Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:02:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 6819 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #80 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:42:12 am »

Trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến, Hồ Quý Ly và các tướng chủ trương tập trung quân đội, dàn trận thế đối địch với giặc. Như vậy, quân Minh có điều kiện tập trung quân, phát huy sở trường của chúng. Nhà Hồ đã tập trung quá nhiều quân giữ thành Đa Bang mà không chuẩn bị những lực lượng cơ động để sẵn sàng chi viện khi thành lâm nguy. Bởi thế, khi Đa Bang bị vây hãm, quân trong thành dù có cố sức chống đỡ hoặc dù có tổ chức phản kích nhưng cũng không đủ sức chống chọi trước cuộc tiến công như vũ bão của kẻ thù. Trong khi đó, Hồ Nguyên Trừng lại bị động trong kế hoạch giữ "tuyến trung tâm", đã mắc kế nghi binh của giặc, phải điều bớt quân từ Đa Bang về tăng cường cho Đông Đô. Do đó, Trương Phụ có điều kiện tập trung đại quân, tạo được ưu thế tuyệt đối để đánh thành Đa Bang.


Sau khi Đa Bang và Đông Đô thất thủ, khi phòng tuyến chủ yếu đã bị vỡ thì hình thái chiến tranh và thế trận chiến lược trở nên rất bất lợi cho quân đội nhà Hồ. Quân Minh có điều kiện phát huy thắng lợi, thừa thắng tiếp tục tiến công ta trên quy mô lớn. Tình thế đã như vậy, nhưng nhà Hồ vẫn "kiên trì" tư tưởng phòng ngự trận địa, đã tập trung toàn lực còn lại để cố thủ ở chiến tuyến Hoàng Giang, rồi đến chiến tuyến Muộn Hải và cuối cùng rút về định "tử thủ" ở Kinh thành Tây Đô. Kết quả là các phòng tuyến của ta đều bị địch tập trung lực lượng lần lượt đánh chiếm, khiến quân nhà Hồ không còn lực lượng, không đủ thời gian để tổ chức phòng giữ Tây Đô, buộc phải rút chạy hỗn loạn và bị tan rã hoàn toàn.


Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, trước nhà Hồ trên ba thế kỷ, Lý Thường Kiệt đã từng chủ trương tác chiến phòng ngự bằng cách lập phòng tuyến Như Nguyệt để phá quân Tống. Nhưng tư tưởng chủ đạo của Lý Thường Kiệt là tư tưởng tiến công, phòng ngự tích cực và chủ động. Lập phòng tuyến chống giặc nhưng Lý Thường Kiệt không dàn mỏng quân hay đóng chốt cố thủ trong những thành lũy trên phòng tuyến, mà vẫn phối hợp giữa quân chủ lực của triều đình với lực lượng vũ trang của nhân dân, tổ chức đánh giặc cả trên phòng tuyến, cả trước mặt và sau lưng địch, nhằm tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân trên toàn chiến trường. Trái lại, nhà Hồ chủ trương chiến lược phòng ngự và tác chiến phòng ngự từ đầu chí cuối. Quân đội nhà Hồ đã tự giam mình trong một thế trận phòng ngự hết sức bị động cả về chiến lược và chiến thuật, nên đã tạo điều kiện cho giặc tập trung lực lượng, thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.


Trong quá trình chiến tranh, kết hợp với hình thức tác chiến phòng ngự, quân đội nhà Hồ có tổ chức một số trận phản công - tiến công, ví như trận phản công ở Hoàng Giang (3-1407) và nhất là trận phản công quy mô lớn đánh vào đạo quân của Trương Phụ ở cửa Hàm Tử (4-1407). Như vậy, về tác chiến, không phải nhà Hồ loại bỏ biện pháp tiến công địch. Song, cái sai của quân đội nhà Hồ là sai ở tư tưởng chỉ đạo tác chiến phản công, tức là đã tổ chức phản công địch không hợp thời và không có thế, thiếu chuẩn bị, thiếu tổ chức chu đáo. Quân đội chiến đấu đơn độc không có sự hỗ trợ của dân binh và nhân dân địa phương, khiến cho đem quân đi đánh địch lại bị địch đánh. Trận phản công lớn ở Hàm Tử thất bại dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn cả về chiến lược quân sự của vương triều Hồ.


Tóm lại, Hồ Quý Ly và triều đình nhà Hồ luôn đề cao ý thức độc lập, chủ quyền, tích cực chuẩn bị kháng chiến và quyết tâm kháng chiến đến cùng. Tư tưởng quyết tâm đánh giặc giữ nước thể hiện trong quá trình xây dựng lực lượng, bố trí thế trận và trong thực tiễn tổ chức kháng chiến. Hồ Quý Ly cùng hai con là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương là những người có tài tổ chức quân sự. Ngay từ khi mới cầm quyền, họ đã có tư tưởng xây dựng quân đội đông và thiện chiến, một quân đội được tổ chức quy củ, được trang bị và huấn luyện tốt. Những vũ khí, chiến cụ của quân đội nhà Hồ đã đạt đến một trình độ cao, nhất là kỹ thuật đúc chế súng thần cơ. Hồ Nguyên Trừng là một người có đầu óc canh tân, một nhà sáng chế tài giỏi, nên khi bắt được Hồ Nguyên Trừng, nhà Minh tìm cách dụ dỗ để học phép chế súng thần cơ. Tuy nhiên, muốn xây dựng quân đội mạnh không chỉ ở số lượng, ở tổ chức và trang bị, mà trước hết quân đội đó phải có tinh thần chiến đấu và chiến đấu trong sự tham gia hỗ trợ và gắn bó với nhân dân. Đây là điểm hạn chế cơ bản trong tư tưởng xây dựng quân đội của vương triều Hồ. Có quân đội đông, có thành lũy vững chắc, nhà Hồ chủ trương dựa vào quân đội và thành lũy đế tác chiến phòng ngự, hy vọng chặn đứng và làm suy yếu quân giặc. Nhưng đó lại là một sai lầm lớn trong chiến lược cũng như trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến của nhà Hồ. Tác chiến phòng ngự bị động trước một kẻ thù có quân đông và tiến công như vũ bão là một sai lầm. Nhà Hồ không biết kế thừa và vận dụng kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh quyền biến thời Lý - Trần trước những quân đội mạnh như quân Tống và quân Mông - Nguyên. Tác chiến tập trung, dàn quân đối địch với quân Minh khi chúng còn rất mạnh là một sai lầm. Tác chiến chỉ dựa vào quân đội mà không biết kết hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân đã làm cho quân đội nhà Hồ không thể đương đầu được với quân xâm lược lớn mạnh. Đó là những hạn chế trong tư tưởng quân sự thời Hồ.


Suy nghĩ về sai lầm trong tư tưởng chả đạo của nhà Hồ, Nguyễn Trãi viết: "Thung mộc trùng trùng hải lảng tiền; Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên. Phúc chu thủy tín dân do thủy..." (Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển; Khóa sông xích sắt cũng vầy thôi. Lật thuyền mới rõ dân như nước...)1 (Xem: Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.280-281). Đúng là nhà Hồ chỉ dựa vào quân đội, vào thành lũy và vũ khí để đánh giặc, chứ chưa dựa vào nhân dân, không thực hành và vận dụng được nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân như thời Lý, Trần nên đã nhanh chóng bị thất bại. Nghiêm khắc phê phán những sai lầm về tư tưởng chiến lược cũng như tư tưởng chỉ đạo tác chiến của nhà Hồ, nhưng có lẽ cũng cảm thông và xót xa cho nhà Hồ khi Nguyễn Trãi cho rằng: "Họa phúc hữu môi phi nhất nhật; Anh hùng di hận kỷ thiên niên" (Họa phúc gây mầm không một chốc; Anh hùng để hận mấy trăm đời)2 (Xem: Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.280-281). Đối với Hồ Quý Ly và triều Hồ, đó là một bi kịch để lại những bài học cay đắng cho hậu thế.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #81 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:43:51 am »

II- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ TỪ SAU CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MINH CỦA NHÀ HỒ THẤT BẠI ĐẾN TRƯỚC CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1407 - 1417)
   
1. Chính sách đô hộ và âm mưu đồng hóa của nhà Minh

Năm 1407, sau khi chiếm được Đông Đô, nhà Minh đã đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, coi như quận huyện của Trung Quốc. Chúng dựng nên một bộ máy chính quyền đô hộ giống như thiết chế một chính quyền địa phương của triều đình nhà Minh. Dưới quận, nhà Minh đặt lại các phủ, châu, huyện.


Trước đấy, khi chuẩn bị cất quân đánh nước ta, Minh Thành Tổ đã căn dặn bọn tướng xâm lăng rằng: "Sau khi bình định được An Nam, từ cửa quan Kê Lăng (Chi Lăng) vào nước ấy, dọc đường phải đặt vệ, sở và đắp thành để trấn thủ; các vệ, sở cần trông thấy được hiệu lệnh lửa của nhau, tiếp cận được thanh thế của nhau để khi nguy cấp có thể ứng cứu cho nhau". Trong năm 1407, quân Minh đã lập 14 vệ và 19 sở với tổng số quân rải ra đóng giữ là 99.280 quân. Xung quanh thành Đông Quan đã đặt 5 vệ, với số quân phòng vệ là 28.000 quân. Cùng với quá trình mở rộng chiếm đóng, bộ máy trấn áp càng được tăng lên. Tại các phủ vệ cũng như nơi xung yếu, quân Minh dựng nên một hệ thống thành lũy kiên cố. Giữa các phủ, huyện và các thành lũy, trên các trục đường giao thông đường bộ và đường thủy, quân Minh đặt ra một hệ thống trạm dịch nhằm liên hệ với nhau và kịp thời tiếp ứng cho nhau khi bị uy hiếp. Bằng một bộ máy bạo lực to lớn, nhà Minh thi hành chính sách đàn áp, khủng bố rất tàn khốc.


Bình thường, chúng đã tìm cách không chế và kiểm soát ngặt nghèo đời sống của nhân dân ta. Chúng ra lệnh tước đoạt mọi thứ vũ khí trong tay nhân dân. Ai chế tạo, cất giấu chiến thuyền, vũ khí, dù là loại thô sơ nhất, đều bị khép vào tội phản nghịch. Chúng quy định: Dân các xứ đi khỏi ngoài trăm dặm để buôn bán làm ăn, đều phải trình báo rõ ràng với ty quan sở tại để cấp giấy định thời hạn, đi về phải kiểm xét.


Mỗi khi nhân dân ta phản kháng hay vùng lên khởi nghĩa thì lập tức chúng dùng vũ lực đàn áp khốc liệt với nhiều thủ đoạn man rợ. Quân giặc "đi đến đâu chém giết thả cửa, hoặc chất thây người làm núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui, thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người có thai, cắt lấy tai của mẹ và con để dâng cho giặc"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.744). Những người sống sót thì bị bắt hết làm nô tỳ và bị đem đi bán mà tan tác bốn phương. Những người yêu nước bị quân Minh bắt, nếu không bị giết chết một cách tàn bạo thì cũng bị đày sang Trung Quốc và không một ai trở về. Chúng lùng bắt hàng loạt dân ta, nhất là các thợ thủ công đem về nước phục dịch, xây dựng kinh thành.


Về phương diện kinh tế, chính sách của nhà Minh là đẩy mạnh việc vơ vét của cải và bóc lột nhân dân ta một cách tham tàn. Vừa chiếm được nước ta, Trương Phụ đã cho quân lính mặc sức cướp phá và thu tiền đồng chở về nước. Mùa hạ năm 1408, sau hơn một năm xâm lược và cướp bóc, số "chiến lợi phẩm" mà Trương Phụ tâu lên vua Minh gồm: 235.900 con voi, ngựa, trâu, bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.677 chiến thuyền và 2.539.850 đồ quân khí2 (Xem: Hoàng Minh thực lục, q.86, tờ 4a). Chúng tiến hành thu thuế và khai thác tài nguyên chở về nước.


Mưu đồ thâm độc nhất của nhà Minh là muốn đồng hóa dân tộc ta. Mục tiêu chính trị này được quán triệt trong toàn bộ chính sách đô hộ của nhà Minh và được thực hiện ráo riết trong suốt thời Minh thuộc. Tất cả những gì từng quy định sự tồn tại độc lập của nước ta, đã tạo nên sức sống của dân tộc ta, chúng đều tìm cách hủy hoại. Tên nước Đại Việt bị xóa bỏ và đất đai bị chia làm quận, huyện của nhà Minh. Chúng áp dụng chính sách "dĩ Di trị Di" (dùng người Việt trị người Việt) để gây mầm chia rẽ, làm yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc của ta.


Trong âm mưu đồng hóa, nhà Minh đặc biệt dùng nhiều thủ đoạn hủy diệt nền văn hóa dân tộc của ta. Theo sách Việt kiệu thư, trước lúc xuất quân, Minh Thành Tổ ra lệnh: "Khi tiến quân vào An Nam thì chỉ trừ những bản kinh và sách về Thích, Đạo không hủy, còn tất cả các bản in sách, các giấy tờ cho đến sách học của trẻ con như loại "thượng đại nhân, khâu ất kỷ", thì nhất thiết một mảnh giấy, một chữ đều phải thiêu hủy hết. Trong nước ấy, chỉ có những bia do Trung Quốc dựng lên ngày trước thì để lại, còn những bia do An Nam lập ra thì phải phá cho hết, một chữ cũng không được để lại". Do chủ trương hủy diệt của nhà Minh, phần lớn các sách điển chương, luật lệ cùng những tác phẩm lịch sử, văn học, địa lý, quân sự... của nước ta trước đó đã bị quân Minh cướp đoạt và tiêu hủy. Theo Lê Quý Đôn thì: Đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng và sau đó, nhà Lê ra sức thu thập, nhưng mười phần chỉ còn được bốn năm phần. Không phải chỉ có sách vở, giấy tờ, bia đá, mà biết bao nhiêu công trình văn hóa, nghệ thuật quý giá khác cũng bị quân Minh hủy hoại. Đó là một tổn thất nặng nề đối với di sản văn hóa dân tộc, một tội ác lớn của quân Minh.


Không thể kể hết những tội ác tày trời và những mưu toan cực kỳ độc ác của nhà Minh đối với nước ta và nhân dân ta thuở đó. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:

   "Tát cạn nước Đông - hải không đủ rửa hết vết nhơ;
   Chặt hết trúc Nam - sơn, chẳng đủ ghi hết tội ác.
   Thần người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha”1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.78).

Nhà Minh không phải chỉ dừng lại ở chỗ cướp nước ta, thủ tiêu chủ quyền quốc gia, mà còn tiến tới vĩnh viễn đồng hóa dân tộc ta, vĩnh viễn xóa bỏ đất nước ta.

Đất nước đứng trước một thử thách hiểm nghèo. Nhưng nhân dân ta đã quyết tâm vượt qua thử thách đó bằng tất cả ý chí và nghị lực của một dân tộc đang độ trưởng thành. Với ý thức tự chủ và tinh thần quyết tâm đánh giặc, cứu nước của nhân dân ta, một phong trào yêu nước, chống xâm lược đã liên tục nổ ra trên phạm vi cả nước. Trong phong trào đó, đã xuất hiện những quan điểm tư tưởng quân sự mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #82 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:48:05 am »

2. Tinh thần dân tộc và tư tưởng quyết tâm kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Trước đây, khi mới tiến quân vào Đại Việt/Đại Ngu, tướng Minh là Trương Phụ ra sức lừa dối và hứa hẹn là đến ngày cha con giặc Lê (tức nhà Hồ) bị bắt, sẽ họp quan viên, tướng lại và kỳ lão trong nước tìm con cháu họ Trần lên làm quốc vương để rửa nỗi oan ức cho linh hồn dưới suối vàng, cứu dân trong nước khỏi cơn cực khổ. Nhưng vừa chiếm được Đông Đô, Trương Phụ đã cho bọn phản bội Mạc Thúy mạo xưng là quan lại và kỳ lão nước ta, khai rằng, con cháu nhà Trần bị giặc Lê (tức nhà Hồ) giết hết, nay không còn một người nào và An Nam vốn là quận Giao Chỉ nên xin cho nội thuộc như cũ1 (Xem: Minh sử An Nam truyện, q.321). Minh Thành Tổ lấy cớ đó, đổi nước ta làm quận Giao Chỉ, mưu đồ sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Bộ mặt xâm lăng trắng trợn đó cùng với thái độ lật lọng, hành động cướp phá tàn bạo của quân Minh trong quá trình chiến tranh đã thổi bùng ngọn lửa căm thù của nhân dân ta mà trước đây có phần bị mê hoặc bởi danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" của quân giặc. Tháng 6-1407, Trương Phụ tâu về triều đình nhà Minh là đã chiếm được Giao Chỉ gồm 27 phủ, châu và 92 huyện, 1.858.400 hộ. Tháng 7-1408, Trương Phụ về Kinh, dâng lên vua Minh bản đồ Giao Chỉ. Thực chất, đó chỉ là những lời tâu báo dựa trên bản đồ cũ và số liệu của triều Hồ. Trên thực tế, quân Minh chưa hoàn toàn chiếm được nước ta. Quân địch mới chỉ đánh bại được lực lượng kháng chiến của quân đội nhà Hồ chứ không thể đánh bại được sức mạnh yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc ta và càng không thể khuất phục được nhân dân ta. Tinh thần dân tộc và tư tưởng quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta ngày càng bùng lên dữ dội.


Quân giặc đi đến đâu đều vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân ta ở đấy. Một phong trào kháng chiến mang tính chất tự phát nhanh chóng lan rộng trong cả nước; đồng thời ở những vùng địch đã chiếm được thì nhân dân ta cũng nổi dậy khởi nghĩa với nhiều hình thức khác nhau. Phong trào kháng chiến và khởi nghĩa của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các lực lượng yêu nước vào một cuộc đấu tranh rộng lớn, bền bỉ với quân Minh; biểu hiện sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc.


Tiếp ngay sau cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, phong trào đấu tranh vũ trang chống giặc, cứu nước của nhân dân ta đã nổi lên ở khắp nơi. Mùa thu năm 1407, nhân dân nhiều huyện ở phủ Diễn Châu (Nghệ An) nổi dậy phá nhà ngục, giết quan lại, đánh sụp chính quyền mới thiết lập của địch. Xung quanh các thành lũy trung tâm của địch như Đông Quan (Đông Đô) và Tây Đô, quân Minh phải thừa nhận có những "ổ quân ác nghịch" nổi lên, tức những hoạt động của nghĩa quân, cả miền rừng núi rộng lớn, các dân tộc thiểu số vẫn làm chủ quê hương của mình và lập thành những lực lượng vũ trang sẵn sàng đánh giặc. Tháng 9-1407, một đạo quân Minh do Đô đốc Cao Sĩ Văn chỉ huy đã bị tiến công tiêu diệt ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng). Tháng 11-1407, theo lời tâu về triều của nội quan Miêu Thanh thì: Tại các phủ Tân An (Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương), Kiến Bình (Nam Định), Lạng Giang (Bắc Giang), các châu Đông Hồ (Quảng Ninh), Thái Nguyên và sông Sinh Quyết (đoạn sông Đáy chảy qua miền Nam Định) dân Man không phục, họp nhau làm loạn1 (Xem Lý Văn Phượng: Việt kiệu thư, q.2). Trên thực tế, quân Minh lúc đó mới chiếm được các thành lũy, kiểm soát được các trục đường giao thông thủy, bộ chủ yếu, còn phần lớn vùng nông thôn và rừng núi vẫn thuộc phạm vi hoạt động của các lực lượng yêu nước.


Cuối năm 1407, từ phong trào đấu tranh của quần chúng bắt đầu xuất hiện những cuộc khởi nghĩa có tổ chức và có quy mô lớn. Đó là cuộc khởi nghĩa Phạm Chấn và Trần Nguyệt Hồ ở Đông Triều (Quảng Ninh), Phạm Tất Đại ở Lục Na (Bắc Giang) và lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi.


Những người yêu nước ở Yên Mô (Ninh Bình) đón và lập Trần Ngỗi (con thứ của Vua Trần Nghệ Tông) lên làm vua, gọi là Giản Định Đế, cầm đầu cuộc khởi nghĩa. Lúc này, tinh thần dân tộc được khơi lên mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa mang tư tưởng khôi phục lại ngôi vua Trần, nên đã thu hút được khá đông đảo quý tộc Trần, trong đó có cả Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.


Đến giữa năm 1408, nghĩa quân giải phóng được một khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa vào đến Hóa Châu (Thừa Thiên). Từ đó, nghĩa quân mở nhiều cuộc tiến công vào những căn cứ quân sự quan trọng của địch ở phía Bắc như đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại của quân Minh ở Tam Giang và uy hiếp cả vùng ngoại vi Đông Quan.


Trước tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta, quân xâm lược gặp nhiều khó khăn. Triều đình nhà Minh phải cử Mộc Thạnh làm Chinh Di tướng quân, điều thêm 5 vạn quân tăng viện. Cuối năm 1408, Mộc Thạnh tập trung một binh lực lớn tiến công nghĩa quân ở bến Bô Cô (ở sông Đáy, Ý Yên, Ninh Bình). Nhưng ở đây, nghĩa quân đã bố trí một thế trận mai phục lợi hại, đánh bại quân Minh, tiêu diệt hàng vạn quân địch. Mộc Thạnh và tàn quân thoát chết chạy về thành Cổ Lộng.


Chiến thắng Bô Cô cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đánh giặc, cứu nước của quân dân ta và tạo ra một thời cơ thuận lợi để tiến lên tiều diệt giặc Minh. Tuy nhiên, sau chiến thắng đó, trong bộ chỉ huy khởi nghĩa bị chia rẽ nghiêm trọng. Trần Ngỗi nghe lời gièm pha, đã ám hại Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng chủ chốt của nghĩa quân. Do vậy, lòng quân ly tán. Đặng Dung, con Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị, con Nguyễn cảnh Chân liền đem một bộ phận nghĩa quân vào Nghệ An, suy tôn Trần Quý Khoáng (cháu nội Vua Trần Nghệ Tông) làm vua, tức Trùng Quang Đế, lập nên một cuộc khởi nghĩa khác (4-1409).


Cuộc khởi nghĩa Trần Quý Khoáng ra đời do sự phân liệt, chia rẽ trong nội bộ cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi. Tình trạng đó kéo dài đã gây nguy hại lớn cho phong trào do quý tộc họ Trần lãnh đạo và sự nghiệp cứu nước nói chung. Những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Trần Quý Khoáng thấy rõ điều ấy và tìm cách hợp nhất hai lực lượng nghĩa quân lại dưới ngọn cờ Trần Quý Khoáng.


Sau một thời gian củng cố lực lượng, nghĩa quân Trần Quý Khoáng đã kiểm soát được khu vực từ Thanh Hóa trở vào. Dưới sự chỉ huy của Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy, nghĩa quân nhiều lần tiến ra hoạt động ở vùng lưu vực sông Đáy, sông Nhị Hà, sông Thái Bình, đánh chiếm Hàm Tử, Bình Than, gây cho quân Minh nhiều tổn thất.


Trong lúc đó, nhân dân nhiều địa phương khác vẫn liên tục nổi lên. Những năm 1409 - 1411 là thời gian sôi sục và lan rộng nhất của phong trào yêu nước chống Minh; như Hoàng Cự Liêm nổi dậy ở Quảng Oai (Hà Tây cũ), Hoàng Thiên Hữu và Ông Nguyên ở Lạng Giang, Nguyễn Sư Cối và Nguyễn Thế ở An Lão (Hải Phòng)... Trong những năm đó, trên cả nước, thậm chí ngay cả xung quanh sào huyệt của quân thù, cuộc đấu tranh của nhân dân ta liên tiếp diễn ra hết sức sôi nổi, quyết liệt, thể hiện tinh thần và ý chí đánh giặc của nhân dân ta.


Giữa năm 1410, khi quân Minh tiến vào chiếm lại Thanh Hóa thì bùng nổ ngay cuộc khởi nghĩa Đồng Mặc, phối hợp với nghĩa quân Trần Quý Khoáng giải phóng Thanh Hóa.


Thành Đông Quan lúc bấy giờ là sào huyệt trung tâm của quân Minh; thế mà chúng không "bình định" nổi vùng ngoại vi. Lê Nhị cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Thanh Oai, Từ Liêm. Lê Khang nổi dậy ở Thanh Đàm (Hoàng Mai, Hà Nội). Nghĩa quân phối hợp chiếm giữ vùng Thạch Thất, Phúc An (Thường Tín) làm căn cứ rồi tiến công uy hiếp Đông Quan, phá cầu phao sông Nhuệ, ngăn chặn địch đi lại trên sông Đáy.


Vùng đồng bằng có cuộc khởi nghĩa Phạm Tuân ở Đông Kết (Hưng Yên), Đỗ Cối và Nguyễn Hiệu ở Trường Yên (Ninh Bình).


Ở miền núi, phong trào chống Minh của các dân tộc thiểu số phát triển mạnh. Các cuộc nổi dậy của Ông Lão, Chu Sử Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chân, Dương Khắc Chung, Nguyễn Trà, Dương Thế Chân, Vũ Lê, Nguyễn Nhuế ở Thái Nguyên. Nông Văn Lịch khởi nghĩa ở Lạng Sơn, Nguyễn Liễu ở Lục Nam (Bắc Giang)... Đặc biệt, phong trào nghĩa binh "áo đỏ" (hồng y) phát triển từ Thái Nguyên lan rộng khắp miền núi rừng phía Bắc, Tây Bắc, Thanh Hóa và Nghệ An. Đây là một phong trào vũ trang rộng lớn, kéo dài gần 20 năm, thu hút hầu hết nhân dân các dân tộc thiểu số chống quân xâm lược. Sách Bình định Giao Nam lục đòi Minh viết rằng: Lúc bấy giờ, từ Đông Quan về phía đông, giặc cướp nổi lên như ong. Gọi là dẹp yên thì chỉ có một thành Giao Châu mà thôi. Cái gọi là "giặc cướp" ở đây, chính là những cuộc nổi dậy của nhân dân ta, chống lại nền đô hộ của nhà Minh, nhưng bị tác giả ghi chép xuyên tạc theo lập trường của kẻ đi xâm lược và nô dịch.


Quân Minh quanh năm vất vả đánh dẹp. Chúng hao binh, tổn tướng mà không thể nào dập tắt được phong trào yêu nước của nhân dân ta. Chỗ này bị đàn áp thì chỗ khác lại nổi dậy, cuộc khởi nghĩa này bị thất bại thì cuộc khởi nghĩa khác lại nổi lên với tinh thần tiến công mạnh mẽ. Từ cuối năm 1408 đến năm 1411, chỉ trong khoảng ba năm mà triều đình nhà Minh đã phải ba lần đưa thêm viện binh sang cứu nguy cho đạo quân chiếm đóng ở nước ta. Cả ba lần đều do các tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh chỉ huy. Đó là hai viên tướng lão luyện và hung hãn nhất của nhà Minh đã từng nhiều lần chinh chiến ở Đại Việt Đại Ngu.


Đến cuối năm 1413, đầu năm 1414, nhiều phong trào kháng chiến và những cuộc khởi nghĩa lớn mới bị quân Minh dập tắt. Phong trào cứu nước của nhân dân ta tạm lắng xuống một thời gian. Bọn quan lại đô hộ nhà Minh từng bước xây dựng bộ máy cai trị trên đất Đại Việt Đại Ngu.


Như vậy, giặc Minh đánh bại cuộc kháng chiến của nhà Hồ chỉ trong hơn 6 tháng (11-1406 - 6-1407), nhưng phải mất 7 năm (1407 - 1414), chúng mới bình định nổi phong trào kháng chiến tự phát của nhân dân ta. Điều này nói lên tinh thần quật khởi, tư tưởng, ý chí quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta, càng chứng tỏ rằng nhà Hồ thất bại nhanh chóng chủ yếu là không thực hiện được tư tưởng quân sự truyền thống dựa vào nhân dân để đánh giặc, cứu nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #83 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:48:48 am »

Tuy phong trào vũ trang của quần chúng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp khiến quân Minh phải hao binh, tổn tướng, nhưng kết cục vẫn bị đàn áp. Có nhiều hạn chế của phong trào này, trong đó chủ yếu đều mang tính tự phát, thiếu tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Tư tưởng chỉ đạo trong các cuộc khởi nghĩa lớn còn nhiều hạn chế, chưa đủ uy tín để tập hợp được đông đảo lực lượng.


Trên thực tế, phong trào lúc bấy giờ bao gồm nhiều cuộc kháng chiến, nhiều cuộc khởi nghĩa trong phạm vi từng địa phương. Những cuộc đấu tranh ấy không đi đến chỗ liên kết trên quy mô cả nước thành một cuộc chiến tranh yêu nước rộng lớn, vừa có tính nhân dân, vừa có tổ chức lãnh đạo thống nhất nên đã bị địch đàn áp.


Hai cuộc khởi nghĩa lớn nhất giai đoạn này là khởi nghĩa Trần Ngỗi (1407 - 1409) và khởi nghĩa Trần Quý Khoáng (1409 - 1413). Dưới sự lãnh đạo chỉ huy của những quý tộc tông thất nhà Trần, ngoài mục đích chống xâm lược, giành độc lập dân tộc, các phong trào đó còn nhằm khôi phục vương triều Trần. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, tư tưởng khôi phục vương triều Trần đã không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu của quảng đại nhân dân ta tuy những cuộc khởi nghĩa đó đã lôi kéo được một bộ phận quý tộc nhà Trần còn tồn tại dưới triều Hồ và phát triển trên một địa bàn khá rộng lớn. Những phong trào nói trên, nói cách khác là cái ý thức trỗi dậy ấy, vừa mang cái tất nhiên vừa mang cái ngẫu nhiên của thời cuộc. "Tất nhiên" bởi có áp bức là có đấu tranh, có xâm lược là có chống xâm lược, đó là sự xuất hiện và phát triển tất nhiên trong xu thế lịch sử dân tộc Việt Nam, của ý thức dân tộc Việt Nam trước họa xâm lăng. Người Việt Nam dù thời nào cũng không thể ngồi yên để kẻ thù giày xéo quê hương, đất nước mình, họ đứng lên và hưởng ứng tất cả những ngọn cờ chống xâm lược. Và "ngẫu nhiên" thể hiện ở xu thế thời đại. Lúc bấy giờ, khẩu hiệu "Phù Trần diệt Hồ" không còn phù hợp nữa. Nhà Trần xuất hiện trong lịch sử và để lại một sự nghiệp lón lao với bao thành tựu trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIV, vương triều Trần đã suy yếu, không còn giữ vai trò lịch sử nữa, và tư tưởng "phù Trần" không còn là tư tưởng chỉ đạo nữa. Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng cho thấy tinh thần yêu nước của một bộ phận quý tộc Trần, nhưng cũng chứng tỏ sự bất lực của họ trong yêu cầu tập hợp lực lượng kháng chiến của nhân dân ta lúc đó. Mặt khác, trong nội bộ lãnh đạo còn nảy sinh mâu thuẫn đưa đến sự giết hại lẫn nhau, càng làm cho lực lượng suy yếu hơn.


Từ năm 1414, chính quyền đô hộ nhà Minh được xây dựng và củng cố trên hầu khắp cả nước. Chúng đẩy mạnh các chính sách bóc lột, khai thác kinh tế và thực thi các thủ đoạn đồng hóa về mọi mặt. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi. Nghĩa quân "áo đỏ" vẫn chiến đấu ngoan cường. Các cuộc khởi nghĩa Nông Văn Lịch, khởi nghĩa Hoàng Thiện Hữu... vẫn duy trì hoạt động vũ trang. Nhiều cuộc khởi nghĩa mới lại bùng nổ, lớn nhất là khởi nghĩa Trần Nguyệt Hồ (Thanh Hóa).


Từ năm 1417, phong trào yêu nước lại bùng lên. Sử cũ của ta chép rằng: "Lúc ấy quan lại nhà Minh tham lam sách nhiễu không biết thế nào là cùng, tên Mã Kỳ làm nhiều việc phi pháp, bắt dân nộp châu báu quá nhiều, dân không sao kham được sự khổ sở. Vì thế lòng người náo động, binh lính bốn phương nổi lên, mà người Minh không thể nào chống lại được"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.1, tr.759), sử nhà Minh (Minh sử) thì cho rằng: "người Giao Chỉ vốn thích làm loạn" và thừa nhận lúc đó "dân tình náo động", "cường hào các nơi nổi lên làm loạn".


Trung tâm của phong trào yêu nước giai đoạn này là khu vực từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Bởi vì lúc đó, nhà Minh tuy đã đàn áp được các cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, nhưng chính quyền đô hộ ở vùng này mới được xây dựng, chưa có cơ sở vững chắc. Một bộ phận quan lại, binh sĩ có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ thổ quan, thổ binh cũng sớm tham gia khởi nghĩa chống quân Minh. Một số cuộc khởi nghĩa ở Thuận Châu, Nam Linh (Quảng Trị) được đông đảo nhân dân và binh lính hưởng ứng, đã uy hiếp nghiêm trọng bộ máy thống trị của địch. Lý Bân phải điều động hai vệ quân từ Đông Quan vào phối hợp với các vệ quân ở Tân Bình và Thuận Hóa tiến hành đàn áp.


Như vậy, ngay sau khi đánh bại lực lượng kháng chiến của triều Hồ, quân Minh đã phải đối phó thực sự với phong trào kháng chiến của nhân dân ta. Mặc dù phần lớn các cuộc khởi nghĩa đều bị quân thù đàn áp, nhưng phong trào đã thể hiện ý thức dân tộc, tư tưởng quyết tâm chống ngoại xâm, giành độc lập, tự chủ của nhân dân ta. Tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân vẫn nung nấu và bùng cháy dữ dội khi Lê Lợi phát động cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #84 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:50:42 am »

III- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ TRONG KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC DO LÊ LỢI VÀ NGUYỄN TRÃI LÃNH ĐẠO (1418 - 1427)

1.Khái quát về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Từ năm 1414, chính quyền đô hộ của nhà Minh được xây dựng và củng cố trên cả nước. Cũng từ đó, chúng đẩy mạnh các chính sách bóc lột, khai thác về kinh tế và các thủ đoạn đồng hóa về mọi mặt. Nền đô hộ của nhà Minh không những đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, chà đạp thô bạo cuộc sống của nhân dân, mà còn đe dọa nghiêm trọng vận mạng của cả dân tộc và mọi phẩm giá của con người. Từ năm 1417, phong trào yêu nước của nhân dân ta lại bùng lên mạnh mẽ, tiêu biểu hơn hết là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra với ba giai đoạn như sau:

a) Giai đoạn tụ nghĩa và hoạt động du kích ở núi rừng Thanh Hóa (1418 - 1424)

Năm 1416, tại Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 bạn chiến đấu thân tín làm lễ kết nghĩa anh em, nguyện một lòng đánh giặc, cứu nước. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 7-2-1418, tại Lam Sơn, Lê Lợi cùng toàn thể nghĩa quân mở đầu cuộc đấu tranh vũ trang chống quân Minh. Lê Lợi tự xưng là Bình Định vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân nổi dậy cứu nước.


Anh hùng, hào kiệt cùng đông đảo người yêu nước ở Thanh Hóa và khắp bốn phương nghe tin Lê Lợi tổ chức khởi nghĩa, đã lần lượt tìm về Lam Sơn tụ nghĩa. Trong số đó, có Nguyễn Trãi, một trí thức yêu nước, xuất thân từ gia đình quý tộc ở Đông Đô, một quan lại cũ của triều Hồ. Nguyễn Trãi đã đem đến cho Lê Lợi Bình Ngô sách, chỉ rõ con đường đưa cuộc chiến tranh yêu nước đến thắng lợi và ông sớm trở thành lãnh tụ thứ hai của nghĩa quân.


Lúc mới khởi sự, nghĩa quân không quá 2.000 người. Trong Quân trung từ mệnh tập viết rằng, buổi đầu cơm ăn thì sớm tối không đầy hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh, quân lính chỉ độ vài nghìn, khí giới thì thật là tay không1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.138). Nghĩa quân bước vào cuộc chiến đấu tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch, nhưng ai ai cũng một lòng tin tưởng vào thắng lợi.


Núi rừng Thanh Hóa trở thành căn cứ đầu tiên để nghĩa quân tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng. Trong thời kỳ đầu (1418 - 1423), cuộc chiến tranh diễn ra chủ yếu dưới hình thức chiến tranh du kích nhằm chống lại cuộc vây quét của quân Minh. Ỷ vào ưu thế binh lực, quân Minh thường huy động những lực lượng lớn để bao vây, càn quét hòng tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân dựa vào địa thế núi rừng hiểm yếu và quen thuộc, tiến hành tập kích, phục kích quân thù, bẻ gãy nhiều đợt tiến công vây quét của giặc.


Thời kỳ đầu, nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn: "Khi Linh - sơn lương cạn mấy tuần;/Lúc Khôi - huyện, quân không một lữ"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.79); có những lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, chỉ còn hơn 100 người. Nhưng với nghị lực phi thường, lại được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, nên nghĩa quân đã vượt qua bao khó khăn, khôi phục và phát triển được phong trào.


Càng chiến đấu, nghĩa quân càng thêm dày dạn, trưởng thành. Với tư tưởng chủ động tiến công, bằng những hoạt động du kích (tập kích, phục kích), nghĩa quân đã đánh bại các cuộc hành quân của địch và gây cho chúng nhiều tổn thất. Căn cứ nghĩa quân không ngừng mở rộng, từ lưu vực sông Chu lên vùng lưu vực sông Mã.


Quân Minh không thể đàn áp được nghĩa quân, chúng đành chịu chấp nhận đình chiến (từ ngày 5-1-1423 đến tháng 10-1424). Nghĩa quân tranh thủ thời gian hòa hoãn để tăng cường lực lượng về mọi mặt, như Nguyễn Trãi nói: "Trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân,"/"Bỏ vàng mộ lính, giết voi khao quân"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.86).


Sau một thời gian mua chuộc, dụ dỗ Lê Lợi không thành, quân Minh chuẩn bị đàn áp. Trước tình hình đó, Nguyễn Chích đề ra kế hoạch sáng suốt được Lê Lợi, Nguyễn Trãi chấp nhận là tạm thời rời bỏ núi rừng Thanh Hóa, tiến vào Nghệ An "nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông" để xây dựng đất đứng chân, làm bàn đạp đẩy mạnh cuộc tiến công chống quân Minh.
   

b) Giai đoạn chuyển hướng chiến lược, xây dựng căn cứ địa từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa (1424 -1425)

Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, nghĩa quân mở cuộc hành quân tiến vào giải phóng Nghệ An. Sau khi hạ thành Trà Long (Con Cuông) và đánh thắng hai trận lớn Khả Lưu và Bồ Ải (Anh Sơn), nghĩa quân vây hãm thành Nghệ An (Hưng Nguyên). Nhân dân Nghệ An hăng hái gia nhập nghĩa quân và cùng hợp sức giải phóng các châu, huyện. Chỉ nửa năm, toàn phủ Nghệ An đã được giải phóng. Quân Minh bị vây hãm trong thành.


Tháng 6-1425, nghĩa quân giải phóng Diễn Châu, rồi thừa thắng tiến ra Thanh Hóa. Nhân dân nhất tề hưởng ứng. Chưa đầy một tháng, toàn bộ vùng Thanh Hóa đã về tay nghĩa quân. Quân Minh phải rút vào cố thủ ở Tây Đô.


Tháng 8-1425, Lê Lợi chủ trương "lánh chỗ thực, đánh chỗ hư", cho một bộ phận nghĩa quân tiến vào giải phóng Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Quảng Trị, Thừa Thiên). Sau một số trận, quân Minh ở đây nhanh chóng tan rã, số quân còn lại bị vây trong thành.


Chỉ trong vòng hơn một năm, từ căn cứ chật hẹp ở núi rừng Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã có một căn cứ địa vững chắc, một hậu phương rộng lớn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Nghĩa quân liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn và phát triển vượt bậc về mọi mặt. Đội du kích Lam Sơn đã trưởng thành trong chiến đấu và trở thành một lực lượng vũ trang hùng hậu gồm hàng vạn quân, có đủ bộ binh, thủy binh, kỵ binh và tượng binh. Đó là bước phát triển nhảy vọt của nghĩa quân kể từ khi Nguyễn Chích đề xuất đường lối chuyển hướng chiến lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #85 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:51:49 am »

c) Giai đoạn tấn công ra Bắc, mở rộng hoạt động ra phía Bắc, thực hiện tiến công, phản công tiêu diệt địch trên phạm vi cả nước (1426-1427)

Do thất bại liên tiếp, quân Minh khiếp sợ cho người về nước cầu cứu viện binh. Vua Minh đã ra lệnh điều động 5 vạn quân và cử Vương Thông chỉ huy, sang tăng viện.

Nhận thấy quân địch đã suy yếu, tinh thần sút kém và viện binh chưa kịp sang, Lê Lợi và Bộ tham mưu nghĩa quân quyết định mở cuộc tiến công ra Bắc, nhằm tranh thủ thời cơ hạ những đồn nhỏ của địch, mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị đánh viện binh.


Tháng 9-1426, ba đạo nghĩa binh được lệnh tiến sâu vào vùng chiếm đóng của địch, cùng nhân dân các địa phương tiến công tiêu hao sinh lực địch, giành đất, giành dân, mở rộng địa bàn và dồn quân Minh vào thế phòng ngự bị động. Sách Lam Sơn thực lục chép rằng: "Bấy giờ, giặc tuy chưa diệt hết, mà thanh thế nghĩa quân càng lừng lẫy, lòng người càng vững vàng. Vua đoán rằng tinh binh của giặc tất ở Nghệ An, còn các thành Đông Đô đều ruỗng yếu, liền đem binh và voi, sai bọn Lê Triện, Lê Khả, Lê Bí đem hơn 2.000 quân ra các lộ Thiên Quan, Quốc Oai, Gia Hưng, Lâm Thao, Tam Đái, Tuyên Quang, chiếm lấy đất, chiêu dụ nhân dân, để cắt đường viện binh từ Vân Nam. Lại sai Lê Nhân Chú, Lê Bị đem hơn 2.000 quân ra các phủ Thiên Quan, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để cắt đường về của bọn Phương Chính, Lý An. Nếu chiếm được đất thì chia quân ra mà đóng giữ, rồi đi tuần các xứ Khoái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang để cắt đường viện binh từ Khâu Ôn. Lại chọn 2.000 tinh binh, sai bọn Tư không Lê Lễ, Lê Xí tiến ra Đông Đô để hư trương thanh thế. Quân ta không mảy may xâm phạm. Bởi thế các lộ Đông Kinh và các phiên trấn, chẳng ai là không vui sướng, tranh nhau đem trâu, rượu, lương thực để khao quân sĩ"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.60-61).


Tháng 11-1426, 5 vạn viện binh và 5.000 ngựa do Vương Thông chỉ huy tiến sang, kết hợp với quân của Phương Chính, Lý An và Sơn Thọ, cộng thành 10 vạn, tập trung ở Đông Quan. Dựa vào ưu thế binh lực, Vương Thông quyết định mở cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân ở ngoại vi Đông Quan, giành lại thế chủ động chiến lược, xoay chuyển lại tình hình. Nhưng nghĩa quân Lam Sơn lúc đó do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, đã bố trí mai phục, đánh tan quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Trong ba ngày đêm chiến đấu liên tục (từ ngày 5 đến ngày 7-11-1426), nghĩa quân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc phản công của Vương Thông. Các trận đánh ác liệt đã diễn ra ở Cổ Lãm, Tốt Động, Chúc Động và Ninh Kiều. Sáu vạn quân Minh đã bị tiêu diệt. Thượng thư Trần Hiệp, Nội quan Lý Lượng, chỉ huy Lý Đẳng bị giết tại trận. Vương Thông bị thương đã cùng tàn quân chạy về Đông Quan rồi bí mật phái người về nước cầu cứu viện binh.


Lúc bấy giờ đại bộ phận đất nước đã được giải phóng. Quân Minh bị vây hãm trong thành Đông Quan và một số thành khác như Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang... Lê Lợi và Nguyễn Trãi vừa chủ trương thương lượng, đàm phán, dụ hàng quân giặc, vừa chủ trương củng cố hậu phương, xây dựng chính quyền độc lập; tiếp tục vây hãm các thành, chuẩn bị tiêu diệt viện binh.


Lực lượng nghĩa quân được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Nghĩa quân chủ trương công phá, giải phóng một số thành, trong đó quan trọng nhất là thành Xương Giang nằm trên đường từ Vân Nam và Quảng Châu đến Đông Quan.


Trước nguy cơ đạo quân viễn chinh bị tiêu diệt, vua Minh ra lệnh điều 15 vạn quân sang tiếp viện.

Tháng 10-1427, viện binh địch được chia làm hai đạo tiến vào Đại Việt. Đạo thứ nhất 10 vạn quân, do Liễu Thăng chỉ huy tiến từ Quảng Tây vào Lạng Sơn. Đạo thứ hai 5 vạn quân, do Mộc Thạnh chỉ huy tiến từ Vân Nam theo đường Lê Hoa (Lào Cai). Lê Lợi chủ trương cho tiếp tục vây Đông Quan và các thành, để một bộ phận kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh, còn đại bộ phận nghĩa quân tập trung vào hướng Chi Lăng - Xương Giang, nhằm tiêu diệt gọn toàn bộ đạo quân chủ lực do Liễu Thăng chỉ huy.


Trận Chi Lăng - Xương Giang là trận quyết chiến chiến lược lớn nhất trong cuộc chiến tranh. Quân ta tổ chức mai phục, đánh chặn quyết liệt quân Minh trên đường tiến từ Chi Lăng xuống Xương Giang. Trong vòng chưa đầy một tháng, nghĩa quân đã tiêu diệt hầu như toàn bộ 10 vạn quân tiếp viện của nhà Minh. Nhiều tướng giặc phải đền mạng, như Liễu Thăng, Lý Khánh. Các đô đốc Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng 3 vạn quân bị bắt. Ta thu toàn bộ vũ khí, quân trang, lương thực của giặc.


Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, đạo quân Mộc Thạnh đang cầm cự ở biên giới, vội tháo chạy. Quân ta truy kích giết 2 vạn, bắt sống 1.000 tên.


Sau thất bại ở biên giới, Vương Thông và bọn tướng Minh ở Đông Quan chí cùng lực kiệt nhưng vẫn rất ngoan cố. Với thiện chí hòa bình và mục đích chính là giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục, mở đường thoát danh dự cho quân địch. Vương Thông không còn cách nào khác, xin "giảng hoà". Ta tổ chức Hội thề Đông Quan và cấp ngựa, cấp thuyền cho quân Minh được an toàn về nước.


Sau 10 năm chiến đấu bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó chứng tỏ nghệ thuật khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng của ông cha ta thời đó đã đạt đến đỉnh cao và để lại nhiều bài học lịch sử quý giá. Tư tưởng quân sự trong cuộc kháng chiến và chiến tranh giải phóng dân tộc này có nhiều nét độc đáo riêng của nó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #86 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 09:58:38 am »

c) Giai đoạn tấn công ra Bắc, mở rộng hoạt động ra phía Bắc, thực hiện tiến công, phản công tiêu diệt địch trên phạm vi cả nước (1426-1427)

Do thất bại liên tiếp, quân Minh khiếp sợ cho người về nước cầu cứu viện binh. Vua Minh đã ra lệnh điều động 5 vạn quân và cử Vương Thông chỉ huy, sang tăng viện.


Nhận thấy quân địch đã suy yếu, tinh thần sút kém và viện binh chưa kịp sang, Lê Lợi và Bộ tham mưu nghĩa quân quyết định mở cuộc tiến công ra Bắc, nhằm tranh thủ thời cơ hạ những đồn nhỏ của địch, mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị đánh viện binh.


Tháng 9-1426, ba đạo nghĩa binh được lệnh tiến sâu vào vùng chiếm đóng của địch, cùng nhân dân các địa phương tiến công tiêu hao sinh lực địch, giành đất, giành dân, mở rộng địa bàn và dồn quân Minh vào thế phòng ngự bị động. Sách Lam Sơn thực lục chép rằng: "Bấy giờ, giặc tuy chưa diệt hết, mà thanh thế nghĩa quân càng lừng lẫy, lòng người càng vững vàng. Vua đoán rằng tinh binh của giặc tất ở Nghệ An, còn các thành Đông Đô đều ruỗng yếu, liền đem binh và voi, sai bọn Lê Triện, Lê Khả, Lê Bí đem hơn 2.000 quân ra các lộ Thiên Quan, Quốc Oai, Gia Hưng, Lâm Thao, Tam Đái, Tuyên Quang, chiếm lấy đất, chiêu dụ nhân dân, để cắt đường viện binh từ Vân Nam. Lại sai Lê Nhân Chú, Lê Bị đem hơn 2.000 quân ra các phủ Thiên Quan, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để cắt đường về của bọn Phương Chính, Lý An. Nếu chiếm được đất thì chia quân ra mà đóng giữ, rồi đi tuần các xứ Khoái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang để cắt đường viện binh từ Khâu Ôn. Lại chọn 2.000 tinh binh, sai bọn Tư không Lê Lễ, Lê Xí tiến ra Đông Đô để hư trương thanh thế. Quân ta không mảy may xâm phạm. Bởi thế các lộ Đông Kinh và các phiên trấn, chẳng ai là không vui sướng, tranh nhau đem trâu, rượu, lương thực để khao quân sĩ"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.60-61).


Tháng 11-1426, 5 vạn viện binh và 5.000 ngựa do Vương Thông chỉ huy tiến sang, kết hợp với quân của Phương Chính, Lý An và Sơn Thọ, cộng thành 10 vạn, tập trung ở Đông Quan. Dựa vào ưu thế binh lực, Vương Thông quyết định mở cuộc hành quân lớn nhằm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân ở ngoại vi Đông Quan, giành lại thế chủ động chiến lược, xoay chuyển lại tình hình. Nhưng nghĩa quân Lam Sơn lúc đó do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, đã bố trí mai phục, đánh tan quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Trong ba ngày đêm chiến đấu liên tục (từ ngày 5 đến ngày 7-11-1426), nghĩa quân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc phản công của Vương Thông. Các trận đánh ác liệt đã diễn ra ở Cổ Lãm, Tốt Động, Chúc Động và Ninh Kiều. Sáu vạn quân Minh đã bị tiêu diệt. Thượng thư Trần Hiệp, Nội quan Lý Lượng, chỉ huy Lý Đẳng bị giết tại trận. Vương Thông bị thương đã cùng tàn quân chạy về Đông Quan rồi bí mật phái người về nước cầu cứu viện binh.


Lúc bấy giờ đại bộ phận đất nước đã được giải phóng. Quân Minh bị vây hãm trong thành Đông Quan và một số thành khác như Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đô, Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang... Lê Lợi và Nguyễn Trãi vừa chủ trương thương lượng, đàm phán, dụ hàng quân giặc, vừa chủ trương củng cố hậu phương, xây dựng chính quyền độc lập; tiếp tục vây hãm các thành, chuẩn bị tiêu diệt viện binh.


Lực lượng nghĩa quân được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Nghĩa quân chủ trương công phá, giải phóng một số thành, trong đó quan trọng nhất là thành Xương Giang nằm trên đường từ Vân Nam và Quảng Châu đến Đông Quan.


Trước nguy cơ đạo quân viễn chinh bị tiêu diệt, vua Minh ra lệnh điều 15 vạn quân sang tiếp viện.

Tháng 10-1427, viện binh địch được chia làm hai đạo tiến vào Đại Việt. Đạo thứ nhất 10 vạn quân, do Liễu Thăng chỉ huy tiến từ Quảng Tây vào Lạng Sơn. Đạo thứ hai 5 vạn quân, do Mộc Thạnh chỉ huy tiến từ Vân Nam theo đường Lê Hoa (Lào Cai). Lê Lợi chủ trương cho tiếp tục vây Đông Quan và các thành, để một bộ phận kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh, còn đại bộ phận nghĩa quân tập trung vào hướng Chi Lăng - Xương Giang, nhằm tiêu diệt gọn toàn bộ đạo quân chủ lực do Liễu Thăng chỉ huy.


Trận Chi Lăng - Xương Giang là trận quyết chiến chiến lược lớn nhất trong cuộc chiến tranh. Quân ta tổ chức mai phục, đánh chặn quyết liệt quân Minh trên đường tiến từ Chi Lăng xuống Xương Giang. Trong vòng chưa đầy một tháng, nghĩa quân đã tiêu diệt hầu như toàn bộ 10 vạn quân tiếp viện của nhà Minh. Nhiều tướng giặc phải đền mạng, như Liễu Thăng, Lý Khánh. Các đô đốc Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng 3 vạn quân bị bắt. Ta thu toàn bộ vũ khí, quân trang, lương thực của giặc.

Nghe tin đạo quân Liễu Thăng bị tiêu diệt, đạo quân Mộc Thạnh đang cầm cự ở biên giới, vội tháo chạy. Quân ta truy kích giết 2 vạn, bắt sống 1.000 tên.


Sau thất bại ở biên giới, Vương Thông và bọn tướng Minh ở Đông Quan chí cùng lực kiệt nhưng vẫn rất ngoan cố. Với thiện chí hòa bình và mục đích chính là giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục, mở đường thoát danh dự cho quân địch. Vương Thông không còn cách nào khác, xin "giảng hoà". Ta tổ chức Hội thề Đông Quan và cấp ngựa, cấp thuyền cho quân Minh được an toàn về nước.


Sau 10 năm chiến đấu bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó chứng tỏ nghệ thuật khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng của ông cha ta thời đó đã đạt đến đỉnh cao và để lại nhiều bài học lịch sử quý giá. Tư tưởng quân sự trong cuộc kháng chiến và chiến tranh giải phóng dân tộc này có nhiều nét độc đáo riêng của nó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #87 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:02:38 am »

2. Tư tưởng quân sự trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng

a) Tư tưởng xây dựng lực lượng nghĩa quân Lam Sơn

Nghĩa quân Lam Sơn, theo quan niệm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, đó là "đội quân nhân nghĩa", mục đích chiến đấu là "dấy nhân nghĩa cốt để an dân", "đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân". Quan điểm đúng đắn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi là dựa vào dân để xây dựng lực lượng nghĩa quân: "Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ". Do vậy, đa số nghĩa quân là những người "manh lệ", tức những người nông dân, nông nô, nô tỳ bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội. Họ từ bốn phương tụ họp dưới cờ nghĩa của Lê Lợi và chính họ là chủ lực quân của cuộc khởi nghĩa.


Nhờ quan điểm đúng đắn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi: "Binh là cốt để bảo vệ dân, chứ không làm hại cho dân", nên cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thu hút được đông đảo các trai trậng khắp các làng xã.

Theo sách Lam Sơn thực lục, nghĩa quân buổi đầu khởi nghĩa mới chỉ có 35 quan võ, một số quan văn, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi và một số người tham gia chủ yếu là người Thanh Hóa, tất cả chỉ độ 2.000 người. So với lực lượng quân Minh bấy giờ thì nghĩa quân còn rất nhỏ bé. Thậm chí, có những lúc nghĩa quân bị quân Minh đàn áp, dồn ép lên rừng núi Chí Linh, lực lượng bị tổn thất nặng nề và buộc phải thực hiện kế sách hoãn binh, hòa hoãn với quân Minh.


Chủ trương hòa hoãn với địch của Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng với mục đích là có thời gian để xây dựng, củng cố nghĩa quân. Có thời gian hòa hoãn, có căn cứ địa an toàn, có đường lối phát động quần chúng tham gia khởi nghĩa, lực lượng nghĩa quân mới có điều kiện phát triển. Với lực lượng được tăng cường, nghĩa quân tiến hành khẩn trương việc tổ chức biên chế quân ngũ, chuẩn bị lương thực, khí giới và tích cực rèn luyện tướng sĩ, quân lính.


Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã có uy tín rộng lớn, đã quy tụ được nhiều cuộc khởi nghĩa khác, Lê Lợi và Nguyễn Trãi nhận thấy rằng nghĩa quân cũng đã tới giai đoạn cần được tổ chức thành quân đội dân tộc, một đội quân giải phóng hùng mạnh có khả năng đánh thắng giặc Minh. Đó là bước phát triển tất yếu của tất cả cảc lực lượng vũ trang khởi nghĩa muốn hoàn thành sự nghiệp đánh giặc, cứu nước của mình. Để tăng cường lực lượng, trong thời gian hòa hoãn với địch, các lãnh tụ nghĩa quân lập tức củng cố đội ngũ nghĩa quân, chăm lo nuôi dưỡng và tích cực chuẩn bị lương thực, khí giới. Đồng thời Lê Lợi chủ trương tiến hành tổ chức quyên tiền, mộ thêm quân, tiếp đón và khoản đãi nhân dân các nơi ủng hộ gia nhập nghĩa quân. Cảnh tượng Chí Linh - Lam Sơn trở nên tấp nập, khẩn trương như Nguyễn Trãi đã mô tả trong Phú núi Chí Linh: "thu nhặt tàn quân", "rèn chiến cụ", "bỏ vàng mộ lính, giết voi khao quân"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.86).


Nhưng tăng cường xây dựng lực lượng để trở thành một quân đội giải phóng hùng mạnh, không phải chỉ cần số lượng mà còn phải có chất lượng tốt, quân đội đông chưa đủ mà điều cần thiết phải có kỹ thuật đánh giỏi và có tinh thần chiến đấu cao. Nghĩa quân qua một thời kỳ dài chiến đấu, tuy đã dạn dày trận mạc, tinh thần chiến đấu đã được thử thách nhiều và đã có nhiều người đánh giặc giỏi, nhưng đại bộ phận là tân binh, mới tuyển mộ, cần được huấn luyện kỹ thuật, giáo dục tinh thần và mục đích chiến đấu, hy sinh vì đại nghĩa.


Lực lượng nghĩa quân theo yêu cầu của Lê Lợi không đơn thuần là những người đủ sức cầm vũ khí để đánh giặc mà phải là những binh sĩ có tinh thần chiến đấu cao, có kỹ năng chiến đấu giỏi, biết sử dụng vũ khí tinh thông và biết cả lao động sản xuất tự túc. Lực lượng nghĩa quân Lam Sơn, như Nguyễn Trãi nói trong Quân trung từ mệnh tập: phải trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sỹ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc. Đó là quan điểm rất tiến bộ. Quan điểm đó đòi hỏi người chiến sĩ nghĩa quân phải có chất lượng nhiều mặt; có phẩm chất chính trị cao, có kỹ thuật chiến đấu giỏi, biết lao động sản xuất thành thạo. Từ quan điểm đó, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đề ra phương châm xây dựng nghĩa quân là bảo đảm cho binh sĩ có đầy đủ năng lực hoàn thành sứ mệnh đánh giặc, cứu nước của mình. Phương châm xây dựng nghĩa quân của Lê Lợi và Nguyễn Trãi là: "Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa sang khí giới, luyện tập binh tượng, dạy cho những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui; lại lấy nhân nghĩa mà hun đúc, khiến ai ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng"1 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.142).


Lấy việc giáo dục chính trị cho nghĩa quân làm trọng, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý "hun đúc bằng những điều nhân nghĩa", giáo dục binh sĩ tinh thần “Sống nhục thà thác vinh"2 (Xem Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.86), lấy cái chết vì nhân nghĩa làm vinh, biết hy sinh vì sự nghiệp cứu nước. Trên cơ sở đồng lòng nhất trí, quyết tâm chiến đấu tiêu diệt quân thù theo tinh thần đó, mọi người sẽ kết hợp thành một khối thống nhất vững chắc, đoàn kết chặt chẽ từ trên xuống dưới, yêu thương nhau như ruột thịt, tạo thành một đạo quân "phụ tử chi binh nhất tâm" (một lòng tướng sĩ như cha con).


Quan điểm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi là xây dựng nghĩa quân Lam Sơn trở thành một đạo quân "phụ tử". Sức mạnh của nghĩa quân phải là sức mạnh của khối đoàn kết thống nhất vì mục tiêu chung đánh giặc, cứu nước. Để có nguồn sức mạnh đó, nghĩa quân Lam Sơn được xây dựng theo quan điểm: vua tôi đồng lòng, quân lính cùng một chí hướng, "binh sĩ một dạ cha con"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.79). Đầu năm 1416, tại Lũng Nhai (Thanh Hóa), Lê Lợi cùng 18 người thân tín nhất làm lễ kết nghĩa anh em, nguyện chung sức đồng lòng giữ gìn địa phương cho xóm làng được yên lành, thề sống chết cùng nhau, không dám quên lòi son sắt. Lời thề lịch sử đó đã đặt cơ sở đầu tiên cho quá trình xây dựng khôi đoàn kết thống nhất trong hàng ngũ nghĩa quân. Từ ngày đó, Lê Lợi thường xuyên nhắc nhở nghĩa quân phát huy nguồn sức mạnh ấy. Ông thường nói với tướng sĩ và binh lính rằng: "Ta khởi nghĩa ở đất các ngươi, nay muôn thành công, mong các ngươi giữ chung thủy một lòng, đá vàng một tiết, để toàn cái nghĩa quân thần phụ tử... Ta cùng các ngươi, nghĩa như cha con, mong hết một lòng, thu lại bò cõi"2 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.143).


Trong hàng ngũ nghĩa quân, tuy khác nhau về thân phận, khác nhau về thành phần xuất thân và chức vị, nhưng mục đích chiến đấu cao cả của họ là sợi dây vô hình thắt chặt quan hệ trong quân ngũ. Nghĩa quân hết thảy đều chung một lòng, trên dưới đều cùng một dạ. Họ thường xuyên được hun đúc bằng những điều nhân nghĩa. Sau này, khi đất nước thái bình, nghĩ lại sự nghiệp Bình Ngô, Lê Lợi đã nói: "Lúc ấy trong khoảng vua tôi lấy nghĩa cả mà đối xử với nhau, thân như ruột thịt". Từ tư tưởng đó của người chủ tướng, nghĩa quân Lam Sơn tuy là đội quân "manh lệ bốn phương" nhưng lại có lòng "phụ tử một dạ", "ai cũng mến vua mà liều chết, ai cũng muốn ra sức đền ơn". Nghĩa quân đồng lòng, anh hùng hết sức "đi đến đâu phá tan quân giặc đến đó" (Lam Sơn thực lục).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #88 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:04:35 am »

Trong quá trình khởi nghĩa và chiến tranh, Lê Lợi đặc biệt chú ý đến kỷ luật quân đội. Trong tư tưởng chỉ đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi bao giờ cũng coi trọng và thường xuyên nhắc nhở các tướng lĩnh, binh sĩ phải "giữ nghiêm kỷ luật", vì thế kỷ luật trở thành một nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của nghĩa quân Lam Sơn.


Trước hết, là kỷ luật trong quân đội, trong nghĩa quân. Sử cũ nhiều lần ghi chép về việc Lê Lợi nghiêm chỉnh bộ ngũ, kiểm tra việc chấp hành mệnh lệnh của nghĩa binh. Lê Lợi chỉ đạo ban hành 10 điều quân luật cho các tướng hiệu và quân nhân, quy định nghiêm ngặt đối với những tướng lĩnh, binh lính nào vi phạm kỷ luật quân đội. Theo ông, trong quân cũng phải có pháp luật, phải ban hành các điều quân luật để các tướng lĩnh và quân sĩ tuân thủ, khiến mọi người biết làm điều thiện, tránh điều ác. Những viên tướng như Thượng Khanh bỏ quân ngũ trốn ở Lam Sơn, Tư mã Lê Lai1 (Nghĩa quân Lam Sơn có hai tướng cùng tên là Lê Lai. Đây không phải là Lê Lai liều mình cứu chúa) cậy công đánh giặc, nói những điều ngạo mạn, Thiên hộ Lý Vân chở trộm mắm muối cho địch ở thành Chí Linh, hoặc Chánh đốc Nguyễn Liêm khi duyệt binh không nghiêm quân ngũ... đều bị chém làm gương để giữ nghiêm quân lệnh. Đối với quân lính, những ai lơ là việc cảnh giới, để mất vũ khí hoặc khi lâm trận làm trái mệnh lệnh cấp trên đều bị trừng trị theo quân luật.


Nghĩa quân Lam Sơn là một đội quân có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh. Nghĩa quân quyết không đội trời chung với lũ giặc, trái lại luôn tôn trọng, bảo vệ quyền lợi và tài sản của nhân dân. Khi tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An, Lê Lợi ra lệnh: "Dân chúng khổ về chính sách bạo ngược của giặc đã lâu rồi. Những châu huyện nào chúng ta đi tới, không được mảy may xâm phạm của dân. Nếu không phải là trâu bò, thóc lúa của bọn ngụy quan, thì dẫu đói khát khốn khó đến đâu cũng không được lấy bậy"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.253-254). Chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh trên, có lần quân sĩ ba ngày không được ăn mà không dám xâm phạm của dân, vì đó là kỷ luật, mệnh lệnh nghiêm khắc của nghĩa quân được Lê Lợi luôn nhắc nhở và được toàn quân nghiêm chỉnh chấp hành. Do đó, "Quân đi qua, mà chợ vẫn họp như thường"3 (Lê Quý Đôn: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, t.II, tr.56), nhân dân thấy "phép đã lập, mệnh lệnh đã được thi hành thì đem hết trâu, thóc của người Minh cấp cho quân sĩ", "các lộ, trấn thảy đều hoan nghênh, đua nhau đem thịt trâu, thịt dê và cơm rượu ra khao lại quân sĩ"1 (Lê Quý Đôn: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, t.II, tr.50).


Tư tưởng trên của Lê Lợi đã có hiệu quả tốt, nghĩa quân Lam Sơn luôn giữ kỷ luật nghiêm chỉnh, thưởng phạt đúng mức. Vì thế, ai cũng mong muốn được nhập ngũ, quân lính càng đánh càng hăng, sĩ khí quân ta càng mạnh.


Sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn trước hết là sức mạnh của tinh thần yêu nước và chí căm thù giặc sục sôi, là sức mạnh của tinh thần chiến đấu ngoan cường cứu dân, cứu nước. Lê Lợi và Nguyễn Trãi có quan điểm đúng đắn trong việc bồi dưỡng nhân tố tinh thần, chính trị trong quân sĩ.


Một yêu cầu lớn mà Lê Lợi luôn đòi hỏi là người nghĩa binh phải có tinh thần chiến đấu quên mình, không quản ngại hy sinh, gian khổ, phải biết "dĩ thân tuẫn quốc" (quên mình vì nước). Có như vậy nghĩa quân mới có sức mạnh, mối thu hút được sự tin cậy và hưởng ứng của nhân dần, mới đạt được mục đích khởi nghĩa. Bởi thế, Lê Lợi cũng như Nguyễn Trãi luôn giáo dục tướng sĩ phải nghĩ đến công nghiệp của cha ông thuở trước, trung với nước, cùng lòng hợp sức, rửa quốc sỉ, đã đánh là thắng, đến đâu là lập được công. Các ông đã khơi dậy trong lòng binh sĩ mối hận thù phải trả, quyết cùng tử chiến với giặc. Vì vậy, quân sĩ "ai cũng nổi lòng căm tức, đều tranh nhau liều chết để đánh". Sự thật đó cũng được Nguyễn Trãi nêu trong thư gửi tướng giặc Vương Thông: "quân các vệ sở căm hờn oán giận, sâu đến cốt tủy, chẳng ai là không nghiến răng nắm tay, thề không còn trông thấy mặt ngài... Họ đều xin tôi quyết một phen tử chiến"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.119).


Lê Lợi thường nói: "Hoạn nạn mới gây nổi nước, lo phiền mới đúc nên tài". Bằng những lời dạy bảo và thực tế cuộc sống của mình, Lê Lợi trở thành tấm gương, nguồn động viên, cổ vũ toàn quân vượt mọi gian khổ, khó khăn.


Từ tư tưởng, tình cảm đó mà nghĩa quân đã trải qua biết bao gian lao, thử thách, mặc cho "cơm ăn thì sớm tối không nề hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh... thân thích, con em, bè bạn mỗi người một ngả". Lòng yêu nước, chí căm thù và thực tiễn của cuộc chiến tranh muôn vàn gian khổ đã tôi luyện khiến cho nghĩa quân Lam Sơn có một tinh thần vượt khó khăn, không sờn lòng, nản chí trong cuộc đấu tranh sống mái với quân thù. Trong gian nguy, nhờ tinh thần chiến đấu đó mà nghĩa quân đã chuyển bại thành thắng, chuyển nguy thành yên, lấy quân tinh thắng quân đông, lấy chất lượng khắc phục số lượng, đã đánh tan những đạo quân địch lớn mạnh gấp bội phần.


Nghĩa quân là những người cày ruộng, họ tình nguyện gia nhập quân đội, hết mực trung thành và chiến đấu dũng cảm vì lý tưởng, nhưng họ cũng rất thiết tha với ruộng đồng, quê hương và gia đình. Họ muốn mai sau đánh xong giặc được trở về với công việc cấy cày. Để động viên quân lính của mình, Lê Lợi đã chân tình hứa với nghĩa quân, đến lúc thắng lợi, trong số 35 vạn quân, chỉ lưu lại 10 vạn, còn 25 vạn sẽ được về làm ruộng. Lời động viên ấy thực sự đã tiếp thêm sức mạnh cho nghĩa quân.


Quan điểm chính trị và những chính sách trên đây của Lê Lợi đã đem lại kết quả lớn lao trong quá trình tổ chức, xây dựng nghĩa quân. Tướng sĩ ai ai cũng cảm kích, hăng hái tranh nhau liều chết, ai cũng nguyện xả thân vì nước đánh giặc, để giành lấy thắng lợi cuối cùng.


Một quan điểm lớn của Lê Lợi và Bộ tham mưu là vừa chiến đấu vừa xây dựng nghĩa quân. Tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn phải đi từ tay không xây dựng cơ đồ. Do đó, để đưa sự nghiệp giải phóng đến thành công, Lê Lợi chủ trương vừa xây dựng lực lượng, vừa cày ruộng, vừa đánh giặc.

Nghĩa quân trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗi giai đoạn là một bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng.

Những ngày đầu tiên dựng cờ nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi đã tốn nhiều công sức, của cải để xây dựng nghĩa quân. Ông đã "hậu đãi tân khách, vời người trốn tránh, dùng người làm phản (quân Minh); ngầm nuôi kẻ sĩ mưu trí, bỏ của phát thóc giúp người cô bần; nhún lời hậu lễ để thu hào kiệt"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.47), "kén tướng, rèn binh" để tập hợp nghĩa quân. Thời kỳ ở Lam Sơn "quân lính chỉ độ vài nghìn" hoặc thắng hoặc thua, nhưng vẫn tồn tại và phát triển trong sự đùm bọc của nhân dân các dân tộc miền núi. Khi tiến vào Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng từ Thanh Hóa trở vào Nam, nghĩa quân ngày càng mạnh, quân số tăng lên tới gần chục vạn. Trong số đó "binh phụ tử" người Thanh Hóa có tới 2 vạn và quân có tiếng là tinh tráng dũng cảm ở các lộ Diễn Châu, Tân Binh, Thuận Hóa cũng đã trên 2 vạn người. Đặc biệt sau khi giải phóng các phủ lộ phía Bắc, số lượng nghĩa quân lên tới 35 vạn, riêng ở Đông Quan đã trên 5 vạn tinh binh. Đó là những bước phát triển nhảy vọt của nghĩa quân trong quá trình vừa xây dựng vừa chiến đấu.


Lê Lợi chủ trương xây dựng tinh binh cùng với quá trình phát triển về số lượng, chất lượng nghĩa quân ngày càng cao, tổ chức biên chế ngày càng hoàn thiện, số tinh binh ngày càng nhiều. Trong hàng ngũ nghĩa quân có những đạo quân "thiết đột", quân "nghĩa dũng", quân "dũng sĩ" hay những đội "thị vệ" rất mực dũng cảm và trung thành. Đó là những tổ chức, đơn vị gồm những người khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, gan dạ và có ý chí quyết tâm hy sinh vì nước. Những người tài trí, mưu lược và dũng cảm đều được tuyển chọn, cất nhắc chỉ huy các đơn vị.


Nghĩa quân vừa trưởng thành trong thực tiễn chiến đấu, vừa trưởng thành trong tổ chức huấn luyện. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua huấn luyện tướng sĩ, sửa chữa, vũ khí, chưa đầy 10 ngày, chiến cụ đã đầy đủ cả. Bèn duyệt võ nghệ, dạy cho binh sĩ phép ngồi, đứng, đánh, đâm, chỉ bảo các thế kỳ, chính, phân, hợp, cho họ biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đội đã nghiêm chỉnh, tinh thần binh sĩ càng tăng thêm"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.254) ... ở một số nơi như Vĩnh Động (Kim Động), Đông Đô..., Lê Lợi đã chủ trương điểm duyệt quân ngũ và kiểm tra khí giới trang bị, đồng thời cũng tổ chức luyện tập thủy chiến, tập cách đánh thành, v.v... Vì thế, nghĩa quân càng luyện, khí giới càng tinh. Vũ khí trang bị của nghĩa quân từ chỗ tay không đến ngày càng đầy đủ. Một phần do nhân dân cung cấp, một phần do lấy được của quân thù, "phàm cung tên, giáo mác của giặc đều là chiến khí của ta, vàng bạc, châu báu của giặc đều là quân tư của ta" (Lam Sơn thực lục); nhưng chủ yếu nghĩa quân đã tự chế tạo ra và trang bị cho mình. Lê Lợi chủ trương mở nhiều lò rèn đúc khí giới, lập các xưởng đóng thuyền, chế tạo súng Cổn Dương, làm xe đánh thành; hạ lệnh khi kiểm duyệt quân ngũ, tướng lĩnh và quân sĩ nào để thiếu vũ khí đều bị trừng phạt theo quân luật; ngược lại, sẽ khen thưởng cho những ai bảo quản tốt vũ khí, trang bị.


Nhờ có quan điểm và phương thức xây dựng đúng đắn, nghĩa quân Lam Sơn đã nhanh chóng trưởng thành và trải qua những bước phát triển nhảy vọt. Từ một đội du kích nhỏ bé ở miền núi rừng Thanh Hóa đã trở thành quân đội giải phóng chính quy hùng mạnh, có số lượng lên tới trên 30 vạn quân, bao gồm nhiều đạo tinh binh, có cả quân thủy và quân bộ, có cả voi chiến và thuyền chiến... Càng tiến sâu xuống các vùng đồng bằng giàu nhân lực vật lực, nghĩa quân càng được bổ sung và phát triển nhanh. Nghĩa quân không chỉ trưởng thành về số lượng mà cả về tinh thần, kỹ thuật và kinh nghiệm chiến đấu. Sự lớn mạnh nhanh chóng của nghĩa quân đã từng bước làm chuyển biến tương quan lực lượng giữa nghĩa quân và quân Minh. Thế và lực quân ta ngày càng áp đảo quân địch. Có những kết quả đó, chủ yếu do Bộ chỉ huy Lam Sơn, đứng đầu là Lê Lợi và Nguyễn Trãi có quan điểm, tư tưởng đúng đắn trong việc tổ chức, xây dựng nghĩa quân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #89 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2021, 10:09:24 am »

b) Tư tưởng khởi nghĩa toàn dân của Lê Lợi - Nguyễn Trãi

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trước hết là cuộc chiến tranh yêu nước và chính nghĩa, một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nhằm cứu nước, cứu dân khỏi ách thống trị tàn bạo của ngoại bang. Đó là tính chất và nội dung cơ bản của khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân thể hiện rất đậm nét trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trong chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo.


Vào khoảng đầu thế kỷ XV, chế độ phong kiến nước ta đang trên đường phát triển nhưng lại trải qua những biến động sâu sắc để gạt bỏ một số trở ngại trong lòng xã hội. Dù gặp nhiều khó khăn bên trong, nhưng trước sự xâm lược của quân Minh, chính quyền nhà Hồ do Hồ Quý Ly đứng đầu đã kiên quyết chủ trương kháng chiến và đã bỏ nhiều sức lực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến ấy. Cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo là một cuộc kháng chiến giữ nước, một cuộc chiến tranh yêu nước chính nghĩa; nhưng cuộc kháng chiến đó đã thất bại vì chính quyền nhà Hồ không tập hợp được lực lượng kháng chiến toàn dân, không vận dụng được chiến lược, chiến thuật thích hợp cho cuộc chiến tranh của một nước nhỏ chống lại sự xầm lược của một nước lớn. Sự thất bại của cuộc kháng chiến ấy cũng đã được dự báo trước, khi Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng nói trong cuộc họp bàn kế sách đánh giặc rằng: "Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi". Nhà Hồ đã bỏ ra bao công sức để chuẩn bị kháng chiến. Thế mà, chỉ trong vòng nửa năm, cơ đồ tan vỡ, nước mất vào tay giặc Minh. Cũng chỉ vì triều Hồ "chính sự phiền hà", "để đến nỗi lòng dân oán giận", cuộc kháng chiến không tập hợp được lực lượng yêu nước của toàn dân.


Trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã từng có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Trần Ngỗi, khởi nghĩa Trần Quý Khoáng, do một bộ phận quý tộc yêu nước lãnh đạo. Những cuộc khởi nghĩa đó đều là những cuộc đấu tranh giải phóng có tính chất yêu nước, chính nghĩa. Tuy đã giành được một số thắng lợi nhất định, nhưng cuối cùng các cuộc khởi nghĩa đó đều đã thất bại. Nguyên nhân thất bại có nhiều, nhưng chủ yếu là vì bộ phận lãnh đạo đã không nêu lên một đường lối kháng chiến dựa vào dân, không đoàn kết được nhân dân, không tiến hành được một cuộc chiến tranh giải phóng có tính nhân dân rộng rãi. Trong điều kiện từ tay không mà xây dựng lực lượng để đương đầu với kẻ thù lớn mạnh gấp bội phần, có cả chính quyền và quân đội trong tay, một cuộc chiến tranh giải phóng chỉ có thể đi đến thắng lợi khi nó phát triển thành một cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, khi nó lôi cuốn và tổ chức, lãnh đạo được lực lượng kháng chiến của toàn dân. Những nhà quý tộc yêu nước như Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng, hoặc cha con Đặng Tất - Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Chân - Nguyễn Cảnh Dị cũng như những người lãnh đạo khác trong phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn, do hạn chế về tầm nhìn và năng lực chủ quan, đã tỏ ra bất lực, không có tư tưởng tiến bộ, không có phương sách hợp lý để phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính nhân dân trong cả nước.


Chiến tranh yêu nước và chính nghĩa, trong bản thân nó đã chứa đựng một sức mạnh tiềm tàng to lớn, một khả năng thắng lợi. Nhưng một cuộc chiến tranh yêu nước và chính nghĩa mà lãnh đạo bất lực và sai lầm về tư tưởng, đường lối thì thất bại. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ và những cuộc đấu tranh giải phóng ngay sau đó đã chứng tỏ như vậy.


Đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), dưới sự lãnh đạo của tầng lớp địa chủ tiêu biểu cho bộ phận tiến bộ nhất trong giai cấp phong kiến lúc bấy giờ, đã khắc phục được những nhược điểm và sai lầm của những cuộc khởi nghĩa trước đó. Để đưa sự nghiệp giải phóng đến thắng lợi, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từng bước phát triển trở thành trung tâm của phong trào đấu tranh trong phạm vi cả nước, thành một cuộc chiến tranh có tính chất nhân dân rộng rãi. Tính chất yêu nước và chính nghĩa, sự tham gia và ủng hộ của toàn dân, đó là sức mạnh vật chất và tinh thần của cuộc khởi nghĩa và cũng là nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.


Có được phong trào như vậy trước hết là do nghĩa quân Lam Sơn được dẫn dắt và lãnh đạo bởi một Bộ tham mưu có tư tưởng và đường lối phát động chiến tranh phù hợp. Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa không những đã hiểu rõ sức mạnh của tinh thần yêu nước và chính nghĩa, sức mạnh của nhân dân mà còn biết phát huy sức mạnh tiềm tàng đó để tổ chức và tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.


Sau khi đánh bại nhà Hồ và thiết lập nền đô hộ trên đất nước ta, quân Minh đã tự lột bỏ mọi chiêu bài "phù Trần diệt Hồ", "hưng diệt kế tuyệt"..., lộ rõ bản chất xâm lược và thi hành những chính sách áp bức, bóc lột hết sức tàn bạo về mọi mặt. Âm mưu thâm độc của kẻ thù là đồng hóa nhằm xoá bỏ cả sự tồn tại của quốc gia Đại Việt, vĩnh viễn duy trì nền đô hộ ở nước ta.


Dưới sự thống trị của quân Minh, vận mệnh của cả dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt, quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân đều bị uy hiếp và sự sống còn tối thiểu của con người bị chà đạp. Với lòng yêu nước và chí căm thù giặc sục sôi, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh. Biết bao cuộc khởi nghĩa đã bị nhấn chìm trong biển máu, nhưng lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giành độc lập vẫn rực cháy trong tâm can mọi người.


Cũng chính xuất phát từ lòng yêu nước và chí căm thù ấy mà Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những anh hùng, hào kiệt từ bốn phương đã tụ nghĩa ở Lam Sơn. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ với sứ mạng lịch sử giải phóng đất nước, cứu dân, cứu nước. Trong tư tưởng của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã sớm hình thành một quan điểm khá rõ ràng, đó là phát động cuộc khởi nghĩa nhân dân, vì dân và dựa vào dân để đánh giặc, cứu nước. Các ông chủ trương trước hết phải dựa vào dân. Khơi nghĩa nhằm đem lại an ninh, hạnh phúc cho nhân dân.


Nguyễn Trãi, nhà tư tưởng lớn của thời đại đã sớm đến với Lê Lợi và hai ông đã tâm đắc với nhau về đường lôi "cứu nước gắn liền với cứu dân", cứu nước là cứu dân, chiến đấu "vì nước" phải kết hợp với chiến đấu "vì dân" và muốn cứu nước, cứu dân thì "trước hết phải lo trừ bạo", đánh đuổi bọn xâm lược và tay sai của chúng. Tư tưởng nhân dân sâu sắc là nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi. Tấm lòng của Nguyễn Trãi luôn hướng về dân, thông cảm với nỗi đau khổ của dân và Nguyễn Trãi đã thấy được sức mạnh vĩ đại của lòng dân yêu nước, đó là sức mạnh nước có thể chở thuyền và lật thuyền (Phúc chu thủy tín dân do thủy). Từ thực tiễn lịch sử lúc bấy giờ, Nguyễn Trãi đã rút ra rằng, vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, đều do sức mạnh của dân quyết định. Với tấm lòng thương dân, tin dân, Nguyễn Trãi đã nhận thức sâu sắc vai trò quyết định của dân trong những biến thiên của lịch sử. Ông khẳng định, chỉ có sự tham gia của nhân dân thì sự nghiệp cứu nước mới thành công được. Ông tìm đến Lê Lợi để thực hiện hoài bão đó. Có Nguyễn Trãi, đường lối cứu nước của Lê Lợi càng hoàn thiện hơn.


Phương châm, đường lối chính trị cơ bản của cuộc khởi nghĩa như Nguyễn Trãi đã đề ra trong Bình Ngô sách là "công tâm" (đánh vào lòng người). Điều đó có nghĩa là lấy sức mạnh của tinh thần yêu nước và chính nghĩa để tuyên truyền và vận động quần chúng, để tập hợp và xây dựng lực lượng, để đấu tranh với bạo lực phi nghĩa của quân thù. Tư tưởng, đường lối đó được Lê Lợi hết sức tâm đắc và tin tưởng. Trong quá trình lãnh đạo chiến tranh giải phóng, Nguyễn Trãi luôn ở nơi màn trướng, bày mưu tính kế, giúp việc, tham mưu cho Lê Lợi.


Trong tất cả những văn kiện chính thức của cuộc khởi nghĩa mà Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi thảo ra, từ mệnh lệnh gửi cho nghĩa quân, chiếu dụ gửi cho các hào kiệt đến thư từ giao thiệp với tướng Minh và bài Bình Ngô đại cáo, đều toát lên tư tưởng dựa vào dân để đánh giặc với một niềm tin tưởng vững chắc ở sức mạnh của chính nghĩa và của lòng dân. Tổng kết lại mục đích và nguyên nhân thắng lợi cơ bản của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi viết:

   "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
   Quân cứu nước trước cần trừ bạo,...
   Rút cục, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn,
   Lấy chí nhân mà thay cường bạo"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.77-79).


Tư tưởng, đường lối của cuộc khởi nghĩa là nêu cao ngọn cờ "đại nghĩa" và "chí nhân", kiên quyết đứng lên quét sạch quân Minh khỏi bờ cõi, giành lại non sông. Đường lối đó chỉ rõ: kẻ thù dân tộc là giặc Minh tàn bạo, lực lượng kháng chiến là đông đảo nông dân nghèo khổ, là anh hùng, hào kiệt bốn phương, phương thức khởi nghĩa là kháng chiến toàn dân, cả nước cùng đánh giặc.


Tư tưởng, đường lối cứu nước của Lê Lợi và Nguyễn Trãi phù hợp với lòng dân, với nguyện vọng giải phóng đất nước thiết tha của toàn dân. Và vì vậy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã kết tinh được sức mạnh tinh thần và vật chất của nhân dân.


Điểm giống nhau căn bản của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và những cuộc khởi nghĩa chống Minh khác là ở tính chất yêu nước và chính nghĩa, tính chất giải phóng dân tộc. Điểm khác nhau căn bản là ở chỗ Bộ tham mưu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã biết dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh to lớn về tinh thần và vật chất của nhân dân để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân lâu dài và tất thắng.


Nghĩa quân Lam Sơn là những người xuất thân từ nhiều thành phần giai cấp và dân tộc khác nhau, nhưng tất cả đều thống nhất ở một mục đích cao cả là cứu dân, cứu nước, là bảo vệ độc lập của Tổ quốc, đồng thời cũng là bảo vệ quê hương, gia đình của bản thân mỗi người.


Lê Lợi chủ trương dựa vào dân để xây dựng lực lượng nghĩa quân, dựa vào những người nông dân nghèo khổ, những người nông nô, nô tì bị áp bức để đánh giặc: "Dựng gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ". "Manh lệ" là những người dân cày ruộng, những người tôi tớ. Họ từ bôn phương tụ họp lại dưới lá cờ cứu nước của Lê Lợi và chính họ là chủ lực quân Lam Sơn. Trong hàng ngũ nghĩa quân còn có nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số anh em mà trong các tài liệu lịch sử thời phong kiến thường gọi là "man binh", là "quân áo đỏ", "quân thượng du"...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM