Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:14:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Lai 30 năm chiến tranh giải phóng  (Đọc 9122 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2020, 07:23:09 am »

C – Phong trào nhân dân đấu tranh chống địch cướp chiếm đất lập “dinh điền” và chống chính sách “dinh điền” của địch:

Song song với phong trào nhân dân chống chính sách “tố cộng, diệt cộng” của địch, phong trào nhân dân nổi lên diệt ác ôn, thám báo, gián điệp vùng phía đông tỉnh, thì ở vùng đất bằng phía tây tỉnh lại nổ ra cuộc đấu tranh chống địch chiếm, cướp đất lập “dinh điền” của địch cũng rất quyết liệt.

Nhằm phục vụ cho âm mưu xâm lược nước ta lâu dài từ năm 1957 trở đi, Mỹ Diệm ráo riết chiếm đất, rừng của đồng bào dân tộc trên vùng đất bằng phía Tây tỉnh, đề dồn dân ào ạt từ các tỉnh đồng bằng lên Gia Lai xây dựng một hệ thống “Dinh điền” gần giáp biên giới CamPuChia.

Việc chiếm đất, dồn dân, cưỡng ép dân di cư, địch đã làm đảo lộn cuộc sống bình thường của đồng bào Kinh từ đồng bằng lên và đụng chạm đến đời sống, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc, nhân dân rất căm phẫn.

Trước tình hình đó Tỉnh ủy sớm đề ra chủ trương phát động đồng bào các dân tộc trong tỉnh đấu tranh chống địch. Khẩu hiệu “chống địch cướp đất” đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, tranh thủ được tầng lớp trung gian, chủ làng, già làng và cả một số nhân viên Ngụy quyền người dân tộc đồng tình ủng hộ.

Ngay từ đầu nhân dân các vùng bị địch cướp đất đã tập hợp lực lượng, cùng nhau đi cắm cọc, chăng dây khoanh vùng, giữ đất, giữ ruộng nương, giữ hồ ao, mồ mả, đốt tranh giữ tre, không cho địch chặt phá lấy làm nhà đón người di dân, kiên quyết không cho địch chiếm rẫy rừng của đồng bào.

Đầu năm 1959, bọn địch tại tiểu khu Pleiku và quận Lệ Thanh đưa một trung đội bảo an cùng hai xe ủi đến vùng PleiBlang Yam (Chưpăh) thực hiện cày ủi ruộng rẫy của dân làng. Nhân dân đã kịp huy động đông đảo lực lượng dùng lý lẽ đấu tranh với địch. Trên 2.000 người của 92 làng chung quanh chẳng bao lâu đã kéo đến tiếp sức cho dân làng Plei Yam đấu tranh không cho địch cày ủi ruộng nước. Bọn địch vẫn ngoan cố cho xe ủi phá cọc rào. Chị Chăm người làng Ken Ngó dẫn đầu đoàn phụ nữ lăn ra mặt đường nằm trước mũi xe ủi của địch không cho xe xúc cọc, phá ruộng rẫy. Ở Bảo Đức hàng trăm phụ nữ khác do chị H’ Len dẫn đầu, cũng nằm lăn ra trước đầu xe ủi đất. Bọn ác ôn ngoan cố ra lệnh cho dân đàn áp, chúng cho xe xúc cả người lẫn đất ra bờ lô. Lập tức hàng trăm người cả ông, bà già, trẻ em xông vào vây đánh bọn ác ôn. Có anh em tự vệ và thanh niên nhảy lên xe và xông vào buồng lái lôi lái xe ra không cho nổ máy. Cuộc đấu tranh ngày càng quyết liệt, dân các làng ngày càng đông dẫn đến vây xe, tranh thủ thuyết phục lính bảo an, cuộc đấu tranh kéo dài hai, ba ngày, quần chúng cử đại biểu đi Pleiku đấu tranh tiếp. Bọn ác ôn buộc phải dừng ngay cuộc cày ủi, trước khí thế đang hừng hực dâng lên của đồng bào, chịu cứu chữa người bị thương, nhận các kiến nghị của dân, gửi lên trên. Nhân dân tiếp tục cắm cọc, cuốc ruộng, đào mương dẫn nước tưới được 8 ha ruộng.

Thắng lợi của cuộc đấu tranh PleiBlangYam, Bảo Đức đã nhanh chóng lan rộng tới vùng Chí Ngheh, qua Khu 5 (huyện ChưPrông). Giữa tháng 2/1959 nhân dân các vùng Mỹ Á – Đức Nghiệp đã mang giáo mác, tên ná đến vây nhà “Địa điểm tưởng” tìm người bị địch bắt, đánh nhau với bọn tay sai ác ôn đến cày ủi đất. Nhân dân của 25 làng xã Ia Bong, Ia Phìn lăm lăm giáo mác, gậy gộc kéo đến dinh điền Lê Ngọc đấu tranh quyết liệt không cho địch cày ủi, phá rào, phá rẫy ruộng, đòi bồi thường tài sản. Quần chúng chia từng toán 7 người thay phiên nhau gác suốt đêm không cho xe ủi nổ máy. Cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, quần chúng xáp vào vật lộn với lái xe, địch bắt trói dân, quần chúng xông vào dùng dao cắt dây trói; địch bắt đại diện của dân, quần chúng xông vào giành lại. Bọn ác ôn điên cuồng cho lính xả súng bắn vào đồng bào làm chết và bị thương 14 người. Trước tình hình ấy, quần chúng đã khiêng người bị thương chuyển lên quận đấu tranh, đòi bồi thường, đỏi thả người bị bắt.

Đồng bào Kinh bị địch ép đi “dinh điền” đã phối hợp đấu tranh với đồng bào dân tộc. Khi bọn ác ôn đàn áp cuộc đấu tranh, đồng bào Kinh hô to “Đả đảo khủng bố, ủng hộ đồng bào Thượng”. Một số lính bảo an đi theo cũng phản đối hành động đàn áp dã man của bọn chỉ huy ác ôn, ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc và đồng bào dinh điền.

Được sự chỉ đạo kịp thời của các cấp tỉnh, huyện, trước sức đấu tranh quyết liệt của đồng bào trong phạm vi 143 làng của 20 địa điểm kéo dài hàng hai tháng liền, có sự đồng tình của một số lính bảo an người dân tộc, bọn ác ôn đầu sỏ Quận Lệ Thanh phải ký giấy chịu bồi thường thiệt hại cho dân (trên 20 ngàn đồng bạc lúc bấy giờ) bãi bỏ việc cày ủi, trả lại 50 rẫy cho dân, thay đổi một số tên tay sai, hạn chế đàn áp khủng bố, quan hệ đoàn kết giữa đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc tại chỗ gắn bó hơn.

Song song với cuộc đấu tranh của đồng bào dân tộc chống địch cướp đất, đồng bào Kinh bị cưỡng ép lên lập “Dinh điền” đã nổi lên đấu tranh đòi về quê cũ, hoặc bỏ đi nơi khác lấy cớ khí hậu Tây Nguyên khắc nghiệt. Đồng bào Ninh Đức đình công nghỉ trồng cao su, đòi địch phải cấp đủ lương thực, thực phẩm. Đồng bào ở Lệ Phong, Lệ Kim nghỉ việc đòi quận, địa điểm trưởng cải thiện đời sống, đấu tranh trả giống đay, thay giống lúa để có lương thực ăn tại chỗ. Cuộc đấu tranh của đồng bào liên tục, quyết liệt chống địch bóc lột, o ép đủ cách. Không cam chịu nhục, đồng bào ở Plei Me 1, Plei Me 2, dinh điền Sùng Lễ, Tân Lạc đã chặt, cuốc, đốt phá hàng trăm hecta cao su, đòi địch trả dân về quê cũ ở đồng bằng.

Các cuộc đấu tranh trên đã làm chậm trễ âm mưu cướp đất lập “Dinh điền” của Mỹ Diệm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2020, 07:24:32 am »

*   *
*

D – Đồng khởi của đồng bào các dân tộc trong tỉnh:

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa II) ngày 13 tháng 01 năm 1959 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Miền Nam là: “giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của Đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam Việt Nam…”. Hội nghị khẳng định “… con đường phát triển cơ bản của cách mạng Miền Nam là dùng bạo lực, lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều, hoặc ít, tùy tình hình để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân…”

Tháng 2 năm 1959, Quân ủy Trung ương Hội nghị mở rộng để quán triệt nghị quyết 15 Trung ương, bàn tổ chức chi viện cho miền Nam. Một số cán bộ chiến sĩ ra tập kết miền Bắc năm 1954 nay được lựa chọn trở về miền Nam chiến đấu.

 Tháng 7 và tháng 8 năm 1959, Nghị quyết 15 Trung ương đã được tổ chức học tập cho cán bộ, Đảng viên các cấp ở tỉnh. Nghị quyết được phổ biến đến đâu, khí thế cách mạng của quần chúng bùng lên đến đó – “Đảng đã cho đánh địch rồi!”, nhân dân các dân tộc trong tỉnh từ đồng bào đến cơ ở vùng Kinh đều rạng rỡ phấn khởi, hăng hái gia nhập các đoàn thể giải phóng, đẩy mạnh sản xuất, bố phòng chống địch. Đồng bào dân tộc xung phong làm “Rẫy cách mạng”, trồng thêm sắn, ngô nuôi quân, xây dựng lực lượng vũ trang; chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Con đường phát triển cách mạng ở Miền Nam Việt Nam đã được vạch rõ. Những bế tắc lúng túng về hình thức, phương pháp đấu tranh đã được giải quyết. Nguyện vọng của quần chúng cách mạng đã được đáp ứng. Thời kỳ cách mạng mới của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam đã mở ra.

Tháng 9 năm 1959 cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trà Bồng ở Miền Tây Quảng Ngãi đã mở ra và giành thắng lợi; cùng với cuộc nổi dậy của đồng bào vùng Thồ Lồ, tháng 8 năm 1958 và cuộc nổi dậy của nhân dân các làng Tơ Lốc, Tơ Léc và làng Hà Rì (Vĩnh Thạnh) tháng 2 năm 1959 đã lao lên Gia Lai, cố vũ thôi thúc nhân dân các dân tộc trong tỉnh kiên quyết đấu tranh chống địch.

Tháng 11 năm 1959, tự vệ mật và thanh niên làng Đé Sơ Rơn và làng Đé Skiết (huyện KôngChro) đã phục rượu và mưu trí diệt một tiểu đội thám báo, khi bọn này bị lừa lội qua suối Sdrôh diệt 7 tên, thu 7 súng trường và đạn. Cuối năm 1959, nhân dân làng Ơi Đăk – xã Đăk Bằng (huyện KrôngPa) nổi dậy giết tên cảnh sát quận, giải thoát cho 2 cán bộ rồi kéo cả làng ra rừng bố phòng chống địch.

Cùng thời gian này lực lượng vũ trang tỉnh được gấp rút xây dựng. Đoàn cán bộ quân sự, chính trị của Trung ương chi viện cho Gia Lai đợt đầu tiên có 25 đồng chí đã đến căn cứ của tỉnh. Các cán bộ ở Miền Bắc đều đã qua đào tạo hoặc bổ túc ở các trường chính quy có trình độ chính trị vững vàng, trình độ kỹ thuật và chiến thuật được huấn luyện cơ bản, đã trải qua kháng chiến có kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ huy và am hiểu chiến trường.

Các các bộ quân đội mấy năm ở lại Miền Nam, ngoài một số đồng chí chuyển qua giữ các vị trí công tác Đảng, các ngành, các đoàn thể, còn một số đồng chí trở lại nắm chỉ huy, lãnh đạo các đơn vị vũ trang mới thành lập.

Các chiến sĩ trong các đột thoát ly, các đội tự vệ mật làm công tác bảo vệ cơ quan, các đội sản xuất tự túc, các đội vận chuyển v.v…. được chọn tập hợp lại cùng với số thanh niên hăng hái tình nguyện vào lực lượng vũ trang. Đặc biệt sau đợt học tập Nghị quyết 15 Trung ương, phong trào thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội sôi nổi, rầm rộ. Các huyện 2, huyện 7 các thanh niên trẻ, khỏe đến xin vào bộ đội vượt quá số lượng cần tổ chức. Một số anh em phải động viên trở về làng làm nòng cốt trong dân quân du kích tại cơ sở. Những thanh niên được tuyển vào đơn vị vũ trang đều qua rèn luyện thử thách trong các đợt đấu tranh chống địch “Tố cộng” nên có ý thức giác ngộ cách mạng, căm thù địch sâu sắc, ý chí cách mạng kiên định.

Ngày 23 tháng 10 năm 1959 các Trung đội vũ trang tập trung tỉnh chính thức thành lập, đợt đầu có 3 Trung đội gồm làng 10, làng 20 và làng 30(1). Sang năm 1960 lập thêm 3 Trung đội là làng 40 ở vùng Đăk Lôh (KơBang) và làng 50, làng 60 ở huyện 7 (KôngChro), số vũ khí cất dấu năm 1954 được đào lên, sửa chữa, trang bị cho các Trung đội mới thành lập. Ngoài số súng cũ có thêm 3 Trung liên và một súng cối 60 ly ở miền Bắc chuyển vào.

Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định Ban quân sự tỉnh trực thuộc Tỉnh ủy chuyên lo xây dựng và chỉ đạo hoạt động của lực lượng vũ trang do đồng chí Vũ Trung Thành Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Kpă Thìn Tỉnh ủy viên phụ trách (tháng 3-1960). Dần dần có tăng thêm một số cán bộ ngoài Bắc bổ sung vào xây dựng các cơ quan tham mưu, chính trị hậu cần chuyên lo bảo đảm cho lực lượng vũ trang tỉnh.

Đầu năm 1960, Khu 5 điều động 2 Trung đội của Gia Lai (Trung đội 50 của khu 7 và Trung đội 45 của khu 4 và khu 5) bổ sung cho tỉnh Đăk Lăk và Khánh Hòa. Đến năm 1961 Khu 5 điều tiếp Trung đội 40 (khu 2) bổ sung cho tiểu đoàn 50 (quận 5) và Trung đội 60 (khu 7) bổ sung cho Tiểu đoàn 30 (Quận 3) thuộc công trường 3 (Trung đoàn 3) chủ lực Khu 5.

Các huyện đều xây dựng được một Trung đội tập trung của huyện, một số huyện tổ chức thêm đội vũ trang công tác.


(1) Làng là phiên hiệu dùng chỉ Trung đội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2020, 07:26:35 am »

*   *
*

Giữa năm 1960, Hội nghị Khu ủy 5 kiểm điểm việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 15 Trung ương. Qua thực tế tình hình diễn ra từ cuối năm 1959 sang đầu năm 1960, Hội nghị khẳng định: “Nếu chỉ vũ trang tự vệ mà không có sức mạnh quân sự thích đáng để đánh vào lực lượng quân sự của địch đúng chỗ, đúng lúc thì ưu thế chính trị của ta không phát huy được, nhược điểm của địch không bộc lộ rõ hết”. Hội nghị quyết định:

“Mạnh dạn phát động quần chúng ở miền núi vũ trang chống địch càn quét”.

“Đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang của tỉnh và Khu”.

“Khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng”.

Chấp hành mệnh lệnh hoạt động của Khu 5, Tỉnh ủy Gia Lai chủ trương mở đợt phát động quần chúng rộng rãi trên địa bàn tỉnh, lấy tên “Phong trào thương dân, yêu nước đứng lên làm cách mạng”. Vùng đồng bào Bah Nar gọi là lung Kting Pjing the dak (đứng lên giải phóng xây dựng đất nước”. Phong trào đồng khởi này vùng lên bằng tất cả mọi hành động chiến đấu, phục vụ chiến đấu, động viên ủng hộ nhân vật tài lực cho cách mạng tham gia đấu tranh chính trị, hoạt động vũ trang vùng lên đập đổ bộ máy Ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân dân.

Tỉnh chọn địa điểm mở đầu cho cuộc đồng khởi này bằng tiến công tiêu diệt cứ điểm Kan Nak.

Kan Nak là một cứ điểm nằm về phía bắc quận lỵ An Túc (An Khê) khoảng 25km. Có một Đại đội biệt động đóng giữ, công sự tương đối kiên cố. địa hình thuộc dạng trung bình.

Chọn điểm Kan Nak mở đầu cho cuộc đồng khởi ta có nhiều thuận lợi về thế và lực. Cứ điểm nằm sâu trong vùng ta làm chủ. Nhân dân trong vùng lâu nay đã được tôi luyện trong đấu tranh chống địch khủng bố “tố cộng”. Lực lượng vũ trang tỉnh thành lập đơn vị đầu tiên trên địa bàn này. Việc chỉ đạo của Tỉnh ủy và chỉ huy của Ban quân sự tỉnh có nhiều thuận lợi. Từ cứ điểm Kan Nak trở ra phía Bắc và Tây Bắc là vung rừng núi trùng điệp, nơi đóng cơ quan chỉ đạo, khu vực dấu quân chuyển quân bảo đảm bí mật. Có nhiều thuận lợi trong bước chuẩn bị chiến đấu cho các lực lượng ta. Là trận mở màn cho cuộc đồng khởi, nên cán bộ chỉ huy của Tỉnh, các cơ quan dân, chính, Đảng, cơ quan tham mưu tỉnh trực tiếp chỉ huy điều hành giúp đỡ mọi mặt, tạo điều kiện cho trận mở màn đánh thắng.

Lực lượng chiến đấu của Tỉnh có 3 Trung đội bộ binh, tuy mới thành lập nhưng được huấn luyện tốt, có tinh thần chiến đấu dũng cảm hăng hái lập công. Có một Trung đội đặc công tỉnh làm nòng cốt, có trình độ kỹ thuật được đào tạo chu đáo. Công tác trinh sát địch, địa hình được chuẩn bị tốt.

Đúng giờ quy định, đêm 23 tháng 10 năm 1960 bộ đội ta đã bí mật cắt rào, lót đội hình sát địch từ hai mũi phía Bắc và Tây đồng loạt tiến công tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm từ phút đầu. Bị đánh bất ngờ, hệ thống điện đài, chỉ huy của địch bị tê liệt, hàng ngũ quân địch rối loạn. Ta làm chủ trận địa sau 30 phút chiến đấu, tảo trừ, đã diệt và làm bị thương trên 100 tên địch, thu 80 súng các loại và hàng tấn đạn. Địch ở quận An Túc không kịp ứng cứu.

Chiến thắng Kan Nak là trận đánh tiêu diệt đầu tiên của lực lượng vũ trang tỉnh, diệt gọn một Đại đội địch đóng giữ trong công sự tương đối vững chắc, ta thu toàn bộ vũ khí, bắt tù binh. Ta ít thương vong; trận đánh thắng lợi giòn giã, mở màn cho phong trào đồng khởi của đồng bào Bah Nar phía đông tỉnh. Bộ máy Ngụy quyền cơ sở của địch chung quanh Kan Nak bị ta phá rã. Nhân dân các làng phía Bắc đường 19 vùng lên bố phòng, cắm chông, rào làng, đốt thẻ kiểm tra, bất hợp tác với địch, lập bộ máy “tự quản” từ làng đến xã trên một vùng rộng lớn.

Địch ở quận An Túc và các đồn dọc trục lộ 19 không dám tự do đi lại lùng sục như trước vì chúng bị đánh bất ngờ, chưa hiểu được lực lượng ta.

Chiến thắng Kan Nak là điểm khởi đầu của đồng khởi trong tỉnh ở khu vực phía đông tỉnh, gồm trên 100 làng đồng bào Bah Nả đứng lên giành quyền làm chủ.

Chiến thắng Kan Nak đã vang dội sang phía nam đường số 19, đồn Ktõh (huyện 70 và đồn Đak Bơt (huyện 6) bị đơn độc, sợ ta đánh đã rút chạy. Một vùng đông dân cư phía nam đường 19 đứng lên làm chủ.

Thừa thắng Kan Nak, tỉnh kịp thời chuyển lực lượng lên phía Tây đường số 14 hoạt động. Đơn vị 30 và đơn vị đặc công tỉnh làm nòng cốt cùng bộ đội huyện và du kích Khu 4 (Chư Păh) tổ chức chiến đấu với quyết tâm cao, nhất là tiêu diệt cho được Quận lỵ Lệ Thanh.

Quận lỵ Lệ Thanh cơ quan đầu não của Ngụy quyền có đại đội biệt kích đóng giữ, khống chế một vùng dân cư đông đúc về Tây Bắc thị xã Pleiku. Nơi đây đã từng gây ra bao tội ác với đồn bào dân tộc Ja Rai trong thực hiện âm mưu cướp đất lập “dinh điền”. Do vậy mà cán bộ, chiến sĩ các đơn vị tham chiến đã nêu cao quyết tâm phát huy chiến thắng Kan Nak, đập nát quận lỵ, giải phóng cho đồng bào.

Đêm tối trời cuối tháng 11 năm 1960, bộ đội ta đã dùng chiến thuật đặc công tiêu diệt hoàn toàn quận lỵ. Trên 400 tên địch bị giết chết và bị thương, bị bắt sống, chỉ có một số ít thoát chạy. Ta thu toàn bộ vũ khí, giành thắng lợi giòn giã ở Lệ Thanh, các đơn vị ta nhanh chóng đột nhập vào các dinh điền Lệ Kim, Sùng Lễ, Đức Vinh phát động quần chúng phá khu dồn, xây dựng cơ sở và bộ máy tự quản của ta.

Từ thắng lợi đông đường đến thắng lợi to lớn phía tây của tỉnh, ta đã đẩy địch vào thế bị động lúng túng. Đây là cuộc đồng khởi nổi dậy giành quyền làm chủ khu vực đồng bào JaRai trên vùng đất của tỉnh một khu dân cư rộng lớn sát nách căn cứ quận lỵ, thị xã. Đặc biệt ở vùng này quần chúng nổi dậy chống đánh địch, nhưng vẫn giữ thế hợp pháp cho dân, vẫn ra vào tiếp xúc với địch, mở ra cách vận dụng linh hoạt sáng tạo phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công với chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2020, 07:28:00 am »

Tháng 10 năm 1960, phụ nữ làng Sung Ia O (ChưPrông) đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt một Tiểu đội bảo an địch kéo vào làng lùng sục, khủng bố đồng bào, khi thấy chúng xả súng bắn dân bị thương, lòng căm thù địch bốc lên cao, hàng chục chị em đã đồng loạt dùng củi xông vào đật chết ngay tại chỗ 7 tên ngụy, bắt sống một tên, thu 9 súng, có một súng ngắn.

Trước khí thế tấn công và nổi dậy đồng loạt trên địa bàn tỉnh, chỉ trong thời gian ngắn, đồng bào các dân tộc trên diện rộng 500 làng với 150 ngàn người đứng lên giải tán bộ máy Ngụy quyền ở cơ sở giành quyền làm chủ. Vùng căn cứ giải phóng của ta được mở rộng, nối liền từ đường số 5 (Mang Đen) vào đến đường 19 chiến lược chạy dài vào phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, đồng thời hình thành vùng đấu tranh hai chân hợp pháp của hai huyện phía tây tỉnh, với số dân đứng lên làm chủ gần 2/3 dân số toàn tỉnh.

Thắng lợi của đợt tấn công đồng khởi và nổi dậy trên địa bàn tỉnh đã bước đầu góp phần làm thay đổi cục diện phong trào cách mạng trong tỉnh và Khu 5. Nhân dân từ thế phải ép mình chịu đựng đã đứng lên đánh địch giành quyền làm chủ đại bộ phận địa bàn nông thôn tỉnh.

Thắng lợi đồng khởi của tỉnh ta góp phần cùng cuộc đồng khởi toàn miền Nam giành thắng lợi to lớn. Đẩy chính sách xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ qua tên tay sai Ngô Đình Diệm đã đi vào con đường bắt đầu bế tắc, làm phá sản chiến lược “chiến tranh một phía” của chúng. Bọn tay sai Mỹ bắt đầu mâu thuẫn nhau dẫn đến tên Nguyễn Chánh Thi, Phan Quang Đán làm đảo chính để lật Diệm ngày 11 tháng 11 năm 1960. Cuộc đảo chính bị thất bại, nhưng biểu hiện sự chia rẽ trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ và tay sai không sao hàn gắn được.

Về ta, cuộc đồng khởi thắng lợi, tăng cường lối đoàn kết toàn dân. Tháng 10 năm 1961, ta làng Đăk Lẽh (huyện KBang) Đại hội đại biểu các dân tộc miền núi Tây Nguyên họp thành lập “Phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên”, một bộ phận của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam và bầu cụ Y Bih Alé Ô làm Chủ tịch. Đại hội đã nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh chống các âm mưu thủ đoạn áp bức chia rẽ dân tộc của Mỹ và tay sai, kêu gọi đồng bào các dân tộc miền núi sát cánh cùng đồng bào cả nước đấu tranh cho độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Cùng thời gian này, Mặt trận Dân tộc giải phóng Tỉnh thành lập đoàn kết các dân tộc, động viên khí thế đấu tranh chống địch mạnh mẽ.

Sau một thời gian nén đau thương căm hờn chịu đựng nay đã đến lúc đồng bào các dân tộc vùng lên. Hàng vạn quần chúng nổi dậy xóa bỏ ách kìm kẹp của Mỹ, Diệm giành quyền làm chủ đại bộ phận rừng núi và nông thôn. Thời kỳ tạm ổn định của Mỹ Diệm đã qua, thời kỳ khủng hoảng liên tiếp kéo dài đã bắt đầu, hình thành du kích cục bộ và khởi nghĩa đã mở ra một cao trào cách mạng ngày càng phát triển mạnh mẽ(1).

Thời kỳ từ năm 1954-1960 là thời kỳ mà Đảng bộ tỉnh, cán bộ, Đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã trải qua một chặng đường tuy không dài, nhưng đầy khó khăn, ác liệt và bao thử thách hiểm nghèo.

Từ chỗ đại bộ phận tỉnh là vùng giải phóng, vùng du kích, trừ thị xã Pleiku nay trở thành vùng địch chiếm. Từ chỗ có chính quyền và quân đội đến hỗ chỉ còn lực lượng chính trị. Từ hoạt động công khai chuyển vào hoạt động bí mật, từ đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị, cách mạng tạm thời chuyển vào thế giữ gìn lực lượng. Đó là những thay đổi rất cơ bản cả thế và lực, cả về nội dung và phương pháp đấu tranh của phong trào cách mạng tỉnh ta.

Chuẩn bị cho một bước ngoặt lớn như vậy trong hoàn cảnh gấp rút tiến hành nhiều công việc mới mẻ và phức tạp như chuyển quân tập kết, cất dấu vũ khí, sắp đặt tổ chức và bố trí cán bộ ở lại… mặc dù Đảng bộ đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi sự bở ngỡ và sai sót một số mặt.

Tuy vậy, được sự chỉ đạo trực tiếp và kịp thời của Khu ủy, Tỉnh ủy Gia Lai và toàn Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo linh hoạt của lợi thế địa bàn rừng núi, hiểm trở đã khơi dậy tinh thần trung kiên bất khuất của nhân dân các dân tộc, cùng với sự hy sinh chịu đựng đầy gian khổ ác liệt của Đảng viên, cán bộ bám dân, bám đất, bám buôn làng, vận dụng phong tục tập quán của đồng bào dân tộc để xây dựng củng cố phong trào.

Điểm nổi bật của lãnh đạo là nhận thức được vị trí chiến lược của địa bàn tỉnh; quán triệt nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tiến công đã kịp thời đề ra chủ trương xây dựng căn cứ địa bàn, xoi và giữ hành lang, xây dựng thực lực chính trị, làm cơ sở vững chắc để xây dựng lực lượng vũ trang xác định phương châm, phương thức hoạt động; chỉ đạo sát đúng phương thức đấu tranh kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh tự vệ diệt ác, tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Nhờ vậy, mặc dù địch khủng bố đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng của tỉnh vẫn được giữ vững và phát triển, tạo điều kiện khi có Nghị quyết 15 Trung ương Đảng thì kịp thời và đủ sức phát động cuộc đồng khởi nổi dậy vào cao điểm cuối năm 1960 giành thắng lợi lớn. Đã phát động chiến tranh du kích toàn tỉnh đều khắp, hai phần ba chính quyền địch ở cơ sở bị tan rã, 70% số dân trong tỉnh giành quyền làm chủ góp phần cùng toàn dân miền Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh một phía” của Đế quốc Mỹ, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ cách mạng Miền Nam chuyển sang thế tiến công địch.

Từ thực tiễn của địa bàn tỉnh và phong trào đấu tranh của quần chúng ta thấy khí thế cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, việc tìm hiểu đánh giá đúng kẻ thù về âm mưu, thủ đoạn, chỗ mạnh, chỗ yếu và các biện pháp chiến lược đánh phá phong trào cách mạng của chúng để ta kịp thời xác định chủ trương, phương châm phương thức đấu tranh cho phù hợp là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để bảo vệ duy trì và phát triển phong trào giành thắng lợi, hạn chế thấp nhất tổn thất cho cách mạng.


(1) Nghị quyết Bộ chính trị Trung ương Đảng ngày 24-01-1961
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:24:36 am »

CHƯƠNG VII

Phát động và đẩy mạnh chiến tranh nhân dân,
cùng toàn miền đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

I/ Tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh:

Tháng 01 năm 1961, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp để cụ thể háo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khóa III về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng Miền Nam.

Hội nghị kết luận: “Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết 15 Trung ương, nhân dân Miền Nam từ thế bị kiềm kẹp đã vùng lên đấu tranh và tạo thành phong trào cách mạng mạnh mẽ. Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện. Cách mạng Miền Nam phát triển theo con đường tổng khởi nghĩa với những đặc điểm mới và khả năng hòa bình phát triển không còn nữa. Một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân sẽ bùng nổ để lật đổ chính quyền Mỹ Diệm, giải phóng Miền Nam”.

Cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã thu thắng lợi, xuất phát từ đặc điểm địa bàn tỉnh, với so sánh lực lượng cụ thể từng vùng khác nhau, Tỉnh ủy đề ra hình thức và phương pháp đấu tranh phù hợp là: “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch cả hai mặt chính trị và quân sự…”

- Vùng căn cứ du kích đấu tranh vũ trang là chủ yếu.

- Vùng đất đồng bằng nông thôn (phần lớn là vùng tranh chấp) thì đấu tranh chính trị và vũ trang có thể ngang nhau.

- Vùng thị xã, thị trấn (địch đang kiểm soát) thì đấu tranh chính trị là chủ yếu.

Phương châm đấu tranh đã xác định cụ thể: Tiến hành đánh địch trên cả hai mặt quân sự và chính trị, bàng 3 mũi giáp công (Quân sự, chính trị và binh vận) trên cả ba vùng chiến lược (vùng rừng núi, vùng đất bằng nông thôn và thị xã, thị trấn, quận lỵ), nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để thắng địch.

Sự chỉ đạo sát đúng này có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng các lực lượng, tổ chức đưa phong trào cách mạng tiến lên có cơ sở vững chắc. Đó cũng là sự phát triển sáng tạo về chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, tạo thế cho phong trào cách mạng trong tỉnh tiến lên. Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần đã phát triển thành chiến tranh cách mạng. Vì vậy việc xây dựng một lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng lớn để đáp ứng với nhiệm vụ cách mạng ngày càng phát triển là một yêu cầu cấp bách.

Ngày 15 tháng 02 năm 1961, Bộ chính trị ra Chỉ thị thống nhất các lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam Việt Nam. Cán bộ chiến sỹ ra tập kết Miền Bắc năm 1954 lần lượt từng đơn vị về lại chiến trường.

Tháng 01 năm 1961, Đại đội 1 Đại đội tập trung đầu tiên của tỉnh được thành lập gồm các Trung đội (làng) 10, 20 và 30. Đại đội đứng chân tại huyện 2 (Kơ Bang) do các đồng chí Tiến và Ngọc chỉ huy.

Tháng 05 năm 1961, Trung đoàn 120 ra tập kết Miền Bắc tổ chức học tập Nghị quyết 15 Trung ương (tại Phủ Quỳ Tây Nghệ An) đã biên chế thành các đơn vị thực binh và các khung cán bộ về bổ sung cho các tỉnh Tây Nguyên. Tỉnh Gia Lai được bố sung hai khung cán bộ. Mỗi khung (Đại đội) có 28 cán bộ từ Tiểu đội trưởng đến Đại đội trưởng(1).

Tháng 7 năm 1961 hai khung cán bộ này về đến căn cứ tỉnh. Khẩn trương tuyển chiến sỹ mới và điều một số chiến sỹ cũ dân tộc các huyện 5 và 7 làm tiểu đội phó. Trong vòng một tháng đã biên chế xong 2 Đại đội. Đại đội 2 (gọi là vùng 4) anh em dân thộc BahNar đứng chân tại khu 7 (KôngChro) phụ trách xây dựng và chiến đấu khu vực k7, k6 và sau này khu 11. Đại đội 3 (gọi là vùng 3) đứng chân tại khu 5, phụ trách xây dựng, chiến đấu ở hai huyện 4 và 5.

Các huyện cũng đã hình thành các ban quân sự huyện tương đối đầy đủ (gọi là huyện đội). Đã có 7 trên 9 huyện trong tỉnh đã xây dựng Trung đội tập trung của khu (các khu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7), khu 9 (Pleiku) và khu 8 (An Khê) xây dựng 1 đến 2 đội vũ trang công tác.

Cơ quan tỉnh đội ngoài các ban tham mưu, chính trị, hậu cần được kiện toàn, tỉnh xây dựng Đại đội đặc công, Trung đội trinh sát, Trung đội thông tin, Trung đội công binh, Ban hậu cần tỉnh có thêm Phân đội vận tải, bộ phận Quân giới, sản xuất, may mặc.


(1) Khung cán bộ BaNar do đồng chí Phan Anh Tuấn và Y Don chỉ huy.
Khung cán bộ JaRai do đ/c Siu và Wil và Nguyễn Ngọc Luân chỉ huy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:25:05 am »

Nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị tập trung tỉnh, huyện là chiến đấu, thường xuyên hoạt động để đẩy mạnh và làm nòng cốt phong trào nhân dân du kích chiến tranh trên địa bàn. Ra sức chiến đấu tiêu hao rộng rãi quân địch, kèm cặp dân quân du kích; đồng thời xây dựng chuẩn bị điều kiện đánh tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, kết hợp tấn công binh tề vận làm tan rã từng bộ phận quân địch.

Ngay từ đầu thành lập, Tỉnh ủy quan tâm xây dựng công tác Đảng, công tác chính trị cho các đơn vị tập trung, xác định rõ chức năng của lực lượng vũ trang tỉnh, huyện phải làm tốt 3 nhiệm vụ chủ yếu là: Chiến đấu giỏi, công tác vận động quần chúng nhân dân giỏi và là đội quân lao động sản xuất tự túc giỏi. Các đơn vị tập trung tỉnh có trách nhiệm vừa xây dựng mình trưởng thành, vừa kèm cặp bộ đội huyện và dân quân du kích chiến đấu, xây dựng tốt.

Để đảm bảo nâng cao chất lượng cho các lực lượng vũ trang trong tỉnh, thống nhất nội dung xây dựng, huấn luyện, cuối năm 1961, Ban cán sự tỉnh (Tỉnh đội) tổ chức hội nghị Quân chỉnh toàn tỉnh, chỉnh huấn ngắn ngày cho các cán bộ chủ trì các đơn vị nhằm quán triệt tình hình nhiệm vụ cho từng lực lượng, từng địa bàn, giáo dục cho cán bộ chiến sĩ hiểu rõ âm mưu thủ đoạn địch, phát động phong trào tố cáo tội ác của Mỹ và bọn ác ôn tay sai đàn áp nhân dân trong các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của chúng, xây dựng ý chí và quyết tâm chiến đấu cho cán bộ chiến sỹ.

Hội nghị đã kiểm điểm đánh giá tình hình hoạt động của các đơn vị vũ trang trong đợt đồng khởi cuối năm 1960, đúc kết kinh nghiệm bổ sung huấn luyện cho năm 1961-1962.

Mặt khác, tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị quán triệt quan điểm, tự lực, tự cường, đẩy mạnh tham gia sản xuất tự túc lương thực, thực phẩm và các trang bị cần thiết hàng ngày cho bộ đội. Kế hoạch sản xuất tự túc lương thực được đưa vào kế hoạch thi đua toàn diện của đơn vị như chỉ tiêu diệt địch, thu vũ khí và chỉ tiêu huấn luyện bộ đội, phát động quần chúng, công tác dân, địch vận. Đặc biệt nhấn mạnh chỉ tiêu chiến đấu tiêu diệt địch, thu vũ khí trang bị cho ta.

Đối với việc nuôi dưỡng, huấn luyện xây dựng dân quân du kích, Tỉnh ủy, Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh phát động nhân dân làm “rẫy kháng chiến”, “rẫy cách mạng”, nuôi quân chiến đấu. Các đoàn thể nhân dân thi đua hưởng ứng. Một không khí sôi động, khí thế kháng chiến được động viên nhân dân từng làng, từng bếp, (từng hộ gia đình) quyên góp cho mặt tận tỉnh hàng trăm bộ Cồng chiêng, nồi đồng, trâu, bò, chăn, mền, khố mới để làm quĩ kháng chiến lâu dài.

Đi đôi việc xây dựng lực lượng vũ trang năm 1961 cũng hình thành hệ thống hành lang giao liên. Tuyến hành lang Trung ương xuyên suốt Bắc Nam từ phía đông thị xã Kon Tum qua các khu 1, 2 (Kơ Bang) vượt ngang quốc lộ số 19 về khu 7 (KôngChro) xuôi về tây tỉnh Phú Yên. Tỉnh còn mở tuyến hành lang Đông – Tây song song với phía nam và phía bắc quốc lộ 19. Phía bắc, hành lang tỉnh xuyên từ khu 1, 2 lên khu 4 giáp sát biên giới CamPuChia. Đây là tuyến hành lang vận chuyển hết sức quan trọng, nối liền căn cứ cơ quan tỉnh với cơ quan chỉ huy Mặt trận Tây nguyên (từ tháng 5/1964 đến 1975) cũng nối liên lạc với đường giao liên chiến lược 1B của Trung ương trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đường giao liên phía nam (gọi là đường dây H4) từ khu 7 (KôngChro) lên khu 6 (nam Mang Yang) qua đường 14 lên khu 5 (Chưprông) giáp Binh trạm Nam (sau này). Tuyến giao liên của tỉnh do Ban giao bưu phụ trách, do một đồng chí Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo với trên 20 trạm giao liên, trang bị gần chục máy vô tuyến liên lạc đến các nơi xa, đã phát huy tác dụng rất lớn cho việc chỉ đạo xây dựng, chiến đấu bảo đảm hậu cần tại chỗ.

Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, Tỉnh tổ chức đợt hoạt động mạnh trên toàn tỉnh từ tháng 4 năm 1961. Bộ đội tỉnh đã tổ chức hàng trăm lần vũ trang tuyên truyền vào các vùng ven, sát nách thị xã, thị trấn, dinh điền, các khu tập trung đông dân. Nhân dân 20 làng dọc quốc lộ số 19 (Tây) của khu 4 và khu 5 nổi lên chống địch gom xúc dân, đốt thẻ kiểm tra, rải truyền đơn chống địch dồn quân, bắt lính. Cuộc đấu tranh của nhân dân đã gây náo động và thức tỉnh cả những người chưa hăng hái tham gia cách mạng.

Tháng 6 năm 1961, tỉnh mở đợt hoạt động Hè – Thu để phối hợp với đợt đấu tranh phá thế kìm kẹp của các tỉnh đồng bằng, củng cố và mở rộng căn cứ địa miền núi. Ngày 2 tháng 9 năm 1961, Đại đội 1 phối hợp với trung đội 14 của khu 2 (Kơ Bang) phục kích giao thông đoạn bắc An Khê vào Eo Gió, diệt tốp xe địch 4 chiếc, địch chết 36 tên, thu 6 súng và một số trang bị. Cùng thời gian Tiểu đoàn 50 của Quân khu tập kích địch ở cứ điểm KanNak buộc địch rút bỏ đồn. Phía tây trung đội 31 khu 5 (ChưPrông) phục kích toán địch càn quét ở vùng Lệ Ngọc, đã khéo léo kết hợp vũ khí tiếng nổ với cắm chông làm thiệt hại nặng một Trung đội bảo an địch buộc chúng phải bỏ dở cuộc càn.

Phía nam đường 19 Tiểu đoàn 30 của Quân khu tập kích địch đóng giữ dinh điền Châu Bân, đánh vào đơn vị địch ở sát thị trấn An Khê, cùng với Trung đội khu 7 (KôngChro) diệt toán địch tại khu chợ dồn (Tân Phong). Trường Trinh sát tỉnh đánh vào Đồn An Thượng diệt một số địch, thu 5 súng. Quần chúng nhân dân các làng của xã Gào, ven thị xã Pleiku đã nổi dậy phá kèm, cùng lực lượng vũ trang thị đánh hỏng nhà máy điện Nước Đổ (gần Bàu Cạn).

Phối hợp với hoạt động rộ trên mạn đông Pleiku và tây An Khê, một mũi đặc công của tỉnh và bộ đội tập trung khu 7 đã phối hợp với bộ đội đặc công, an ninh tỉnh Phú Yên đột nhập vào thị xã Củng Sơn giải thoát được các vị trong phong trào đấu tranh cho hòa bình bị địch đưa an trí tại đây, trong đó có cụ Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được đưa vào vùng căn cứ an toàn.

Chiến tranh du kích trên toàn tỉnh bắt đầu phát triển, mở rộng diện tiêu hao địch. Các cuộc lùng sục của địch đều bị bộ đội và du kích chặn đánh. Nhiều tuyến bố phòng chông thò dày đặc khắp nơi, hạn chế quân địch càn quét sâu vào khu căn cứ. Những toán biệt kích liều lĩnh đi sâu vào vùng căn cứ đều bị đánh thiệt hại. Các cứ điểm nhỏ, lẻ đóng sâu sát vùng căn cứ phải rút bỏ. Vùng căn cứ của tỉnh được mở rộng, góp phần quan trọng tạo thành khu căn cứ của Khu 5 được mở rộng vững chắc.

Vừa xây dựng, huấn luyện, tổ chức đánh giặc giữ làng bảo vệ các khu căn cứ, bảo vệ các tuyến hành lang vận chuyện, vừa sản xuất tự cấp tự túc, bám sát cơ sở quần chúng nhân dân làm công tác tuyên truyền vận động, anh bộ đội đã mang “Trái tim Cụ Hồ” đến với lòng dân nơi buôn rừng xanh, góp phần xây dựng vùng căn cứ cách mạng ngày càng mở rộng và củng cố lực lượng vũ trang của tỉnh cũng từ đây mà ngày một trưởng thành vững chắc đảm nhận được nhiệm vụ của nhân dân giao phó.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:26:33 am »

*   *
*

II/ Đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt địch, phá ấp chiến lược, giành dân, mở rộng và củng cố vùng căn cứ, vùng giải phóng, đánh bại kế hoạch Stalây – Tây-lơ của Mỹ:

Sau một năm thực hiện nghị quyết của bộ chính trị (tháng 01 năm 1961) phong trào cách mạng của nhân dân Miền Nam đã được giữ vững và ngày càng phát triển. Tỉnh Gia Lai, nhân dân vùng lên làm chủ đại bộ phận vùng rừng núi, vùng nông thôn đất bằng đã phát triển cơ sở khá rộng.

Để cứu vãn nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ một mặt trực tiếp nắm quyền chỉ huy quân sự ở Miền Nam, mặt khác tăng cường viện trợ trang bị vũ khí; đưa một số đơn vị vũ trang Mỹ chủ yếu là không quân, hải quân, biệt kích Mỹ vào làm chỗ dựa, hỗ trợ cho quân Ngụy và Ngụy quyền Sài Gòn tiến sâu thêm một bước trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.

Tháng 2 năm 1962, Mỹ thành lập Bộ tư lệnh viện trợ Mỹ ở Miền Nam (MACV) do tướng Ha-Kin cầm đầu. Chúng đề ra kế hoạch Stalây – Tay lơ mà nội dung cơ bản là dồn dân, lập “ấp chiến lược”, là xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở Miền Nam Việt Nam. Tham vọng của Mỹ ngụy là trong năm 1962 chúng sẽ lập 16.000 “ấp chiến lược” trong tổng số dự tính 17.000 ấp theo kế hoạch dồn dân của chúng.

Biện pháp cấp bách nhất là chúng ráo riết đôn quân bắt lính, tăng nhanh quân số. Ở Gia Lai từ 6 Tiểu đoàn và 9 Đại đội năm 1961 lên 15 Tiểu đoàn và 11 đại đội sang năm 1962. Dùng thủ đoạn mở liên tục những cuộc càn quét khốc liệt dài ngày kết hợp với nhiều cuộc càn quét ngắn ngày vào sâu các vùng căn cứ của ta, vùng ta làm chủ bằng chiến thuật “trực thăng vận”, “Thiết xa vận”, bằng chiến thuật “bủa lưới phóng lao”, hòng nhanh chóng tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo phong trào cách mạng gom được số dân trong vùng đất bằng trong tỉnh để mở “Ấp chiến lược”.

Để thực hiện mưu đồ trên, từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1962, chúng điều Sư đoàn bộ binh số 22 ngụy lên càn quét ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum, tập trung vào vùng đông dân tây đường số 14. Sau đó chúng lại điều sư đoàn 9 Bộ binh ra càn quét đánh phá vào vùng căn cứ Kon Hà Nừng; đến tháng 6 năm 1962 chúng đưa sư đoàn 22 càn vào khu du kích Đăk Bơt.

So sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc này trên địa bàn tỉnh, thì lực lượng quân sự địch đông hơn ta gấp nhiều lần. Tuy ta có làm chủ nông thôn rừng núi, nhưng địch còn kiểm soát vùng đất bằng đông dân nhiều của, còn giữ các vị trí then chốt quan trọng như thị xã, quận lỵ, trục giao thông chiến lược, địch đang tập trung lực lượng hùng hổ mở hết cuộc càn quét này đến cuộc càn quét khác, chúng thực hiện “đốt sạch, phá sạch, bắt hết” ở vùng ta làm chủ. Càn quét khủng bố kết hợp với chiêu an, chiêu hồi ở vùng tranh chấp, dùng biện pháp “tố cộng” kết hợp với biện pháp hành chính, thanh lọc trong vùng chúng kiểm soát. vùng ven thị xã Pleiku, địch o ép mạnh để gom xúc dân, lập ấp. Vùng khu 3 chúng đổ quân dồn các làng Ta Wơn, làng Phung, làng Tuêk, làng Broch, làng Kach… một cách trắng trợn, ồ ạt. Các cuộc đánh phá liên tục đã gây cho ta nhiều tổn thất. Chúng đã gom 43.000 dân trong 289 làng lập 117 “Ấp chiến lược”; bắn chết 210 đồng bào, bị thương 111 người khác, 739 người bị chúng bắt tra khảo, tù giam; đốt, cướp hơn 500 tấn lúa, giết 230 trâu bò của dân; bắn cháy 73 làng trong vùng căn cứ. Đội vũ trang công tác phía nam huyện 7 bị địch tập kích, ta mất 16 súng trường, tiểu liên và trang bị.

Để làm thất bại kế hoạch Stalây-Taylơ của Mỹ và tay sai, tháng 3 năm 1962 Tỉnh ủy chủ trương phát động quần chúng chống phá quốc sách “Ấp chiến lược”, phá thế kìm kẹp của địch ở vùng nông thôn miền núi và vùng đất bằng trong tỉnh, giữ vững và mở rộng căn cứ du kích, đẩy mạnh xây dựng các lực lượng vũ trang để đối phó với các thủ đoạn của địch ngày càng quyết liệt, để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng giành thắng lợi hơn nữa.

Lực lượng tỉnh triển khai trên 3 hướng:

- Đại đội 1 hoạt động ở huyện 3, vùng Đăk Đoa, Hà Bầu.

- Đại đội 2 cùng bộ đội huyện 7 hoạt động theo trục đường 7 từ đèo Chư Sê đến Cheo Reo (Ayunpa).

- Đại đội 3 hoạt động vùng Lệ Ngọc – Hoàng Ân (ChưPrông).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:26:59 am »

Mở đầu đợt hoạt động Đại đội 2 và đội vũ trang công tác nam khu 7 đêm 2 tháng 5 năm 1962 đột nhập vào ấp Đé Amil, giải tán Trung đội dân vệ, một bộ phận đốt phá cầu Ia Ke, tuyên truyền phát động quần chúng nhân dân các ấp Đé Mil, Ia Sol, Đé MơNhă. Có bộ đội tỉnh hỗ trợ đội vũ trang bám dân tuyên truyền chính sách của mặt trận dân tộc giải phóng, vạch trần âm mưu xảo quyệt dồn dập lập ấp kìm kẹp của địch; và đội vũ trang công tác vận động rút ra một số thanh niên bổ sung cho đội. Đánh hơi thấy lực lượng của ta lần đầu tiên hoạt động tương đối đông, đi sâu vào vùng chúng kiểm soát, Tiểu khu Pleiku đã dùng trực thăng đổ bộ một Đại đội Cộng hòa thuộc Trung đoàn 42 xuống đường 7 để đối phó. Được đội công tác, du kích mật báo cáo kịp thời, Đại đội 2 nhanh chóng triển khai lực lượng từ hướng Plei-Ngol (Đông nam Cheo Reo 4Km) bôn tập hành quân xuyên rừng tiến về hướng địch đang càn quét. Đúng 12 giờ trưa ngày 09 tháng 05 ta đã phát hiện Đại đội địch đang nghỉ trưa tại làng KơTe (đông sông Ayun). Đây là làng cũ của đồng bào Jơ Rai, dân làng bị địch gom xúc sang tây sông lập ấp chiến lược, nên thuận lợi cho Đại đội 2 quyết tâm tập trung toàn lực tập kích ngay vào đội hình địch đang nghỉ trưa trong làng. Đại đội chia làm hai mũi bất ngờ, đồng loạt tập kích thẳng vào làng. Bị ta đánh bất ngờ và ở vào thế bị động, bất lợi (địch ngủ trên sàn nhà cao) nên địch chống trả yếu ớt. Sau 10 phút tấn công ta tiêu diệt hoàn toàn Đại đội địch, chỉ còn mấy tên liều chết tháo chạy sang sông. Địch chết tại chỗ 45 tên, ta thu 20 súng có 7 khẩu tôm xông và quân trang, đạn dược. Trận đánh nhanh gọn. Ta vô sự. Nhân dân quanh vùng rất phấn khởi. Đội công tác áp sát vào khu vực thị trấn Cheo Reo phát động quần chúng. Bộ tư lệnh Quân khu 5 tặng thưởng Huân chương chiến công hạng hai cho Đại đội 2.

Hướng Nam Mang Yang Tiểu đoàn 30 thuộc Trung đoàn 3 của Quân khu 5 hoạt động vùng Đé Ar – Kon Thụp vây ép lính bảo an địch tại ấp Cham Yang, kết hợp tấn công chốt Bảo An ở KôngGôh. Nhưng do công tác xây dựng cơ sở chính trị chưa vững chắc, phát động quần chúng chưa sâu rộng, thiếu cốt cán nên hoạt động quân sự chưa phối hợp chặt chẽ với phát động quần chúng nên ta phá không được ấp; Trung đoàn 40 ngụy đổ quân phản kích, bộ đội ta chuyển sang chống càn quét từ tây suối PơYâu đến sát sông AYun.

Phát huy thành tích đã đạt được trong hè 1962 ra quân thắng lợi, ngày 3 tháng 10 năm 1962, Đại đội 2 đánh trận giao thông trên đường 7, đoạn Kueng Mep diệt gọn tốp xe địch 3 chiếc, thu 5 súng. Ngày 6 tháng 10 năm 1962, Đại đội 3 có tăng cường một trung đội của Đại đội 2 hoạt động diệt kẹp vùng Lê Ngọc – Hoàng Ân đánh thiệt hại nặng Đại đội bảo an địch, hỗ trợ cho nhân dân hai làng Bâk phá khu đồn Põ trở về làng cũ, tên Quận trưởng Lê Thanh lồng lộn cho quân ra đốt phá, tàn sát dân hai làng Băk, giết chết 102 người, phần lớn là người già, phụ nữ, trẻ em.

Phía đông đường 14, ngày 14 tháng 10 năm 1962, Đại đội 2 và bộ đội tập trung huyện 6 (Mang Yang) tập kích địch trong “ấp chiến lược” Glar, đánh sập trụ sở ấp, giải tán Trung đội dân vệ, Trung đội nữ “Liên đới”, bắt giáo dục một số tên tay sai hung ác, xóa bỏ bộ máy tề điệp.

Hướng Bắc Mang Yang Đại đội 1 cùng thị Đội vũ trang Thị đội 9 (Pleiku) đột nhập vào dinh điền Lệ Chí vũ trang tuyên truyền, gây cơ sở. Phía Tây Nam thị xã, hoạt động quân sự của tỉnh đã hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh chính trị, phát triển được cơ sở Sở Chè số 1 và số 2 của Bàu Cạn. Cùng với phá ấp chiến lược làng Yịt (ChưPrông) Đại đội 1 cùng đội công tác huyện 3 đánh địch chốt ở ấp Đé Kơjiêng đưa 300 đồng bào trở về làng cũ, củng cố hành lang đi lại nội tỉnh; các làng Angleh, Đak jõ, Đé Gôh, Adroch được phát động, quần chúng đứng lên giải tán bộ máy tề, giải tán trung đội dân vệ ở ấp chiến lược vùng K (khu vực làng Mo, Tuêk…).

Kết thúc năm 1962, qua hai đợt hoạt động của lực lượng vũ trang tỉnh ta đã phá được 64/81 ấp chiến lược, phạm vi 149/179 làng bị địch dồn, giải tán 5 Trung đội dân vệ (có 160 tên), thu gần 30 súng, vận động rã ngũ 546 tên bảo an, dân vệ.

Thắng lợi to lớn về đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã tiêu hao, tiêu diệt được sinh lực địch cùng với thắng lợi bước đầu về phá ấp chiến lược đã giữ vững và phát triển phong trào, làm cho số dân vùng ta làm chủ được tăng lên ở một tầm quan trọng rất lớn trong tình hình địch đưa ra toàn bộ lực lượng để ra sức “Bình định” Miền Nam trong vòng 18 tháng.

Tham vọng của Mỹ, tay sai rất to lớn. Chúng dùng biện pháp quân sự là chủ yếu cùng với các thủ đoạn chính trị bịp bợm, chiến tranh tâm lý, chiến tranh chiêu hàng, cả áp dụng biện pháp bao vây phá kinh tế ta, liên tục mở nhiều cuộc càn quét lớn, nhỏ, dai dẳng, với nhiều thủ đoạn tàn ác, tàn sát hàng trăm đồng bào cùng một lúc, huy động 1 đến 2 Sư đoàn ngụy càn quét trên địa bàn tỉnh. Nhưng phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh vẫn đứng vững, phát triển thắng lợi. Lực lượng vũ trang tỉnh tiến bộ, trưởng thành, lần đầu tiên ra quân Đại đội ta tiêu diệt Đại đội Cộng hòa địch đóng quân dã ngoại giữa ban ngày, diệt gọn từng tốp xe quân sự địch từ 3 đến 4 chiếc, đánh địch ra càn quét thu kết quả, bảo vệ được vùng căn cứ, hỗ trợ cho dân đứng lên phá ấp chiến lược.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:27:30 am »

Nhân dân phấn khởi, hăng hái sản xuất, làng nào cũng làm “rẫy cách mạng”. Mỗi gia đình tỉa thêm từ 1/3 đến 1/2 gùi lúa giống (khoảng 10 đến 15 kg giống), mỗi làng trồng thêm một rẫy sắn. Mùa thu hoạch nhân dân góp lúa, bắp ủng hộ cách mạng, gây quỹ nuôi quân. Các lực lượng trang tỉnh chấp hành Chỉ thị Quân khu “đem khối óc bàn tay xây dựng cơ đồ” không được ỷ lại chờ trên. Các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, cơ quan đều sắp xếp thời gian chăm lo sản xuất tự túc. Đại đội 1 của tỉnh là đơn vị sản xuất giỏi nhất, năm 1962 bình quân đầu người thu hoạch 1 tấn lúa và 1.000 gốc sắn. Thực phẩm lương thực được cải thiện, đảm bảo cho chiến đấu và giúp dân trong vùng đóng quân.

Đây là thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời kỳ đầu chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng. Nó đã tạo cho quân và dân trong tỉnh có thế đứng vững chắc để tiếp tục phát triển lực lượng.

Tuy vậy, thế kìm kẹp của địch vấn còn chặt, năm 1962 chúng đã gom được 43.000 dân, lập 117 ấp chiến lược, nhất là vùng đông dân đất bằng phía tây tỉnh, sát nách thị xã và quận lỵ địch còn kiểm soát chặt. Bản thân các lực lượng vũ trang ta chưa đánh bại được các thủ đoạn chủ yếu của địch, nhất là chiến thuật “thiết xa vận” của chúng còn uy hiếp nhân dân, hạn chế công tác phát động quần chúng gây cơ sở.

Tuy thất bại nặng nề nhưng thực hiện kế hoạch “Bình định”, Mỹ và tay sai quyết định đẩy mạnh thực hiện cho được kế hoạch Stalây-Taylơ sang năm 1963 với quy mô rộng và đánh phá ác liệt hơn.

Tháng 2 năm 1963, chúng triển khai “chiến dịch toàn quốc” để lập thêm 7.500 “Ấp chiến lược” gom thêm 8 triệu dân ở Miền Nam.

Ở Gia Lai chúng xây dựng “Ấp chiến lược kiểu mẫu” vùng đồng bào Kinh ở Lệ Chí (bắc Mang Yang) và làng Nú, làng Breng (dân tộc) vùng ven thị xã Pleiku. Chúng cho các đội “bình định” lính bảo an đến cải tạo lại địa hình các làng dân tộc, các thôn đồng bào kinh để lập “ấp tại chỗ”. Chung quanh ấp chúng bắt dân đắp bờ thành cao bằng đầu người, trên cắm cọc sắt, giăng dây kẽm gai, đặt mìn, gài lựu đạn, ngoài đào hào sâu, lòng hào cắm chông, ngoài hào là hàng rào bằng cây rừng to chôn chặt, cắm chông các cỡ; ấp rào chung quanh chỉ chừa hai cửa ra vào, do dân vệ, thanh niên chiến đấu tại ấp canh gác cả ngày lẫn đêm. Trong ấp địch rào ngăn từng lô bằng hàng rào kẽm gai để chống lực lượng ta phát triển chiến đấu bên trong. Việc ra vào của dân trong ấp rất nghiêm ngặt, kiểm tra chặt chẽ, đi làm rẫy không được mang gạo, cơm, muối… Từ 9 giờ tối giới nghiêm đến 5 hoặc 6 giờ sáng hôm sau.

Ngoài lực lượng dân vệ canh gác kiểm soát, mỗi xã chúng bố trí một đoàn “cán bộ Bình định” từ 15 đến 20 tên chuyên trách đánh phá phong trào, xăm hầm, hoạt động chiến tranh tâm lý, chiêu hàng, chiêu hồi. Chúng tập trung một lực lượng quân sự đông, một bộ máy kịp kẹp vô cùng gian ác thi thố nhiều thủ đoạn thâm độc. Chúng tưởng có thể nhanh chóng khuất phục được ý chí đấu tranh của nhân dân thực hiện được quốc sách của chúng. Nhưng địch càng đánh phá, càng tàn ác, thì sức chống trả của nhân dân các dân tộc trong tỉnh càng quyết liệt.

Đầu năm 1963, Tỉnh chủ trương mở một đợt tiến công liên tục 6 tháng, nhằm tiêu hao, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng bảo an, dân vệ và các tổ chức vũ trang địa phương của địch. Cũng thời gian này hưởng ứng phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc giành dân” của Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam phát động, một khí thế sôi nổi đẩy phong trào chiến tranh trong tỉnh được đều khắp.

Ngày 02 tháng 01 năm 1963, Đại đội đặc công tỉnh phối hợp với Tiểu đoàn đặc công 407 của Quân khu tiêu diệt Trung tâm huấn luyện biệt kích ở Plei Mơ Rông (Chưpăh) giết, làm bị thương và bắt sống gần 400 tên, thu toàn bộ vũ khí. Chiến thắng Plei MơRông đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kìm kẹp dân hướng tây bắc thị xã Pleiku.

Hướng Đông từ ngày 09 đến ngày 19 tháng 10 năm 1963 Đại đội 2, bộ đội khu 7 (KôngChro) liên tục tiêu hao, tiêu diệt từng toàn quân địch của Sư đoàn 22 ngụy càn quét vùng nam An Khê. Trong lúc bọn bảo an càn quét gom dân các làng Đé Ar, Kon Thụp, Đại đội 2 đã vòng lên phía tây đường 14 tổ chức trận kỳ tập lúc 15 giờ vào ấp chiến lược TauRong TauKuk sát đường quốc lộ 14 (nam Mỹ Thạch) bắt tập trung giáo dục Trung đội dân vệ, giải tán về nhà thu 14 súng trường các loại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2020, 08:28:22 am »

Chiến tranh du kích ngày càng được đẩy mạnh, làng chiến đấu được xây dựng đánh địch càn quét gom dân có hiệu quả, nhân dân bố phòng sáng tạo bằng mọi cách, đủ các loại chông: chông hầm, chông đòn, chông bẫy, chông treo, chông kết hợp với gài thò, gài lựu đạn và gài cả súng. có những tuyến chông liên hoàn dài hàng 500 mét đến vài ba chục km. Có nơi du kích sử dụng vũ khí tự tạo kết hợp bố phòng chông.

Nhiều đội du kích thôn, xã qua bố phòng chiến đấu đã trưởng thành nhanh chóng, độc lập chiến đấu đánh địch giữ làng.

Xã chiến đấu A1 (nay thuộc xã Yang Bắc – An Khê) là xã xuất sắc trong bố phòng đánh địch.

Xã có 7 làng hình thành thế bố trí liên hoàn, quanh xã có tuyến chông dài hàng chục ki-lô-mét. Từng làng có hầm trú ẩn cho dân. Các cuộc học tập, sinh hoạt đều ở dưới hầm. Rẫy phát phân tán, có chừa nhiều cây cao để chống trực thăng đổ quân. Nhiều cuộc càn quét của địch bị thất bại vì lính bị thương chông thò quá nhiều. Trong 4 tháng đầu năm 1963 xã A1 đã đánh bại 3 cuộc càn quét lớn của địch. Đội du kích xã A1 đã liên tục vây quét buộc địch phải rút bỏ đồn Ktõh và đồn Krong Đung.

Năm 1963, xã A1 được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam tuyên dương là xã chiến đấu xuất sắc toàn miền.

Nhân dân trong tỉnh gọi công thò là những “chiến sỹ” kiên cường chịu đựng nắng mưa, không ăn, không nói, nhưng biết giết giặc Mỹ và tay sai bảo vệ bản làng.

Phụ nữ vùng Bỏ Năm (dân tộc BahNar) tháo vòng đồng đưa cho du kích đúc chông bố phòng đánh địch. Năm 1963 toàn tỉnh bố phòng trên 450 triệu cây chông, đặt 23.000 mũi thò, đào hàng ngàn bẫy các loại.

Phong trào bắn máy bay địch cũng được phát động rộng rãi toàn tỉnh. Anh Hà-Ri người dân tộc BahNar, xã đội phó xã Tây Nam (huyện Kơ Bang) đang cõng con đi làm rẫy thấy máy bay trinh sát (L19) quần lượn theo hành lang Trung ương, anh đã dùng súng trường bắn rơi ngay chiếc máy bay, một tên lái sĩ quan Mỹ chết.

Dân quân du kích vùng giáp ranh giữa Gia Lai và Kon Tum chống địch càn quét vào vùng căn cứ Kon Hà Nừng giết và làm bị thương 300 tên lính sư đoàn 9 Bộ binh ngụy, bắn rơi 3 máy bay lên thẳng.

Phong trào thị xã cũng có bước chuyển biến mới. Đồng bào Kinh vùng Lệ Chí, Lệ Cần, Biển Hồ, Nhơn Thọ xây dựng được nhiều cơ sở nội và ngoại tuyến, lập các ban án sự quần chúng hướng dẫn nhân dân đấu tranh chống địch lập ấp chiến lược, khu dồn; tên mật thám ở Lệ Cần lên mặt đàn áp bị nhân dân trừng trị.

Năm 1963 cuộc chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ ở Miền Nam Việt Nam đã đi vào con đường hầm không có lối thoát. Mâu thuẫn nội bộ địch ngày càng gay gắt, ngày 01 tháng 11 năm 1963 một nhóm tay sai thân Mỹ do Dương Văn Minh cầm đầu đã làm đảo chính lật Diệm để cứu vãn cố gắng chiến tranh của chúng.

Trải qua những năm tháng chiến đấu hết sức gian khổ trong những điều kiện vô cùng khó khăn phức tạp, phong trào cách mạng trong tỉnh vẫn vững chắc tiến lên, mặc dù so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn còn nhiều chênh lệch. Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công nắm vận dụng phương châm đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang trên ba vùng chiến lược, quân và dân trong tỉnh đã cùng chiến trường từng bước làm thất bại những âm mưu thủ đoạn của địch. Đã phát động và tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân, căn bản thực hiện được nhiệm vụ xây dựng và củng cố căn cứ địa của tỉnh.

Chiến tranh có quy luật riêng của nó. Khi phong trào du kích chiến tranh phát triển đến một trình độ nhất định, nếu không kịp thời đẩy trình độ tác chiến tập trung lên quy mô thích hợp thì chẳng những tác chiến tập trung không phát triển mà du kích chiến tranh cũng không phát triển cao hơn được.

Vấn đề cơ bản là: Muốn tiêu diệt được nhiều sinh lực địch thì đấu tranh vũ trang phải ngày càng giữ vai trò quan trọng và có lúc quyết định. Vì vậy các lực lượng vũ trang cách mạng phải được xây dựng, tổ chức và huấn luyện trang bị tốt hơn để đủ sức tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, mới tiến lên đánh bại được các thủ đoạn chiến thuật của chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM