Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:21:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 6651 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:48:03 pm »

Mục tiêu của giặc Tống nhằm đánh chiếm kinh đô, bắt triều đình Hoa Lư phải đầu hàng, thâu tóm đất nước Đại Cồ Việt. Nhưng tấn công vào Hoa Lư không dễ dàng. Vị trí hiểm trở của Hoa Lư cùng với đường tiến quân không thuận tiện như tiến vào Đại La buộc giặc Tống không thể tiến nhanh, đánh gấp.


Để đánh chiếm Đại Cồ Việt, quân Tống kết hợp thủy, bộ theo hai mũi tiến vào Đại Cồ Việt từ hướng Đông Bắc làm hai đợt. Đợt đầu do Tổng chỉ huy Hầu Nhân Bảo chỉ huy gồm 1 vạn quân thủy theo đường biển tiến vào sông Bạch Đằng và Phó tổng chỉ huy Tôn Toàn Hưng chỉ huy 1 vạn quân bộ theo đường từ Ung Châu vượt qua biên giới tiến vào hội quân ở Hoa Bộ thuộc huyện Thủy Đường xưa, nay thuộc khoảng vùng Đông Bắc Thủy Nguyên (Hải Phòng). Đợt thứ hai gồm khoảng 2 vạn quân Kinh Hồ tiếp viện do Lưu Trừng chỉ huy quân thủy, Trần Khâm Tộ chỉ huy quân bộ. Hai đợt cách nhau 70 ngày.


Đó là hướng tiến quân, còn đường tiến quân, giặc mưu toan sẽ từ điểm tập kết hội quân Hoa Bộ theo đường thủy, bộ tiến vào trung tâm Đại La, lấy đó làm địa bàn tấn công Kinh đô Hoa Lư.


Hơn ai hết, các nhà quân sự Đinh Bộ Lĩnh, tiếp đến Lê Hoàn hiểu rất rõ tương quan lực lượng giữa nước Đại Cồ Việt và Trung Hoa đang nằm dưới quyền quản lý của nhà Tống, đồng thời cũng đã lường trước họa xâm lăng. Vì vậy đã cảnh giác đề phòng từ việc chọn đất định đô. Đến lúc này, họa xâm lăng thành hiện thực nhưng không bất ngờ với người cầm đầu quân dân Đại Cồ Việt. Lê Hoàn đã chủ động tổ chức kháng chiến. Sử chép rằng: "Vua tự làm tướng chống giữ, sai binh sĩ đóng cọc ngăn sông"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tr.251). Mặc dù sử không chép rõ nhưng diễn biến và kết cục của chiến cuộc cho thấy Lê Hoàn đã tích cực tổ chức phòng vệ, đặt việc phòng thủ lên hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với toàn cuộc như thế nào. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra khiến ta phải suy nghĩ: Tại sao chiến lược đánh nhanh thắng nhanh "sét đánh không kịp bịt tai" của giặc Tống hoàn toàn bị phá sản? Tại sao chiến sự chỉ diễn ra ở vùng Bạch Đằng - Hoa Bộ vùng Lục Đầu (sông Đồ Lỗ, trại Phù Lan), nói một cách khác chỉ dừng lại ở vùng Bắc, Đông Bắc xa trung tâm? Sao chỉ có một đạo quân bộ của Trần Khâm Tộ đơn độc tiến vào đường Tây Kết để đợi bị tiêu diệt ở đấy? Có nhiều lý do, trong đó có tổ chức phòng ngự và hiệu quả của phòng ngự do Lê Hoàn và các tướng lĩnh thực hiện.


Từ một cái nhìn bao quát, xuất phát từ phòng ngự tích cực là một trong những tư tưởng quân sự chủ đạo hồi thế kỷ X, vấn đề cảnh giác phòng vệ không phải đợi đến khi có giặc mới đặt ra với các nhà quân sự. Với tầm mắt nhìn xa trông rộng, với ý thức "biết mình biết người", các nhà quân sự Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đã lường trước và xử lý mọi mặt hoạt động chính trị, ngoại giao, quân sự với tinh thần cảnh giác cao độ. Việc phòng chống giặc Tống, muộn nhất cũng được tổ chức phát động bắt đầu từ khi được tin từ Lạng Châu tâu báo về, tức vào tháng 7 năm Canh Thìn (8-980). Các việc Dương Thái hậu chọn cử Phạm Cự Lạng làm Đại tướng, quân sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để tổ chức chống giặc đã thể hiện sự chủ động phòng chống ngoại xâm lúc đó. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước quân chủ kịp thời điều chỉnh với hệ thống đơn vị hành chính ổn định từ lộ, châu, phủ đến cơ sở hương, giáp, xã cùng với tổ chức lực lượng quân đội quốc gia thống nhất được xây dựng, củng cố từ đầu vương triều Đinh là yếu tố cực kỳ quan trọng nếu không nói là quyết định cho việc tổ chức phòng vệ đất nước. Sự ổn định vững vàng của hệ thống chính trị và tổ chức quân đội, trước mắt đảm bảo cho việc huy động quân dân, sức người sức của vào việc chuẩn bị chống giặc.


Nhận định được tầm quan trọng của địa bàn chiến lược vùng cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc, phán đoán chính xác hướng tiến quân và đường tiến quân của giặc, Lê Đại Hành đã tập trung sức lực vào việc bố trí lực lượng phòng vệ và chuẩn bị đánh giặc ở vùng sông Bạch Đằng. Nơi đây hơn 40 năm trước, Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Nay thời thế khác, tương quan lực lượng có khác, nhưng địa hình với vị trí chiến lược hiểm yếu của nó không thay đổi. Đó là con đường duy nhất thuận tiện kết hợp giữa thủy, bộ của giặc từ phương Bắc tiến vào Đại Cồ Việt. Đồng thời nó cũng là chốn "Quan hà bách nhị do thiên thiết; Hào kiệt công danh thử địa tằng" (Nơi xung yếu hai người chống được trăm người do trời đặt; Các bậc hào kiệt từng lập công danh ở đất này) như Nguyễn Trãi đã nhận định1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976).


Lê Đại Hành đã huy động quân dân lập trận địa chặn đánh giặc, "cắm cọc ngăn sông" phòng giữ nơi địa đầu trọng yếu vùng Bạch Đằng - Hoa Bộ này. Cùng với tổ chức trận địa đánh chặn ở Bạch Đằng - Hoa Bộ, Lê Đại Hành cho Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh đem quân trấn giữ các nơi hiểm yếu, đầu nút giao thông thủy, bộ quan trọng trên con đường ven đông bắc dẫn về Đại La tạo thành một tuyến phòng ngự liên hoàn. Đó là vùng Lục Đầu, vùng cửa sông Thiên Đức, tức sông Đuống. Để chặn giữ giặc, bảo vệ Kinh đô Hoa Lư từ xa, Lê Đại Hành đã lợi dụng chiến hào thiên nhiên là sông Cái (sông Hồng) để dựng thành Bình Lỗ đoạn từ ngã ba Lềnh (Hà Nam) đến ngã ba Vàng (Thái Bình).


Riêng Kinh đô Hoa Lư, cùng với thành lũy kiên cố do thiên nhiên bày đặt kết hợp với công trình xây dựng thêm đã có quân tinh nhuệ "Thiên tử quân" trấn giữ. Để phòng giữ mặt biển Đông Nam có tuyến phòng thủ cửa biển Thần Đầu vùng cửa sông Đáy. Trong tổ chức phòng chống giặc lần này, tuyến phòng ngự xa ở mặt Đông Bắc, từ Bạch Đằng - Hoa Bộ đến vùng Lục Đầu giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Muốn tiến được vào Kinh đô Hoa Lư, giặc Tống phải vượt qua được các cửa ngõ Bạch Đằng - Hoa Bộ, đến Lục Đầu theo sông Thiên Đức vào trung tâm Đại La theo sông Cái tiến về phía nam. Để chặn được giặc, không cho chúng đến được Hoa Lư, trước hết phải kìm chân giặc trên tuyến đường thủy, bộ từ Bạch Đằng - Hoa Bộ đến Lục Đầu.


Hẳn rằng từ bài học phá giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền vào cuối năm 938, Lê Đại Hành đã vận dụng vào việc cho quân sĩ "cắm cọc ngăn sông". Là nhà quân sự, ông thừa biết thời Ngô Quyền, giặc Nam Hán chỉ có một đạo quân thủy của Hoằng Tháo cầm đầu tiến vào Bạch Đằng nên bằng một trận thủy chiến có thể tiêu diệt và đẩy lùi quân giặc. Còn bây giờ, giặc Tống mạnh hơn nhiều, kết hợp quân thủy, bộ cùng tấn công, do đó, việc tổ chức phòng vệ phải diễn ra trên một không gian rộng hơn gồm cả thủy và bộ.


Qua diễn biến của tổ chức phòng vệ, ta biết được trong tư tưởng chỉ đạo chống giặc, Lê Đại Hành quyết không để cho chiến trường diễn ra ở Hoa Lư. ông buộc giặc phải dừng lại ở phía bắc, kìm chân chúng ngay trên chặng đầu trên con đường tiến vào trung tâm.


Như vậy, trong vòng 5 tháng từ khi được tin báo có giặc - tháng 8-980 đến trước khi gặp giặc - cuối tháng 1-981, Lê Đại Hành đã tranh thủ thời gian chủ động hoàn tất công việc tổ chức phòng giữ, chốt quân đánh giữ các địa điểm trọng yếu sẵn sàng đợi giặc. Tất nhiên để đánh phá được giặc không chỉ có phòng vệ, mà còn phải chủ động tiến công. Nhưng trước thế giặc mạnh, nếu không tổ chức phòng ngự tốt thì không thể tự vệ được, đừng nói đến chuyện tập kích, tấn công.


Trong kháng chiến chống giặc, diễn biến chiến sự qua các trận mở màn chặn giặc ở cửa sông Bạch Đằng (24-1-981), trận Hoa Bộ - Bạch Đằng (31-1-981), trận Đồ Lỗ (7-2-981), trận Lục Giang (giữa tháng 3-981), trận quyết chiến ở sông Bạch Đằng (28-4-981), trận Tây Kết (cuối tháng 4-981)1 (Về diễn biến chiến sự xem Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.3, tr.220-232) cho biết Lê Đại Hành đã thực hiện thành công ý đồ chiến lược phòng chống giặc Tống. Các trận Bạch Đằng, trận Đồ Lỗ, trận Lục Giang là những trận tập kích chiến lược nhằm chặn đường tiến, tiêu hao lực lượng quân giặc, buộc chúng phải chùng chình, co cụm về điểm tập kết ban đầu ở Bạch Đằng - Hoa Bộ. Tại đây, trận quyết chiến tấn công chiến lược ở sông Bạch Đằng vào cuối tháng 4-981 và kế đó là trận Tây Kết, đã quyết định chung cục của cuộc kháng chiến. Bị đại bại, giặc Tống phải tháo chạy, nước Đại Cồ Việt sạch bóng thù, "từ đó trong nước rất yên"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.221).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:52:08 pm »

III- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ THỜI LÝ

Thời Lý mở đầu từ việc Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 năm Kỷ Dậu (11-1009), trải qua 9 triều vua: Lý Thái Tổ (1009-1028)2 (Lý Công Uẩn được tôn lên ngôi vào tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), đến năm sau (Canh Tuất) mới đặt niên hiệu: Thuận Thiên năm thứ nhất, vì vậy sử chép triều Lý từ Thái Tổ năm Canh Tuất (1010) đến Chiêu Hoàng năm Ất Dậu (1225) cộng gần 216 năm (theo Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Năm đặt trong ngoặc đơn là thời gian ở ngôi của các vị vua), Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1127), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175), Lý Cao Tông (1176-1200), Lý Huệ Tông (1201-1223) và Lý Chiêu Hoàng (1223-1225).


Sự xuất hiện của vương triều Lý gắn liền với việc dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long mở đầu cho một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên Đại Việt với nền Văn hóa Thăng Long rực rỡ. Nếu như thế kỷ X với các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê được quan niệm như một thế kỷ bản lề giữa hai thời kỳ lịch sử có nội dung khác biệt, thì từ thế kỷ XI với vương triều Lý, đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài. Sự phân tách như vậy xuất phát từ mục đích nhận thức lịch sử. Trong thực tế đó là một quá trình liên tục của sự kiện, hiện tượng vận động theo hướng phát triển có chọn lọc kế thừa.


Trên cơ sở những thành tựu của thế kỷ X, vương triều Lý đã kế tục xây dựng, đưa đất nước thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực. Thành tựu của thời Lý thể hiện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội. Riêng trong lĩnh vực quân sự, người ta thường nói đến chiến công "phá Tống, bình Chiêm". Về mặt chính trị, văn hóa, người ta nhấn mạnh đến việc dời đô. Điều này hoàn toàn chính xác, phản ánh thực tế lịch sử, nói lên tầm quan trọng và tác động của nó đối với sự tồn tại và phát triển của quốc gia Đại Việt. Điều đáng lưu tâm là những sự kiện trọng đại trên đều gắn với những nhà quân sự mà tên tuổi rạng ngời trong sử sách. Đó là Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn và Thái úy Lý Thường Kiệt, v.v..


Việc "phá Tống bình Chiêm" cũng như việc chọn đất định đô đã diễn ra ở thế kỷ X, và được lặp lại ở thời Lý nhưng ở một cấp độ cao hơn, trong một bối cảnh lịch sử mới.


Về tư tưởng quân sự cũng vậy. Độc lập, tự chủ, tổ chức lực lượng quân sự thống nhất gắn liền với đơn vị hành chính, chủ động phòng ngự chiến lược, là sản phẩm của thời Ngô, Đinh, Tiền Lê đã trở thành tài sản của nền quân sự quốc phòng đất nước ta. Những tư tưởng đó không chỉ có giá trị ở thời nền độc lập, tự chủ còn non trẻ vào thế kỷ X mà có giá trị vĩnh hằng. Kế thừa tư tưởng đó, các nhà quân sự thời Lý, tiêu biểu là Lý Thái Tổ và Lý Thường Kiệt trong bối cảnh lịch sử xã hội mới đã phát triển, nâng cao mang đậm dấu ấn của thời đại. Dưới đây sẽ lần lượt đề cập đến những nét lớn về tư tưởng quân sự thời Lý.


1. Tư tưởng coi trọng xây dựng tiềm lực của đất nước, phát triển ý thức độc lập chủ quyền quốc gia

Đã qua rồi thời non trẻ, chập chững, dò dẫm bước đi ban đầu trong bảo vệ độc lập chủ quyền, xây dựng nhà nước tự chủ. Cũng đã qua rồi thời mọi hoạt động chính trị, quân sự bị chi phối bởi tư tưởng phòng ngự, từ chọn đất định đô cho đến tổ chức chống giặc. Hơn 40 năm tồn tại, Kinh đô Hoa Lư đã làm tròn sứ mệnh trung tâm của nước Đại Cồ Việt. Tại đây, bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền đã ra đời, có hiệu lực quản lý đất nước thống nhất và huy động nhân dân đánh thắng giặc mạnh. Cũng tại đây, lực lượng quốc phòng từ đoàn quân dẹp loạn đã ra đời tổ chức quân đội quốc gia thống nhất có hệ thống từ trung ương đến các đạo, rồi lộ, châu, phủ. Trong cuộc đụng độ với kẻ thù xâm lược mạnh, vận dụng phòng ngự kết hợp với tập kích, tiến công, quân đội quốc gia Đại Cồ Việt đã giành thắng lợi hoàn toàn. Chủ động phòng vệ, chặn giặc, diệt giặc từ xa. Hoa Lư "phi chiến địa". Chiến tranh là thử thách lớn nhất, toàn diện nhất đối với quân dân Đại Cồ Việt. Qua thử thách, không những nền độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ mà đất nước tiếp tục xây dựng, phát triển trong hơn 20 năm dưới vương triều Tiền Lê.


Bước sang thế kỷ XI, yêu cầu xây dựng trên một quy mô lớn, phục hưng toàn diện, đòi hỏi phải có một biến chuyển lớn trong tư tưởng dẫn đến những vận động, thay đổi mạnh mẽ trong hành động của nhà nước quân chủ. Sứ mệnh lịch sử này đã đặt lên vai vương triều Lý, mở đầu từ Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ.


Khác với những nhà quân sự - vua hồi thế kỷ X, Lý Thái Tổ có một nguồn gốc bí ẩn, gắn với nhiều huyền thoại. Ông người châu cổ Pháp, lộ Bắc Giang, nay là Bắc Ninh, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8-3-974). Mẹ ông người họ Phạm, ông được sinh ra ở chùa Tiêu Sơn, làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn ở chùa Cổ Pháp (Đình Bảng, Bắc Ninh), học trò của Thiền sư Vạn Hạnh. Thiền sư Vạn Hạnh từng nhận xét: "Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.240). Ông là người khẳng khái, có chí lớn, không chăm việc sản nghiệp, chỉ rèn luyện võ nghệ. Xuất thân làm quan nhà Tiền Lê, thời Lê Trung Tông (Lê Long Việt), đến thời Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh), Lý Công Uẩn làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ thăng lên đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Nhà Tiền Lê bước vào buổi tàn mạt, sư Vạn Hạnh khuyên Lý Công Uẩn "khởi nghiệp lớn".


Năm 1009, Ngọa Triều băng hà, Lý Công Uẩn cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê mỗi người đem 500 quân Tùy Long canh giữ. Nhân thời cơ thuận lợi, Chi hậu Đào Can Mộc giục Lý Công Uẩn hành động, đồng thời họp bàn với các triều thần bèn tôn ông lên ngôi thiên tử, mở đầu vương triều Lý.


Là võ quan nhà Tiền Lê thời Lê Trung Tông (1005), từng cầm quân Tứ sương, chỉ huy cấm quân, bảo vệ nhà vua và triều đình Hoa Lư, Lý Công Uẩn hiểu rõ nội tình suy thoái của vương triều và tình trạng khó khăn, bế tắc của xã hội. Lên ngôi hoàng đế, Lý Thái Tổ đã nghĩ đến phương sách cải tạo tình thế, ổn định xã hội, phát triển mọi mặt của đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:53:18 pm »

Lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ tiến hành dời đô về Đại La. Trước khi dời đô, ông đã hạ chiếu, có đoạn nhận định về Đại La như sau: "Thành Đại La... ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam - Bắc - Đông - Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bôn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.241). Ông nói: "Mưu chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.241) như việc dời đô của nhà Thương, nhà Chu của Trung Hoa xưa. Dời đô về Đại La, ông đổi tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long gắn với huyền thoại rồng hiện ra khi thuyền của nhà vua đến bên thành. Tên gọi Thăng Long (rồng bay lên) thể hiện ý chí vươn lên mạnh mẽ của kinh đô, của đất nước sau khi dời đô; cũng là ý chí, mục đích vươn tới của người quyết định dời đô.


Với con mắt của nhà quân sự, Lý Thái Tổ hẳn biết rõ điểm yếu của Thăng Long là trống trải, khó phòng giữ, nhưng tiện lợi lớn cho việc mở mang, phát triển mọi mặt. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông nắm được thời thế đã thay đổi. Sau đại bại trong lần xâm lược 30 năm trước, nhà Tống không dám hoặc chưa dám lại sang xâm lược. Có chăng là chuyện về sau. Giờ đây là thời bình, thời của kiến thiết đất nước hùng mạnh, đem lại cuộc sống yên vui, no ấm cho mọi nhà và cũng là thời của xây dựng cơ sở giàu mạnh, tạo điều kiện cần và đủ để đánh thắng giặc một khi chúng xâm lược.


Đó là tư tưởng lớn của nhà quân sự Lý Thái Tổ. Xuất phát từ tư tưởng đó, sau khi dời đô, cùng với việc xây dựng cung điện làm nơi ở, nơi làm việc của vua quan, xây dựng chùa chiền thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh của xã hội, Lý Công Uẩn và các vua kế tiếp đã xây dựng thành lũy bảo vệ. Việc làm này được tiến hành mở đầu vào năm Giáp Dần (1014): "Tháng 10 mùa đông. Đắp thành đất ở Thăng Long, bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất cả"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tr.292). Thành đất ở đây dựa trên cơ sở tận dụng thành Đại La cũ, gọi là thành Đại La hay La Thành; bao bọc ở ngoài cùng. Bên trong có Long thành (Cấm thành) được bảo vệ nghiêm ngặt, là khu cung điện, nơi ở của nhà vua và làm việc của triều đình. Phía ngoài Long thành đắp vòng thành thứ hai gọi là Hoàng thành hay thành Thăng Long, có hào và 4 cửa: cửa Tường Phù (Cửa Đông), cửa Quảng Phúc (Cửa Tây), cửa Đại Hưng (Cửa Nam) và cửa Diệu Đức (Cửa Bắc). Để canh phòng bảo vệ thường xuyên Hoàng thành, đặc biệt là Long thành có điện tiền cấm quân gồm 10 quân, mỗi quân 200 người, gồm 2.000 người đều thích trên trán 3 chữ "Thiên tử quân". Đến thời Lý Thánh Tông (1054-1072), số cấm quân có tới 3.200 người2 (Xem: - Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, t.III, tr.7. - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.3, tr.90).


Thành Đại La ở ngoài cũng mở nhiều cửa, có quân lính tuần tra canh gác. Sử cũ còn ghi lại các cửa Triều Đông (dốc Hòe Nhai), cửa Tây Dương (Cầu Giấy), cửa Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), cửa Nam (Ô cầu Dền), cửa Vạn Xuân (ô Đông Mác).


Như vậy Kinh đô Thăng Long, với vương triều Lý không chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa mà với sự gia công xây dựng của con người còn là một thành kiên cố mở đầu thời kỳ thịnh vượng, hùng mạnh của đất nước.


Nếu như vào thế kỷ X, các nhà quân sự - vua còn dè dặt, né tránh Đại La thì bước sang thế kỷ XI, tình thế đã đổi khác. Sau hơn ba phần tư thế kỷ phục hưng xây dựng, đất nước đã phát triển; chính trị đi vào nền nếp, quân sự, quốc phòng qua thử thách, chứng tỏ sức mạnh trong chống giặc. Lúc này nhà quân sự - vua Lý Thái Tổ có đủ cơ sở đặt niềm tin vào sức mạnh của quân dân Đại Cồ Việt, quyết định dời đô, đặt bệ phóng cho đất nước vươn về phía trước. Tiếp theo Lý Thái Tổ, các vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông nối nhau cầm quyền đã xây dựng đất nước Đại Việt hùng cường, đủ sức đánh tan giặc Tống xâm lược lần thứ hai vào năm 1077, bảo vệ thành công độc lập, chủ quyền của dân tộc. Ý thức độc lập, chủ quyền từng được nung nấu, ấp ủ, tôi luyện hàng nghìn năm, bùng lên biến thành hành động quyết liệt trong giữ nước và dựng nước hồi thế kỷ X. Từ việc dời đô, kinh dinh kiến thiết đến đánh thắng giặc Tống xâm lược lần thứ hai với vương triều Lý, ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân Đại Việt được phát triển, nâng lên một tầm cao mới. Không chỉ bằng hành động mà còn được tuyên bố qua bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên từ đền Thánh Tam Giang trên bờ sông Như Nguyệt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận ở sách trời.
Cố sao giặc dữ đến xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời).


Bài thơ được quan niệm như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta xuất hiện vào thời Lý trong kháng chiến chống Tống. Nó hàm chứa một nội dung tư tưởng lớn lao. Một tuyên bố dứt khoát: Đất nước Nam vua nước Nam ở, cũng có nghĩa nước Đại Việt của dân Đại Việt, người Đại Việt làm chủ và người Việt sẽ quyết tâm bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của đất nước mình. Đó là ý trời, là lòng dân, bất cứ kẻ xâm lược nào cũng sẽ bị đánh bại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:54:22 pm »

2.Tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang theo chính sách "ngụ binh ư nông"

Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê đặc biệt coi trọng lực lượng vũ trang, tuy nhiên chính sách "ngụ binh ư nông" (gửi binh ở nông) chưa thấy được nêu lên như là một tư tưởng lớn trong xây dựng quân đội. Sử gia Ngô Thì Sĩ nói: "Có lẽ bấy giờ binh và nông chưa chia, khi có việc thì gọi ra, xong việc lại giải tán về đồng ruộng"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.III, tr.7). Thiết tưởng chưa hẳn đã hoàn toàn như vậy. Thời Đinh, Tiền Lê đã có sự xuất hiện của quân hường trực, ít nhất là ở thiên tử quân, cấm binh, chuyên đóng giữ ở kinh đô canh phòng, bảo vệ nhà vua và triều đình, ở các đạo, về sau là lộ, phủ, châu cũng vậy; luôn luôn có một bộ phận thường xuyên túc trực tại lỵ sở. Không phải hoàn toàn "đợi khi có việc mới gọi ra". Tuy nhiên, ở một quốc gia nông nghiệp, lực lượng tham gia sản xuất cũng chính là lực lượng làm nhiệm vụ phòng giữ địa phương, chiến đấu bảo vệ độc lập của đất nước khi có giặc ngoại xâm lược. Nông và binh phải được đặt ra từ đầu với nhà nước quân chủ tập quyền độc lập, tự chủ. Trong quá trình xử lý mối quan hệ giữa binh và nông, kết hợp với tiếp thu kinh nghiệm của nhà Đường, nhà Tống ở phương Bắc, vấn đề này, đến thời Lý mới được nêu rõ, có biện pháp cụ thể, trở thành một tư tưởng lớn trong xây dựng lực lượng quốc phòng, và được kế thừa, hoàn thiện ở các vương triều kế tiếp.


Sử gia Ngô Thì Sĩ cho biết: "Binh chế buổi đầu nhà Lý... lấy thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả hữu, phải túc trực thường xuyên. Lại có 9 quân như sương quân để sai khiến làm mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần, gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ tự cấp lấy chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu số quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ. Xong việc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với ý nghĩa ngụ binh ư nông"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.III, tr.7-8).


Để thực hiện được việc này, điều kiện tiên quyết là nhà nước quân chủ phải nắm được con số quân dân. Thời Lý như đã biết, nhà nước đã thực hiện việc quản lý đến tận cơ sở hương, giáp, xã ở khu vực đồng bằng và một phần trung du. Miền rừng núi, biên cương xa xôi, nhà nước chỉ quản lý bằng chính sách "Ki mi" (ràng buộc lỏng lẻo) thông qua các thổ tù, châu mục. Tình trạng cát cứ của các thổ hào chiếm giữ mỗi người một vùng tự quản đã hoàn toàn chấm dứt. Nói một cách khác, các hương, giáp, xã đã trở thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Nhà nước thời Lý đã có đủ điều kiện để nắm con số quân dân. Sử không chép rõ việc làm này của vương triều Lý. Nhưng gián tiếp qua việc ghi chép ở buổi đầu thời Trần, ta biết được cụ thể. Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm 1228 thời Trần: "Lệ cũ, hằng năm vào đầu mùa xuân, xã quan (nay là xã trưởng) khai báo nhân khẩu gọi là đơn sổ, rồi căn cứ vào sổ, kê rõ các loại tôn thất, văn quan văn giai, võ quan võ giai, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu, hoàng nam, già yếu, tàn tật, phụ tịch, xiêu tán, v.v.."1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.11). "Lệ cũ" ở đây là lệ thời nhà Lý. Sách Cương mục ghi rõ thêm: "Việc làm này nhà Trần cũng thi hành theo như phép triều Lý trước"2 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, tr.449).


Như vậy, qua việc lập đơn sổ (tức sổ hộ tịch), nhà nước thời Lý đã nắm được số lượng trai tráng đến tuổi trưởng thành phải có nghĩa vụ binh dịch. Hằng năm, nhà nước chọn tráng đinh sung vào quân ngũ ở trung ương và các lộ, phủ, châu. Số còn lại tham gia sản xuất, là dân binh bảo vệ quê hương, sẵn sàng nhập ngũ khi cần thiết.


Quân thường trực, trừ cấm quân, còn lại đều áp dụng việc chia phiên. Với việc làm này, Nhà nước Lý đã xử lý mối quan hệ giữa binh và nông: chia tách và hoán vị. Như vậy vừa đảm bảo số quân thường trực, vừa đảm bảo sản xuất nông nghiệp. Điều quan trọng hơn nữa là mọi trai tráng đều được luyện tập việc binh. Khi cần thiết Nhà nước huy động, mọi tráng đinh đều có khả năng sẵn sàng chiến đấu, được "giao cho các tướng" phiên chế vào quân ngủ.


Tư tưởng gắn "việc binh" với "việc nông" bằng quốc sách "ngụ binh ư nông" trong xây dựng lực lượng vũ trang quốc phòng không chỉ giới hạn ở việc tuyển quân từ nông dân và thay phiên nhau về làm ruộng. "Binh" ở đây được mở rộng đến nhiều lĩnh vực liên quan đến việc binh, quân sự, chiến tranh và quốc phòng. "Nông" ở đây bao gồm nông dân, nông thôn, nông nghiệp1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.3, tr.290). Dựa vào làng xã để chiến đấu, biến làng xã thành pháo đài chống giặc, phát triển sản xuất nông nghiệp để đảm bảo "thực túc binh cường" đều là những việc làm xuất phát từ tư tưởng "ngụ binh ư nông". Bằng biện pháp gửi binh ở nông, Nhà nước vương triều Lý có thể huy động trong một thời gian ngắn đủ số quân để tổ chức chống giặc. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, thực hiện chiến lược "tiên phát chế nhân", vây hãm và triệt phá căn cứ hậu cần của giặc ở thành Ung Châu từ 18-1 đến 1-3-1076, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản có được hơn 10 vạn quân gồm chính binh của triều đình và quân của địa phương do các thủ lĩnh châu mục huy động từ động bản. Sau khi san phẳng căn cứ hậu cần của giặc, Lý Thường Kiệt đã rút về xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt từ cửa sông Cà Lồ đến Vạn Xuân (Phả Lại). Để lập nên phòng tuyến có chiến lũy bằng đất, hàng rào tre dày đặc, hố chông ngầm dài hơn 30 km, ngoài công sức của quân lính còn có sự đóng góp sức người sức của của nhân dân các hương, giáp, xã; phía hữu ngạn từ bờ nam sông cầu đến Thăng Long. Trong công cuộc chặn giặc ở sông Như Nguyệt và tấn công tiêu diệt doanh trại của Quách Quỳ và Triệu Tiết cũng vậy. Sự kết hợp giữa nông và binh trong chiến đấu và hậu cần phục vụ chiến đấu đã tạo nên sức mạnh không cho giặc tiến gần Thăng Long, bị giam chân bên tả ngạn để bị đánh phá, buộc phải chịu rút quân về nước.


Ngay từ khi rút quân về xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã bố trí chặn giặc từ xa. Các đội dân binh huy động từ trong hương, giáp giao cho các tướng địa phương trấn giữ các mặt Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Đặc biệt ở các điểm trọng yếu trên tuyến đường Lạng Sơn về Thăng Long như đèo Quyết Lý (Nhân Lý), Giáp Khẩu (Chi Lăng) đều bố trí lực lượng quân mai phục. Chính lực lượng quân sự địa phương (dân binh) này đã phối hợp với quân chính quy đuổi giặc, giành lại vùng đất chúng đã chiếm.


Như vậy, đến thời Lý, tư tưởng gắn việc binh với việc nông, gắn kinh tế với quân sự - quốc phòng xuất hiện. "Ngụ binh ư nông" đã trở thành một quốc sách quan trọng của Nhà nước Đại Việt. Cho quân lính thay phiên nhau về làng xã tham gia sản xuất, kết hợp giữa quân và dân trong mọi hoạt động chống giặc là những biểu hiện phong phú của tư tưởng "ngụ binh ư nông" ở nước ta được hình thành từ thời Lý. Đó là điểm mới, điểm mở đầu, trở thành tài sản quý trong tư tưởng quân sự quổc gia Đại Việt nói riêng, của nước ta nói chung.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:56:17 pm »

3. Tư tưởng chủ động chiến lược, đánh trước để chế ngự giặc

Đánh trước để chặn mũi nhọn của địch, đó là nội dung của chiến lược "tiên phát chế nhân" được vận dụng trong chống giặc ở thời Lý.


Xét từ mục đích, thực chất "tiên phát chế nhân" cũng là một hoạt động quân sự nhằm chủ động chiến lược, tích cực và quyết tâm đánh sập mũi nhọn của địch, giành thế chủ động trong chiến đấu chống giặc. Như đã biết, tư tưởng phòng vệ tích cực là một trong những tư tưởng đã xuất hiện và bao quát mọi lĩnh vực quân sự, chính trị hồi thế kỷ X. Điều khác biệt là ở hình thức, phương lược thể hiện của nó, do bối cảnh lịch sử - xã hội quy định.


Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê cũng như thời Lý và sau này nữa, trong chống giặc giữ nước, vấn đề cảnh giác đề phòng, tư tưởng phòng vệ bao giờ cũng đi trước một bước. Phòng vệ tốt, có hiệu lực, sẽ bảo đảm chiến đấu thắng lợi. Lịch sử dựng nước và giữ nước hồi thế kỷ X đã chứng minh điều đó. Vào thời Lý, từ khi dời đô ra Thăng Long, đất nước đã vượt qua thời non trẻ với quốc gia Đại Cồ Việt. Từ Lý Thái Tổ, tiếp đến các vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, quốc gia Đại Việt (đổi tên từ năm đầu đời Lý Thánh Tông, 1054) đã trưởng thành vượt bậc về mọi mặt. Riêng trong hoạt động quân sự, cũng "phá Tống bình Chiêm", nhưng so với thời Tiền Lê, thời Lý quy mô rộng lớn hơn, chiến thuật, chiến lược sắc bén, quyết liệt hơn hồi thế kỷ X. Trong bối cảnh lịch sử đó, chiến lược "tiên phát chế nhân", đánh phá giặc trên đất giặc xuất hiện. Đối thủ - kẻ thù xâm lược cũng không xa lạ, đó là nhà Tống.


Cũng như cuộc xâm lược lần thứ nhất vào cuối năm 980 đầu năm 981 thời Tiền Lê, lần này nhà Tống cũng chủ động phát động chiến tranh xâm lược quốc gia Đại Việt. Và thời cơ xâm lược cũng là lúc nội bộ vương triều Lý có sự bất hòa kéo dài xuất phát từ sự ganh ghen giữa Hoàng hậu Thượng Dương - hoàng hậu của Lý Thánh Tông và Nguyên phi Ỷ Lan - mẹ đẻ của Thái tử Càn Đức, tức Vua Lê Nhân Tông lên ngôi vào năm 1072, mới 6 tuổi. Có thể nghĩ rằng cuộc xâm lược của nhà Tống dưới thời Tống Thần Tông (1068-1085), nhằm trả thù cho thất bại lần trước. Nếu có cũng chỉ là cái cớ, còn nguyên nhân sâu xa hơn lại xuất phát từ bên trong nội tình của nhà Tống.


Vào lúc phát động cuộc chiến tranh xâm lược, nhà Tống đã và đang phải đối diện với những khó khăn không dễ giải quyết. Đó là mối hiểm họa Liêu - Hạ ở phía Bắc và mâu thuẫn giữa Tể tướng Vương An Thạch và "tân pháp" của ông ta với đám đại thần thủ cựu cùng các tầng lớp nhân dân bất bình, vì chính sách bóc lột hà khắc của quan liêu, đại địa chủ đã phản ứng chống lại. Liêu - Hạ là hai nước ở phía Bắc thường xuyên tràn sang đánh phá, gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất. Từ khi nắm quyền quản lý đất nước (960), nhà Tống đã phải chinh chiến liên miên, nhượng bộ nhiều lần mà vẫn không khuất phục được Liêu - Hạ, khiến cho kinh tế kiệt quệ, đời sống nhân dân lầm than, điêu đứng. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ. Để cứu vãn tình thế, Tể tướng Vương An Thạch đề ra "tân pháp" không được lòng người, dẫn đến mâu thuẫn giữa nhà nước và nhân dân ngày thêm trầm trọng. Nhằm chĩa mũi nhọn mâu thuẫn ra ngoài, đồng thời để ra uy với Liêu - Hạ, Tống Thần Tông chủ trương đánh Đại Việt, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Mục đích cuộc xâm lược lần này của nhà Tống là đánh lấy hẳn Đại Việt, sáp nhập vào bản đồ của họ. Ngay từ đầu, khi cử Quách Quỳ làm tướng, Tống Thần Tông đã hạ chiếu dặn: "Sau khi bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như nội địa"1 (Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1994, tr.158). Nhà Tống định lấy đó làm thắng khí để uy hiếp Liêu - Hạ.


Từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XI, nhà Tống đã có hành động chuẩn bị xâm lược ngày càng khẩn trương hơn. Hàng loạt căn cứ quân sự và hậu cần ở vùng giáp biên giới được xây dựng. Thành Ung Châu (Nam Ninh - Quảng Tây) với vị trí quan trọng trên bờ sông Uất Giang trở thành nơi tập kết quân lính, căn cứ hậu cần của giặc Tống. Tại đây tập trung 5.000 quân chính quy do viên tướng có nhiều kinh nghiệm, già dặn chiến trường là Tô Giám coi giữ. Quân lính Tống ở Ung Châu gồm hai bộ phận: 2.000 quân giữ thành và 3.000 quân chia nhau đóng giữ ở 5 trại quân sát biên giới là Thiên Long, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình và Hoành Sơn. Ngoài số quân chính quy, nhà Tống còn huy động quân của các châu, động tham gia canh phòng và sẵn sàng xâm lược. Vào các năm 1074-1075, căn cứ Ung Châu và các trại quân Tống kề biên giới như những mũi dao nhọn sẵn sàng thọc vào sườn Đại Việt.


Âm mưu xâm lược cùng hành động chuẩn bị quân lương của nhà Tống, bằng nhiều con đường - đã đến tai triều đình Thăng Long. Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt tâu với vua: "Ngồi đợi kẻ địch đến, không bằng đánh trước để bẻ gãy mũi nhọn của nó"1 (Việt điện U linh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1972, tr.58). Nhà quân sự Lý Thường Kiệt là người đề xuất, đồng thời cũng là ngươi thực hiện tư tưởng chiến lược "tiên phát chế nhân".


Khi đề xuất tư tưởng chiến lược táo bạo này, Lý Thường Kiệt đã nắm chắc tình hình của địch và đặt niềm tin vào sức mạnh của quân dân Đại Việt, đảm bảo thắng lợi tuyệt đối. Xét về tương quan lực lượng, Tống bao giờ cũng là nước lớn, quân đông, tiềm năng dồi dào trong khi đó Đại Việt là nước nhỏ, sức người và của có giới hạn.


Mặc dù vậy, khối đoàn kết dân tộc đã được củng cố, bộ máy nhà nước vững chắc, lực lượng vũ trang, quốc phòng qua các thời Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đã được xây dựng mạnh mẽ, là cơ sở để cho Lý Thường Kiệt đặt niềm tin vào sức mình. Trong chiến lược tấn công bất ngờ vào căn cứ hậu cần của nhà Tống, Lý Thường Kiệt không chỉ dùng sức mạnh của quân đội. Ông kết hợp giữa vũ lực với thu phục lòng người. Tinh thần này được thể hiện trong bài Phạt Tống lộ bố văn.

Toàn văn bài này như sau:

"Trời sinh ra dân chúng, vua có đức thì tin yêu. Đạo làm chủ cốt ở muôn dân. Nay nghe biết vua Tống ngu hèn không theo khuôn phép thánh nhân, nghe các kế tham tàn của An Thạch bày ra phép "thanh miêu", "trợ dịch", khiến trăm họ hao kiệt, lầm than, để thỏa cái mưu nuôi béo lấy thân mình.

Số là muôn dân đều dựa vào trời bỗng sa vào sự độc hại của thói tham lợi. Bề trên cố nhiên phải thương xót. Những việc từ trước thôi không nói làm gì.

Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ, chứ không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuấn.

Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân. Hịch văn truyền đến để mọi người đều nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi"
1 (Bản dịch của Trần Văn Giáp: Tuyển tập văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, t.I, tr.307).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:57:17 pm »

Qua bài Phạt Tống lộ bố văn, Lý Thường Kiệt giải thích cho nhân dân Tống rõ lý do hành binh chinh phạt của quân Đại Việt là nhằm "quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh" của quan quân nhà Tống, cứu vớt dân khỏi phải sa vào "sự độc hại của thói tham lợi" của vua Tống, nghe theo kế của Vương An Thạch. Lộ bố tuyên bố rõ việc tiến hành chinh phạt "chỉ phân biệt quốc thổ chứ không phân biệt chúng dân". Điều đó có nghĩa là Lý Thường Kiệt nói rõ lãnh thổ của hai nước Tông - Đại Việt có phân biệt rõ ràng, không ai chiếm giữ của ai, nhưng còn với người dân thì Tống cũng như Đại Việt đều phải thương xót, phải được cứu vớt.


Bài lộ bố có sức mạnh như một đạo quân tinh thần, tác động vào tâm lý chán ghét của dân Tống đối với chính sách của nhà nước, tranh thủ sự đồng tình của họ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành quân vào nội địa Tống. Chính vì vậy "Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đằng xa thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam, rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh của quân ta lan khắp"1 (Nhữ Bá Sĩ: Thần phả Lý Thường Kiệt. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.123).


Cuộc tiến công căn cứ hậu cần của giặc bắt đầu vào cuối năm 1075. Về lực lượng huy động trong cuộc chiến, sách Toàn thư chép: "Vua biết tin, sai Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.278). Hơn 10 vạn quân này được chia làm hai cánh. Cánh chủ lực là thủy binh do Lý Thường Kiệt chỉ huy, theo đường biển từ Vĩnh An đánh vào ven biển Quảng Đông. Cánh thứ hai do Tôn Đản chỉ huy gồm thổ binh đóng giữ từ Quảng Nguyên đến Tô Mậu đối diện với các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long gần biên giới bên đất Tống. Hai cánh quân đã được phân công nhiệm vụ chiến lược cùng nhằm mục tiêu vây phá căn cứ Ung Châu. Để tạo thế bất ngờ, cánh quân bộ của Tôn Đản có các tướng Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu, Thân cảnh Phúc ở Lạng Châu và Vi Thủ An ở Tô Mậu, quấy rối vùng biên, thu hút sự chú ý của giặc, khiến chúng lầm tưởng quân Đại Việt đánh phá các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long là những tiền đồn bảo vệ Ung Châu. Lý Thường Kiệt buộc giặc phải chống đỡ mặt tây và tây nam. Cánh quân của Tôn Đản tràn qua biên giới tấn công đánh chiếm các tiền đồn của giặc. Sau đó tiến thẳng về Ung Châu. Trong khi đó, đại quân do Lý Thường Kiệt chỉ huy theo đường biển từ châu Vinh An (Móng Cái - Quảng Ninh) vào cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu kết hợp với bộ binh đóng ở biên giới tiến vào đất giặc. Bị đánh bất ngờ, quân Tống không chống cự, để mất Khâm Châu và Liêm Châu vào cuối tháng 12-1075 và đầu tháng 1-1076. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt chia quân một đạo từ Khâm Châu tiến thẳng đến Ung Châu, một đạo kéo lên lấy Châu Bạch nhằm chặn đường tiếp viện của quân Tống từ phía đông tới. Sau ngày 18-1-1076, Lý Thường Kiệt dẫn đại binh đến hội quân với bộ binh của Tôn Đản đã đến trước cùng tiến hành vây hãm Ung Châu.


Thành Ung Châu là căn cứ quân sự trọng yếu và vững chắc. Tể tướng Vương An Thạch chủ quan, khinh thường đối phương, cho rằng quân Đại Việt không hạ nổi. Viên tướng giữ thành là Tô Giám cũng vậy. Già dặn nơi chiến trường, dạn dày kinh nghiệm từng giữ thành Ung Châu 5 năm, Tô Giám ung dung đóng cửa thành tự thủ. Tô Giám cho rằng quân Đại Việt không thể đủ lực vây thành được lâu. Trong khi đó quân cứu viện sẽ tới ép quân Đại Việt lâm vào thế trước sau đều có địch, không tránh khỏi bị tiêu diệt.


Đoán được ý đồ của giặc, Lý Thường Kiệt vận dụng cách đánh "vây thành diệt viện". Vòng vây hãm thành Ung Châu ngày càng xiết chặt. Viện quân Tống từ Quế Châu do Trương Thủ Tiết chỉ huy đến ải Côn Lôn cách Ung Châu khoảng 40 km bị tấn công bất ngờ, tan chạy.


Như vậy, viện quân bị diệt, thành Ung Châu rơi vào thế cô, một mình đương đầu với vòng vây xiết chặt.


Sau gần một tháng vây hãm, nhưng thành cao hào sâu, địch chống cự quyết liệt, quân ta không lọt vào được. Lý Thường Kiệt dùng "vân thê" trèo vào thành, dùng "hỏa công" bắn chất cháy, dùng phép "độn thổ" đào hầm lót da cho kín nước luồn vào thành, dùng "thổ công" lấy đất cho vào bao bì, xếp thành bực thềm leo lên thành.


Bị vây hãm lâu ngày, trong thành lương cạn, thiếu nước, quân Tống phải dùng nước bẩn mà uống. Bệnh tật phát sinh, người chết chồng đống. Thành bị vỡ, biết không thể chống đỡ được nữa, Tô Giám giết hết gia nhân (36 người) còn bản thân tự thiêu mà chết.


Căn cứ hậu cần của địch bị triệt hạ vào ngày 1-3-1076, sau 42 ngày đêm bị vây hãm.

Sau khi phá thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt dẫn đại quân rút về nước tổ chức phòng ngự, lập phòng tuyến chống giặc trên bờ sông Như Nguyệt.

Từ "tiên phát chế nhân", phá căn cứ hậu cần giặc trên đất giặc đến phòng tuyến Như Nguyệt, tuy diễn ra trong thời gian và không gian khác nhau nhưng cùng nhằm một mục đích chung là phòng ngự tích cực, tạo điều kiện cho tiến công tiêu diệt địch thắng lợi.


Lần đầu tiên trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc, và cũng là lần duy nhất phá căn cứ giặc trên đất giặc đã xuất hiện vào thời Lý. Tư tưởng chủ động chiến lược "tiên phát chế nhân" là sản phẩm độc đáo của tư duy quân sự nước ta gắn liền với tên tuổi nhà quân sự kiệt xuất Lý Thường Kiệt.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 09:59:37 pm »

4. Tư tưởng phòng ngự chiến lược, phản công chiến lược   

Phòng ngực chiến lược và phản công chiến lược không phải là tư tưởng quân sự mới xuất hiện vào thời Lý. Tư tưởng này đã xuất hiện từ trước cùng với sự ra đời tổ chức lực lượng vũ trang, quốc phòng của nhà nước độc lập, tự chủ, thể hiện rõ trong chống giặc Tống thời Tiền Lê, thế kỷ X. Điều cần nói ở đây là vào thời Lý, tư tưởng này đã được kế thừa và phát triển ở trình độ cao hơn và biểu hiện phong phú, mãnh liệt, sắc nhọn hơn trong phòng chống giặc ở sông Như Nguyệt (sông Cầu).


Triệt phá căn cứ Ung Châu và các trại của quân Tống ở sát biên giới, Lý Thường Kiệt đã "bẻ được mũi nhọn" của giặc. Tám ngày sau, vào ngày 9-3-1076, vua Tống hạ lệnh đánh Đại Việt. Cũng liền sau khi hạ được thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt rút quân về chuẩn bị chống giặc. Nhà Tống quyết đánh chiếm Đại Việt bằng mọi giá. Nhưng chúng có đánh chiếm được hay không, không phải do một mình chúng định đoạt. Quân dân Đại Việt thời Lý dưới quyền chỉ huy của Lý Thường Kiệt quyết tâm chống giặc, bảo vệ độc lập của Tổ quốc.


Tiến hành xâm lược lần này, nhà Tống huy động khoảng 10 vạn quân chiến đấu gồm bộ binh, kỵ binh, 20 vạn phu vận chuyến, 1 vạn ngựa. Trong số quân trên có 45 nghìn quân tinh nhuệ từng chinh chiến với Liêu - Hạ ở phía Bắc điều về chia làm 9 đạo do 9 tướng chỉ huy. Còn lại là quân mới mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh Đông và các khe động vùng biên giới. Vua Tống cử Quách Quỳ - một võ tướng từng giúp Phạm Trọng Yêm đánh Hạ giữ biên thùy phía Bắc làm Chánh tướng, với chức An Nam đạo, hành doanh mã bộ quân, Đô tổng quản, Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm Phó tướng cùng Yên Đạt giữ chức Phó đô tổng quản. Về quân thủy do Dương Tùng Tiên giữ chức Chiến trạo đô giám thuộc An Nam đạo, hành doanh cầm đầu. Giặc Tống tiến vào Đại Việt theo hai hướng. Quân bộ và quân kỵ tiến từ phía bắc và đông bắc. Đại binh do Quách Quỳ chỉ huy theo đường Lạng Châu, theo sứ lộ do nhà Lý đắp từ năm 1020 vào Thăng Long. Quân thủy men theo dòng Đông Kênh ven biển đến sông Bạch Đằng tiến sâu vào nội địa phối hợp với quân bộ.


Đối với giặc Tống, hành quân vào Đại Việt lần này không dễ dàng. Ngoài việc huy động quân lính, các vấn đề hậu cần như lương thực, thuốc men chữa trị cho quân lính khi dấn thân vào một vùng hoang vắng, khí hậu thất thường, nhiều sơn lam, chướng khí đều phải chuẩn bị kỹ lưỡng, đòi hỏi phải có thời gian. Chính vì vậy, lệnh đánh chiếm được ban hành vào đầu tháng 3-1076 mà mãi đến đầu năm 1077 ngày 8-1, chúng mới đưa quân vượt qua biên giới Đại Việt.


Nắm được ý đồ chiến lược và đường tiến quân của giặc, Lý Thường Kiệt đã bố trí phòng ngự chặn giữ giặc khi chúng vượt qua biên giới tiến vào nội địa nhằm trước mắt là tiêu hao và kìm chân chặn đứng giặc. Thực hiện nhiệm vụ này là các tướng địa phương cùng đội quân thượng du, thổ binh từng đánh phá các trại giặc tiến lên vây hãm thành Ung Châu vừa thắng trận kéo về. Đó là các đạo quân Quảng Nguyên (Cao Bằng) do Lưu Kỷ trực tiếp chỉ huy; đạo quân Hạ Liêu - Cổ Lộng (Ngân Sơn - Bắc Kạn); đạo quân Môn Châu (Đông Khê - Cao Bằng) do tướng Hoàng Kim Mãn chỉ huy; đạo quân Động Giáp (Lạng Sơn) do Phò mã Thân Cảnh Phúc làm tướng; đạo quân Tô Mậu (Quảng Ninh) do tướng Vi Thủ An chỉ huy. Do nhiệm vụ đối phó với giặc trên tuyến quan trọng theo đường quan lộ vào Thăng Long nên đạo quân của Phò mã Thân cảnh Phúc có sự hỗ trợ của các đạo quân của Hoàng Kim Mãn và đạo quân của Vi Thủ An hình thành tuyến giữa phối hợp với cánh tả của Lưu Kỷ và cánh hữu của Lý Kế Nguyên. Các đạo quân trên hình thành tuyến phòng ngự thủy, bộ liên hoàn dọc biên giới phía Bắc có nhiệm vụ kìm chân tiêu hao giặc, phối hợp với chiến trường chính ở phòng tuyến Như Nguyệt.


Từ diễn biến của toàn cục, có thể nghĩ rằng trong ý đồ chiến lược phòng ngự của Lý Thường Kiệt, ông đã lường trước với thế mạnh của giặc, chúng có thể tiến sâu vào nội địa nhằm mục tiêu tiến vào đánh chiếm Thăng Long. Quyết tâm không cho chúng tới gần kinh đô, Lý Thường Kiệt đã biến dòng sông Nguyệt Đức (sông Cầu) thành chiến hào án ngữ mặt bắc, chặn đứng đường tiến về Thăng Long của giặc. Đại quân gồm chính binh cùng quân địa phương khoảng 5-6 vạn do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy tại phòng tuyến Như Nguyệt.


Lại một lần nữa, ta thấy việc lợi dụng địa hình tự nhiên kết hợp với sự xây dựng của con người tạo nên hiểm địa của các nhà quân sự trong phòng ngự chống giặc đã xuất hiện ở thế kỷ X và bây giờ là thời Lý. Nếu như ở thế kỷ X là núi non Hoa Lư, là dòng sông Cái với thành Bình Lỗ, thì ở thế kỷ XI là dòng sông Nguyệt Đức với phòng tuyến Như Nguyệt.


Phát nguyên từ Cao Bằng chảy qua Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh đổ vào sông Lục Đầu ở Phả Lại, sông Nguyệt Đức như một chiến hào chặn ngang mọi đường bộ từ Quảng Tây vào Thăng Long. Khúc cuối dòng sông dài khoảng gần 100 km có đoạn từ ngã ba sông Cà Lồ - sông Cầu về xuôi đi lại dễ dàng gọi là sông Như Nguyệt. Sông Như Nguyệt có bến đò Nguyệt, bến đò Thị Cầu dẫn theo đường bộ về Thăng Long dài khoảng 20 và 30 km. Lợi dụng địa thế lợi hại của dòng sông, Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến bên hữu ngạn, bờ nam sông Như Nguyệt. Sông chưa có đê, sau chiến thắng mới "đắp đê ở sông Như Nguyệt dài 67.380 bộ"1 (Việt sử lược, Sđd, tr.112). Bên tả ngạn sông có dãy núi Nham Biền, có chỗ chân núi lan ra mặt nước, có rừng cây um tùm tạo nên thế hiểm trở của dòng sông, thuận lợi cho việc lập phòng tuyến.


Phòng tuyến Như Nguyệt là sự kết hợp giữa dòng sông và chiến lũy đắp bằng đất dọc bờ sông được gia cố thêm bằng nhiều tầng hào, dậu, cọc tre dày đặc và hố chông. Quân lính bộ do Lý Thường Kiệt chỉ huy khoảng 4 vạn, chia ra từng trại đóng giữ những nơi hiểm yếu, như trại Như Nguyệt, Thị Cầu và Phấn Động. Quân thủy khoảng 400 chiến thuyền và hơn 2 vạn quân do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, đóng ở Vạn Xuân (vùng Lục Đầu) - một vị trí cực kỳ trọng yếu trên đường thủy vùng Đông Bắc.


Sự kết hợp giữa phòng tuyến Như Nguyệt gần Thăng Long và các cánh quân chặn giữ vùng biên giới Đông Bắc đã hình thành một thế trận phòng ngự liên hoàn, có trọng điểm nhằm chủ động chặn giữ và tiêu hao, tiêu diệt giặc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 10:00:32 pm »

Thực hiện ý đồ chiến lược của Lý Thường Kiệt, các cánh quân chặn vùng biên giới đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu. Trên đường bộ, bị chặn đánh nhiều nơi, đặc biệt ở đèo Quyết Lý (thuộc Ôn Châu) và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng), buộc giặc không thể tiến nhanh theo ý muốn. Cho đến ngày 18-1-1077, các mũi tiến công của giặc mới đến bờ bắc sông Nguyệt Đức. Phải mất 11 ngày đêm, giặc mới vượt được quãng đường từ Lạng Sơn đến Thị Cầu. Trong khi đó trên đường thủy, cánh quân thủy do Dương Tùng Tiên cầm đầu bị Lý Kế Nguyên chặn đánh nhiều nơi trên đường tiến vào dòng Đông Kênh. Bị đại bại ở Vĩnh An, Dương Tùng Tiên phải đem binh thuyền còn lại kéo về cửa dòng Đông Kênh cố thủ chờ đợi để rồi bị giam chân tại chỗ cho đến ngày chung cục mới có lệnh của triều đình gọi về. Như vậy, tuy không chặn được chân giặc nhưng các cánh quân đóng giữ nơi biên giới đã tiêu hao, làm chậm bước tiến của quân bộ và bẻ gãy cánh quân thủy làm phá sản ý đồ chiến lược phối hợp thủy, bộ binh cùng tấn công Đại Việt của giặc Tống. Chiến thắng trên dòng Đông Kênh đẩy lui quân thủy là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quan trọng thể hiện tính đúng đắn của tư tưởng chiến lược quân sự trong phòng ngự của Lý Thường Kiệt. Chặn đứng được mũi tấn công bằng thủy quân do Dương Tùng Tiên cầm đầu là đòn giáng đầu tiên vào kế hoạch tấn công của Quách Quỳ, làm phá sản kế hoạch phối hợp thủy, bộ của giặc.


Đúng vậy, ngày 18-1-1077, bộ binh, kỵ binh Tống đến bờ bắc sông Như Nguyệt thì bị chặn lại, quân Tống phải dừng chân tại đó đợi sự phối hợp của quân thủy theo dòng Đông Kênh vào sông Bạch Đằng tiến về Lục Đầu để cùng đánh vào Thăng Long. Điều này vĩnh viễn không thể có được với Quách Quỳ. Mặt khác, đến sông Như Nguyệt, chúng đã vấp phải chiến lũy phòng ngự kiên cố, quân lính dày đặc của Đại Việt ở bờ nam ngăn cản. Quách Quỳ buộc phải đóng quân bên bờ bắc sông, chuẩn bị lực lượng, đợi thủy binh đến.


Trong khi đóng quân chờ đợi, giặc chia thành nhiều đồn trại chốt giữ những vị trí quan trọng trên một tuyến dài hơn 30 km đối diện với phòng tuyến Như Nguyệt. Hai trọng điểm ở hai bến đò trên con đường tiến về Thăng Long do chánh, phó tướng phân công chỉ huy. Quách Quỳ đặt đại bản doanh ở khoảng đối diện với Thị Cầu, thuộc huyện Việt Yên (Bắc Giang). Triệu Tiết đóng ở bờ bắc bến đò Như Nguyệt, vùng Mai Thượng, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) ngày nay. Nối liền giữa hai doanh trại của chánh, phó tướng cầm đầu có những chốt quân đóng giữ những vị trí cần thiết nhằm liên lạc, tiếp ứng cho nhau khi vượt sông hoặc khi bị tấn công.


Đợi hoài không thấy thủy quân đến, Quách Quỳ nóng lòng muốn tiến về Thăng Long, chỉ cách đó khoảng 30 km, theo ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh đã định sẵn. Không đợi thủy binh, Quách Quỳ, Triệu Tiết tổ chức vượt sông bằng bộ binh, kỵ binh.


Hai đợt tổ chức vượt sông đột kích nhằm chọc thủng phòng tuyến Như Nguyệt của Quách Quỳ, Triệu Tiết đều bị phá sản. Lần thứ nhất do Miêu Lý đem vài nghìn quân dùng cầu phao vượt sông chọc thủng phòng tuyến ở bến Như Nguyệt. Nhưng chỉ tiến được khoảng 6 km về phía Thăng Long tại vùng Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh). Dấn quân vào hiểm địa, Miêu Lý bị quân chủ lực của Lý Thường Kiệt phản kích chặn đầu, khóa đuôi đánh cho tan tác. Một số sống sót cùng với Miêu Lý liều chết chạy thoát về bờ bắc.


Lần thứ hai, rút kinh nghiệm lần trước, Quách Quỳ huy động một lực lượng mạnh hơn, đóng bè lớn chở quân qua sông, mỗi bè chở được 500 quân. Đổ bộ lên bờ nam Như Nguyệt, vấp phải rào lũy kiên cố, giặc cố sức đốt phá nhưng không dễ dàng với chúng. Trong khi đó, chúng phải đối diện với quân Đại Việt từ trên chiến lũy đánh xuống quyết liệt. Hết đợt quân này đến đợt quân khác sang sông đều bị tiêu diệt. Đợt tấn công thứ hai bị đại bại.


Hai lần tiến công, hai lần thảm bại, Quách Quỳ biết không thể chỉ có bộ binh, kỵ binh mà cần có sự phối hợp với thủy binh mới chọc thủng được tuyến phòng ngự của Đại Việt. Quách Quỳ quyết định cố thủ chờ thủy quân, và ra lệnh "ai bàn đánh sẽ chém".


Như vậy, mục tiêu phòng ngự chiến lược của Lý Thường Kiệt đã đạt: giam chân thủy quân giặc ở Đông Kênh, chặn đứng giặc bên kia phòng tuyến, đẩy giặc từ thế chủ động tiến công vào thế phòng ngự bị động, hoang mang chờ đợi, lực lượng tổn thất, hậu cần khó khăn.


Đây chính là lúc nhà quân sự Lý Thường Kiệt chuyển từ phòng ngự chiến lược sang phản công, tiến công chiến lược.


Mục tiêu tiến công của Lý Thường Kiệt là hai doanh trại của Chánh tướng Quách Quỳ và Phó tướng Triệu Tiết ở Thị Cầu và Như Nguyệt, trong đó doanh trại của Quách Quỳ là trọng điểm. Tiến công như thế nào và vào lúc nào là vấn đề đặt ra trong chiến lược của Lý Thường Kiệt. Tiến công đồng thời hai doanh trại hay lấy doanh trại của Quách Quỳ làm mục tiêu chính tiến công trước, sau đó sẽ thừa thắng tập trung vào doanh trại của Triệu Tiết? Diễn biến của chiến trường cho biết Lý Thường Kiệt đã chọn chiến pháp chia cắt đánh lừa, tạo sơ hở của địch để tiêu diệt. Ông tập trung quân thủy tiến công doanh trại của Quách Quỳ trước. 400 chiến thuyền chở 2 vạn quân do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn điều khiển từ Vạn Xuân ngược dòng sông Nguyệt Đức tiến công đại bản doanh của Quách Quỳ. Đổ bộ lên bờ bắc chiến đấu quyết liệt, quân của Đại Việt lúc đầu gây cho giặc lúng túng buộc phải lui quân. Tiến sâu vào trận địa, quân nhà Lý gặp phải sự phản kích mạnh mẽ. Quân địch tung ra ngày càng đông. Trên bờ sông, địch dùng máy bắn đá nhằm vào chiến thuyền Đại Việt. Hai hoàng tử Chiêu Văn và Hoằng Chân hy sinh anh dũng trong chiến đấu.


Trong khi địch đang phải đối phó với cuộc tiến công của quân Đại Việt vào doanh trại chính của chánh tướng ở phía đông thì đang đêm, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đại quân vượt bến Như Nguyệt đánh úp doanh trại của Triệu Tiết. Khu doanh trại của Triệu Tiết có khoảng 3, 4 vạn quân bị đánh tan trong vòng một đêm; năm, sáu phần mười quân địch bị tiêu diệt.


Hai cuộc tiến công diễn ra trước sau có sự tính toán về mặt chiến lược của Lý Thường Kiệt. Tiến công doanh trại của Quách Quỳ trước nhằm thu hút sự chú ý của giặc, buộc chúng điều quân ở nơi khác về trợ chiến, trong đó có quân của Triệu Tiết, khiến lực lượng ở đây bị chia sẻ. Về phía địch, chúng lầm tưởng Lý Thường Kiệt chọn doanh trại của Quách Quỳ làm quyết chiến điểm. Bất ngờ bị tấn công, doanh trại của Triệu Tiết bị san phẳng. Không phải "dương đông kích tây", mà Lý Thường Kiệt đã tổ chức tiến công trước sau cả đông và tây, đông trước tây sau vừa phân tán, vừa tạo sự bất ngờ đối với địch.


Diễn biến của chiến trường cho hay doanh trại của Quách Quỳ bị thiệt hại nặng trong khi đó quân Đại Việt đã giành được thắng lợi hoàn toàn ở doanh trại của Triệu Tiết. Cuộc tiến công chiến lược của Lý Thường Kiệt tuy chưa giành được toàn thắng, nhưng đã tiêu diệt được hơn một nửa lực lượng địch, giáng một đòn quyết định, bẻ gãy kế hoạch tiến công, làm tiêu tan mưu đồ xâm lược của giặc Tống, tạo nên một chuyển biến lớn trong tương quan lực lượng. Còn chưa đầy một nửa số quân, Quách Quỳ cùng các tướng tá co cụm ở doanh trại vùng đối diện với Thị Cầu than thở: "Số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn"1 (Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên. Dẫn theo Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.3, tr.268).


Cuộc phản công chiến lược của Lý Thường Kiệt đã làm thay đổi bộ mặt của chiến trường, tạo nên một bước ngoặt quyết định của cuộc chiến chống xâm lược của quân dân Đại Việt: từ "đánh" chuyển sang "đàm" với thế mạnh của người chiến thắng.


Tư tưởng phòng ngự chiến lược, phản công chiến lược được thể hiện một cách linh hoạt, sáng tạo trong kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai đã khẳng định sự trưởng thành của nền quân sự Việt Nam vào thời Lý.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2020, 10:01:47 pm »

5. Tư tưởng kết hợp đòn tiến công quân sự với biện pháp ngoại giao, chủ động giảng hòa để kết thúc chiến tranh

Sau cuộc phản công chiến lược ở phòng tuyến Như Nguyệt, lợi thế ở chiến trường nghiêng hẳn về phía quân Đại Việt. Mặc dù có bị hao tổn lực lượng, nhưng với khí thế của đoàn quân đang trên đà thắng lợi, Lý Thường Kiệt có thể mở một cuộc tiến công tiếp theo giáng vào doanh trại Quách Quỳ, dồn quân Tống vào thế cùng bị tiêu diệt hay chịu đầu hàng. Nhưng Lý Thường Kiệt không chọn phương án đó. Ông nắm vững tình hình giặc đang lâm vào thế nguy khốn: lương cạn, quân số hao mòn quá một nửa lại thêm thời tiết ẩm thấp, nóng bức của cuối xuân, đầu hạ. Trong khi đó, thủy quân giặc bị chặn và đánh bại ở Đông Kênh, chiến lược hợp quân thủy, bộ cùng tiến công của chúng bị phá sản hoàn toàn. Trước tình thế thực lực hao mòn, sĩ khí kiệt quệ, Quách Quỳ, Triệu Tiết rơi vào thế "tiến thoái lưỡng nan": tiến công, tập trung toàn lực để chọc thủng phòng tuyến một lần nữa chỉ là vô vọng, chui đầu vào đường chết; rút lui tất không tránh được sự truy kích của quân Đại Việt, từ hữu ngạn tràn sang kết hợp với đòn phục kích của các cánh thổ binh chặn giữ trên đường chạy về biên giới. Quách Quỳ chỉ còn cách án binh, chờ quân cứu viện hoặc đợi lệnh của triều đình.


Con đường đến thắng lợi hoàn toàn đã mở rộng trước mắt của quân Đại Việt với hai phương án: đánh hoặc đàm. Đánh sẽ thắng nhưng không tránh khỏi hy sinh thêm xương máu, hao binh tổn tướng. Bị dồn đến đường cùng, trước khi chịu chết, giặc sẽ chống cự quyết liệt. Đã vậy họa binh đao giữa hai nước chưa hẳn đã dứt. Vì Tống là một nước lớn, có thể họ lại đem quân sang phục thù, chiến tranh tiếp diễn, quân dân Đại Việt lại buộc phải lao vào cuộc kháng chiến. Đó là điều không mong đợi của vương triều Lý. Để phù hợp với nguyện vọng được sống yên vui của nhân dân, Lý Thường Kiệt không chọn phương án "đánh" để tiêu diệt sạch đối phương, ông đã chủ trương "đàm", tức là chủ động "giảng hòa", để mở lối thoát cho quân Tống rút quân "trong danh dự". Văn bia chùa Linh Xứng ghi: "Dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tổn xương máu mà bảo toàn được tông miếu"1 (Văn bia chùa Linh Xứng (Thanh Hóa). Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd). Như vậy, "bàn hòa" là thượng sách không chỉ có lợi kết thúc chiến tranh trong thế mạnh của Đại Việt mà còn mở lối thoát cho Quách Quỳ. Quách Quỳ, Triệu Tiết thế cùng tất phải nghe, nhưng còn nhà Tống làm thế nào để thuyết phục được họ chịu cái nhục phải rút quân?


Lý Thường Kiệt chủ động đưa điều kiện nếu nhà Tống rút quân thì Đại Việt sẽ triều cống và nhượng một phần đất mà Quách Quỳ đã chiếm được. Đó là đất Quảng Nguyên, Quang Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang thuộc vùng biên Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh ngày nay. Rõ ràng vấn đề đặt ra lúc này không phải chỉ giải quyết giữa Lý Thường Kiệt và tướng giặc Quách Quỳ, Triệu Tiết mà là giữa vương triều Lý với nhà Tống. Quách Quỳ, như chết đuối vớ được cọc, nhanh chóng chấp nhận điều kiện của Lý Thường Kiệt đưa ra và tâu về triều đình. Trước tình thế lúc đó, vua Tống đã chấp thuận, ra lệnh rút quân về nước.


Bằng biện pháp "bàn hòa", mục tiêu của cuộc kháng chiến đã đạt: quét sạch giặc ra khỏi bờ cõi. Phần đất đai tạm nhượng cho giặc thì liền sau khi Quách Quỳ rút lui, Lý Thường Kiệt đã cho quân chiếm lại các đất Quang Lang, Môn, Tô Mậu. Còn Quảng Nguyên cho đến năm 1079, sau nhiều lần cử sứ giả đưa cống phẩm sang thương thảo, Đại Việt trao trả 221 người bị bắt làm tù binh, đổi lại nhà Tống trả lại đất Quảng Nguyên mà họ đã đổi làm Thuận Châu.


Tư tưởng kết thúc chiến tranh bằng kết hợp đòn quân sự với ngoại giao, chủ động "bàn hòa" với quân Tống, thực chất là sự tiếp nối của hoạt động quân sự dưới một hình thức khác có lợi cho sự phát triển của đất nước. Tư tưởng này lần đầu tiên xuất hiện ở thời Lý và đã giành được thắng lợi: Đất nước sạch bóng thù.


Tư tưởng quân sự được hình thành và xuất hiện cùng với quá trình tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang và những hoạt động của nó trong xây dựng và chiến đấu bảo vệ độc lập của đất nước thông qua các nhà quân sự tiêu biểu của thời đại. Xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhưng một khi đã hình thành, những tư tưởng đó còn được bảo lưu, kế thừa, nâng cao để trở thành tài sản chung của nền quân sự quốc phòng, có nhiệm vụ, chức năng không thay đổi qua các thời đại: giữ nước và dựng nước.


Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII, ghi nhận sự ra đời và trưởng thành của tổ chức quân đội quốc gia từ Đại Cồ Việt đến Đại Việt. Từ đoàn "quân mới họp" thời Ngô Quyền, những trai tráng ở các sách, động, vùng, miền tập hợp thành đoàn quân dẹp loạn tiến lên thành tổ chức quân 10 đạo, Thiên tử quân thời Đinh, Tiền Lê, cấm binh, sương quân, quân các châu, lộ, phủ và dân binh thời Lý là bước phát triển vượt bậc của tổ chức lực lượng vũ trang quốc phòng thời này.


Vừa mới ra đời, tổ chức quân 10 đạo của quốc gia Đại Cồ Việt đã đánh thắng giặc Tống lần thứ nhất vào cuối năm 980, đầu năm 981. Chưa đầy một thế kỷ sau, vào năm 1075-1077, lực lượng vũ trang quốc phòng của nhà Lý lại đánh bại cuộc xâm lược lần thứ hai của giặc Tống, lập nên kỳ tích trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc. Những thành tựu trong giữ nước và dựng nước của lực lượng vũ trang quốc phòng thời Ngô, Đinh, Tiền Lê gắn với các nhà quân sự tiêu biểu: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, thời Lý gắn với: Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt là những đại biểu xuất sắc cho lực lượng vũ trang một thời.


Hiển nhiên trong lịch sử chiến đấu giữ nước thời Văn Lang, Âu Lạc, đấu tranh lật đổ ách đô hộ thời Bắc thuộc, cùng với tổ chức vũ trang quốc phòng đã hình thành những tư tưởng quân sự, dù còn sơ khai, nhưng là cội nguồn để đến các thế kỷ mở đầu thời độc lập, tự chủ kế thừa và phát triển.


Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý bao gồm hai thời kỳ: thế kỷ X khôi phục, phục hưng nền độc lập, tự chủ và thế kỷ XI - đầu thế kỷ XIII phát triển đất nước phồn thịnh, hùng cường.


Sự khác biệt trong nội dung lịch sử này được phản ánh trong tư tưởng quân sự của mỗi thời kỳ.

Ở thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê, độc lập, tự chủ, xây dựng tổ chức lực lượng quân sự thống nhất gắn với đơn vị hành chính, phòng vệ, phòng ngự kết hợp với phản công, tiến công là những tư tưởng quân sự hình thành trong quá trình khôi phục và bước đầu xây dựng độc lập, tự chủ của đất nước. Đồng thời những tư tưởng này đã hướng dẫn, tác động đến mọi hoạt động của lực lượng vũ trang quốc phòng, lập nên những thành tựu bước đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn vong của dân tộc.


Bước sang thời Lý, kế thừa và phát triển thành tựu của quá khứ, bên cạnh những tư tưởng đã có được nâng cao, phát huy tác dụng vào thời kỳ mới, ta thấy xuất hiện những tư tưởng mới. Khẳng định sức mạnh của đất nước, phát triển ý thức độc lập, chủ quyền quốc gia, phòng ngự chiến lược, phản công chiến lược là những tư tưởng được kế thừa và mở rộng của tư tưởng độc lập, tự chủ, phòng ngự tích cực của thế kỷ X. Trong khi đó, xảy dựng lực lượng vũ trang "ngụ binh ư nông", chủ động chiến lược ''tiên phát chế nhân", kết thúc chiến tranh bằng ngoại giao chủ động bàn hòa là những tư tưởng mới xuất hiện trong bối cảnh lịch sử cụ thể của thời Lý. Đó là điểm mới, là đặc trưng của tổ chức lực lượng quốc phòng trong quá trình phát triển từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII.


Các tư tưởng trên đã phản ánh tính liên tục và phát triển sáng tạo trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang quốc phòng, trong quá trình vận động phát triển của đất nước thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý. Với sức mạnh của một thứ vũ khí tinh thần sắc bén, các tư tưởng quân sự trên, dưới sự chỉ đạo của các nhà quân sự tiêu biểu, thông qua hoạt động của lực lượng vũ trang quốc phòng đã biến thành sức mạnh vật chất. Với sức mạnh đó, quân dân Đại Cồ Việt - Đại Việt đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng lợi trong xây dựng nhà nước quân chủ, gìn giữ biên cương; mở rộng bờ cõi, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước.


Là sản phẩm của thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, tư tưởng quân sự trên đã trở thành tài sản quý giá, làm phong phú cho gia tài quân sự quốc phòng nói chung, tư tưởng quân sự Việt Nam nói riêng trong lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2021, 09:40:17 pm »

Chương III
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ THỜI TRẦN (THẾ KỶ XIII - XIV)

Đến thế kỷ XIII, tư tưởng quân sự Việt Nam (thời Trần) đã có một bước phát triển rất lớn. Cùng với những chiến công oanh liệt trong ba lần kháng chiến chống giặc Mông - Nguyên xâm lược, ở Đại Việt đã xuất hiện nhiều tác phẩm lý luận và những tư tưởng quân sự độc đáo. So với những quan điểm, tư tưởng quân sự cùng thời ở các nước châu Á, châu Âu, thì có thể coi đó là những quan điểm, tư tưởng vượt thời đại. Sự xuất hiện những quan điểm, tư tưởng quân sự thời Trần là một bước phát triển mới, quan trọng của lịch sử quân sự dân tộc ta hồi thế kỷ XIII - XIV. Qua thực tiễn chỉ đạo chuẩn bị và thực hành chiến tranh, qua những tác phẩm quân sự nổi tiếng của Trần Quốc Tuấn, những áng văn thơ của các vua Trần và các nhà chính trị - quân sự thời Trần, chúng ta thấy đã xuất hiện một hệ thống lý luận, tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang, về quốc phòng và chiến tranh giữ nước với rất nhiều nội dung tiến bộ. Những luận điểm, tư tưởng đó đã có tác dụng to lớn đối với sự chỉ đạo các cuộc chiến tranh giữ nước thời Trần, đặt nền tảng cho sự phát triển tư tưởng, lý luận quân sự các đời sau.


I- NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN

1. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội thời Trần

Đầu thế kỷ XIII, với sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, triều Lý rời khỏi vũ đài chính trị; một vương triều mới thay thế: triều Trần (1226 - 1400). Từ đây, nước Đại Việt trải qua một giai đoạn phát triển mới. Về khách quan, điều đó phù hợp với nguyện vọng hòa bình, thống nhất của nhân dân và yêu cầu phát triển của lịch sử. Triều Trần trẻ trung thay thế triều Lý suy yếu, để lãnh đạo đất nước trong một bối cảnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là lúc ở phương Bắc, đế quốc Mông Cổ đang phát triển như vũ bão, những đạo quân viễn chinh người Mông Cổ đã chinh phục nhiều nước và đang đe dọa nghiêm trọng vận mệnh nhiều quốc gia, dân tộc. Đất nước ta, vì thế sắp bước vào một thử thách hiểm nguy trước họa xâm lăng.


Vương triều Trần đã cùng nhân dân Đại Việt khẩn trương bước vào công cuộc xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi lực lượng để sẵn sàng đánh giặc. Thế kỷ XIII, nước Đại Việt đã vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu đáng tự hào trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và nhất là trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Sự phát triển về mọi mặt của đất nước cùng với điều kiện lịch sử - xã hội lúc bấy giờ là cơ sở, nền tảng xuất hiện những quan điểm, tư tưởng về dựng nước và giữ nước thời Trần, trong đó có tư tưởng quân sự, quốc phòng, góp phần để dân tộc ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong những lần kháng chiến chống ngoại xâm.


a) Lãnh thổ quốc gia, vị trí địa lý quân sự nước Đại Việt

So với thời Lý, lãnh thổ Đại Việt thời Trần không mấy thay đổi. Về đại thể, Đại Việt bao gồm những vùng lãnh thổ Bắc Bộ và một phần Trung Bộ ngày nay, trong đó trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn nhất là Kinh đô Thăng Long. Phía bắc, Đại Việt giáp với Trung Quốc ở vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) bấy giờ thuộc nhà Tống và nhà Nguyên, đồng thời giáp với vương quốc Đại Lý (tức Nam Chiếu) ở vùng Vân Nam. Phía đông là biển rộng bao la và các hải đảo. Phía nam giáp vương quốc Chăm Pa (Chiêm Thành). Lãnh thổ Đại Việt như một bao lơn rộng nhìn ra biển Đông, có vị trí địa lý quan trọng, nằm trên đường giao lưu từ bắc xuống nam, từ tây sang đông.


Trải dài từ Móng Cái đến miền Trung Trung Bộ, nước Đại Việt gồm cả đồng bằng, rừng núi và sông biển. Cấu tạo lãnh thổ với rừng núi, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ và biển đảo, cùng với sự phân bố dân cư trên khắp các miền đất nước có ảnh hưởng lớn đến tư duy cấu trúc hành chính, quân sự cũng như những hoạt động quân sự, quốc phòng thời đó.


Bấy giờ, công cuộc khai phá đất hoang để tăng thêm diện tích cư trú và canh tác ra vùng biển được tiến hành thường xuyên và trở thành quốc sách. Vua Trần cho phép các vương hầu, công chúa được quyền chiêu tập dân nghèo và những người phiêu tán làm nô tỳ, đắp đê ngăn nước mặn để khai hoang, lập các điền trang. Nhờ phương thức đó mà lưu vực các sông lớn ở Bắc Bộ và Trung Bộ ngày càng trở thành địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân, là những vùng đất phì nhiêu, sản xuất nhiều lúa gạo nhất thuở ấy.


Nước Đại Việt đã sớm quy tụ trong một cộng đồng dân tộc nhiều thành phần, trong đó đa số là người Kinh, ở trung du và rừng núi là địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số khác như Mường, Tày, Thái, Mông, Nùng, Dao, V.V.. Người Việt tụ cư trong các cộng đồng làng xã hay động bản. Quan hệ giữa các dân tộc sống trên lãnh thổ Đại Việt là mối quan hệ đoàn kết, thân ái và bình đắng. Khối thống nhất ấy đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền các cấp mà trên hết là triều đình trung ương với những chính sách khá tiến bộ.


Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Nguyên ghi rằng: Nước Đại Việt... đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần nhiều phì nhiêu1 (Xem Uông Đại Uyên: Đảo di chí lược, tự phục trại toàn thư, t.3). Sách An Nam chí lược cũng phản ánh: Nước Đại Việt "dân cư đông đúc". Và Dư địa chí của Nguyễn Trãi cho biết, thời Trần chia nước thành 12 xứ, viện quan dâng "sổ vàng", hạng đại nam và trung nam có 4.900.000 đinh, hạng hoàng nam có 2.104.300 đinh1 (Xem Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, tr.214). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, thời Trần, nước Đại Việt đã có trên 7 triệu đinh nam (?). Bấy giờ, do nhu cầu quản lý nhân đinh để tuyển quân, bắt phu và thu thuế, triều đình nhà Trần đã lập sổ hộ tịch. Tuy rằng, sử sách xưa ghi chép không cụ thể về dân số Đại Việt là bao nhiêu, nhưng có thể đoán rằng dân số nước ta thời Trần có khoảng 6 -7 triệu.


Theo sử cũ, Đại Việt là một xứ sở phồn thịnh. Đó là một nước mà từ sớm đã thu hút nhiều thương gia ngoại quốc; như sách Tiền Hán thư chép: "Đất Việt ở gần biển, có nhiều tê, voi, đồi mồi, ngọc châu, ngọc ky, vàng, đồng, hoa quả, vải. Người Trung Quốc đi lại buôn bán phần nhiều trở nên giàu có"2 (Tiền Hán thư, q.28, tr.36). Sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng cũng viết: "ở đó ruộng màu mỡ, cấy lúa trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng như tuyết, cánh chim sả thì đỏ tía đẹp mắt. Vàng thì có sẵn ở châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai sáng thì có sẵn ở các xứ Tĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn ở trong biển"3 (Cao Hùng Trưng: An Nam chí, tài liệu dịch của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.81). Sách Lịch triều hiên chương loại chí cho biết: "Nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam; ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người ở đâu đến làm ăn buôn bán cũng làm giàu được cả"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.IV, tr.35).


Một đất nước giàu đẹp lại nằm ở vị trí địa lý quan trọng thì không thể tránh khỏi con mắt nhòm ngó đầy tham vọng của những thế lực bành trướng xâm lược ở sát nách qua thế kỷ này đến thế kỷ khác. Kinh nghiệm lịch sử hơn một nghìn năm trước đã được Phan Huy Chú khái quát như sau: "Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa nên Trung Quốc lúc nào cũng nghĩ cách chiếm lấy nước mình, đặt ra làm quận huyện để cai trị từ lâu rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy, lúc đã lấy được thì không chịu bỏ ra nữa"2 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.IV, tr.35).


Tham vọng xâm lược Đại Việt của các thế lực phong kiến phương Bắc không bao giờ dứt. Triều đại này, thế kỷ này chúng bị đánh bại thì triều đại sau, thế kỷ sau lại nuôi tham vọng xâm lược lớn. Nhà Tống đã hai lần tiến hành chiến tranh để thôn tính nước ta (thế kỷ X và XI). Thế kỷ XIII, quân Mông - Nguyên ba lần xâm lăng Đại Việt. Chúng đã gây nên những cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, hao binh, tổn tướng, hy vọng mở đường tiến xuống phương Nam, nhưng đều bị thất bại, để rồi như vua Nguyên, Hốt Tất Liệt nói rằng: "Việc Nam chinh như ngứa ngáy trong tim ta".


Điều kiện về lãnh thổ, hoàn cảnh địa lý - lịch sử trên đây có những thuận lợi cơ bản đối với công cuộc xây dựng đất nước, nhưng cũng đặt ra những thách thức và trách nhiệm nặng nề trong sự nghiệp giữ nước. Một đất nước luôn bị kẻ thù lăm le xâm lược, quấy phá, thì hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước luôn phải gắn liền với nhau. Điều đó đòi hỏi dân tộc ta, nhân dân ta cũng phải thường xuyên cảnh giác, quan tâm xây dựng tiềm lực đất nước trên các phương diện để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của mình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM