanh trại, luyện tập quân lính. Từ căn cứ Vạn Lộc, được nhân dân ủng hộ, nghĩa quân đã phát triển lực lượng, làm chủ cả huyện Đông Sơn. Nguyễn Chích đã chiếm vùng núi Hoàng, núi Nghiêu và xây dựng vùng này làm căn cứ lâu dài, làm trung tâm của phong trào chống giặc Minh ở vùng Nam Thanh Hóa. Khi phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi biết tiếng Nguyễn Chích và đã sai người mang thư đến liên kết với Nguyễn Chích cùng đánh giặc. Từ đó, Nguyễn Chích tôn phù Lê Lợi là Bình Định Vương như minh chủ và coi cuộc khởi nghĩa của mình là một bộ phận của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi phong Nguyễn Chích chức Vinh lộc đại phu Lân hổ Vệ tướng quân. Trong những năm chiến đấu dưới cờ nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Chích đã đóng góp nhiều ý kiến sáng suốt và luôn tỏ rõ là một vị tướng lĩnh tài giỏi, đáng tin cậy của Lê Lợi.


Đúng là núi rừng Thanh Hóa đã che chở, đùm bọc nghĩa quân trong những ngày trứng nước và những năm đầu của cuộc khởi nghĩa. Nhưng đến nay, nếu chỉ bó mình trong vùng căn cứ đó thì không còn phù hợp với sự trưởng thành và yêu cầu phát triển của nghĩa quân. Núi rừng Nghệ An cũng hiểm yếu không kém núi rừng Thanh Hóa, nhưng Nghệ An quả là "nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông", như nhận định của Nguyễn Chích. Ở Nghệ An, lực lượng địch yếu hơn ở Thanh Hóa. Thành Nghệ An là một thành kiên cố, nhưng xung quanh thành Nghệ An không có hệ thống đồn lũy vững chắc như ở Thanh Hóa. Chính quyền đô hộ ở Nghệ An mới được xây dựng từ năm 1414, sau khi đánh bại nghĩa quân Trần Quý Khoáng. Hơn nữa, Nghệ An lại ở xa các trung tâm lớn của quân Minh như Tây Đô và nhất là Đông Quan. Trong sự bố trí lực lượng của địch, Nghệ An giữ một vị trí chiến lược quan trọng. Nghĩa quân có khả năng chiếm được Nghệ An và một khi đã chiếm được vùng này thì sẽ chia cắt địch ra làm hai, khiến quân địch ở phía Nam hoàn toàn bị cô lập và sự bố trí lực lượng của địch tất sẽ bị suy yếu nhiều.


Điều quan trọng hơn nữa là, nếu chiếm được Nghệ An nghĩa quân sẽ chiếm được cả một khu vực "đất rộng, người đông", có thể cung cấp một nguồn nhân lực, vật lực rất phong phú cho cuộc chiến tranh giải phóng và tạo ra những chuyển biến căn bản trong sự phát triển lực lượng của cuộc khởi nghĩa. Nhân dân Nghệ An từ lâu vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm. Dưới sự thống trị của nhà Minh, nhân dân Nghệ An đã không ngừng nổi dậy đấu tranh và vùng này trong một thời gian dài trước đấy là căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng. Với truyền thống đó, nhân dân Nghệ An nhất định sẵn sàng hưởng ứng và nhiệt tình tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ ngày Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, có những người yêu nước ở vùng này như anh em Nguyễn Biên, Nguyễn Xí đã lặn lội tìm ra Lam Sơn tham gia khởi nghĩa.


Với vị trí và những điều kiện kinh tế và chính trị trên đây, Nghệ An có thể trở thành hậu phương, "chỗ đất đứng chân" vững chắc và là bàn đạp cho nghĩa quân đánh ra các nơi khác. Từ căn cứ đó, nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa một cách dễ dàng và cũng từ Nghệ An mà tiến ra giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa. Từ đây lực lượng nghĩa quân sẽ trưởng thành nhanh chóng để trong một thời gian ngắn có thể tiến công ra phía bắc, đánh vào trung tâm sào huyệt của quân Minh ở Đông Quan.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #96 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:17:58 am »

Việc đề ra kế hoạch chiến lược chuyển hướng vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa mới là một ý tưởng hay, một cống hiến vô cùng to lớn của Nguyễn Chích. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng và yêu cầu chiến lược của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chủ trương là đánh xuống đồng bằng.


Đánh vào giải phóng Nghệ An cũng là đánh xuống vùng đồng bằng, tạo thêm điều kiện cho phong trào phát triển lớn mạnh hơn. Đó là tư tưởng chiến lược đúng đắn nhất, thích hợp với thời cơ và hoàn cảnh chiến đấu lúc bấy giờ của nghĩa quân Lam Sơn.


Những hoạt động thực tiễn sau đó của nghĩa quân đã chứng minh tính chính xác của kê hoạch chiến lược đánh chiếm Nghệ An để xây dựng đất đứng chân, căn cứ địa mới.


Tháng 10-1424, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu tiến vào Nghệ An. Nghĩa quân liên tục giành thắng lợi lớn ở Đa Căng, Bồ Lạp, Trà Long, Khả Lưu, Bồ Ải và thanh thế nghĩa quân vang lừng khắp vùng Nghệ An. Quân địch lo sợ co về giữ thành Nghệ An. Hệ thống chính quyền đô hộ ở các châu huyện bị rung chuyển và quân địch ở đấy hết sức hoang mang. Nghĩa quân thừa thắng tỏa về các châu huyện, cùng với nhân dân nổi dậy, lật đổ ách thống trị của địch, mở rộng khu giải phóng. Do uy tín, ảnh hưởng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, do những chiến công vang dội của nghĩa quân, tất cả các cuộc khởi nghĩa và lực lượng kháng chiến chống Minh đang hoạt động ở Nghệ An đều gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Như trăm sông đổ ra biển cả, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lúc này đã trở thành nơi quy tụ của mọi lực lượng khởi nghĩa chống Minh. Chỉ mười bốn tháng sau, tháng 12-1425, nghĩa quân đã giải phóng được toàn phủ Nghệ An. Từ đó, phủ Nghệ An với hình thế "hiểm yếu" và địa bàn "đất rộng, người đông", được xây dựng thành "đất đứng chân" của cuộc khởi nghĩa, sử cũ của ta chép rằng, khi Lê Lợi đến làng Đa Lôi (Nam Đàn) thì "người già trẻ tranh nhau đem trâu, rượu đến đón, khao quân và nói: không ngờ ngày nay lại trông thấy uy nghi nước cũ"; khi nghĩa quân "chia quân đi lấy đất các châu huyện, đi đến đâu người ta nghe tiếng là quy phụ" và "nhân dân trong cõi dắt díu nhau đến như đi chợ"1 (Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.254). Nhân dân các châu, huyện nổi dậy cùng nghĩa quân giải phóng quê hương xứ sở của mình. Bộ máy chính quyền của địch sụp đổ, các châu, huyện lần lượt lọt vào tay nghĩa quân. Tình hình đó đặt thành Nghệ An vào thế cô lập và bị bao vây. Nghĩa quân với nhân dân "cùng nhau hợp sức vây đánh thành Nghệ An"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.254), "Giặc cố thủ không dám ra nữa. Thế là đất Nghệ An đều về ta cả"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.254).


Trong khu vực giải phóng rộng lớn nói trên, có một căn cứ quân sự vừa bảo đảm an toàn, vừa dễ dàng cơ động tiến thoái. Đó là nơi trung tâm của khu giải phóng, là đại bản doanh của Bộ chỉ huy. Từ khi tiến vào Nghệ An, cùng với quá trình giải phóng các châu, huyện, vây hãm thành Nghệ An, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một căn cứ quân sự như vậy: đó là căn cứ Đỗ Gia (Hương Sơn, Hà Tĩnh).


Căn cứ Đỗ Gia vừa có địa thế lợi hại để bảo đảm an toàn, vừa nằm trên các trục đường giao thông thủy, bộ thuận tiện có thể dễ dàng cơ động. Ba mặt tây, bắc và nam đều có núi bao bọc. Mặt đông nhìn xuống đồng bằng, lại có núi Thiên Nhẫn án ngữ. Sông Ngàn Phố ở Đỗ Gia nối liền với sông La, sông Lam. Con đường "thượng đạo" qua Truông Mèn tới Đỗ Gia, rồi theo lưu vực sông Ngàn Sâu vào Tân Bình, Thuận Hóa. Tại cửa ngõ, có các hệ thống đồn lũy phòng vệ chặt chẽ, đó là đồn trại trên núi Tùng Lĩnh khống chế ngã ba đường thủy Ngàn Phố, Ngàn Sâu và sông La. Một số đồn lũy ngày nay vẫn còn di tích, án ngữ con đường bộ đi qua Truông Mèn.


Sở chỉ huy của nghĩa quân lúc đầu đặt ở động Tiên Hoa hay Đảng Phú (xã Phúc Sơn) nằm sâu trong căn cứ Đỗ Gia và là quê hương của tướng Nguyễn Tuấn Thiện, người đã tập hợp nhân dân nổi dậy theo Lê Lợi. Hành dinh của Bình Định Vương còn để lại dấu ấn trong các tên đất như: Bãi Nhà Dinh, xóm Cấm, xóm Hào, xóm Kho, bãi Triều, Lam Sơn triều lĩnh... Động Tiên Hoa có địa thế kín đáo, có sông núi che chở bảo đảm an toàn cho Bộ chỉ huy, lại nằm trên trục đường giao thông thủy, bộ dễ cơ động. Cách động không xa về phía bắc, Lê Lợi cho xây dựng một hệ thống đồn lũy bảo vệ.


Sau trận đánh ở sông Thuất, đập tan cuộc tiến công của Trần Trí lên căn cứ Đỗ Gia (trận Đỗ Gia), Lê Lợi cho dời Sở chỉ huy về thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn. Thành Lục Niên được xây dựng theo lối ghép đá, không lớn lắm nhưng kiên cố, nằm trên một cao điểm lợi hại. Phía sau, mặt tây, thành dựa vào căn cứ Đỗ Gia. Phía trước, mặt đông, có vách núi Thiên Nhẫn dựng đứng có giá trị như bức thành thiên nhiên. Từ thành có thể nhìn bao quát cả vùng đồng bằng rộng lớn của sông Lam và xa xa là thành Nghệ An trên núi Lam Thành. Chính tại sở chỉ huy ở thành Lục Niên, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chỉ đạo việc vây hãm thành Nghệ An và xây dựng căn cứ địa về mọi mặt.


Về mặt quân sự, một yêu cầu quan trọng của cuộc khởi nghĩa là phát triển lực lượng nghĩa quân, nhanh chóng tăng cường về số lượng và nhất là nâng cao chất lượng. Mỗi lần một châu, huyện được giải phóng, lại có thêm hàng ngàn trai tráng xin gia nhập nghĩa quân.


Nghĩa quân Lam Sơn vốn là lực lượng vũ trang yêu nước của quần chủng nhân dân. Nghĩa quân ra đời, phát triển và trưởng thành trong cuộc đấu tranh anh hùng giành độc lập dân tộc. Nghĩa quân vốn đã mang trong mình tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu ngoan cường. Đến nay, do yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nghĩa quân được biên chế thành đội ngũ, được trang bị thêm nhiều vũ khí và chiến cụ, nhất là được rèn luyện, nâng cao về trình độ và kỹ thuật chiêri đấu. Sử cũ còn ghi: "Vua huấn luyện tướng sĩ, sửa chữa vũ khí, chưa đầy mười ngày, chiến cụ đã đầy đủ cả. Bèn duyệt võ nghệ, dạy cho binh sĩ phép ngồi, đứng, đánh, đâm, chỉ bảo các thế kỳ, chính, phân, hợp; cho họ biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đội đã nghiêm chỉnh, tinh thần binh sĩ càng tăng lên"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.254). Từ đội du kích nhỏ bé của buổi đầu khởi nghĩa, nay đội ngũ nghĩa quân Lam Sơn đã có hàng vạn người, gồm đủ quân bộ, quân thủy, voi chiến và thuyền chiến. Có thể nói, nghĩa quân Lam Sơn đã phát triển thành quân đội dân tộc lớn mạnh làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước giải phóng dân tộc.


Về phương diện kinh tế, tại căn cứ này, dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, nghĩa quân ra sức xây dựng các cơ sở hậu cần, bảo đảm cung cấp ngày càng đầy đủ mọi yêu cầu của quân đội và cuộc chiến đấu. Một mặt, nghĩa quân dựa vào sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân; mặt khác, tước đoạt các kho tàng lương thực, vũ khí của địch để trang bị cho mình. Khi tiến xuống vùng đồng bằng, nhân dân đã giúp nghĩa quân tịch thu được nhiều thóc gạo, trâu bò của địch làm quân lương. Ngọn núi mang tên Phù Lê ở xã Phúc Lợi (Hương Khê, Hà Tĩnh) do Lê Lợi đặt cho, còn ghi lại một sự tích có ý nghĩa. Nhân dân đã quyên góp lương thực, tích trữ trong hang núi đá vôi đó để "giúp vua Lê" tức giúp đỡ nghĩa quân.


Vùng hạ lưu sông Ngàn Sâu lúc bấy giờ có một trang khẩn hoang khá lớn của Hoàng hậu Bạch Ngọc (vợ thứ ba của Vua Trần Duệ Tông), rộng trên 3.000 mẫu. Khi nghĩa quân tiến vào vùng này, Hoàng hậu và dân trại đều hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Con gái Hoàng hậu là Công chúa Huy Chân trở thành cung phi của Lê Lợi. Nhiều thanh niên trong trang trại tham gia nghĩa quân và trang trại cũng trở thành một cơ sở hậu cần của cuộc khởi nghĩa.


Ngoài cơ sở hậu cần nhân dân, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương "vừa cày ruộng vừa đánh giặc". Xung quanh các doanh trại và đồn lũy, nghĩa quân Lam Sơn đều tổ chức khẩn hoang, kết hợp chiến đấu với sản xuất quân lương.


Tướng Đinh Lễ trong thời gian đóng quân ở Tùng Lĩnh (Đức Thọ, Hà Tĩnh), đã được lệnh cho quân sĩ khai phá ruộng đất hai ven bờ sông La. Những thửa ruộng đó sau này nhân dân ta vẫn gọi là "ruộng binh".


Tướng Nguyễn Biên cũng khai hoang một vùng rộng lớn gọi là "vũng voi đạp lúa". Nhiều dòng họ dưới chân núi Thiên Nhẫn còn ghi nhớ tổ tiên họ xưa là nghĩa quân Lam Sơn từ nhiều nơi đến rồi khẩn hoang, lập ấp và có người sinh cơ lập nghiệp luôn ở đây.


Trên cơ sở sự tham gia ủng hộ của nhân dân, những biện pháp tổ chức của Bộ chỉ huy nghĩa quân đã biến đất Nghệ An thành một căn cứ địa, một vùng đất đứng chân vững chắc. Đó là nguồn cung cấp sức người, sức của rất lớn, là bàn đạp chiến lược lợi hại, tạo điều kiện cho bước phát triển nhảy vọt của cuộc khởi nghĩa. Tháng 6-1425, Lê Lợi cho quân tiến ra giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa. Tháng 8-1425, nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình và Thuận Hóa. Quân Minh chỉ còn đóng giữ trong các thành trơ trọi.


Trong 8 năm chuẩn bị khởi nghĩa và chiến đấu (1416 - 1424), khoảng thời gian một năm từ tháng 10-1424 đến tháng 10-1425 đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của nghĩa quân Lam Sơn. Từ căn cứ chật hẹp ở miền rừng núi Thanh Hóa, tháng 10-1425 cuộc khởi nghĩa đã có một căn cứ địa vững chắc, một hậu phương rộng lớn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Với một khu vực giải phóng rộng lớn như vậy, cuộc chiến tranh giải phóng từ nay có một chỗ đứng chân vững chắc, một nguồn bổ sung vô tận về nhân lực, vật lực và tài lực. Từ đây cuộc khởi nghĩa đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô cả nước với những chiến công hiển hách như Tốt Động - Chúc Động và Chi Lăng - Xương Giang, tiến tới kết thúc thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Tóm lại, để tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng thắng lợi, vấn đề xây dựng căn cứ địa là một trong những vấn đề mấu chốt. Tư tưởng xây dựng căn cứ địa đã hình thành từ sớm, khi Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Tư tưởng đó phát triển và đạt được những thành quả lớn lao khi nghĩa quân Lam Sơn chuyển hướng tiến công vào Nghệ An. Xây dựng Nghệ An thành đất đứng chân là một thành quả vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #97 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:36:35 am »

e) Tư tưởng chiến lược "công tâm" (đánh vào lòng người), kết hợp đánh địch bằng quân sự, ngoại giao và địch vận, kết thúc chiến tranh với tinh thần đại nghĩa

Trong Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu, Nguyễn Trãi là "mưu sĩ" (lời Lê Lợi), là người "giúp việc trù hoạch mưu lược nơi màn trướng" (lời Lê Thánh Tông). Là một nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp tạo nên trí tuệ chung của Bộ chỉ huy nhằm vạch ra một đường lối chiến tranh đúng đắn nhất.


Nguyễn Trãi tìm đến Lam Sơn với tất cả tấm lòng yêu nước, thương dân thiết tha, với chí căm thù mãnh liệt và với cả tập Bình Ngô sách là một kế sách diệt giặc, cứu nước mà ông đã nghiền ngẫm từ bấy lâu nay. Sử sách cũ ghi chép rằng, khi tới Lỗi Giang, Nguyễn Trãi làm lễ ra mắt lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn bằng bản Bình Ngô sách. Rất tiếc là Bình Ngô sách đã thất truyền, nhưng "ba kế sách dẹp giặc" mà trong đó có chủ trương "công tâm" (đánh vào lòng người) của Nguyễn Trãi đã làm cho Lê Lợi tin tưởng rằng, Nguyễn Trãi là người tài đức hơn người, có đầy đủ khả năng cùng nghĩa quân đưa cuộc chiến tranh cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Sự tri ngộ giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi thật là đẹp đẽ, hiếm có trong lịch sử. Đó là sự tri ngộ của những bậc hiền tài, sự tương ngộ của những anh hùng, sự gặp gỡ của những người có chí lớn, hiểu biết, tin cậy và gắn bó sống chết cùng nhau. Từ sau cuộc gặp gỡ ở Lỗi Giang, phàm những việc quân, việc nước quan trọng Lê Lợi đều giao cho Nguyễn Trãi “trù hoạch". Chắc chắn Nguyễn Trãi đã vận dụng Bình Ngô sách của ông để trù tính, giải quyết những việc quân, việc nước quan trọng đó.


Theo bài tựa của Ngô Thế Vinh trong Ức Trai thi tập thì Bình Ngô sách hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người. Lê Lợi xem Bình Ngô sách, khen là phải và dựa vào đấy để cùng Nguyễn Trãi vạch ra chiến lược, chiến thuật đánh quân Minh. Kế sách "đánh vào lòng người" của Nguyễn Trãi đã được chấp nhận như là đường lối chính trị cơ bản, tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình tổ chức và tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.


Nội dung lớn trong tư tưởng "công tâm" của Nguyễn Trãi là dựa vào dân để đánh giặc, vận động nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ dân chúng, lấy đó làm sức mạnh quật khởi của cả dân tộc. Nguồn gốc sức mạnh và nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, theo Nguyễn Trãi là ở tư tưởng nhân nghĩa, không ngoài "đại nghĩa" và "chí nhân". Nguyễn Trãi nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu: duy nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới thành được.


Là một sĩ phu phong kiến, một người được đào luyện trong trường học của Nho giáo, tư tưởng của Nguyễn Trãi lẽ dĩ nhiên có chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nguyễn Trãi có tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo, chủ yếu là tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Mạnh. Nhưng Nguyễn Trãi không dừng lại và giới hạn mình trong khuôn khổ sẵn có của Khổng Mạnh. Tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo được Nguyễn Trãi cải biến, phát triển và sáng tạo trên cơ sở thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc mà Nguyễn Trãi là một người lãnh đạo. Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cơ bản là tinh thần yêu nước, thương dân thiết tha kết hợp với ý chí hòa bình và lòng nhân đạo cao cả.


Theo Nguyễn Trãi, lòng yêu nước phải gắn liền với lòng thương dân, vì nước với dân là một và "dân mới là quý nhất". Tấm lòng của Nguyễn Trãi luôn hướng về dân, thông cảm với khổ đau của dân và nghĩ tới trách nhiệm đối với dân. Chính lòng yêu nước, thương dân đó đã thôi thúc đưa Nguyễn Trãi vào con đường cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi thấy được sức mạnh vĩ đại của nhân dân, đó là sức mạnh "như nước" có thể "chở thuyền" và cũng có thể "lật thuyền" (Phúc chu thủy tín dân do thủy).


Nguyễn Trãi tin ở "mệnh trời", nhưng theo ông mệnh trời và lòng dân cũng chỉ là một mà thôi. Do đó, việc làm gì mà hợp trời, thuận người, thì nhất định thành công. Theo Nguyễn Trãi, nhà Hồ thất bại căn bản là vì chính sách phiền hà, khiến trong nước lòng dân oán giận1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.77).


Chính vì thế, ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn với mục đích cứu nước, cứu dân đã phù hợp với lòng dân, đáp ứng khát vọng cháy bỏng của nhân dân là đánh đuổi giặc Minh tàn bạo, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho mọi người. Chủ trương của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đánh thức tinh thần yêu nước, khơi dậy niềm khát khao độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Chủ trương: "Dựng gậy làm cờ tập hợp bốn phương manh lệ", là hoàn toàn đúng đắn. Cho nên "một khi cờ nghĩa mới phất, bốn phương nổi dậy như ong". Đó là thành công lớn nhất của chủ trương chiến lược "công tâm" của Nguyễn Trãi.


Nói đến tư tưởng chiến lược "công tâm", ngoài việc vận động nhân dân cả nước đứng lên đánh giặc, ngoài việc giáo dục, động viên tinh thần chiến đấu của nghĩa quân, còn một nội dung hết sức quan trọng mà Nguyễn Trãi nêu ra trong Bình Ngô sách, được Lê Lợi và các tướng lĩnh nghĩa quân đồng lòng, thực hiện thành công trong quá trình chỉ đạo chiến tranh là đánh vào tinh thần quân địch, tiến công trên mặt trận chính trị, ngoại giao; kết hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự, từng bước làm suy yếu, tan rã tinh thần quân Minh, tiến tới đánh sập hoàn toàn ý chí xâm lược của kẻ thù.


Trên thực tế, giặc Minh rất mực kiêu căng, xảo quyệt, mưu mô dụng binh gian trá, có khi ngoài miệng thì nói giảng hòa, trong lòng lại tính kế khác...; cho nên, trong lĩnh vực quân sự cũng như khi đấu tranh chính trị và ngoại giao, cuộc đấu trí, đấu lực giữa hai bên diễn ra hết sức gạy go, phức tạp. Thay mặt Lê Lợi, Nguyễn Trãi đảm nhiệm chỉ đạo và thực hiện cuộc đấu tranh chính trị với giặc. Nguyễn Trãi đã vận dụng tư tưởng nhân nghĩa như là một vũ khí sắc bén để tiến hành đấu tranh chính trị với quân thù. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, bản chất phi nghĩa và tàn bạo của quân Minh bị lộ nguyên hình. Với phương châm lấy quân sự làm cơ sở, Nguyễn Trãi từng bước đẩy mạnh cuộc tiến công nhằm vào tinh thần và ý chí quân xâm lược. Đòn "công tâm" mang ý nghĩa chiến lược này được tiến hành chủ yếu qua mấy chục bức thư dụ hàng và các văn bản qua lại với giặc Minh do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết và gửi cho tướng giặc. Lê Lợi còn cử sứ giả hoặc đích thân Nguyễn Trãi thay mặt Bộ tham mưu đến tận sào huyệt quân Minh, trực diện đấu tranh với những tên tướng giặc ngoan cố nhất.


Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương căn cứ vào tương quan thế và lực, vào diễn biến của chiến tranh để điều hành cuộc đấu tranh ngoại giao, chính trị. Ở giai đoạn đầu, những bức thư dụ hàng gửi cho các tướng Minh như Tổng binh Trần Trí, Thái giám Sơn Thọ, Đô đốc Thái Phúc và bọn Phương Chính đã góp phần cùng với mũi tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng, tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển mạnh mẽ từ rừng núi Thanh Hóa vào Nghệ An và giải phóng được cả một vùng hậu phương rộng lớn, một địa bàn chiến lược quan trọng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa, mở ra một cục diện mới của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Sang giai đoạn sau, với chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, quân ta đã dồn quân địch vào tình thế cực kỳ nguy khốn, "bọn Vương Thông, Sơn Thọ nhà Minh kể đánh là thua, chán nản, lo sợ, mưu kế đã cùng, viện binh không có"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.261). Vương Thông buộc phải sai người đưa thư xin hàng, mong muốn được bảo toàn về nước, cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao bước vào giai đoạn quyết định. Sau chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao bước vào giai đoạn mới, nhằm đi đến kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #98 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:37:33 am »

Tại chiến trường Đông Quan, khi nhận được thư xin giảng hòa của Vương Thông, Lê Lợi nói với các tướng: "Lời ấy thật hợp với ý ta. Vả lại binh pháp nói rằng: không đánh mà khuất phục được người, ấy là kế hay nhất". Và việc giảng hòa lúc đó, theo chủ trương của Lê Lợi, phải được thực hiện với điều kiện là quân Minh nhất thiết phải rút quân về nước, nhà Minh phải thừa nhận chủ quyền lãnh thổ Đại Việt. Do vậy, đồng thời với việc tiến công bằng quân sự để vây hãm Đông Quan và các thành khác, Lê Lợi cho "viết thư dụ hàng" để người Minh tự mở cửa thành ra hàng và xin giảng hòa rút quân về nước.


Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã cử sứ giả của mình cùng với đại diện của Vương Thông sang Trung Quốc dâng biểu cầu phong xin lập Trần Cảo làm vua; đồng thời ra lệnh nới rộng vòng vây, cho phép quân Minh trong thành ra mua bán, để tỏ rõ thiện chí giảng hòa của nghĩa quân. Trong những bức thư gửi tướng Minh, Nguyễn Trãi vạch rõ, nếu việc thương lượng thành công thì mau chóng kết thúc chiến tranh, điều đó không những có lợi cho nhân dân Đại Việt, mà còn có lợi cho nhân dân và quân lính nhà Minh, rằng không những sinh linh của nước ta được khỏi lầm than mà quân sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm giáo. Tuy vậy, bọn Vương Thông vẫn bộc lộ bản chất lật lọng, ngoan cố; bề ngoài thì nói hòa nghị nhưng bên trong thì cố thủ, chờ viện binh. Hắn cử hai tướng Hà Trung và Quốc Thắng đóng vai đại diện theo sứ giả Đại Việt đi cầu phong và xin trả đất cho An Nam, nhưng thực ra là bí mật về để xin cầu viện. Thái độ đó của Vương Thông đã khiến cho việc thương lượng không thành.


Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương vẫn duy trì giao thiệp với địch, nhằm từng bước thuyết phục, làm tan rã tinh thần chúng; đồng thời tranh thủ khi viện binh địch chưa sang, một mặt ra sức củng cố hậu phương, tăng cường lực lượng, mặt khác vây hãm các thành lớn và hạ một số thành cần thiết để chuẩn bị điều kiện cho thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược, giáng đòn quyết định, buộc quân thù phải rút quân về nước.


Tháng 2-1427, đại bản doanh khởi nghĩa Lam Sơn chuyển đến bến Bồ Đề (Long Biên, Hà Nội). Tại đây, Lê Lợi cho dựng một lầu cao ngang với tháp Báo Thiên bên thành Đông Quan để làm chòi quan sát và chỉ huy. Hằng ngày, Lê Lợi đứng trên tầng cao nhất để theo dõi địch trong thành Đông Quan. Nguyễn Trãi giữ chức Nhập nội hành khiển Lại bộ thượng thư, ngồi ở tầng kế để cùng bàn bạc với Lê Lợi và thảo các văn thư giao dịch với quân Minh. Tại đây, Lê Lợi và Nguyễn Trãi trực tiếp chỉ huy vây hãm Đông Quan và tiếp tục đấu tranh ngoại giao với địch.


Để tăng cường uy hiếp về quân sự, các tướng giỏi của nghĩa quân được giao trọng trách chỉ huy các đạo quân tinh nhuệ bao vây Đông Quan. Tướng Trịnh Khả đóng ở cửa Đông, Đinh Liệt đóng ở cửa Nam, Lê Cực đóng ở cửa Bắc. Sau đó Lê Vấn thay Trịnh Khả chỉ huy quân đóng ở ngoài cửa Đông. Bổ sung tướng Lê Sát, Nguyễn Lý, Lê Lỗi và Nguyễn Chích đến đóng ở cửa Nam. Phía cửa Tây có hai vệ quân do Bùi Bị, Lê Nguyễn, Lê Chưởng chỉ huy. Phía cửa Bắc có tổng số 14 vệ quân do các tướng Lê Triện và Lê Văn An chỉ huy. Đồng thời Lê Lợi lệnh cho các xứ Tam Giang, Tam Đái, Tuyên Quang và Quy Hóa nộp tre để đắp thành ở bờ sông cao như thành Đông Quan. Với một lực lượng quân sự mạnh mẽ như vậy, Lê Lợi và Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục bao vây, kết hợp cả ưu thế về quân sự và tiến công về chính trị, ngoại giao, địch vận với quân thù.


Trong nhiều bức thư gửi cho Vương Thông và Sơn Thọ, Nguyễn Trãi nêu chủ trương của nghĩa quân là sẵn sàng giảng hòa, mở cho quân giặc con đường thoát danh dự, giữ thể diện cho nhà Minh; đồng thời cũng kịch liệt lên án thái độ hai mặt của tướng giặc. Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý phân tích để Vương Thông rõ nguy cơ bị tiêu diệt không thể tránh khỏi của quân Minh và sự tất thắng của nghĩa quân. Bằng các chứng cứ hùng hồn và lời lẽ sắc bén, Nguyễn Trãi vạch cho địch thấy rõ "thời thế" đã hoàn toàn thay đổi. Với thành Đông Quan, Nguyễn Trãi viết: "Đông Quan thì sức hết kế cùng, quân nhọc lính mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh, chỉ bám hờ một khu nhỏ mọn, nghỉ tạm trong thành chơ vơ. Đó há chẳng phải là thịt trên thớt, cá trong nồi chăng?". Trên tư thế của kẻ chiến thắng, Nguyễn Trãi kiên trì thuyết phục, nhằm đánh vào tinh thần, ý chí quân thù.


Niềm hy vọng duy nhất của quân địch là viện binh. Trong thư, Nguyễn Trãi nói cho Vương Thông biết rằng, triều đình nhà Minh đang gặp muôn vàn khó khăn nên khó có thể điều động viện binh và dù có viện binh với binh hùng và tướng giỏi như Trương Phụ thì cũng sẽ bị tiêu diệt. "Sáu điều phải thua" mà Nguyễn Trãi nêu với chúng là một thực tế không thể cứu vãn được.


Vòng vây càng xiết chặt, quân Minh càng hoang mang. Một số tướng giặc đã trốn ra hàng. Một số thành bị hạ, trong đó có cả thành Xương Giang là một cứ điểm quan trọng nằm trên trục đường từ Quảng Tây đến Đông Quan. Những điều đó càng làm cho Vương Thông lo lắng, nhất là sau một vài trận tập kích ra ngoài thành để cướp lương thực không thành công.


Tháng 10-1427, nhà Minh điều 15 vạn viện binh do hai tướng Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy theo hai hướng tiến vào Đại Việt với hy vọng cứu nguy cho bọn Vương Thông. Khi nghe tin quân Minh sắp sang, nhiều tướng lĩnh của nghĩa quân yêu cầu Lê Lợi cho hạ gấp thành Đông Quan rồi sau đó dốc toàn lực đánh viện binh. Lê Lợi họp Bộ tham mưu đánh giá tình hình và nêu lên chủ trương: Đánh thành là hạ sách và khẩn trương chuẩn bị lực lượng đợi đánh viện binh. Khi viện binh giặc bị phá thì thành nhất định phải hàng, cả Lê Lợi và Nguyễn Trãi kiên trì tư tưởng vây thành diệt viện. Tiếp tục vây hãm các thành, đồng thời tập trung lực lượng tiêu diệt viện binh để đè bẹp ý chí xâm lược của nhà Minh là mục tiêu và quyết tâm lớn nhất của nghĩa quân lúc đó.


Hoạt động ngoại giao, địch vận cũng tham gia góp sức để đánh viện binh. Ngay khi Tổng binh Liễu Thăng vừa tiến tới biên giới thì đã nhận được thư của Lê Lợi đề nghị giảng hòa, khuyên Liễu Thăng nên lui binh, không nên đi sâu vào đất người mà hối không kịp. Liễu Thăng hiếu thắng càng hung hăng, khinh địch; một mực thúc quân mau tiến lên nên đã bị sa vào bẫy mai phục của quân ta và bị tiêu diệt ở Chi Lăng. Quân Minh tiến đến Cần Trạm thì Phó tổng binh Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng cũng trúng lao chết. Tiếp sau đó, khi quân Minh tiến đến Xương Giang, Nguyễn Trãi lại gửi thư cho các tướng Thôi Tụ và Hoàng Phúc đề nghị lui binh. Bức thư này có ý nghĩa như một "tối hậu thư" đối với quân giặc; và do không rút quân và cũng không đầu hàng nên toàn bộ đạo quân này đã bị tiêu diệt và bắt làm tù binh. Trận Chi Lăng - Xương Giang là đòn quân sự mạnh mẽ nhất giáng vào ý chí xâm lược của kẻ thù. Nghe tin đó, đạo quân của Mộc Thạnh không bị đánh mà tự tan vỡ và đặc biệt quân Minh ở Đông Quan thì vô cùng khiếp sợ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #99 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2021, 09:38:39 am »

Khi viện binh bị tiêu diệt thì việc hạ thành Đông Quan là tất yếu, chỉ trong ngày một ngày hai. Các tướng sĩ của nghĩa quân nóng lòng lập công và mong được một phen tiêu diệt giặc cho hả giận. Tuy nhiên, Lê Lợi và Nguyễn Trãi vẫn kiên trì với đường lối ngoại giao, địch vận, muốn mở ra con đường sống cho người Minh. Một mặt, Lê Lợi ra lệnh khép chặt vòng vây ở Đông Quan, gấp rút chuẩn bị mọi vũ khí và phương tiện sẵn sàng tiến công hạ thành nếu quân địch vẫn ngoan cố; mặt khác, Nguyễn Trãi vẫn viết thư cho Vương Thông nói rõ tình thế tuyệt vọng của chúng và một lần nữa chỉ cho Vương Thông con đường duy nhất là đầu hàng, rút quân về nước.


Như một con thú cùng đường, Vương Thông đã hành động liều lĩnh điên cuồng, bằng cách tự mình dẫn một đạo quân ra phản kích, hòng tìm đường thoát vây; nhưng đã bị nghĩa quân mai phục đánh tan, Vương Thông bị ngã ngựa suýt bị bắt. Tuy đã tuyệt vọng, nhưng lấy cớ là chưa có lệnh của triều đình, Vương Thông vẫn không chịu mở cửa thành đầu hàng nghĩa quân.


Trong các bức thư cuối cùng gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi đã phân tích một cách có lý, có tình để xóa những ngờ vực, lo lắng của Vương Thông. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đề xuất việc trao đổi "con tin", thậm chí Lê Lợi đã cho con trai mình là Tư Tề cùng tướng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin, với mục đích làm cho Vương Thông tin và thực sự đầu hàng. Và cuối cùng, cuộc đàm phán về việc rút toàn bộ quân Minh về nước đã thành công và kết thúc bằng một cuộc "Hội thề" được tổ chức vào ngày 10-12-1427 tại một địa điểm ở phía nam thành Đông Quan. Vương Thông đại diện cho quân Minh cam kết, xin thề rút hết quân về nước, bắt đầu từ ngày 29-12-1427.


Văn bản Hội thề Đông Quan đã đi vào lịch sử như một bản hiệp định rút quân. Lần đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, bằng những thắng lợi về quân sự đập tan ý chí xâm lược của quân thù, và với một bản "hiệp định" đã buộc quân xâm lược phải trịnh trọng dưới hình thức thề thốt, tuyên bố rút quân về nước, từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.


Sau Hội thề Đông Quan, Lê Lợi dâng biểu cầu phong, cho người đưa cống phẩm và danh sách toàn bộ tù binh trao cho vua Minh. Ngoài biểu cầu phong và phẩm vật, phái đoàn ta còn mang theo chiếc song hổ phù của Chinh lỗ tướng quân Liễu Thăng, hai quả ấn bạc của hai viên tướng Lý Khánh và Lương Minh, cùng một bản danh sách tù binh gồm 13.578 quân lính, 280 viên tướng, 2.137 viên quan, 13.180 kỳ quân và 1.200 con ngựa mà nghĩa quân sẽ trao trả cho nhà Minh. Đó là bước đi cuối cùng trong cuộc đấu tranh ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn với nhà Minh để triều đình nhà Minh công nhận chủ quyền của Đại Việt. Biểu cầu phong là một sách lược mềm dẻo nhưng kiên quyết của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, nhằm mở ra lối thoát cho nhà Minh thực hiện rút quân về nước.


Lê Lợi ra lệnh nới lỏng vòng vây cho quân địch và lệnh cho các xứ Bắc Giang, Lạng Giang sửa chữa đường sá, cầu cống; sai quân đội chuẩn bị lương thực, thuyền bè để cung cấp cho bại binh Vương Thông về nước.


Sau hơn 20 năm xâm lược và thống trị Đại Việt, quân Minh tàn phá biết bao làng xóm, cướp của, giết người, gây bao tội ác với nhân dân ta. Trong việc thương lượng giảng hòa, Vương Thông lại tỏ ra rất ngoan cố, dối trá. Quân dân ta vì thế rất căm giận quân giặc đến xương tủy, ai cũng muốn tiêu diệt hết chúng. Vì vậy, khi nghe tin Lê Lợi cho quân địch được an toàn về nước, một số tướng lĩnh nghĩa quân và nhân dân kéo đến đại bản doanh yêu cầu Lê Lợi không giảng hòa với quân thù và cho được thừa thắng tiêu diệt hết bọn cướp nước.


Trong những giờ phút giằng co giữa tình cảm và lý trí, giữa "sự phục thù báo oán là thường tình của con người" với đường lối, sách lược của nghĩa quân, Nguyễn Trãi luôn tỏ rõ tỉnh táo và sáng suốt, sử chép rằng: "Lúc ấy duy chỉ có Hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi màn trướng... biết rõ chỗ mạnh yếu của giặc nên mới chuyên chủ hòa nghị". Nguyễn Trãi bàn với Lê Lợi: "Tình hình quân giặc trong lúc này, muốn phá vào sào huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm thù không phải là việc khó khăn. Nhưng thần trộm e như vậy sẽ kết mối thù với triều đình nhà Minh quá sâu. Vì sự trả thù, vì sự cứu vớt lấy thể diện của một nước lớn, vua nhà Minh tất phái binh sang, như thế cái họa binh đao biết bao giờ cho dứt được. Chi bằng ta nên thừa lúc này kẻ kia lâm vào thế cùng mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, q.10, tr.44. Dẫn theo Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn: Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), Sđd, tr.465).


Lê Lợi hoàn toàn tán thành tư tưởng, chủ trương đúng đắn đó của Nguyễn Trãi. Cho Vương Thông đầu hàng dưới danh nghĩa giảng hòa, điều đó không những có ý nghĩa là tha chết cho số bại binh của nhà Minh mà còn có tác dụng mở đường rút lui ổn thỏa nhất cho nhà Minh để chấm dứt nạn can qua giữa hai nước. Vì vậy, khi nghe tin được bảo toàn tính mệnh về nước, nhiều viên tướng và quân lính Minh vô cùng vui mừng, kéo nhau đến Dinh Bồ Đề lạy tạ Lê Lợi - Vị lãnh tụ tối cao của nghĩa quân Lam Sơn. Ngày 3-1-1428, toàn bộ quân Minh đã rút về nước.


Những quyết định nói trên của Lê Lợi và Nguyễn Trãi chứng tỏ các ông đã rất hiểu rõ thời thế thế hiện một lối ứng xử hết sức văn hóa trước kẻ bại trận. Đó là tư tưởng kết thúc chiến tranh đúng đắn, có lợi nhất vì mục đích duy trì hòa bình lâu dài xây dựng đất nước. Kết thúc chiến tranh đồng thời với việc mở ra mối quan hệ mới - hòa hiếu với nước vừa thất bại trong chiến tranh. Tư tưởng kết thúc chiến tranh với tinh thần đại nghĩa và nhân văn đó được Nguyễn Trãi đúc kết và lý giải sâu sắc trong bài Phú núi Chí Linh:

   "Nghĩ về kế lâu dài của nhà nước,
   Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
   Sửa hòa hiếu cho hai nước,
   Tắt muôn đời chiến tranh"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.87).


Chủ trương của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và Bộ chỉ huy Lam Sơn thật đúng đắn và sáng suốt, vừa biểu thị lòng nhân đạo cao cả, nguyện vọng hòa bình thiết tha của nhân dân ta, vừa là một sách lược chính trị, ngoại giao khôn khéo đối với triều đình nhà Minh, với một quốc gia phong kiến to lớn ở cạnh kề nước ta.


Như vậy, kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị, ngoại giao và binh vận là một đặc điểm nổi bật trong tư tưởng quân sự của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh Lam Sơn trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.


Tư tưởng quân sự Việt Nam có một bước phát triển mạnh mẽ trong khởi nghĩa và chiến tranh chống quân Minh xâm lược đầu thế kỷ XV. Tư tưởng quân sự giai đoạn này thể hiện chủ yếu trong cuộc kháng chiến của triều đình Hồ, trong phong trào khởi nghĩa chống Minh đầu thế kỷ XV và nhất là trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo. Lịch sử tư tưởng quân sự giai đoạn này có những bước phát triển thăng trầm, nhưng đều toát lên mạnh mẽ tinh thần yêu nước thiết tha, ý thức độc lập, tự chủ cao độ của nhân dân ta, một tinh thần quyết đánh, biết đánh và biết thắng giặc thù. Trước kẻ thù xâm lược, tất cả mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội, các dân tộc trong nước đều đoàn kết đứng lên, quyết tâm cầm vũ khí, quyết chiến đấu bảo vệ và giành lại độc lập dân tộc. Đặc điểm lớn và nổi bật nhất của tư tưởng quân sự trong kháng chiến chống Minh là tư tưởng biết dựa vào dân, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn chống xâm lược. Trước kẻ thù lớn mạnh phải hết sức quyền biến, hiểu thời biết thế, biết địch biết ta, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh; phải có tư tưởng chỉ đạo chiến lược, chiến thuật đúng đắn, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, chuyển hóa thế địch thế ta, giành thắng lợi từng bước đi đến kết thúc chiến tranh toàn thắng. Tư tưởng quân sự trong giai đoạn chiến tranh chống xâm lược Minh (đầu thế kỷ XV) để lại những bài học có giá trị trong chỉ đạo chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như trong chiến tranh giải phóng dân tộc ở nước ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM