Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:11:19 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 6639 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:41:48 pm »

b) Cấu trúc xã hội, chế độ chính trị

Trên nền tảng vững vàng đã được xây dựng từ thời Lý, triều Trần tiếp tục công việc dựng nước; trước hết là củng cố quốc gia thống nhất, tăng cường lực lượng quốc phòng và phát triển kinh tế để lo đối phó với nạn ngoại xâm.


Vào đầu thời Trần, chế độ trung ương tập quyền không những đã được khôi phục mà còn được tăng cường về mọi mặt. Nhà nước phong kiến Đại Việt bao gồm một hệ thống chính quyền bốn cấp gồm: triều đình trung ương, các lộ trấn, các phủ huyện, châu, các hương, giáp hoặc xã. Triều đình trung ương là cơ quan tập trung quyền lực cao nhất trên mọi hoạt động của đất nước, kiểm soát các địa phương thông qua hệ thống chính quyền các cấp và pháp luật của nhà nước phong kiến.


Trong bộ máy chính quyền nhà Trần, đội ngũ quan lại ngày càng đông đảo, gồm có quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương), chia thành hai ban văn và võ, với đủ các chức vụ, tước hiệu và phẩm hàm khác nhau. Về hình thức, cơ cấu chính quyền Đại Việt có phần mô phỏng theo mô hình Đường - Tống, nghĩa là theo mô hình bộ máy quan liêu đông đảo từ triều đình đến địa phương. Tuy nhiên, sự mô phỏng đó cũng chỉ ở một chừng mực nhất định, chẳng hạn, chỉ tên gọi các tước hiệu, phẩm hàm hay phẩm phục quan chức là giống, còn việc tổ chức, tuyển mộ, sắp đặt và sử dụng quan lại của Đại Việt có nhiều điểm khác biệt. Tính độc lập, tự chủ ở lĩnh vực này thể hiện trên quan điểm của triều đình cũng như trên thực tế tổ chức, sử gia Ngô Sĩ Liên viết rằng: Triều thần bấy giờ như Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh có ý muốn thay đổi chế độ quan lại. Vua nói: Nhà nước đã có phép tắc nhất định, Nam - Bắc khác nhau; nếu nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng trên đường tiến thân thì sinh loạn ngay. Hoặc như Vua Trần Nghệ Tông nói: "Triều trước dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.151).


Bộ máy triều đình trung ương được tổ chức khá hoàn chỉnh. Trên hết là vua, dưới vua có tể tướng với chức thống quốc thái sư (như trường hợp Trần Thủ Độ) hay thống chính thái sư và sau được quy định thống nhất là bình chương sự, đồng bình chương sự, nhập nội hành khiển. Thân vương khi làm tể tướng được xưng là quốc công thượng hầu. Bên dưới là hàng quan văn quan võ, đứng đầu là một số trọng chức gồm tam thái và tam thiếu. Những cơ quan chuyên trách mang tên các quán, các sảnh, viện, cục, đài, ty.


Nhà nước trung ương tập quyền thời Trần được khôi phục và phát triển trên mọi phương diện, sử gia Phan Huy Chú nhận xét rằng, bộ máy quan lại thời Trần gồm "các chức quan trong và quan ngoài, lớn nhỏ đều có hệ thống"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.II, tr.Cool. Đó là hệ thống chính quyền gồm có các cơ quan hành chính và chuyên môn, đội ngũ quan lại được tổ chức, quản lý ngày một quy củ và chặt chẽ hơn. Đó là một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông, đứng đầu là hoàng đế (vua), tiếp dưới là hệ thống quan lại chia thành hai ban "văn giai" và "võ giai" quản lý cơ quan hành chính, quân sự.


Hoàng đế (vua) đứng đầu triều đình, có quyền lực tối cao trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước. Trong lĩnh vực này, hoàng đế Đại Việt thường ở cương vị như một thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định trong việc tổ chức, động viên và chỉ huy quân đội, điều hành các hoạt động quân sự của quân đội quốc gia. Khi có chiến tranh, nhiều khi hoàng đế hoặc hoàng tử đã trực tiếp "tự làm tướng" cầm quân đánh giặc. Nhiều vị vua Trần đã thân chinh chỉ huy các đạo quân chinh phạt Chiêm Thành quấy phá biên giới, hoặc thực hiện các cuộc hành quân lớn đánh dẹp các thế lực chống đối. Thậm chí có những vị vua đã bỏ mình nơi trận mạc, như Trần Duệ Tông đã hy sinh trên đất Chiêm Thành năm 1377. Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông là những vị vua anh hùng của cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, đã từng xông pha trận mạc, từng đồng cam cộng khổ với dân và với binh sĩ. Những vị đó có học vấn uyên bác lại rất quan tâm xây dựng sự đồng tâm trong triều đình và cả nước. Vua Trần Anh Tông không ngại tuổi già đã nhiều lần cầm quân đi dẹp "giặc Ngưu Hống".


Thông qua cương vị thủ lĩnh quân sự, vua muốn thế hiện chức năng và quyền uy của mình, đồng thời cũng để làm gương trước các quần thần, tướng sĩ. Ngay trong thời bình, các vua Trần thường xuống chiếu nhắc nhở các tướng sĩ không được lơ là việc phòng thủ quốc gia, phải chăm lo luyện rèn binh sĩ, đóng chiến thuyền và rèn đúc khí giới. Nhà vua thường đi kinh lý bốn phương để tỏ ý gần dân, tìm hiểu địa hình và chuẩn bị phương lược giữ nước. Vua Trần Anh Tông biết Trần Quốc Tuấn ốm không thể qua khỏi đã đến thăm và lo lắng hỏi: "Nếu có điều gì chẳng may mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Bảo vệ đất nước, chuẩn bị lực lượng và kế sách đánh phòng là một nhu cầu thường xuyên được những người đứng đầu triều đình hết sức quan tâm. Một nét nổi bật của triều Trần là các vua thường sớm nhường ngôi cho con rồi lên làm thái thượng hoàng, nhưng vẫn trực tiếp trông nom việc nước. Đây là một cách tập dượt cho vua con làm quen dần với việc điều hành đất nước khi vua cha còn sống, nhưng chủ yếu là để ngăn ngừa cướp ngôi, bảo vệ vương quyền.


Sau vua là giới quý tộc, thân vương và công chúa có nhiều đặc ân, được phong nhiều chức tước cao và được giao những trọng trách, nhất là trong lĩnh vực quân sự, như các chức tiết chế quân sự, phiêu kỵ tướng quân, thượng tướng, đại tướng, v.v. chỉ huy các đạo quân lớn, chịu trách nhiệm một mũi tiến công, chỉ huy cấm binh bảo vệ kinh thành hay được quyền trấn trị ở các vùng quan trọng. Các vương hầu được phái đi trấn trị, kiểm soát các châu lộ chủ yếu, bảo đảm sự trung thành về mặt chính trị của địa phương đối với triều đình.


Các vương hầu quý tộc được quyền trấn trị các vùng, có thái ấp, điền trang, phủ đệ và đội quân riêng, chứng tỏ yếu tố phân tán vẫn còn tồn tại trong xã hội phong kiến thời Trần. Tuy nhiên, yếu tố phân tán này luôn bị hạn chế bởi tính chất xã hội cùng với những chính sách ràng buộc của nhà nước tập quyền.


Tính chất quý tộc huyết thống hay quý tộc đồng tộc họ Trần là một nét nổi bật của vương triều Trần. Để bảo vệ vương quyền cũng như địa vị thống trị độc tôn của dòng họ, nhà Trần còn quy định những người trong hoàng tộc phải kết hôn với nhau. Sự cố kết quan hệ họ hàng, tông tộc bằng những lợi ích chính trị và kinh tế có tác dụng thắt chặt tinh thần đoàn kết trong giai cấp thống trị. Tất nhiên, tính chất quý tộc huyết thống nói trên không phải hoàn toàn, bên cạnh đội ngũ quý tộc dòng họ, còn xuất hiện ngày càng đông và có vị trí ngày càng quan trọng tầng lớp quan liêu xuất thân từ nhiều thành phần xã hội khác nhau.


Bên cạnh tầng lớp quý tộc là bộ máy quan lại từ trung ương đến địa phương. Chế độ tuyển dụng quan lại vừa bằng khoa cử vừa tiến cử. Tổ chức bộ máy quan lại thời Trần chặt chẽ và tập trung hơn thời Lý. Cả nước chia làm 12 lộ, đứng đầu là chức an phủ sứ. Riêng vùng Kinh thành Thăng Long được coi như một phủ đặc biệt. Năm 1265, chức quan đứng đầu kinh thành được đổi làm kinh sư an phủ sứ, rồi kinh sư đại doãn.


Dưới các lộ có phủ, châu, rồi đến huyện hay hương và cuối cùng là xã. Mỗi đơn vị hành chính đều có cấp chính quyền tương ứng: phủ có chức trấn phủ sứ; châu có chức thông phán, thiên phán; huyện có lệnh úy, chủ bạ; xã có đại tư xã, tiểu tư xã...


Trong cấu trúc xã hội thời Trần, hệ thống cộng đồng làng xã, hương thôn đã đóng một vai trò khá quan trọng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa chưa phát triển mạnh, các làng xã nông nghiệp còn tương đối khép kín, tự cung, tự cấp. Ở đó, những hộ nông dân quần tụ, gắn bó trong mối quan hệ vừa thân tộc vừa láng giềng. Có thể coi đây là nền tảng, là cơ sở của cả cấu trúc xã hội, trong đó bao gồm đông đảo những người nông dân và các thợ thủ công, tức thành phần chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng sức mạnh phòng vệ đất nước. Làng xã là những pháo đài bất khả xâm phạm trong kháng chiến chống xâm lược.


Tầng lớp dưới cùng của bậc thang xã hội Đại Việt là nông nô, nô tỳ. Đây là di sản của xã hội cổ xưa. Đến thời Trần, nông nô, nô tỳ phát triển tương đối mạnh. Lúc đó, tầng lớp quý tộc, địa chủ đang là lực lượng quan trọng ủng hộ chính quyền và đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, họ được nhà nước cho phép nuôi người phục dịch, chiêu mộ dân nghèo, người lưu tán khai phá đất hoang, lập các trang trại.


Cùng với sự phát triển của chính quyền về mặt hành chính là quá trình kiện toàn chức năng lập pháp và hành pháp của nó. Dưới thời Trần, các hoạt động lập pháp đã phát triển. Bên cạnh bộ Quốc triều thông chế gồm 20 quyển, xác định quy chế tổ chức chính quyền, nhà nước còn tổ chức biên soạn và nhiều lần sửa đổi bổ sung Hình luật - những bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Các bộ luật này đã thất truyền. Tuy vậy, căn cứ vào các lệnh dụ của nhà vua hoặc các việc làm cụ thể được sử sách ghi chép, có thể nói rằng, luật pháp thời Trần đã đề cập đến nhiều lĩnh vực, trong đó có những chế định về quyền hạn và trách nhiệm của mỗi thành viên đối với xã hội, về nghĩa vụ binh dịch của các đinh tráng, về nghĩa vụ đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, về chức năng của các loại quân trong việc bảo vệ hoàng cung, bảo vệ chính quyền và biên giới Tổ quốc.


Công cuộc xây dựng đất nước thời Trần tiến hành trong hoàn cảnh nạn ngoại xâm luôn luôn là một nguy cơ trực tiếp. Chỉ trong vòng 30 năm (1258 - 1288), Đại Việt phải tiến hành liên tục ba cuộc chiến tranh giữ nước mà kẻ thù là thế lực bành trướng xâm lược lớn và hung bạo. Đó là chưa kể những lần nổi loạn hay những cuộc xâm phạm biên giới của thù trong, giặc ngoài. Do đó, để củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ và đồng thời để tăng cường lực lượng quốc phòng, sẵn sàng ứng phó với nguy cơ xâm lược của nước ngoài, chính quyền nhà Trần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang của mình. Lực lượng vũ trang đó gồm có quân triều đình, quân địa phương các lộ, phủ, gia binh của các vương hầu và dân binh, hương binh các làng xã. Lực lượng vũ trang thời Trần đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ vương quyền và đã lập nhiều chiến công rực rỡ trong công cuộc đánh giặc, giữ nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:42:33 pm »

c) Những thành tựu trên lĩnh vực phát triển kinh tế

Sau khi thiết lập vương quyền, nhà Trần chăm lo xây dựng và phát triển kinh tế. Công cuộc xây dựng đất nước ngày một quy mô, có nhiều thành tựu, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển quốc gia phong kiến dân tộc. Nước Đại Việt thời Trần đã trở thành một quốc gia văn minh, thịnh vượng nổi tiếng trong vùng Đông Nam Á.


Chính quyền phong kiến coi trọng nghề nông và đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Sức sản xuất vì thế được phục hồi nhanh chóng và tiếp tục phát triển. Sức lao động và sức kéo trong nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Nông dân có ruộng công, xóm làng yên vui. Quân lính được thay phiên về tham gia sản xuất theo chính sách "ngụ binh ư nông".


Đồng ruộng và thôn xóm mở rộng bởi những công trình khẩn hoang của tư nhân và của nhà nước. Quy mô của công trình khẩn hoang và thủy lợi ngày một lớn. Năm 1248, triều Trần ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bờ biển gọi là đê quai vạc. Hệ thống đê điều dọc sông Hồng và các sông lớn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ khá hoàn chỉnh. Chức hà đê chánh và phó sứ được đặt để quản lý và trông coi đê điều. Nhiều kênh ngòi được đào mới và khơi sâu thêm.


Nhà nước khuyến khích khai phá đất hoang lập các trang trại lớn, vì thế các khu định cư và các vùng đất canh tác mới xuất hiện, ở các lộ, chức đồn điền chánh và phó sứ được đặt để quản lý, đôn đốc việc khẩn hoang. Năm 1266, nhà vua xuống chiếu cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu tập dân nghèo không có đất làm nô tỳ, đi khai hoang ven biển, lập các điền trang.


Buổi đầu thời Trần, bên cạnh ruộng đất làng xã và ruộng đất phong kiến của quý tộc thuộc sỏ hữu nhà nước, bộ phận ruộng đất tư hữu đã phát triển mạnh mẽ. Năm 1237, Trần Thái Tông đã quy định thể lệ chúc thư, văn khế ruộng đất và cho vay tiền. Năm 1254, Trần Thái Tông cho phép bán quan điền, tức ruộng công, cho dân mua làm ruộng tư, cứ mỗi "diện" (mẫu) giá 5 quan. Chế độ thuế khóa quy định trên cơ sở chế độ sở hữu ruộng đất.


Dưới thời Trần, các nghề thủ công trong nước có điều kiện phát triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt vải, lụa, làm gốm sứ, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đồng, nghề rèn sắt, v.v.. Trong nông thôn Đại Việt xuất hiện những làng thủ công chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống của mình. Kinh thành Thăng Long có 61 phường, mỗi phường làm một nghề thủ công như phường Tàng Kiếm nổi tiếng làm áo giáp, binh khí, kiệu và các đồ nghi trượng; phố xá buôn bán các sản phẩm ngày một sầm uất. Nghệ thuật gốm sứ thời Lý - Trần mang đậm bản sắc dân tộc, có trình độ thẩm mỹ cao và đạt đến đỉnh cao trong lịch sử phát triển của nó. Nghề khai mỏ và luyện kim, chủ yếu là đồng và sắt, đã cung cấp thỏa mãn nguyên liệu cho các nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ cũng như các loại vũ khí, chiến cụ trang bị cho quân đội.


Nội thương, ngoại thương và giao thông thủy, bộ ở Đại Việt từng bước mở mang và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động quân sự, góp phần hạn chế yếu tố phân tán trong xã hội và mở rộng mối giao lưu với nước ngoài. Nhiều trung tâm thương nghiệp xuất hiện, chợ búa mọc lên khắp các làng quê. Quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với các nước khác như Trung Quốc, Chiêm Thành, Java (Inđônêxia), Chân Lạp, Xiêm, Hồi Hột (vùng Tân Cương), v.v. được thực hiện chủ yếu qua thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) và một số cửa biển lớn ở miền Trung. Nhà Trần không hạn chế ngoại thương, nhưng luôn luôn có những biện pháp quản lý rất chặt chẽ để đề phòng âm mưu do thám của người nước ngoài, nhằm bảo vệ an ninh và chủ quyền đất nước.


Những chính sách tiến bộ cùng với những thành quả xây dựng kinh tế ở Đại Việt tạo ra một cơ sở vật chất vững vàng cho sự tồn tại của quốc gia độc lập, nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh phòng thủ đất nước.


   
d) Văn hóa, tư tưởng

Sự thịnh vượng của đất nước cùng với những chiến công oai hùng trong các cuộc chiến tranh giữ nước thời Lý - Trần có rất nhiều ý nghĩa, ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm dân tộc và đời sống tinh thần của nhân dân, nó thúc đẩy các yếu tố văn hóa, tư tưởng phát triển.


Nhà Trần mở rộng Nho học, mở mang việc học và thi cử để đào tạo và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính và chuyên môn. Tại Kinh thành Thăng Long có Quốc học viện dành riêng cho con em quý tộc, quan lại và sau mở rộng cho các nho sĩ vào học. Thể lệ thi cử và học vị được quy định ngày càng quy củ. Trong xã hội, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo và từng bước đẩy lùi thế lực tăng lữ trên lĩnh vực chính trị cũng như tư tưởng. Quan lại xuất thân từ Nho học ngày càng chiếm ưu thế trong bộ máy chính quyền và nắm giữ những chức vụ quan trọng. Trong tầng lớp này đã xuất hiện những nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn và những học giả xuất sắc như Tuệ Trung Thượng sĩ (Trần Tung), Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Trương Hán Siêu...


Yêu cầu của công cuộc giữ nước cũng như bản thân các cuộc kháng chiến vĩ đại đã thúc đẩy nền văn hóa, văn học mang đậm màu sắc và ý thức dân tộc. Ra đời trong không khí hào hùng của dân tộc, nền văn học thời Trần chứa đựng một tinh thần dân tộc mạnh mẽ, một ý thức tự hào dân tộc sâu sắc. Du chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ) của Trần Hưng Đạo, thơ Tụng giá hoàn kinh sư (phò giá về Kinh sư) của Trần Quang Khải, Bạch Đẳng giang phú (phú sông Bạch Đằng) của Trương Hán Siêu... là những tác phẩm văn học, những áng thơ văn tiêu biểu nhất thể hiện sinh động chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng thời Trần. Niềm kiêu hãnh với chiến công thắng giặc Mông - Nguyên cũng in đậm trong thơ văn của Trần Nhân Tông, Phạm Ngũ Lão, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn... Bấy giờ chữ Nôm bắt đầu được phổ biến và vận dụng trong sáng tác văn học. Đó cũng là một thành tựu văn hóa tiêu biểu.


Dưới thời Trần, công việc biên soạn lịch sử dân tộc bắt đầu phát triển. Quốc sử viện được thành lập phụ trách ghi chép lịch sử các triều đại. Nhiều nhà sử học nổi tiếng mà tiêu biểu là sử gia Lê Văn Hưu với bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển, đã đặt nền móng cho sử học nước nhà. Yếu tố văn hóa này có tác động rất lớn đối với các tướng lĩnh, quân sĩ, cũng như tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Những chiến công lẫy lừng, những lời nói đanh thép của Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Đỗ Khắc Chung... được phản ánh trong sử sách là biểu hiện chủ nghĩa yêu nước, khí phách dân tộc, nó có ý nghĩa khích lệ lớn lao tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp xã hội.


Bên cạnh nền văn hóa cung đình, trong xã hội còn có một nền văn hóa dân gian đa dạng và phong phú. Trong nông thôn Đại Việt, người nông dân công xã vẫn bảo lưu những phong tục tập quán cổ truyền, vẫn duy trì quan hệ cộng đồng chặt chẽ, sớm kết hợp tình làng nghĩa xóm với ý thức quốc gia dân tộc, gắn nước với làng. Các lễ hội truyền thống rất thịnh hành, đượm tinh thần thượng võ như bơi thuyền, đánh gậy, đánh phết, đánh đu, cướp cù, v.v... Các lễ hội thường gắn liền với việc đề cao tinh thần yêu nước, truyền thống đánh giặc giữ nước và suy tôn các anh hùng dân tộc. Điều đó tạo nên những yếu tố thuận lợi để nhà nước huy động nhân lực, vật lực cho quân đội, cho chiến tranh; đồng thời yếu tố văn hóa truyền thống đó cũng làm tăng thêm sức mạnh tinh thần cho những người lính vốn xuất thân từ các cộng đồng làng xã.


Cũng như trên lĩnh vực kinh tế, trên phương diện văn hóa, tư tưởng, Đại Việt đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhân dân ta đã phát huy những tinh hoa và giá trị của nền văn hóa cổ truyền, tiếp thu có lựa chọn những yếu tố tích cực từ bên ngoài để xây dựng nên một nền văn hóa tiến bộ, có bản sắc riêng, có ý thức dân tộc cao; đó là nền văn hóa Đại Việt rực rỡ, là cốt cách, là tinh thần dân tộc, có ảnh hưởng tích cực đến công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.


Tóm lại, nước Đại Việt thời Trần là một quốc gia dân tộc thống nhất, có thế chế chính trị ổn định, có nền kinh tế, văn hóa phát triển mang đậm bản sắc dân tộc. Sự phát triển độ khẳng định và củng cố những thành tựu dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực là cơ sở hình thành và phát triển những tư tưởng quân sự tiến bộ, làm tăng cường sức mạnh cho nền quốc phòng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động quân sự của dân tộc, nhất là trong những giai đoạn đất nước có chiến tranh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:44:05 pm »

2. Ba lần chống xâm lược Mông - Nguyên

Thế kỷ XIII, dân tộc ta phải đương đầu với nạn xâm lăng cực kỳ nguy hiểm của đế quốc Mông - Nguyên, một đế quốc lớn và hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Trong vòng 30 năm (1258 - 1288), quân xâm lược Mông - Nguyên, ba lần tiến công xâm lược Đại Việt. Quân và dân Đại Việt đã kiên cường đứng lên kháng chiến chống xâm lược.


a) Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (năm 1258)

Trong lúc nhân dân ta đang ra sức đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước thì ở phương Bắc, những đoàn quân viễn chinh khét tiếng tàn bạo của Thành Cát Tư Hãn và các vua chúa Mông cổ đang thực hành cuộc viễn chinh gây nhiều đau thương, tàn phá trên các lục địa Á - Âu và đe dọa nghiêm trọng nền độc lập và sống còn của dân tộc ta.


Năm 1257, đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai từ Vân Nam được lệnh của chúa Mông Cổ là Mông Kha tiến xuống chiếm Đại Việt rồi từ đó vu hồi đánh Nam Tống.


Hốt Tất Liệt (em Mông Kha) sai sứ sang dụ vua Trần đầu hàng; nhưng đã bị vua Trần cho tống giam. Triều đình ra lệnh cả nước sắm sửa vũ khí, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Vua Trần Thái Tông chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu và thân chỉ huy 3 vạn quân lên lập chiến tuyến ở Bình Lệ Nguyên.


Đầu năm 1258, khoảng 3 vạn kỵ binh Mông cổ vượt biên giới tiến vào nước ta. Ngày 17-1-1258, chúng tiến xuống Bình Lệ Nguyên.


Sau một trận chiến đấu ác liệt, quân Trần "thất lợi". Theo mưu kế của Lê Tần (tức Lê Phụ Trần), quân ta rút về Phù Lỗ, phá cầu và lập chiến tuyến tiếp tục chặn địch. Dựa vào ưu thế binh lực, quân Mông Cổ tiến đánh rất mạnh, buộc vua Trần phải ra lệnh rút về Thăng Long và sau đó chủ động rời khỏi Thăng Long về Thiên Mạc (Khoái Châu).


Quân ta rút lui trên các mặt trận và phải rời bỏ cả kinh thành, nhưng triều đình, tướng sĩ và quân dân vẫn không hề nao núng. Lúc đó, Thái sư Trần Thủ Độ tâu với vua: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".


Quân dân ta thực hiện kế "thanh dã" (vườn không, nhà trống) triệt để, nên mặc dù quân giặc chiếm được Thăng Long nhưng không tìm đâu ra một bóng người và lương thực. Sau chín ngày đêm, chúng tiến thoái lưỡng nan phải án binh bất động.


Ngày 29-1-1258, Vua Trần Thái Tông cùng các tướng lĩnh chỉ huy binh thuyền theo sông Hồng tiến về Thăng Long và lợi dụng đêm tối tập kích địch ở Đông Bộ Đầu. Bị đánh bất ngờ, quân Mông Cổ đại bại và tháo chạy; đến trại Quy Hóa, chúng bị Hà Bổng đón đánh. Ngột Lương Hợp Thai cùng tàn quân chạy về Vân Nam.


Cuộc kháng chiến đã giành được thắng lợi. Sử gọi đó là chiến công năm Nguyên Phong thứ 7 (1258) hay chiến thắng lần thứ nhất chống Mông - Nguyên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:45:52 pm »

b) Cuộc kháng chiến lần thứ hai (năm 1285)

Sau khi thôn tính toàn Trung Quốc, Hốt Tất Liệt lên làm vua, lập nên triều Nguyên (1271 - 1368). Để lấy cớ phát động chiến tranh xâm lược Đại Việt, trong quan hệ ngoại giao, nhà Nguyên ngày càng lấn tới, đe dọa và đề ra nhiều yêu sách hết sức ngang ngược, như bắt vua Trần phải cung cấp lương thực, cho mượn đường đánh Chiêm Thành và thậm chí còn ép triều Trần phải đầu hàng.


Nguy cơ chiến tranh đến gần. Triều đình Trần cùng nhân dân cả nước khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến. Năm 1282, vua Trần tổ chức Hội nghị Bình Than, cùng các vương hầu, tướng lĩnh bàn kế đánh giặc. Sau đó tổ chức Hội nghị Diên Hồng (1285). Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội và ban bố Hịch tướng sĩ cổ vũ quyết tâm kháng chiến trong toàn quân. Nhiều cuộc tập trận và thao diễn quân đội đã diễn ra. Ngoài các đơn vị của lực lượng tại chỗ, các đơn vị quân chủ lực cũng được chia ra giữ các vùng, cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc.


Nắm được tình hình điều động binh tướng và kế hoạch tiến công trên nhiều hướng của quân Nguyên, triều đình nhà Trần, trong đó có Trần Quốc Tuấn ở cương vị Quốc công tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) chủ trương tập trung lực lượng đánh tan đạo quân của địch trên hướng chủ yếu là hướng đông bắc và dùng một bộ phận lực lượng quân triều đình cùng quân địa phương chặn đánh địch trên hướng tây bắc và hướng nam. Mọi công tác chuẩn bị đều nhằm thực hiện thắng lợi ý đồ chiến lược đó. Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy quân đội trên hướng đông bắc; Trần Nhật Duật đảm nhận đánh địch ở hướng tây bắc; các quân ở các châu lộ Thanh Hóa, Nghệ An được lệnh chặn đánh quân địch từ hướng nam ra.


Đầu năm 1285, 60 vạn quân Nguyên từ phía đông bắc, tây bắc và nam tiến công nước ta. Từ phía bắc tiến xuống, quân Nguyên có hai đạo quân. Đạo chủ lực do Thoát Hoan chỉ huy đánh theo hướng Quảng Tây vào Lạng Sơn. Chúng tiến vào Lộc Bình, đánh các đồn biên giới của quân Trần ở Khâu Ôn, Khả Ly, Động Bản, Chi Lăng. Ngày 2-2, Thoát Hoan tiến công Nội Bàng. Trước thế giặc mạnh, Trần Quốc Tuấn lui về Vạn Kiếp. Ngày 11-2, Thoát Hoan tiến đánh Vạn Kiếp, Phả Lại và Bình Than. Sau trận Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn rút về giữ phòng tuyến sông Nhị Hà, sau đó rời khỏi Thăng Long về Trường Yên và Thiên Trường.


Đạo quân Nguyên thứ hai do Na Xi Rút Đin thống lĩnh từ Vân Nam vào sông Chảy. Trần Nhật Duật chặn đánh giặc ở Thu Vật (Yên Bái) rồi rút về Bạch Hạc. Sau đó lại lui về hội quân với triều đình ở hạ lưu sông Nhị Hà.


Từ phía nam, đạo quân do Toa Đô chỉ huy sau khi đánh Chiêm Thành, đã tiến ra Nghệ An1 (Vua Hốt Tất Liệt quyết định cho một đạo quân do Toa Đô chỉ huy tấn công Chiêm Thành trước, nhằm tạo chỗ đứng để hình thành thế tấn công vu hồi từ phía nam Đại Việt. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Chiêm Thành đã đánh bại đạo quân của Toa Đô, buộc chúng phải rút quân ra vùng bờ biển Quy Nhơn để chờ viện binh và đợi lệnh tấn công Đại Việt). Quân ta chiến đấu quyết liệt, nhưng không cản được bước tiến của địch. Một bộ phận quân Toa Đô ra Thanh Hóa. Trần Kiện hàng giặc. Trần Quang Khải được lệnh chỉ huy quân tăng cường chặn địch ở Thanh Hóa.


Quân địch tiến công mạnh trên cả hai mặt, từ bắc xuống, từ nam ra. Lúc cuộc chiến tranh đang gay go, ác liệt nhất, một số quý tộc, quan lại hèn nhát đầu hàng giặc. Tuy nhiên, cả triều đình và nhân dân Đại Việt vẫn kiên cường, quyết tâm kháng chiến và tin tưởng vào thắng lợi. Trần Quốc Tuấn nói với vua: "Bệ hạ muốn hàng hãy chém đầu tôi trước đã"; Trần Bình Trọng trả lời giặc: "Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc", v.v...


Trần Quốc Tuấn đã thực hành một cuộc rút lui, cơ động lực lượng, làm thất bại kế hoạch hợp vây của địch. Một số lực lượng theo đường biển tiến lên hoạt động ở vùng Đông Bắc, đại quân và triều đình rút về Thanh Hóa. Quân Nguyên vì thế mất đối tượng tác chiến. Trong cuộc truy đuổi, chúng không thực hiện được những đòn quyết chiến với chủ lực ta; trái lại, chúng gặp phải một cuộc chiến tranh mang đậm tính toàn dân, toàn diện của nhân dân Đại Việt.


Việc quân ta không thực hành các trận quyết chiến với quân địch ở các mặt trận như kế hoạch đã định đã đánh dấu sự thay đổi vê ý định chiến lược và phương thức tác chiến chiến lược của bộ thống soái Đại Việt. Từ đây trên chiến trường xuất hiện một hình thái mới, ta rút lui cơ động lực lượng, bảo toàn sinh lực, đồng thời phát động chiến tranh toàn dân, tiêu hao địch, tạo thời cơ để phản công tiêu diệt.


Thoát Hoan chia quân đóng giữ những vị trí quan trọng, lập trạm ngựa liên lạc với nhau. Nhưng càng rải quân ra chiếm đóng lâu dài, quân địch càng bị phân tán. Quân Trần kết hợp với dân binh tổ chức đánh nhỏ, đánh du kích khắp nơi. Quân Nguyên vừa bị tiêu hao mệt mỏi, lại gặp mùa hè đến, bệnh tật, ốm đau, lương thực thiếu thốn.


Như vậy, quân Nguyên sa vào tình trạng muốh đánh mà không được đánh; trái lại, càng ngày lực càng suy, thế càng yếu dần. Điều đó đã tạo ra thời cơ phản công cho quân ta.


Tháng 5-1285, Trần Quốc Tuấn ra lệnh phản công. Một loạt trận đánh diễn ra ở tuyến sông Nhị Hà như trận A Lỗ, trận Tây Kết - Hàm Tử, trận Chương Dương - Thăng Long, trận Trường Yên. Thoát Hoan thất bại liên tiếp phải rút chạy khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn chặn đánh ở Vạn Kiếp, tiêu diệt nhiều quân giặc. Thoát Hoan cùng tàn quân chạy về Lạng Sơn gặp phục binh ta chặn đường, Lý Hằng, Lý Quán đều bỏ mạng vì tên độc. Thoát Hoan may chui vào ống đồng để quân lính khiêng mới thoát thân.


Tàn quân Na Xi Rút Đin cũng tháo chạy về Vân Nam, trên đường chúng bị quân ta truy kích quyết liệt.

Toa Đô từ Thanh Hóa ra Trường Yên nhưng không hội quân được với Thoát Hoan. Ngày 24-6-1285, hai vua Trần và Trần Quang Khải đánh Toa Đô ở Tây Kết. Quân Nguyên đại bại, Toa Đô tử trận.


Cuối tháng 6-1285, toàn bộ quân xâm lược đã bị tiêu diệt và quét sạch ra khỏi bờ cõi nước ta. Cuộc kháng chiến vô cùng gay go, ác liệt, nhưng kết cục, dân tộc ta đã giành toàn thắng. Ngày 9-7-1285, vua Trần và triều đình trở về Thăng Long cùng cả nước ăn mừng thắng lợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:47:55 pm »

c) Cuộc kháng chiến lần thứ ba (1287 - 1288)

Sau hai lần thất bại, Hốt Tất Liệt tức tối ra lệnh bãi bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản, tập trung lực lượng xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Khoảng gần nửa triệu bộ binh, kỵ binh và thủy binh được điều động. Khác với lần trước, lần này chúng sử dụng một lực lượng thủy binh mạnh và cả một đoàn thuyền lương. Thoát Hoan lại một lần nữa được giao quyền tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh, lập công chuộc tội.


Tháng 12-1287, quân Nguyên chia thành ba đạo theo ba hướng tiến đánh nước ta. Đạo Thoát Hoan từ Quảng Tây tiến theo Lạng Sơn, Vạn Kiếp - Thăng Long. Đạo do A Lỗ chỉ huy từ Vân Nam tiến xuống sông Nhị Hà. Đạo thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, cùng đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ từ Khâm Châu tiến vào vùng biển Đông Bắc, ngược sông Bạch Đằng...


Trên hướng bộ, Trần Quốc Tuấn chủ trương vừa đánh chặn để kiềm chế và tiêu hao địch vừa tổ chức rút lui bảo toàn lực lượng. Thoát Hoan tiến đến Vạn Kiếp, để lại một bộ phận quân đóng giữ, số còn lại đuổi theo quân Trần. Tháng 2-1288, quân Nguyên vượt sông Nhị Hà tiến công Thăng Long. Triều đình và quân đội nhà Trần lại tạm thời rút khỏi kinh thành, lui về vùng hạ lưu.


Ở biển Đông, thủy binh ta do Trần Khánh Dư chỉ huy, chặn đánh ở một số nơi nhưng bị tổn thất, phải rút lui. Ô Mã Nhi chủ quan, chỉ huy đội chiến thuyền vượt lên trước, theo sông Bạch Đằng tiến nhanh về Vạn Kiếp để hội quân với Thoát Hoan, còn đoàn thuyền tải lương thì tiến sau. Trần Khánh Dư bố trí mai phục ở Vân Đồn, đón đánh, tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ.


Sau gần 1 tháng vừa chặn đánh vừa rút lui, một lần nữa quân ta rút khỏi Thăng Long. Đầu tháng 2-1288, ba cánh quân của địch tiến vào Thăng Long. Thoát Hoan huy động quân thủy, bộ đuổi theo quân ta, hy vọng bắt được vua Trần, nhưng bị mất mục tiêu. Chúng điên cuồng quật mồ mả Vua Trần Thái Tông, đốt phá làng mạc, tàn sát nhân dân.


Giặc Nguyên lâm vào tình trạng muốn đánh mà không được đánh, lương thực không có. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bị phá sản, Thoát Hoan đành phải trở lại Thăng Long.


Nhân dân ta thực hiện "vườn không nhà trống", dân binh các làng xã có mặt ở khắp nơi phối hợp với quân đội không ngừng tập kích, phục kích địch. Thoát Hoan đứng trước nguy cơ bị bao vây và bị tiến công.


Sợ bị tiêu diệt như những lần trước, Thoát Hoan ra lệnh đốt phá kinh thành rồi rút về Vạn Kiếp. Tiếp đó, chia quân làm hai đạo theo hai đường thủy, bộ rút về nước; đúng như dự tính của Trần Quốc Tuấn.


Đầu tháng 4, đạo thủy quân của Ô Mã Nhi bắt đầu rút. Ngày 9-4-1288, toàn bộ đạo thủy quân có kỵ binh hộ tống đã lọt vào trận địa mai phục của Trần Quốc Tuấn và bị tiêu diệt trên sông nước Bạch Đằng. Các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... đều bị bắt. Quân ta thu được hơn 400 chiến thuyền.


Cánh quân bộ của Thoát Hoan cũng bị đánh liên tiếp ở Hãm Sà, Nội Bàng, Nữ Nhi... và bị thất bại nặng. Xác giặc nằm rải rác trên đoạn đường gần trăm dặm. Thoát Hoan phải mở đường máu mới chạy thoát thân về Tư Minh.


Trải gần 5 tháng chiến đấu, quân dân Đại Việt đã chiến thắng. Sau thất bại này, nhà Nguyên không còn đủ sức đánh Đại Việt nữa. Chúng phải từ bỏ ý đồ tiến xuống phương Nam; mặc dầu "việc Nam chinh vẫn như ngứa ngáy trong tim của Hốt Tất Liệt" (Nguyên sử). 


Như vậy, nước Đại Việt thời Trần (thế kỷ XIII) là một quốc gia dân tộc thống nhất, có chính trị ổn định, kinh tế phát triển và có nền văn hóa độc đáo mang bản sắc dân tộc. Trong vòng 30 năm, nhân dân Đại Việt ba lần liên tiếp phải đứng lên chống quân xâm lược tàn bạo và đã giành thắng lợi vẻ vang. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực xây dựng đất nước cùng với thực tiễn của công cuộc giữ nước, là cơ sở, tiền đề xuất hiện những tư tưởng quân sự, quốc phòng tiến bộ, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:54:20 pm »

II- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ THỜI TRẦN

1. Tư tưởng quyết chiến quyết thắng quân xâm lược lớn mạnh

Thế kỷ XIII, đế quốc Mông Cổ có những đạo quân thiện chiến từng chiến thắng khắp nơi trên thế giới, chinh phục nhiều nước ở châu Âu, châu Á. Sau khi Mông Cổ chinh phục Trung Quốc, lập ra triều Nguyên thì sự hợp nhất giữa thế lực người Thát Mông Cổ với thế lực Đại Hán ở Trung Quốc đã làm cho triều Nguyên ngày càng Hán hóa và trở thành một triều đại lớn trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại gần một thế kỷ (1271 - 1368). Sự kết hợp hai tính cách tiêu biểu của hai thế lực, giữa tư tưởng cuồng chiến xâm lược hết sức tàn bạo của người Mông Cổ với tư tưởng Đại Hán bình thiên hạ ở Trung Hoa đã thực sự là một nguy cơ lớn đối với các dân tộc láng giềng, sự uy hiếp xâm lược của thế lực bành trướng đối với nước Đại Việt tăng lên gấp bội. Trước kẻ thù lớn mạnh đã từng đánh trăm trận trăm thắng đó, nền độc lập của dân tộc ta như ngàn cân treo sợi tóc. Nguy cơ mất nước là điều có thể thấy rõ.


Trong tình hình đó, phản ứng đầu tiên và rất mạnh mẽ của triều đình nhà Trần là không sợ quân xâm lược lớn mạnh, kiên quyết tổ chức đánh trả, xem giặc Mông Thát là "kẻ thù không đội trời chung". Từng bước, bằng những biện pháp kịp thời và có hiệu lực, đã biến quyết tâm kháng chiến rất cao của triều đình thành quyết tâm hy sinh chiến đấu đánh giặc cứu nước của cả dân tộc.


Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất (12-1257 - 2-1258), khi quân giặc mới kéo sang, Vua Trần Thái Tông đã xuống chiếu cho các tướng đem quân thủy, bộ lên chặn địch ở biên giới. Mặt khác, ra lệnh tống giam tất cả các tên sứ thần Mông Cổ. Triều đình, các tướng sĩ, toàn quân, toàn dân đều có quyết tâm cao chống giặc, gìn giữ và bảo vệ đất nước.


Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta với một lực lượng mạnh gấp mười lần so với lần thứ nhất. Quyết tâm kháng chiến của triều đình vì vậy càng to lớn. Triều đình đã thực hiện một loạt biện pháp chiến lược quan trọng nhằm biến quyết tâm lớn lao đó thành quyết tâm của toàn thể muôn dân trăm họ, của cộng đồng các dân tộc trên đất nước.


Tháng 11-1283, vua Trần đã mở hội nghị các vương hầu, bách quan ở Bình Than. Mục đích cuộc họp này là "bàn kế sách công thủ", chuẩn bị tư tưởng và "chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.48). Hội nghị Bình Than có tác dụng rất quan trọng là thống nhất quyết tâm trên dưới, biến quyết tâm kháng chiến chống giặc mạnh của triều đình thành quyết tâm của toàn bộ hệ thống vương hầu, quý tộc. Từ đó mà huy động được rộng rãi lực lượng của tầng lớp quý tộc quan liêu tham gia kháng chiến.


Quyết tâm của triều đình và bộ thống soái nhà Trần cũng được chuyển thành quyết tâm của các tướng sĩ thông qua Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn - vị Quốc công tiết chế:


"Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế2 (Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây, Kỷ Tín giả làm Cao Tổ; Cao Tổ trốn thoát, còn Kỷ Tín bị thiêu chết); Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương3 (Thao Tả truyện, Sở Chiêu Vương đời Xuân Thu, lúc lánh nạn bị kẻ cướp đâm; Do Vu chìa lưng ra che cho Chiêu Vương); Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ4 (Trí Bá (đời Chiến Quốc) bị Triệu Tương Tử giết, gia thần Trí Bá là Dự Nhượng đã nuốt cho khác giọng, giả làm hành khất mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ); Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước5 (Thân Khoái là viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công, khi Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái đã chết theo); Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung1 (Kính Đức tức Uất Trì Cung đời Đường, đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương) thoát khỏi vòng vây của Vương Thế Sung); Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc2 (Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông, Nhan Cảo Khanh đã chửi mắng Lộc Sơn, bị Lộc Sơn cắt lưỡi). Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình, thì cũng chết uổng nơi xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, để cùng bất hủ với trời đất?


Các ngươi vốn nòi võ tướng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy, nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước, hãy tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Thát mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào; tỳ tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (có thuyết cho là Sơn Lập) lại là người thế nào, mà lấy thành Điếu Ngư3 (Vương Công Kiên, tức Vương Kiên, tướng Tống giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân anh dũng chiến đấu ở núi Điếu Ngư, cầm cự với đạo quân Mông Cổ do Mông Ke chỉ huy trong 4 tháng trời, cho đến khi Mông Ke chết, quân Mông Cổ phải rút lui) nhỏ như cái đấu chống lại quân Mông Kha đông hàng trăm vạn; khiến cho sinh linh bên Tống đến nay còn đội ơn sâu. Cốt Đãi Ngột Lang4 (tức Ngột Lương Hợp Thai) là người thế nào, tỳ tướng của ông là Cân Ty Tư lại là người thế nào, mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, phá quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay vẫn còn lưu tiếng tốt.


Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham khôn cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!


Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.


Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, người không có mặc, ta cho áo mặc, kẻ không có ăn, ta cấp cơm ăn. Quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà thì cùng nhau vui cười, so với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, cũng chẳng kém gì.


Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thết yến sứ ngụy mà không biết căm, hoặc lấy chọi gà làm vui, hoặc lấy đánh bạc làm thú, hoặc chăm chút vườn ruộng để nuôi gia đình, hoặc quyến luyến vợ con chỉ vì ích kỷ, hoặc lo làm giàu mà quên việc quân việc nước, hoặc ham săn bắn mà bỏ việc đánh việc phòng, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không thể chuộc được tấm thân ngàn vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu nhiều, khôn mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe khôn đuổi được quân thù. Chén rượu ngon không đầu độc được quân thù, tiếng hát hay không chọc thủng được tai giặc. Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào! Chẳng những thái ấp của ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi, chẳng những xã tắc tổ tông của ta bị người khác giày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị người khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp này bị nhục, dẫu trăm đời sau, tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu mãi còn, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi có muốn thỏa lòng vui thú, phỏng có được không?
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:56:11 pm »

Nay ta bảo rõ các ngươi: Nên nhớ chuyện "đặt mồi lửa vào dưới đống củi"1 (Lấy ở câu trong Hán Thư: "Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên") làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội"2 (Câu ở Sở từ: "Kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội") làm răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ3 (Bàng Mông và Hậu Nghệ là hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc) để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai1 (Nơi trú ngụ của các vua "man di" khi vào chầu vua Hán ở Trường An). Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời được hưởng, chẳng những gia quyến ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta được muôn đời tế lễ, mà ông cha các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà các ngươi trăm năm về sau tiếng thơm vẫn còn. Chẳng những danh hiệu ta lưu truyền mãi mãi, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muôn vui thú phỏng có được không?


Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Các người nếu biết chuyên tập tập sách, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, thì trọn đời là cừu thù2 (Binh pháp các nhà nói ở đây, là binh pháp của các danh nhân quân sự thời cổ của Trung Quốc. Rất tiếc là Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn đã bị thất truyền. Quyển Binh thư yếu lược ta dùng hiện nay, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội ấn hành năm 1977 là bộ sách được biên soạn, do nhiều nhà thông hiểu binh pháp từ thời Trần (có thể đặc biệt là Trần Quốc Tuấn), thời Lê, đến thời Nguyễn tiếp tục trích lược những binh thư các đời của Trung Quốc và của Việt Nam, mà thành).


Vì sao vậy? Vì giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các người cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, thế là quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc, khiến cho sau khi dẹp giặc, muôn đời để nhơ, thì còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở nữa? Cho nên, ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta!"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.81-84).


Bản Hịch tướng sĩ nổi tiếng của Trần Quốc Tuấn có tác dụng khơi dậy tinh thần dân tộc, động viên rất mạnh mẽ các tướng sĩ. Bằng những lời lẽ, những lập luận vừa sắc bén, hùng hồn vừa thiết tha, đi sâu vào tình cảm của tướng sĩ, bài hịch đã động viên lòng yêu nước, chí căm thù quân xâm lược, ý thức trách nhiệm với đất nước, với lịch sử, phê phán những xu hướng ăn chơi, hưởng lạc, buông lỏng trách nhiệm, không thấy nguy cơ nước mất nhà tan, cũng không thấy hạnh phúc của đất nước, của nhà mình khi kháng chiến thắng lợi. Từ đó mà đề ra trách nhiệm phải chăm lo học tập, rèn luyện, nâng cao khả năng chiến đấu, quyết tâm giết giặc lập công và lòng tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.


Thấm nhuần tinh thần kiên cường, bất khuất của hịch văn, ý chí quyết "ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu quân thù", "dù trăm thân phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây bọc trong da ngựa", quyết "bêu đầu Hốt Tất Liệt", "làm rữa thịt Vân Nam Vương", các tướng sĩ đã có những hành động đẹp đẽ trong những tình huống nguy hiểm, khó khăn. Trần Bình Trọng bị địch bắt trong chiến đấu, bị mua chuộc và uy hiếp, đã hiên ngang mắng vào mặt giặc: "Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc". Đỗ Khắc Chung được nhà vua phái đi gặp Ô Mã Nhi để dò xét tình hình, đã vững vàng bẻ lại các luận điệu láo xược của giặc với một khí phách làm cho tên tướng giặc phải khâm phục. Người thiếu niên quý tộc Trần Quốc Toản đã tự lập một đội quân gồm hơn một nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng thuyền chiến, nóng lòng chờ ngày giết giặc, cứu nước. Lá cờ của đội quân đó mang sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua). Người thiếu niên đó đã anh dũng hy sinh khi chặn đánh quân địch, không cho chúng vượt sông Cầu về nước trong cuộc kháng chiến lần thứ hai.


Hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Thát) thích trên cánh tay các tướng lĩnh và binh lính nhà Trần đã nói lên quyết tâm sắt đá của toàn quân khi được nghe những lời hịch của Trần Quốc Tuấn. Đó là ý chí của toàn quân và cũng là ý chí của toàn dân. Cả nước một lòng "dĩ thân tuẫn quốc" (xả thân vì nước) như lời kêu gọi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Rất nhiều người yêu nước trong nhân dân và quân đội còn khắc lên mình tám chữ "Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc" (Vì nghĩa quên thân, báo đền ơn nước) để chứng tỏ lòng mình đối với giang sơn Tổ quốc.


Để biến quyết tâm kháng chiến của triều đình và của quân đội thành quyết tâm đánh giặc của toàn dân, tháng 1-1285, Vua Trần Thánh Tông đã mời đại biểu phụ lão trong cả nước về Kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở điện Diên Hồng, hỏi kế đánh giặc. Trả lời câu hỏi của nhà vua là nên đánh hay không, các phụ lão đều đồng thanh hô "Đánh!". Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng bấy giờ "muôn người cùng nói, như từ một miệng". Các bô lão trở về địa phương mình đã truyền đạt ý chí và quyết tâm đó cho toàn dân.


Tiếng vang của Hội nghị Bình Than, của bài Hịch tướng sĩ, của Hội nghị Diên Hồng dội vào lòng yêu nước, chí căm thù giặc vốn có trong tâm tư, tình cảm của từng người, vốn đã gắn bó với triều đình qua các chính sách tiến bộ có tác dụng khoan thư sức dân đã được ban hành thời đó. Triều đình lại ra lời hiệu triệu viết lên bảng lớn, treo khắp các nẻo đường đất nước, được trăm họ khắp nơi hưởng ứng.


Với trạng thái tinh thần như vậy, nhân dân khắp nơi đều đứng lên liều chết chiến đấu khi giặc đến: trực tiếp đương đầu, gây tổn thất, đẩy lùi quân xâm lược khi chúng kéo đến làng, như ở Cổ Sở (gần Thăng Long) và Yên Duyên (Thanh Hóa) làm "thanh dã" (vườn không nhà trống), cất giấu lương thực không để lọt vào tay quân giặc đang khốn quẫn về tiếp tế lương thảo, kiên trì bám trụ sau lưng địch, tiến công liên tục vào các đồn, trại địch ở bất cứ nơi nào chúng đóng quân, cắt các đường giao thông vận chuyển của chúng, đánh địch ban ngày, chú trọng tiến công chúng ban đêm. Cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang thời đó thuận lợi cho việc phát triển hoạt động cả nước đánh giặc nói trên. Khắp nơi, một bộ phận quân triều đình làm nòng cốt cho quân các lộ, phủ. Quân các lộ, phủ làm nòng cốt cho hương binh, thổ binh. Hương binh, thổ binh phối hợp với các lực lượng trên làm nòng cốt cho nhân dân đứng vững, bám trụ địa bàn để thường xuyên tiến công địch khắp mọi nơi, mọi lúc.


Chính các hoạt động kiên trì đánh giặc của toàn quân, toàn dân ta là nỗi lo sợ thường xuyên và là tai họa lớn cho quân Nguyên xâm lược.


Trong quá trình kháng chiến, sức mạnh của quân địch đã đưa đến những tình huống lao đao đối với triều đình và quân, dân ta, nhất là trong cuộc kháng chiến lần thứ hai. Có kẻ đã hoảng sợ như Trần Nhật Hạo, một số kẻ hèn nhát đã đầu hàng địch, như: Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần Tú Hoãn, Trần Văn Lộng, Lê Trắc, v.v.. Nhưng tinh thần quật cường, bất khuất của triều đình và bách quan, của quân và dân đã được giữ vững và phát triển mạnh hơn lên qua những bước thử thách hiểm nghèo. Và với tinh thần đó, quân và dân ta đã kiên trì kháng chiến chống quân xâm lược lớn mạnh, giành được thắng lợi vẻ vang trong cả ba cuộc kháng chiến.


Trong những thời điểm gay go, nguy ngập của các cuộc kháng chiến, ý chí kiên định của những nhân vật chủ chốt trong lãnh đạo kháng chiến đã có tác dụng to lớn đối với việc giữ vững quyết tâm kháng chiến của triều đình. Đó là trường hợp của Trần Thủ Độ khi ông bàn bạc với vua Trần trên sông Nhị Hà trong cuộc rút lui chiến lược đầu tiên của triều đình năm 1258. Ông đã có một câu trả lời đầy khí phách: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".


Đó cũng là trường hợp của Trần Quốc Tuấn trong những ngày hết sức gian nan, nguy hiểm của cuộc kháng chiến lần thứ hai đầu năm 1285. Trả lời câu hỏi vừa có tính chất thăm dò, nhưng cũng vừa phản ánh sự lo lắng của vua Trần, ông đã tâu: "Bệ hạ muốn hàng hãy chém đầu tôi trước đã".


Những điều trên đã thể hiện tư tưởng quyết chiến quyết thắng quân xâm lược của triều đình, quân đội và cả toàn dân thời Trần. Nhờ đó mà trước kẻ thù lớn mạnh, cả dân tộc quyết không sợ, đã đoàn kết cả nước thành một khối, cùng lòng hợp sức đánh giặc, làm nên những chiến công hiển hách trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:57:48 pm »

2. Tư tưởng xây dựng sức mạnh giữ nước trên cơ sở khối đoàn kết dân tộc

Năm 1300, khi trả lời vua Trần Anh Tông hỏi về kế sách đánh giặc, Trần Quốc Tuấn nói rằng: "Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.79). Đó là tổng kết của Trần Quốc Tuấn về nguyên nhân thắng lợi trong kháng chiến chống Mông-Nguyên, và đó cũng là một quan điểm, tư tưởng quân sự nổi bật của vương triều Trần về xây dựng sức mạnh giữ nước.


Thế kỷ XIII, quốc gia Đại Việt phải đương đầu với kẻ thù xâm lược lớn nhất: đất rộng, người đông, giàu tiềm lực. Đặc biệt, đế quốc Mông - Nguyên là một đế chế hùng mạnh nhất thời đại mà vó ngựa của chúng đã từng tung hoành khắp các lục địa Âu - Á, từ bờ Hắc Hải đến bờ Thái Bình Dương. Trong khi đó, vương triều Trần mới bước vào thời kỳ phục hưng. Vấn đề đồng lòng, chung sức trong bất cứ lĩnh vực nào và bao giờ cũng quan trọng, nhưng trong bối cảnh lịch sử - xã hội Đại Việt lúc bấy giờ trước họa xâm lăng lại cực kỳ quan trọng và trở thành yếu tố quyết định thắng lợi. Là người giữ cương vị chủ chốt trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn đã rất hiểu và rút ra điều đó khi trả lời Vua Trần Anh Tông. Đó là một tổng kết quan trọng, một bài học kinh nghiệm lớn lao rút ra từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giữ nước. Theo ông, thời Đinh - Lê "dùng người tài giỏi", "trên dưới một dạ, lòng dân không lìa"; còn thời Trần trong kháng chiến chống Mông - Nguyên thì "vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức". Vị tướng tài ba kiệt xuất, người anh hùng dân tộc thời Trần đã phát hiện rất chính xác điều cốt lõi của vấn đề, nhận thức rõ vai trò của nhân tố đoàn kết, đồng lòng. Trước hết, đoàn kết trong triều đình để làm nòng cốt, làm gương nhằm tiến tối đoàn kết toàn quân, toàn dân và cả nước.


Đồng lòng, chung sức trong sự nghiệp giữ nước là một thực tế lịch sử của nước Đại Việt thời Trần. Để có được thứ vũ khí vô địch này, tất nhiên đòi hỏi một quá trình, do tác động của nhiều yếu tố và có sự giác ngộ của mọi tầng lớp xã hội, nhưng trước hết và quyết định nhất là ở đội ngũ cầm quyền - những người lãnh đạo đất nước và trong chiến tranh là bộ tham mưu kháng chiến. Điều đó phải được biểu hiện ở ý thức tư tưởng và hành động cụ thể trong quan hệ nội bộ giới quý tộc chấp chính, gắn liền quan hệ giữa nhà nước quân chủ và nhân dân thông qua chủ trương, đường lối và chính sách cai trị của giai cấp thống trị mà lúc đó là vương triều Trần.


Trong khuôn khổ chế độ phong kiến kiểu phương Đông, đội ngũ quý tộc Trần không phải là quý tộc bẩm sinh. Hoàng tộc Trần có xuất xứ, nguồn gốc từ những dân chài miền biển có truyền thống yêu nước và thượng võ. Tất nhiên, một khi đã lên ngôi vua, thiết lập vương triều thì lập tức họ giành được ưu tiên đặc quyền, đặc lợi cho con cháu, họ hàng, từ phẩm tước, chức vị đến bổng lộc theo trật tự gần xa trong quan hệ huyết tộc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lời Vua Trần Thánh Tông nói với các tông thất rằng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.37). Bấy giờ, trong hoàng tộc, trong chỗ cha con, anh em họ hàng nhà vua sống hòa thuận, vui vẻ. Nhà vua còn cho phép các vương hầu tông thất, khi bãi triều thì vào trong Nội điện và Lan đình cùng vua ăn uống; hôm nào tối trời không về được thì xếp gối dài, chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ để tỏ lòng yêu quý nhau; chỉ khi tổ chức lễ lớn như triều hạ, tân khách hay yến tiệc, mới phân biệt ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vua Trần Thái Tông từng ban yến ở Nội điện, các quan đến dự. Đến khi say, mọi người đứng dậy cùng nhau dang tay múa hát, có người còn đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh... Chính vì vậy, các vương hầu bấy giờ không ai là không hòa thuận, kính sợ, cũng không có lỗi lệch và sự khinh nhờn, kiêu căng gì.


Sử cũ còn chép sự kiện Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung xếp đặt, bắt ép Hoài Vương Trần Liễu (thân sinh Trần Quốc Tuấn) nhường vợ là Công chúa Thuận Thiên đang có mang cho Thái Tông Trần cảnh để sớm có người kế vị. Trần Liễu vì thế tức giận, dấy binh nổi loạn, bị Thủ Độ dẹp tan. Tuy là việc lớn của cả hoàng tộc, nhưng Vua Trần Thái Tông vẫn áy náy không nguôi. Khi gặp Trần Liễu đến xin hàng, vua cùng Trần Liễu, hai anh em ngồi trong thuyền nhìn nhau khóc. Trần Thủ Độ biết tin, rút gươm định giết Trần Liễu, nhưng nhà vua đã kịp giấu Hoài Vương trong thuyền rồi lấy thân mình che chở cho Trần Liễu. Trần Liễu nhờ thế mà được tha và còn được cấp đất ở Yên Phụ, Yên Dũng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (Quảng Ninh) làm ấp thang mộc. Sự kiện này đã nói lên tấm lòng nhân ái của Vua Trần Thái Tông, không muôn gây ra hiềm khích trong nội bộ hoàng tộc.


Những điều trên chứng tỏ các vua Trần kể từ Trần Thái Tông đã có tư tưởng cố kết tông tộc và rất chú ý vun đắp cho khối đoàn kết họ hàng. Sự đồng tâm, hòa thuận trong hoàng tộc, trong nội bộ chính quyền đã làm tăng thêm sức mạnh của vương triều, tạo điều kiện liên kết nhân tâm trong cả nước, nhất là khi cần huy động nhân lực đánh giặc, giữ nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "... đời Nguyên Phong (đời Vua Trần Thái Tông - TG), giặc Nguyên sang cướp, các vương hầu cũng đem gia đồng và hương binh thổ hào làm quân cần vương. Trong sự biến đời Đại Định lại đem người thôn trang sắm sửa nghi trượng đi đón vua1 (Năm 1369, Dương Nhật Lễ cướp ngôi vua, tông thất nhà Trần đem quân đón Trần Phu (Trần Nghệ Tông) ở Đà Giang về giết Nhật Lễ, giành lại ngôi vua), đó cũng làm vững cái thế "duy thành"2 (Thơ bản trong thiên Tiểu nhã, Kinh thi có câu: "Tông tử duy thành", người tông thất như cái thành bảo vệ triều đình. Người làm vua nên lấy đạo nghĩa đối đãi tông thất, thì cái thành mới vững) vậy"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.32).


Trước hiểm họa xâm lược, quý tộc, tướng lĩnh nhà Trần một lòng gắn bó, đoàn kết thống nhất. Họ xoá đi những hiềm khích cá nhân vì nghĩa lớn quốc gia dân tộc. Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải là hai đại thần trong triều, nhưng hai người lại là đại diện cho hai chi họ Trần vốn có hiềm khích. Một là con của Trần Cảnh, một là con của Trần Liễu, là hai anh em đối đầu của thế hệ trước.


Khi quân Nguyên sắp sang xâm lược, trước cảnh xã tắc lâm nguy, Trần Quốc Tuấn vì lợi ích chung mà xoá thù nhà, chủ động hòa giải với Trần Quang Khải, sử chép, tại bến Đông, Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình chơi cờ, trò chuyện và sai nấu nước thơm, rồi tự mình tắm cho Quang Khải, làm cho Quang Khải càng cảm kích. Sự hòa hợp đó cũng là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều, củng cố thêm sức mạnh đánh giặc. Quốc Tuấn và Quang Khải đã nêu tấm gương lớn cho các đại thần, tướng sĩ.


Sử cũ cũng chép chuyện Vua Trần Thánh Tông đi đánh giặc; Quang Khải theo hầu, ghế Thái sư bỏ không. Vừa gặp sứ phương Bắc sang, Thượng hoàng Trần Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bảo rằng: "Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm muốn cho khanh làm tư đồ để tiếp sứ thần phương Bắc". Trần Quốc Tuấn trả lời: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia (tức Trần Thánh Tông - TG) đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.72).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:59:12 pm »

Để củng cố vương quyền, bảo vệ địa vị thống trị của dòng họ, nhà Trần còn quy định những người trong hoàng tộc phải kết hôn với nhau. Sự cố kết trong quan hệ họ hàng, tông tộc bằng những lợi ích chính trị và kinh tế có tác dụng thắt chặt tình đoàn kết trong giai cấp thống trị. Trong lịch sử nước ta, so với các triều đại trước, thì tầng lớp quý tộc, tông thất triều Trần phát triển hơn và thể hiện rõ hơn vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua, giữ nước.


Ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong triều chính, các vương hầu còn có quyền lực lớn ở những vùng mình trấn trị. Họ được phân phong thái ấp, có phủ đệ và tổ chức những đội quân riêng. Lúc thường sống ở phủ đệ, khi có việc triều yết thì vào kinh sư. Tuy nhiên, yếu tố phân tán trong xã hội thời Trần luôn bị ràng buộc bởi những chính sách của nhà nước tập quyền. Vương hầu được phong cấp thái ấp, có quyền thừa ấm, tức kế nghiệp, được phong tước, nhưng không được tập chức, họ không có quyền kế thừa thái ấp.


Nhìn chung, tầng lớp quý tộc Trần hồi thế kỷ XIII là một đẳng cấp xã hội trẻ, đang độ phát triển. Xu hướng cát cứ trong giới quý tộc chưa phải là hiện tượng phổ biến. Điều này khác hẳn với sự phát triển của các nhà nước phong kiến Tây Âu cùng thời và vì thế, nó đã tạo nên một không khí chính trị lành mạnh trong giới cầm quyền nói riêng và trong xã hội nói chung; tạo thế mạnh cho chính quyền, cho cả nước trong mối quan hệ nội bộ cũng như trước những thử thách hiểm nghèo của ngoại xâm. Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của giặc Nguyên, Vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị Bình Than: "Họp vương hầu và trăm quan, bàn kế công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu". Quả là "lo thì cùng lo, vui thì cùng vui" và đúng như lời của Trần Quốc Tuấn nói với các tướng sĩ: "lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà thì cùng nhau vui cười"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.82) và theo ông "vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục" luôn luôn là nhân tố thành công trong quá trình lãnh đạo của vương triều Trần, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.


Trong công cuộc chống giặc ngoại xâm cũng như khi đánh dẹp nội loạn thời Trần, nhà vua và có khi cả thượng hoàng, hoàng thái tử, vương hầu thường trực tiếp cầm quân; thậm chí có nhiều người đã hy sinh anh dũng ngoài chiến trận. Gương chiến đấu hy sinh đó không chỉ đã động viên, cố vũ quân dân cả nước mà còn biểu thị tinh thần đồng lòng chung sức, gắn bó giữa đội ngũ quý tộc cầm quyền với "trăm họ" trước họa ngoại xâm. Thời bình, vương hầu quý tộc được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi; thời chiến hoặc khi loạn lạc, chính họ là những người đã xông pha trận mạc, đối mặt với quân thù. Bấy giờ, dưòng như đã thành lệ, mỗi khi giặc đến, nhà vua thường "tự làm tướng" trực tiếp cầm quân, các vương hầu quý tộc đều trở thành "tướng" chỉ huy quân của mình và quân dân các đạo, các lộ nơi mình trấn trị tham gia kháng chiến, ở đây, bên cạnh tinh thần thượng võ còn có ý thức, tư tưởng về quyền lợi và nghĩa vụ trong đội ngũ vương hầu quý tộc - hạt nhân của bộ máy nhà nước quân chủ thời Trần. Điều này cũng đã góp phần cố kết nội bộ, cố kết nhân tâm trong bộ máy nhà nước thành một khối đồng lòng, chung sức vững mạnh.


Chính những người như Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn luôn chú ý khối đoàn kết đó. Ông là tấm gương sáng ngời cho mọi nhà. Trong một lần gia biến, ba lần quốc nạn, ông luôn tỏ ra là một bậc hiền lương, anh hùng, lòng trung son sắt. Thù nhà không đặt lên trên quyền lợi của dân nước, xã tắc. Ông xoá bỏ mọi hiềm nhà, dẹp thù riêng để vun trồng cho mối đoàn kết trong tông tộc, khiến nó trở thành một nhân tố của mọi thắng lợi. Ông luôn thương yêu các tướng sĩ và binh lính của mình. Và chính họ lại hết sức trung thành với sự nghiệp của ông, đồng lòng chung sức chiến đấu quên mình vì cả nước.


Các vua Trần và triều đình nhà Trần đều chủ trương thắt chặt mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, xây dựng khối đoàn kết trong và ngoài hoàng tộc, ở trong kinh thành và ngoài các đạo, các lộ. Chế độ thi cử thời Trần từ năm 1232 đi vào nề nếp chính quy và do đó, đội ngũ quan lại người ngoài hoàng tộc tham gia chính quyền ngày một đông đảo. Họ ở khắp mọi nơi, giữ nhiều chức vụ quan trọng thuộc nhiều lĩnh vực trong triều đình trung ương cũng như ở các địa phương. Quan lại được cấp bổng lộc và lương ăn. Tổ chức bộ máy hành chính các cấp khá hoàn thiện và chế độ đãi ngộ, thưởng phạt chặt chẽ và công minh hơn thời Lý. Các chế độ đó đã phát huy tác dụng và giữ vai trò lớn trong việc cố kết khối đồng tâm, nhất trí của vua tôi, trong nội bộ chính quyền nhà nước, từ triều đình đến các lộ, trấn.


Nhà Trần đặc biệt chú ý đến đội ngũ các thủ lĩnh quân sự và các châu mục miền núi. Với những chính sách, biện pháp mềm dẻo, triều đình nhà Trần đã tập hợp, lôi kéo được các tù trưởng, thổ ty, tộc trưởng vùng biên viễn, biến họ thành những bề tôi trung thành của triều đình. Mối quan hệ vua - tôi được gắn bó bằng quan hệ hôn nhân và bằng các quyền lợi khác trên cơ sở lợi ích chung của cả nước. Chính họ là những người quản giữ dân, huy động và chỉ huy quân dân bản địa - một lực lượng không thể thiếu, để đánh giặc ở biên giới, chặn đầu khóa đuôi và truy đuổi quân xâm lược khi chúng tiến qua hoặc trên đường tháo chạy.


Tuy nhiên, triều đình nhà Trần cho dù đồng tâm nhất trí, kiên quyết chống giặc, cũng không thể giữ được nước một khi thiếu sự hưởng ứng tham gia đóng góp sức người, sức của của quân và dân khắp mọi nẻo miền. "Cả nước nhà góp sức", theo Trần Quốc Tuấn, mới là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định trong công cuộc giữ nước. Đó là một tư tưởng lớn. Nhận thức trên của Trần Quốc Tuấn cũng là nhận thức chung của quý tộc Trần; do đó, nhà vua và triều đình đã vận dụng mọi biện pháp để huy động nhân lực, vật lực cả nước. Nếu như trong kháng chiến chống giặc Tống thời Lý, chiến sự chỉ diễn ra chủ yếu ở vùng bắc sông Cầu, từ phòng tuyến Như Nguyệt đến Cao Bằng và Lạng Sơn, thì trong ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thời Trần, đặc biệt là cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), khắp nơi, cả nước đều có giặc và đánh giặc. Ba lần quân Mông - Nguyên tiến công cũng là ba lần triều đình rút khỏi Thăng Long, về các vùng hạ lưu, dựa vào dân để bảo vệ lực lượng, tổ chức toàn dân đánh giặc, tạo thời cơ, tăng cường sức phản công để giành thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc kháng chiến năm 1285, nhân dân ở khắp các vùng ven biển, đồng bằng châu thố sông Hồng, sông Mã, sông Lam đều lao vào cuộc chiến đấu sinh tử với quân thù. Trong khi đó, nhân dân vùng rừng núi phía tây bắc, phía bắc và đông bắc ít nhất cũng một đôi lần chặn đánh khi quân giặc đến hay truy quét chúng trên đường tháo chạy. Tất cả đều được huy động vào cuộc chiến đấu chống giặc theo mệnh lệnh của triều đình, của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn.


Điều kỳ diệu trong ba lần đại phá quân Mông - Nguyên là ở chỗ vương triều Trần đã huy động được "cả nước nhà góp sức", "cử quốc nghênh địch". Tinh thần yêu nước, quyết tâm giữ nước vốn là truyền thống quý báu của nhân dân ta, nhưng để phát huy được truyền thống, tạo được thế cả nước góp sức hoàn toàn không dễ dàng. Trước và sau thời Trần, lịch sử dân tộc ta đã phải chứng kiến những lần thất bại và mất nước do người lãnh đạo không huy động được sức mạnh cả nước chung sức đánh giặc. Đó là thời An Dương Vương - Thục Phán chống Triệu Đà; đó là thời Hồ - Hồ Quý Ly đánh quân Minh; đó là thời Nguyễn chống thực dân Pháp xâm lược. Trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, sức người và sức của trong dân được huy động ở mức cao nhất, vì thế vương triều Trần đã giành được thắng lợi. Đó không phải là kết quả của một năm, một tháng; càng không phải chỉ đợi đến khi có giặc mới phát lời kêu gọi; mà đó là kết quả của một hệ tư tưởng thống nhất từ trung ương xuống địa phương về xây dựng sức mạnh giữ nước dựa trên cơ sở đoàn kết cả nước. Điều đó được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, từ sớm, khi giặc sắp đến có Hịch tướng sĩ của Trần Quốic Tuấn, có Hội nghị Diên Hồng, có hịch truyền của nhà vua cho cả nước chống giặc ở bất cứ nơi nào khi chúng đến. Tất cả đều nhằm thổi bùng ngọn lửa quyết tâm cả nước chung sức mà nhà vua và triều đình đã vun trồng, tạo dựng từ những năm tháng hòa bình. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn có đủ tư cách và thẩm quyền để từ thực tiễn cuộc đời cầm quân chống giặc của mình rút ra bài học "quốc gia tính lực" (nước nhà góp sức) cho sự nghiệp chung: "Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui vậy". Chúng ta có thể thấy tư tưởng lớn đó của Trần Quốc Tuấn có mấy điều quan trọng sau đây:

1- Trong các nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, nhân tố đoàn kết, cả nước góp sức được đặt lên hàng đầu.

2- Nói về cả nước góp sức, Trần Quốc Tuấn cho rằng "sức nước" và "sức nhà" phải gắn chặt chẽ làm một, đều được huy động để tạo nên sức mạnh tổng hợp: "quốc gia tính lực".

3- Việc đó là trời xui, là đạo trời tất nhiên, là quy luật của tạo hóa làm nên thắng lợi. Đoàn kết chung sức cả nước, cả triều đình, cả hoàng tộc, cả gia đình, họ hàng, làng xã, từ triều đình trung ương đến bản làng, trên dưới đồng tâm, lòng dân không chia, "cử quốc nghênh địch" (cả nước đánh giặc) thì ta tất thắng, giặc tất phải bó tay đầu hàng, "phải bị bắt" như sự tổng kết của Trần Quốc Tuấn.


Quan điểm trên của Trần Quốc Tuấn cũng được phản ánh trong Binh thư yếu lược, rằng: "Hòa mục có công hiệu rất lớn cho cuộc trị an. Hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh; hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động. Bất đắc dĩ mới phải phạt kẻ làm xằng, càng quý hòa mục. Vua tôi hòa mục thì dùng được người tài; tướng văn tướng võ hòa mục thì làm nên công nghiệp; tướng sĩ hòa mục, trong lúc thưởng sẽ nhường nhịn nhau, gặp nguy nan sẽ cứu giúp nhau. Đó, hòa mục là đạo rất hay cho việc trị nước, hành binh, không thay đổi được"1 (Trần Quốc Tuấn: Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.39).


"Tướng sĩ hòa mục", "trên dưới đồng lòng, lòng dân không lìa", "vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức"... những quan điểm, tư tưởng này của Trần Quốc Tuấn cũng là quan điểm, tư tưởng của vương triều Trần trong giai đoạn tiến bộ, đã được vận dụng trong công cuộc lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước. Tư tưởng đó đã phát huy tác dụng lớn trong quá trình thực hiện đoàn kết giai cấp, cồ kết dân tộc, động viên nhân dân cả nước chung sức đồng lòng đánh giặc giữ nước.


Triều đình nhà Trần nhận thức rất rõ tầm quan trọng của nhân tố đoàn kết: đoàn kết trong triều đình làm nòng cốt, làm gương mẫu để đoàn kết trong cả nước, đoàn kết triều đình với nhân dân, kết hợp nước với nhà là mối quan tâm lớn của những nhân vật lãnh đạo chủ chốt trong vương triều. Và vua quan nhà Trần đã có nhiều cố gắng để xây dựng và vận dụng tư tưởng đó vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:02:54 pm »

3. Tư tưởng thân dân, tạo nguồn sức mạnh giữ nước trong dân, bồi dưỡng sức dân


Dựa vào dân, động viên toàn dân tham gia đánh giặc giữ nước là ưu điểm nổi bật của vương triều Trần. Trong điều kiện phải thường xuyên đối phó với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh gấp bội phần, ông cha ta không chỉ dựa vào sức mạnh của nhà nước, của quân đội mà còn phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của cả nước. Vậy làm sao để động viên được đông đảo nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước, làm sao thực hiện được "toàn dân vi binh", "cử quốc nghênh địch"? Bí quyết thành công của triều Trần xuất phát từ tư tưởng thân dân, "dựa" vào dân và chính sách "khoan thư sức dân". "Khoan thư sức dân" là một tư tưởng tiến bộ, đã trở thành một quốc sách, một kế sách giữ nước quan trọng của Nhà nước Đại Việt.


Trong lịch sử, dù ở thời gian nào, triều đại nào, dù đối với một thể chế chính trị nào, vai trò nhân dân vẫn là quyết định. Vì vậy, giai cấp thống trị bao giờ cũng tìm mọi cách khai thác nguồn sức mạnh này để phục vụ quyền lợi của mình.


Các nhà tư tưởng phong kiến phương Đông đã sớm nêu những quan điểm về dân trong các tác phẩm kinh điển của họ. Lý tưởng "thân dân" được coi như một nguyên lý tiến bộ của Nho giáo khởi thủy, ở nước ta, tư tưởng "dân", "dựa vào dân" đã từng có trong lịch sử lâu đời, nó xuất hiện từ truyền thống gắn bó giữa thủ lĩnh và quần chúng, từ nền móng của những quan hệ cộng đồng công xã xa xưa. Đến thời Lý - Trần, quan điểm "thân dân" của các vua và giới quý tộc được phát triển bởi sự kết hợp giữa truyền thống lịch sử đó với tinh thần từ bi, bác ái, nhân từ của Phật giáo và tư tưởng "dân" tiến bộ của Nho giáo.


Những đại biểu về tư tưởng của tập đoàn phong kiến ở nước ta thời Trần thường coi "ý trời", "lòng dân", việc "khoan thư sức dân" là điều đáng quan tâm trong sự nghiệp chính trị. Đối với họ, "lòng dân" cùng với "ý trời" là cơ sở để xây dựng và củng cố vương quyền; hoặc đó là căn cứ của những chính sách lốn, những hoạt động chính trị của triều đình, của nhà nước, trong đó có cả vấn đề quan trọng là phát động các cuộc chiến tranh.   


Trên thực tế, sự tham gia của nhân dân vào sự nghiệp dựng nước và giũ nước càng khẳng định lòng tin của giới quý tộc về vai trò quyết định của dân chúng. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghị Vua Trần Nhân Tông thực hiện "chúng chí thành thành", xây dựng bức thành kiên cố bằng ý chí của nhân dân. Trả lời Vua Trần Anh Tông hỏi về kế sách giữ nước, Trần Quốc Tuấn nói: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.79).


Ông luôn khẳng định rằng cố kết lòng dân, nuôi dưỡng, tăng cường sức dân, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân là "kế sâu rễ bền gốc", là điều kiện tiên quyết để chiến thắng quân xâm lược, giữ gìn độc lập.


Trong mọi hoàn cảnh, "khoan thư sức dân" luôn là một tư tưởng tiến bộ. Dưới triều Trần, nó đem lại sự hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp vốn tồn tại thường xuyên trong xã hội phong kiến. Khi quyền lợi của giới quý tộc còn gắn liền với quyền lợi của dân tộc, quan điểm "dân" tiến bộ đó có tác dụng củng cố khối đoàn kết chung, nhằm ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, làm cho đất nước giàu thịnh, để tăng cường thế nước, có đủ sức mạnh đánh thắng giặc ngoại xâm.


Quan điểm của Trần Quốc Tuấn cũng là quan điểm chung của vương triều Trần, của cả vua Trần và giới quý tộc tiến bộ, nó thể hiện trên thực tiễn quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước.


Nhà nước quân chủ chuyên chế không phải là đặc điểm riêng của thời Trần, điều đó cũng được biểu hiện ở Nhà nước Lê Sơ (thế kỷ XV), thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX). Điểm khác biệt là sức mạnh của Nhà nước thời Trần không dựa trên bạo lực chuyên chế, mà thực sự dựa vào lòng dân. Trong đó, nhà nước đã quan tâm đến đời sống vật chất của dân, làm cho dân giàu, nước mạnh bằng những chính sách trọng nông, tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp phát, triển, coi "việc nông là gốc của nước nhà". Đế động viên được nhiều nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, triều Trần về cơ bản đã biết dựa vào nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Triều đình thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", nhằm gắn liền giữa việc binh và việc nông, xây dựng lực lượng vũ trang nằm trong nhân dân, gắn liền với sản xuất. Nhà vua có những biện pháp tích cực và kiên quyết nhằm ngăn chặn nạn giết trộm trâu bò, bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Nhà nước quan tâm đến khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, đắp đê phòng lụt, khắc phục tình trạng dân phiêu tán để ổn định dân cư, phát triển nông nghiệp, củng cố cơ sở vật chất và cơ sở xã hội cho chính quyền phong kiến, đồng thời có tác dụng nâng cao đời sống dân sinh.


Chính sách "khoan thư sức dân" còn thể hiện trên lĩnh vực địa tô và thuế khóa. Một chế độ thuế khóa không quá nặng nề đã tạo nên không khí lành mạnh, góp phần hòa hoãn mâu thuẫn xã hội. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông cũng như Trần Quốc Tuấn đều gắn bó với sự nghiệp kháng chiến chống Mông - Nguyên, nên họ rất hiểu và thông cảm với dân tình, biết được công lao to lớn của nhân dân đối với cuộc kháng chiến. Chính vì thế mà sau khi chiến tranh kết thúc, việc trước hết phải nghĩ đến là giảm miễn thuế để củng cố sức dân. Tư tưởng đó thể hiện mãnh liệt nhất ở Trần Quốc Tuấn. Sau chiến thắng chống Nguyên, Vua Trần Nhân Tông có ý định xây lại thành Thăng Long cho nguy nga lộng lẫy, Trần Quốc Tuấn đã can vua và nói rằng: "Việc sửa thành Thăng Long không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không chậm trễ là úy lạo nhân dân. Hơn bốn năm qua, giặc sang đánh phá, từ nơi rừng núi đến ruộng đồng bị tàn phá hầu hết. Vậy mà nhân dân vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài xuất lực, đi lính đóng thuế, làm nên một lực lượng mạnh cho triều đình chống giặc. Nay nhà vua trở về yên ổn, việc phải làm trước hết là phải chú ý ngay những nơi nào bị tàn phá. Tùy tình hình nặng nhẹ mà cứu tế, những nơi bị tàn phá nặng có thể miễn thuế trong mấy năm, có như thế nhân dân mới nức lòng, càng quy hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa nói "chúng chí thành thành", ý chí của quần chúng là bức thành kiên cố, đó mới là cái cần sửa chữa ngay. Xin nhà vua xét kỹ"1 (Long thành dật sử. Dẫn theo Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975, tr.295). Vua Trần Nhân Tông cho đó là tư tưởng đúng, nên đã tạm đình chỉ xây thành Thăng Long và ra lệnh miễn tô thuế cho nhân dân trong ba năm.


Nói đến "khoan thư sức dân", bên cạnh việc dè dặt huy động thuế khóa còn phải kể đến chính sách xã hội, biểu thị sự quan tâm đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp lao động mà sử chép là dân nghèo, bộ phận xã hội đông đảo nhất trong các làng xã nông nghiệp. Bởi vì tầng lớp này là lực lượng nòng cốt trong lao động dựng nước cũng như trong chiến đấu giữ nước. Dưới thời Trần, sự xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp sở hữu lớn về đất các loại (vương hầu, quý tộc quan lại, người giàu không có quan tước), tất nhiên dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, tầng lớp dân nghèo khá phổ biến. Nhưng chính những người bình dân lại là nguồn nhân lực chủ yếu trong lao động sản xuất, làm nghĩa vụ binh dịch và phu phen. Bấy giờ, nông dân làng xã là lực lượng đông đảo nhất tạo nên mặt đáy của cấu trúc hình chóp xã hội Đại Việt. Quan tâm đến nông dân là quan tâm đến những người có khả năng đóng góp nhiều nhất về nhân lực và vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan điểm "thân dân", "khoan thư sức dân" dưới triều Trần cũng nhằm mục đích đó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM