Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:52:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Lai 30 năm chiến tranh giải phóng  (Đọc 9131 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:29:19 am »

Đội du kích làng Đak Brik hơn một năm trời (1951) bị địch bao vây vẫn kiên cường bám núi Kông Chiêng đánh địch bảo vệ cơ sở, làng Djama Môn (huyện Kông Chro) để Bok Nhớ lãnh đạo, lúc đầu có 90 bếp (hộ gia đình), qua mấy năm bám trụ chiến đấu chống địch kiên cường, chúng chà đi xát lại nhiều lần, làng còn 29 người bám trụ kiên cường bất khuất, cho đến ngày đánh Pháp thắng lợi.

Đi đôi hoạt động quân sự, các lực lượng vũ trang đẩy mạnh công tác vận động quần chúng phá âm mưu chiêu an dồn dân của địch. Các khu du kích từ phía đông đường 14 trở xuống được củng cố, một số vùng yếu được phục hồi. Các đội vũ trang tuyên truyền luồn sâu lên phía tây đường sang đất Campcuhia để hoạt động. Vừa giúp cho lực lượng chân chính Campuchia xây dựng phát triển cơ sở, và cũng từ đấy làm bàn đạp để các Đội vòng về phía tây tỉnh xây dựng cơ sở vùng Chư Ty, Chư Prông bảo đảm an toàn, đánh lạc hướng theo dõi của địch.

Thắng lợi thu được từ cuối năm 1950 sang năm 1951 của tỉnh là thắng lợi của sự chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ, thống nhất chỉ đạo các lực lượng quân, dân, chính, Đảng; có tiến bộ về nắm vận dụng phương châm gây cơ sở địch hậu. Kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, giữa hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực kết hợp với phong trào du kích chiến tranh của địa phương tạo ra thế đánh địch liên tục, đều khắp ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt thành công trong giải tán Khu đồn Đak Bơt và phá tan ổ vũ trang phản động địa phương ở xã ĐakKrong nêu được bài học thiết thực:

+ Đó là cán bộ quân, dân, chính đi sâu sát bám dân phát động quần chúng, giáo dục lòng căm thù giặc cướp bóc.

+ Hoạt động quân sự đánh diệt được bọn địch kìm kẹp dân, tạo điều kiện cho quần chúng đứng lên đấu tranh chống địch.

+ Lấy vận động chính trị làm chính, có kết hợp chặt chẽ biện pháp giải quyết kinh tế chăm lo đời sống nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, giúp đỡ nông cụ và quan tâm cứu đau, cứu lạt cho dân.

+ Phải đẩy mạnh công tác binh địch vận, vận động giáo dục các gia đình có con em cầm súng của địch, kêu gọi con em trả súng cho địch hay mang súng về nạp cho Cách mạng, lập công.

+ Khẩn trương kèm cặp, đào tạo cán bộ dân tộc tại chỗ, xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở đủ sức đánh địch bảo vệ buôn làng. Nhanh chóng xây dựng củng cố các đoàn thể quần chúng.

Trong đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh trên địa bàn, việc tập trung xây dựng các làng căn cứ du kích thật vững là nhân tố quan trọng thường xuyên làm hạt nhân thúc đẩy phong trào ngày càng tiến bộ vững chắc, từ đó lan rộng ra và hỗ trợ cho các vùng khắp trong tỉnh.

+ Vùng du kích SơTơr lan ra 9 làng chung quanh phía tây và phía bắc giáp vùng Bơ Nâm.

+ Căn cứ Ya Hội lan ra vùng Djama, Đé Sơ Rơn, tiến lên vùng Đak Bơt.

+ Vùng Kon Hà Nừng lan ra xã ĐakKrong, Đak Pne và hoạt động xuống xã KơRem, KonBlo (H.KơBang).

+ Vùng LaBa tiến lên giáp huyện PleiKon, xây dựng vùng ĐakĐoa và Kon Mơha. Tạo thành Khu du kích liên hoàn rộng lớn.

Căn cứ du kích được xây dựng củng cố vững, cơ quan các Huyện đã chuyển lên tại địa bàn để chỉ đạo sát, trực tiếp cơ sở. Việc lên lạc báo cáo giữa huyện và tỉnh được kịp thời. Lực lượng vũ trang địa phương phát triển chắc chắn. Cuối năm 1951, toàn tỉnh xây dựng được 4338 đội viên du kích có chất lượng chiến đấu khá. Vận động được 440 binh lính địch đào ngũ bỏ, mang nạp cho Cách mạng 39 súng trường, tiểu liên.

Việc củng cố nâng chất lượng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được chỉ đạo đúng mức, thu kết quả tốt. Thực hiện phương châm: “Kiện toàn chất đơn giản lượng”, biên chế cơ quan gọn nhẹ phù hợp chiến trường hậu địch. Chú trọng tổ chức cho cán bộ Đảng viên, trên cơ sở thấu suốt đường lối Cách mạng, quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh. Cán bộ đi sát dưới, cơ sở; lực lượng vũ trang bám cơ sở làm công tác dân vận, nắm vững phương châm gây cơ sở địch hậu, học nói thành thạo tiếng dân tộc là những yếu tố quan trọng để đoàn kết nhất trí tạo sức mạnh to lớn làm chuyển biến tình hình chiến trường hòa nhập với chiến trường Khu 5.

Nhìn chung hai năm qua quân và dân Gia Lai đã có những nỗ lực lớn và đạt thành công quan trọng. Tuy còn có những thiếu sót về vận dụng phương châm gây cơ sở trên từng vùng, nhưng thành công quan trọng nhất là đã vượt qua những thử thách khó khăn của chiến trường sau lưng địch, nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, tự lực, tự cường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ.

Với thắng lợi đó, quân và dân Gia Lai đã tạo được thế đứng, điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển thế và lực, tiếp tục xây dựng và nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân trong những tiếp theo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 07:26:25 am »

CHƯƠNG V

Đẩy mạnh tiến công địch, phối hợp chiến trường cùng cả nước giành thắng lợi,
kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
(1952-1954)

Sau hai năm khắc phục khó khăn, trụ bám giữ phong trào cục diện chiến trường trên địa bàn tỉnh có bước chuyển biến mới.

Trước chiến thắng của quân và dân ta trên chiến trường toàn quốc, địch ra sức củng cố Tây Nguyên, thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Vùng đồng bào dân tộc Bah nar phía Đông và Nam tỉnh địch tổ chức “Atum” để chia rẽ dân tộc phá hoại cuộc kháng chiến.

A Tum là một tổ chức chính trị phản động do Pháp nắm số tay sai là Chánh tổng, chủ làng vùng dân tộc, lợi dụng phong tục tập quán vùng dân tộc Bahnar, tuyên truyền mỵ dân, lừa bịp quần chúng bằng khẩu hiệu “Yă Yang” (Trời) để gây chia rẽ kinh thượng để chống phá cách mạng. Tổ chức này hoạt động đi đôi với “Goum” nhằm tập hợp lực lượng phản động địa phương, chống phá cuộc kháng chiến.

Chúng bắt đầu nhen nhóm tổ chức ở các làng Konpông xuống Kon Hà Nừng, qua vùng Đé Mơr, Ka Yang, Konplo, Đé Bơ, Đé Lơt (huyện Kbang); ta đã kịp thời phát hiện phát động quần chúng vạch trần âm mưu địch, chỉ cho nhân dân hiểu rõ thủ đoạn địch để chống lại chúng. Bọn cầm đầu, Chánh tổng, chủ làng ra đầu thú như: Chánh tổng Ba Ky (làng Kon Len), cá biệt có tên ngoan cố đã bị chính quyền cách mạng trừng trị như tên Già Rõh làng Konpông (nay thuộc huyện Konplông).

Về ta, Ban cán sự tỉnh và Trung đoàn 120 chủ tương “chấn chỉnh củng cố lực lượng, thống nhất quân, dân chính Đảng phù hợp với tình hình chiến trường. Phát triển và đẩy mạnh dân quân du kích chiến tranh thật rộng lớn. Tích cực gây dựng và giữ vững cơ sở chính trị, xây dựng kinh tế, tác chiến, liên tục tiêu hao và tiêu diệt địch để phối hợp chiến trường Khu 5, chỉ đạo nắm vững phương châm du kích chiến tranh là chính…”.

Cuộc hội nghị quân huấn, tham mưu của Trung đoàn quyết định:

- Giải thể tiểu đoàn 14, lập hai đại đội tăng cường là Đại đội 54 và Đại đội 68 làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu trên địa bàn tỉnh hỗ trợ cho xây dựng và củng cố cơ sở.

- Thành lập 4 huyện đội: An Khê, Đăk Bơt, KonPlông (Nam) và huyện PleiKon trực thuộc Trung đoàn chỉ huy. Biên chế các đại đội 1, 3 và 8 cùng đại đội huyện An Khê bổ sung vào lực lượng các huyện đội để hình thành bộ máy cơ quan đầy đủ, xây dựng các trung đội tập trung huyện đủ quân số và tổ chức các đội chuyên xây dựng cơ sở của huyện(1).

- Chuyển Đại đội 9 và Đại đội 10 về Mặt trận miền Tây.

- Củng cố 4 đội vũ trang tuyên truyền.

Đại đội 104 hoạt động vùng ĐăkĐoa

Đại đội 107 hoạt động vùng Đăk Bơt

Đại đội 112 hoạt động vùng Chưpăh

Đại đội 118 hoạt động vùng Chư Ty – ChưPrông.

- Cơ quan Trung đoàn có Liên Trung đội công binh, Đại đội quân báo, Đại đội thông tin.

- Số anh em còn lại lập Đội dưỡng huyện.

Đến tháng 4 năm 1952 chuyển một số anh em Liên trung đội công binh về Khu 5, một số bổ sung lập Đại đội 70. Tháng 5-1952, khu 5 bổ sung 150 tân binh, Trung đoàn lập thêm Đại đội 72, quân số Trung đoàn lúc này có 2995 người.


(1) Đại đội 8 bổ sung cho huyện đội Konplông (Nam)
Đại đội 3 bổ sung cho huyện đội Đak Bơt
Đại đội 1 bổ sung cho huyện Plei Kon
Đại đội An Khê bổ sung cho huyện đội An Khê
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 07:26:55 am »

Đi đôi củng cố tổ chức, sắp xếp lực lượng, Trung đoàn tổ chức đợt huấn luyện quân sự:

- Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ học tập bản chất quân đội nhân dân Việt nam, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh nhưng nhất định thắng lợi, nhằm củng cố lập trường chiến đấu nâng giác ngộ ý thức bản chất giai cấp công nhân cho cán bộ, chiến sĩ.

- Huấn luyện cấc kỹ thuật cơ bản: Bắn súng máy, súng trường, đâm lê, đánh kiếm, ném lựu đạn, sử dụng bom mìn, đào công sự.

Huấn luyện về chiến thuật phục kích tại chỗ và vận động phục kích, đánh tao ngộ (gặp gỡ) chim sẻ, địa lôi chiến.

Trung đoàn lấy Đại đội 54 xây dựng đơn vị điểm, làm nhiệm vụ chủ công.

Song song với xây dựng củng cố bộ đội tập trung, Trung đoàn chỉ đạo các huyện tập trung sức xây dựng, củng cố các Trung đội tập trung huyện và dân quân du kích.

Để liên tục hoạt động trên chiến trường, Trung đoàn tổ chức các đơn vị thay phiên nhau huấn luyện. Từ tháng 1 đến tháng 5-1952, Đại đội 54 hoạt động vùng Đăk Bơt đã chiến đâu 34 trận, phá hủy 29 cầu, cống; diệt 65 tên và bắn bị thương 54 tên địch, bắt 17 tên, thu 3 trung liên, 7 tiểu liên, 26 súng trường, 2 máy VTĐ và 2.600 đồng bạc đông dương, bắn hỏng 2 xe quân sự, phá hỏng 2 trung liên.

Qua đợt củng cố, bộ đội địa phương các huyện An Khê, Đăk Bơt tiến bộ vững chắc, quân số được bổ sung, trình độ kỹ thuật và chiến thuật nâng cao, tác chiến thu được kết quả. Trung đội tập trung huyện Đăk Bơt phối hợp cùng du kích xã Ya Hội và xã Yang Bắc, phục kích tiêu diệt một trung đội địch từ đồn Dijamara càn quét, diệt tên Pháp chỉ huy, thu 2 trung liên, 1 tiểu liên và một súng trường.

Các huyện Đăk Bơt, An Khê, Konplong (Nam) Plei Kon đã xây dựng thêm được 223 du kích tập trung và phát triển được 671 dân quân được trang bị và huấn luyện tốt. Du kích xã phối hợp chiến đấu với bộ đội tỉnh được 14 trận và có hàng chục trận chiến đấu độc lập.

Hoạt động chiến đấu của các lực lượng có kết quả, chống được địch càn quét, bảo vệ được các khu du kích, nhân dân rất tin tưởng an tâm sản xuất.

Tình hình hoạt động của các đội vũ trang tuyên truyền có nhiều tiến bộ. Đội 118 phát triển thêm 18 làng có cơ sở, xây dựng 13 tổ quần chúng, 8 tổ mật giao, 12 đội viên trung kiên; xây dựng cơ sở hành lang nối liền phía Đông và phía Tây đường 14 lên giáp Đông Bắc Campuchia.

- Huyện Pleikon xây dựng cơ sở nối liền Nam và Bắc Đak Đoa.

- Số làng xã chiến đấu được giữ vững như Ya Hội, SơTơr, Kà Tung, BarBlôt Đé BơTuk, Kon Hà Nừng. Làng Đé Nghe đất bằng, trống (Nam đường 19) du kích đã dùng vũ khí thô sơ bố phòng chống địch càn quét có kết quả.

Vùng căn cứ được giữ vững, thanh niên địa phương xung phong vào bộ đội khá đông, có đại đội tỉnh một phần ba là con em người dân tộc.

Vùng địch kiểm soát có một số nơi tổ chức được du kích mật, làm được nhiệm vụ báo địch, canh gác bảo vệ các đội công tác hoạt động.

Từ năm 1952, sau đợt củng cố các lực lượng vũ trang, tình hình cách mạng trong tỉnh có nhiều chuyển biến tiến bộ. Nguyên nhân chủ yếu là Đảng bộ thực hiện nghiêm túc chủ trương thống nhất dân, quân, chính đảng, thống nhất chủ trương thống nhất lực lượng, thống nhất hành động và thống nhất chế độ, tạo sức mạnh hướng về địa bàn cơ sở hoạt động công tác. Tác chiến diệt địch cũng nhằm mục đích xây dựng bảo vệ cơ sở. Cán bộ, chiến sĩ thi đua học nói tiếng dân tộc, hòa mình trong dân, đào tạo xây dựng được cán bộ cốt cán người dân tộc, che dấu được lực lượng, bảo vệ được cơ sở; đồng thời kịp thời rút kinh nghiệm trong nắm phương thức hoạt động có tiến bộ.

Tuy vậy phong trào vẫn tiến bộ chưa đều. Hướng Tây đường 14 việc phát triển cơ sở còn chạy theo số lượng, theo chiều rộng. Đội vũ trang 118 bị đứt liên lạc với Trung đoàn gần một năm nên ảnh hưởng đến sức chiến đấu, công tác.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 07:27:34 am »

*   *
*

Chiến thắng An Khê
Phong trào du kích chiến tranh trưởng thành vượt bậc


Cuối năm 1952, chủ lực ta trên chiến trường chính Bắc bộ chiến thắng lớn ở Tây Bắc. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố vưng chắc, các chiến trường trong nước tổ chức phối hợp nhịp nhàng và trên đà thắng lợi.

Chiến trường Khu 5, sau hơn một năm nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai tình hình mọi mặt đều có chuyển biến.

Chiến tranh du kích vùng sau lưng địch dần dần được khôi phục, một số nơi có phát triển. Tuy vậy, giặc Pháp vẫn ngoan cố tiếp tục xúc tiến công tác “bình định chiêu an”, đánh phá vùng căn cứ của ta, củng cố vùng chúng kiểm soát, hòng biến Tây Nguyên làm bàn đạp đánh phá vùng tự do của Khu 5.

Tháng 10 năm 19542, Khu ủy 5 chỉ thị: “tiếp tục xây dựng cơ sở, đẩy mạnh đấu tranh trong vùng sau lưng địch, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh công tác ngụy vận, xây dựng căn cứ địa vững chắc…”.

Bộ chỉ huy Khu 5 mở đợt hoạt động Đông xuân 1952-1953 trọng điểm tác chiến ở An Khê.

An Khê, bình phong áng ngự đường số 19 là một trong những đầu cầu địch xuất quân càn quét xuống vùng tự do Khu 5.

Tập đoàn cứ điểm An Khê gồm: Đồn Kon Lía, Tú Thủ, Cửu An, Thượng An và Tháp canh Đầu Đèo, Eo Gió.

Đây vừa là tuyến phòng thủ vững chắc của địch nhằm ngăn chặn lực lượng ta tiến lên phía tây, và là hệ thống cứ điểm cắm sâu vào vùng du kích phía Đông Sông Ba. Mỗi cứ điểm có một Đại đội sơn chiến đóng giữ trong công sự vững chắc, có hệ thống hỏa lực bố trí ở Tú Thủy, Cửu An, Thượng An và trận địa pháo đầu đèo An Khê tạo thành hệ thống hỏa lực mạnh.

Chấp hành mệnh lệnh mở chiến dịch Đông xuân ngày 20 tháng 11 năm 1952, Ban cán sự và Ban chỉ huy Trung đoàn quán triệt mệnh lệnh, chỉ thị cho các lực lượng trong tỉnh mở đợt học tập củng cố ngắn ngày, chuẩn bị mọi mặt để phối hợp chặt chẽ và phục vụ cho chủ lực Khu 5 giành thắng lợi lớn trên địa bàn tỉnh.

Cơ quan lãnh đạo, Ban chỉ huy Trung đoàn chuyển hết các bộ phận chính lên đứng chân tại vùng Kon Hà Nừng, Đé Sơ Lam để chỉ đạo. Hàng vạn dân công các tỉnh vùng tự do Bình Định, Quảng Ngãi bí mật vận chuyển lương thực, thực phẩm lên địa bàn tỉnh. Từng đoàn các đội thanh niên xung phong lên phục vụ tại chiến trường hệ thống thông tin giây của tỉnh cũng khẩn trương hình thành từ tây sông Kôn (Vĩnh Thạnh) lên đến các xã Kơ Rem, Kon Trut đển Kon Hà Nừng. Khí thế chuẩn bị cho chiến dịch được khẩn trương thực hiện.

Trung đoàn 120 nằm trong đội hình thực hành chiến dịch cùng với các Trung đoàn 108, 803, tiểu đoàn 40 chủ lực khu.

Tháng 12 năm 1952 kỷ niệm 6 năm toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích Khu 5 giải phóng thi đua 50 vạn đồng, một cổ vũ lớn của vị lãnh tụ, người chân thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân đối với những ngày sôi nổi bước vào chiến dịch.

Bộ chỉ huy Khu 5 phát động đợt thi đua “Đông xuân lập công dâng quà lên Hồ Chủ tịch”. Bộ đội tỉnh, huyện, dân quân du kích sôi nổi học tập chính trị, quân sự động viên nhau hồ hởi lập công.

Câu ca dao truyền nhau từ các đơn vị chỉ lực đến bộ đội địa phương tỉnh, huyện như thôi thúc mỗi người hăng hái lập chiến công:

            “Đông xuân này đã đến rồi,
            Súng ơi! Súng có bồi hồi hay không?
            Tiến quân dưới ngọn cờ hồng,
            Đã nghe tiếng súng diệt đồn nổ vang!”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 07:29:42 am »

*   *
*

Đại đội 54, Đại đội 86 của Trung đoàn 120, bộ đội địa phương các huyện được triển khai trên khắp các địa bàn, chuẩn bị lót lực lượng bám địch, nắm cơ sở cốt cán, chuẩn bị chiến trường sẵn sàng lập công mới.

Một giờ sáng ngày 13 tháng 1 năm 1953 chiến dịch An Khê mở màn, cùng một lúc quân ta tiến công đồn Cửu An, Eo Gió và Tú Thủy. Sau 30 phút chiến đấu toàn bộ quân địch ở Cửu An, Eo Gió bị tiêu diệt. Riêng cứ điểm Tú Thủy địch dựa vào công sự ngoan cố chống cự; Đồn Tú Thủy lúc đó địch đã cải tiến công sự ngoại vi phức tạp, có hào sâu, dưới lòng hào cắm chông dày đặc kết hợp dây kẽm gai bùng nhùng. Trận đánh phải kéo dài, lại nổ súng sau Cửu An, bộ đội ta thương vong lớn. Hai ban chỉ huy Đại đội hướng chính, hướng phụ đều bị thương vong, nhưng cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 365 đã động viên nhau anh dũng liên tục tiến công hết đợt này đến đợt khác. Trận đánh căng thẳng đến cực độ, tuy nhiên trước tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng, sức tiến công quyết liệt và kỹ thuật tốt của bộ đội ta, mọi kháng cự ngoan cố của địch bị đập tan.

Cứ điểm Cửu An, Eo Gió, Tú Thủy bị tiêu diệt, bọn địch ở Đồn Kon Lía (gần Kan Nak) bỏ đồn tháo chạy, bỏ lại nguyên vẹn kho tàng, đạn dược không kịp phá hủy. Hệ thống phòng ngự phía Bắc An Khê bị đập nát, đồn Thượng An bị cô lập; quân Pháp ở Tây Nguyên được lệnh báo động và kêu cứu tăng viện.

Ban chỉ huy Mặt trận An Khê nhận định: Pháp sẽ cho quân tiếp viện. Ta kiên trì mai phục trên đường 7 (đoạn từ đường 19 vào Cửu An) đúng nhận định của ta sau nhiều lần cho máy bay trinh sát dò xét, ngày 17 tháng 1 năm 1953, tiểu đoàn Sơn chiến số 8 có xe bọc thép dẫn đầu lên tiếp viện. Đến cách đồn Cửu An khoảng 500 mét, quân địch đã lọt vào trận phục kích của ta vào lúc 10h30’. Sau một hồi kèn xung phong dục dã, bộ đội ta từ các phía xông thẳng vào đội hình quân địch. Tên Quan tư chỉ huy tiểu đoàn bị bắt sống ngay tại trận. Như rắn mắt đầu, toàn bộ đội hình hành quân của địch bị tan rã. Đại đội 112 thuộc tiểu đoàn 19 xung kích bắt sống 100 tên giặc, thu nhiều vũ khí.

Đợt hai chiến dịch bắt đầu, đêm 20 rạng ngày 21 tháng 10 năm 1953, tiểu đoàn 59 thuộc Trung đoàn 803 tiến công tiêu diệt căn cứ Thuận An, tháp canh Đầu Đèo. Lúc này địch đã đề phòng cẩn mật. Đầu Đèo là vị trí hỏa lực kiên cố uy hiếp các huyện phía tây tỉnh Bình Định. Để đánh thắng hai cứ điểm này bộ đội ta phải phát huy sáng tạo, linh hoạt; nắm chắc tình hình địch ở Thượng An, ban đêm chúng đưa bộ phận lớn ra ngoài đồn lót phục, mờ sáng chúng mò vào đồn để tránh ta tiến công. Trinh sát đã nắm chắc quy luật; đến đêm ta bố trí sẵn trận địa hỏa lực, bộ binh theo bám nắm chắc bọn ra nằm ngoài. Tờ mờ sáng, chờ cho khi chúng rút về đồn, thừa cơ ta xông lên dùng bộc phá đánh phá sập lô cốt đầu cầu. Toàn bộ đội hình bộ đội ta xung phong vào tiêu diệt làm cho chúng không kịp trở tay.

Tại lô cốt Đầu Đèo công sự khá kiên cố, nên bộ đội ta phải dùng bộc phá cỡ 40 Kg (thay cho loại bộc phá 20kg) đánh sập lô cốt địch. Ta thu nhiều vũ khí, đạn dược, trong đó có 2 pháo 88 ly lấy ở Cửu An, Tú Thủy và một khẩu lựu pháo 155 ly thu ở đồn Thượng An.

Ngày 24 tháng 1 năm 1953, trận đánh mới lại diễn ra, tiểu đoàn 39 thuộc Trung đoàn 803 phục kích đánh quân tiếp viện trên đường số 19, tiêu diệt hai đại đội thuộc tiểu đoàn số 5 (5 4 BPVN); cuộc tiếp viện của địch bị thất bại.

Ngày 25 tháng 1 tại Tây An Khê, Đại đội 68 và Đại đội huyện An Khê phục kích tiêu diệt một đại đội lính dù ngụy từ PleiKu xuống tiếp viện, ta phá hủy 25 xe quân sự, diệt gần trăm tên địch. Chiến sự An Khê ta thắng dồn dập, bộ đội huyện Đăk Bơt thừa thắng tập kích bức rút đồn Djiama và đồn Đé Blôm.

Ngày 28 tháng 1 năm 1953, chiến dịch kết thúc. Sau 12 ngày liên tục chiến đấu, bộ đội chủ lực Khu 5, bộ đội tỉnh, huyện, dân quân du kích phối hợp chặt chẽ giành thắng lợi lớn. Ta tiêu diệt và bức rút 6 cứ điểm kiên cố của địch, tiêu diệt gọn một tiểu đoàn, 5 đại đội, thu gần 600 khẩu súng các loại, trong đó có 3 pháo lớn, 50 súng đại liên, trung liên, hơn 30 tấn đạn các loại, quét sạch toàn bộ lưới tề điệp, bộ máy ngụy quyền thôn xã, diệt và làm tan rã các ổ vũ trang phản động địa phương 13 làng ở Đăk Bót, 23 làng ở An Khê, nạp 80 súng. Ta diệt 2 ác ôn khét tiếng; các làng Đé Dơng, Bah Nar, KonBlô nạp 31 súng; hầu hết các khu tập trung dân dọc hai bên đường 19, đường số 7 như làng Kuk Kôn, Tà Tung, Ta Núp, Xa Wong, Kà Tung đồng bào đứng lên phá khu dồn chạy về gần khu du kích Sơ Tơr, phía bắc An Khê vùng Kan Nak, Cô Yêm, Đé Bơ nhân dân nổi dậy diệt hai tên ác ôn, nạp 91 súng cho chính quyền cách mạng. Ta giải phóng hoàn toàn 4 xã An Tân, Đông Kan Nak, Bắc Kan Nak, Bơ Nâm có trên mười ngàn dân.

Phía nam tỉnh, cơ sở được mở rộng 7 làng ở Đak Bằng. Địch bị thế cô lập, rút đồn Cà Lúi, Chánh Đơn vùng Tây Cheo Reo xây dựng cơ sở 10 làng ở Ia Piar, 20 làng vùng Ia Tul và 21 làng vùng Chư ChRăng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 07:30:53 am »

Chiến thắng Đông xuân 1952-1953 là chiến thắng lớn nhất trên chiến trường Khu 5 từ trước đến nay; ta tiêu diệt nặng sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Ta tranh thủ chủ động phối hợp với chiến trường chính, giải phóng được mạng lưới liên hoàn gần 20 ngàn dân; mở rộng thêm vùng du kích, nối lại một số cơ sở cũ, phát triển thêm cơ sở mới trong vùng địch kiểm soát, củng cố thêm vùng căn cứ du kích. Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ, thể nghiệm một bước đi mới về nắm phương châm công tác vùng địch, vận dụng trưởng thành thiết thực, mặt khác ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự của Đảng, ba thứ quân đều có trưởng thành.

Đại tướng Tổng tư lệnh nhận xét chiến thắng của chiến dịch An Khê “thắng lợi này chứng tỏ các đồng chí đã tiến bộ về chính trị cũng như về kỹ thuật sau thời kỳ chỉnh huấn, đặc biệt về kỹ thuật đánh điểm nhỏ, đánh quân viện nhỏ… Phục vụ đắc lực cho xây dựng và phát triển cơ sở trong hậu địch…”. Phát huy kết quả chiến thắng Đông xuân, sang hè tỉnh khẩn trương xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, sẵn sàng đánh địch ra phản ứng càn quét. Đại đội 54 đánh một trận phục kích trên đường số 19 diệt gọn một trung đội địch, bắt 20 tên. Đại đội 68 cùng bộ đội huyện An Khê phân tán từng bộ phận hướng dân kèm cặp dân quân du kích bố phòng, xây dựng lực lượng hậu bị, bảo vệ các khu dân. Phong trào toàn dân tham gia bố phòng, đào hầm, cắm chông được nhân rộng, nhân dân tham gia đông đảo, có đợt kéo dài đến 10 ngày, có hàng trăm người hăng hái cải tạo địa hình, đào hầm, vót chông… với khí thế sục sôi trong các buôn làng. Tề ngụy dao động mạnh, nhiều nơi tan rã. Ta mở tòa án nhân dân xử tội những tên gian ác khét tiếng, gây nhiều nợ máu trong dân (tên Yương, H Lin) nhân dân đồng tình phấn khởi.

Trong vùng địch còn kiểm soát ta phát động nhân dân đấu tranh phá thế kèm của chúng, nhân dân không chịu nhận súng địch giao; các đoàn cán bộ ta đi sâu nắm lại các cơ sở cũ ở các làng Bung Ban, Ha Wen bị đứt liên lạc từ lâu, xây dựng cơ sở vùng Đé Kà Tui làm bàn đạp phát triển cho vùng kinh ở Tân Phong, chợ đồn.

Chính quyền và mặt trận các cấp tổ chức giúp đỡ nhân dân vùng mới giải phóng và cả vùng bị địch càn quét tàn phá nặng. Đặc biệt giúp đỡ nhân dân mới phá các khu dồn trở về làng cũ, đẩy mạnh sản xuất chống đói. Nhiều rẫy tự túc, rẫy kháng chiến được tổ chức, phát động đợt trồng sắn, nhất là trồng sắn Gòn ngắn ngày, có thể ăn thay cơm.

Giữa năm 1953 xảy ra nạn đói và đau trên phạm vi rộng, nhất là khu vực dân mới giải phóng, do địch tàn phá càn quét đốt rẫy nương, chòi lúa. Chính quyền, Mặt trận huyện, tỉnh tập trung cứu đói; các đơn vị bộ đội, ngành kinh tế, lương thực xuất hàng chục tấn gạo, hàng tạ muối cứu đói, cứu lạt cho dân. Ban dân y tổ chức các đội Y tế vào từng làng cứu đau cho dân; cán bộ, chiến sĩ, du kích chia từng bát gạo, nắm muối, viên thuốc cho dân với tinh thần:

            Oei minh Jak, bơn khung asong
            Đei minh brong, bơn khung tơklah
            Mơnat! Mơ nat Kon pơlei bongot!(1)


Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai, Nghị quyết Đảng bộ Khu 5, quân và dân Gia Lai đã có sự nỗ lực phấn đấu tăng cường lực lượng về mọi mặt. Ta đã tranh thủ thắng lợi chung trên chiến trường, ra sức xây dựng và mở rộng vùng du kích, củng cố khối đoàn kết nhân dân các dân tộc; đẩy mạnh tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch hỗ trợ đắc lực cho xây dựng phong trào; làm tốt công tác binh tề vận, diệt ác trừ gian có kết quả, đẩy du kích chiến tranh có tiến bộ, quan tâm chăm lo việc sản xuất tự túc, cứu đau, cứu đói kịp thời.

Cán bộ chiến sĩ các lực lượng vũ trang tiến bộ về tư tưởng, kiên định, tích cực bám trụ cơ sở, gắn bó chiến trường, bộ đội tập trung, cơ quan biên chế gọn, nâng hiệu quả công tác, chiến đấu, chỉ đạo có nhiều chuyển biến tiến bộ, thống nhất dân, quân, chính, đảng đoàn kết thành một khối thống nhất trong chỉ đạo xây dựng phong trào.

Tuy vậy, ta tiếp thu chiến thắng trên chiến trường chưa đúng mức, xây dựng bàn dạp vùng sâu chưa vững chắc; chỉ đạo chống càn quét chưa cụ thể từng vùng, nên có nơi địch đốt làng, xúc dân. Ta có cứu trợ đói nhưng chưa kịp thời, chưa đến các vùng sâu, xa (làng KonGo xã ĐakPne huyện KonPlong đói đau chết 20 dân).

Đánh giá đúng thắng lợi năm 1952-1953 trên chiến trường Gia Lai có ý nghĩa quyết định mà quân và dân trong tỉnh đã giành được, là những cơ sở để đưa cuộc kháng chiến trên một vùng hậu địch quan trọng tiến lên một bước mới phối hợp với toàn miền cùng cả nước chuẩn bị cho đông xuân 1953-1954 giành thắng lợi.


(1) Bài ca cổ động cứu đói tiếng Bah Nar năm 1953:
Dịch tạm:
         Có một đấu mình cũng cho
         Có một gùi, mình cũng chia
         Thương! Thương đồng bào mình đói
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2020, 06:04:18 am »

*   *
*

Đông Xuân 1953-1954

Sau chiến thắng An Khê ở Khu 5 và thắng lợi chiến trường toàn quốc Na-va ráo riết tăng cường lực lượng đưa tổng số quân ở nam Trung bộ hơn 50 ngàn, tăng dần 1/3 so cuối năm 1952, có 25 tiểu đoàn cơ động.

Địch ráo riết củng cố “bình định” vùng chúng kiểm soát, đồng thời càn quét đánh rộng ra vùng tự do Khu 5 thực hiện theo kế hoạch Na Va, Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, mở chiến dịch At Lăng (Atlante) nhằm buộc chủ lực ta phải đối phó, phá kế hoạch tấn công của ta trên chiến trường Tây Nguyên.

Quân Pháp lần lượt đưa Binh đoàn cơ động số 10 từ Pháp sang, Binh đoàn cơ động 100 (GIM 100) từ nam Triều Tiên về, các binh đoàn cơ động số 11, 21 ở Bình Trị Thiên vào và ở Nam bộ ra cùng các binh đoàn cơ động số 41, 42 để đưa tổng số lực lượng cơ động Pháp chuẩn bị cho chiến dịch lên 40 tiểu đoàn cơ động. Tướng Đơ Bô Pho (De Beau Fort) – Tư lệnh quân khu Tây Nguyên được Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp giao quyền chỉ huy bước 1 và bước 2 cuộc hành quân này.

Tại Gia Lai, địch chủ trương co về củng cố lực lượng tăng cường phòng thủ, bố trí lại hệ thống các cứ điểm tại An Khê. Chúng tăng cường phòng thủ, củng cố 7 cứ điểm, rút các đồn lẻ như Djama, Tô Năng, Hà Tam, Kon Thup. Chúng cố bắt cho được 17 ngàn lính mới để bổ sung 4 e BM, xây dựng thêm 5 tiểu đoàn để chuyển bổ sung cho chiến trường Bắc bộ 2 tiểu đoàn.

Chúng tập trung quân càn quét vùng ta mới mở ra để khôi phục thế phòng ngự đang bị ta phá vỡ từng mảng. Mức độ càn quét tăng hơn trước. Trạng thái địch càn quét, ta chống càn quét, ta mở cơ sở ra, địch phá lập lại đang diễn ra giằng co quyết liệt, nhất là các vùng An Khê và Đak Bơt. Tuy địch có cố gắng cải thiện thế phòng thủ sau khi ta chiến thắng An Khê, nhưng nhìn hình thái chiến trường trên địa bàn Gia Lai địch bố trí tương đối sơ hở, có nhiều điểm yếu. Lực lượng cơ động tuy có tăng nhưng địch phải bố trí phân tán thành từng cụm, rải dài theo các trục lộ giao thông, dễ bị quân ta bao vây chia cắt. Địa hình Gia Lai rừng núi hiểm trở nên khả năng cơ động ứng cứu chậm, nhiều hạn chế.

Về ta, sau chiến thắng Đông-Xuân 1952-1953 lực lượng vũ trang tỉnh được củng cố, xây dựng mới. Tháng 4 năm 1953 được bổ sung tại chỗ, tỉnh củng cố đại đội 72, thành lập tiểu đoàn 109 do đồng chí Dương Lâm Thai phụ trách. Bộ đội khẩn trương tổ chức huấn luyện, sẵn sàng đánh trả cuộc càn quét của địch. Qua đợt huấn luyện, cán bộ chỉ huy đại đội, tiểu đoàn và huyện đối nắm được các nguyên tắc chiến thuật, vận dụng sát hợp với trình độ bộ đội và yêu cầu tác chiến tại địa bàn. Tư tưởng, tác phong công tác của cán bộ, chiến sĩ có tiến bộ, có kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng và bảo vệ phong trào. Nhân dân một số vùng Kinh có kinh nghiệm thực tế trong giáp mặt đấu tranh với địch. Qua các cuộc càn quét, tuy bị địch khủng bố nhưng ta vẫn nắm được dân, kịp thời ổn định tình hình phong trào du kích chiến tranh phát triển khá mạnh, cơ sở chính trị được củng cố bộ đội ta có nhiều điều kiện thuận lợi trong tổ chức bao vây, tiêu diệt gọn từng đơn vị nhỏ của địch hành quân càn quét. Các khu du kích được củng cố đưa lên thành căn cứ du kích nhiều vùng liên hoàn.

Khối đoàn kết nhân dân được liên tục củng cố, giải quyết được các vụ xích mích kỳ thị dân tộc do kẻ xấu xúi dục. Ta nắm được các từng lớp nhân dân trong đồng bào dân tộc, vùng kinh ven thị xã, thị trấn ta cũng liên lạc, tranh thủ được một số cán nhân tầng lớp trên ủng hộ cách mạng.

Đông-Xuân 1953-1954, Khu 5 chấp hành mệnh lệnh của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tập trung lực lượng tiến công lên Tây Nguyên. Đây là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất đi đôi với nhiệm vụ quan trọng thứ 2 là củng cố bảo vệ vùng tự do của Khu.

Thực hiện mệnh của Trung ương, đầu tháng 12 năm 1953 Khu ủy và Đảng ủy Bộ tư lệnh Khu 5 quyết định tập trung toàn bộ lực lượng chủ lực cho nhiệm vụ tấn công lên Tây Nguyên, giao nhiệm vụ đánh địch bảo vệ vùng tự do cho lực lượng địa phương. Liên Khu chỉ thị cho chiến trường sau lưng địch đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá giao thông, bao vây các đồn bót, đánh sâu vào thị xã, thị trấn gây rối loạn trong sào huyệt địch.

Gia Lai và Kon Tum là hướng tiến công chính của chủ lực khu 5 trong quá trình chiến dịch.

Nhận thức quán triệt nhiệm vụ trên, Ban cán sự và Ban chỉ huy Trung đoàn 120 tập trung toàn lực lượng quân, dân, chính, Đảng phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu cho chiến trường Khu 5 đánh thắng.

Trước hết tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động du kích chiến tranh trên toàn tỉnh, củng cố và phát triển các khu du kích, đẩy mạnh công tác binh, tề vận; ra sức đấu tranh phá kế hoạch bắt lính, dồn dân của địch. Tập trung lực lượng tỉnh, huyện một cách hợp lý để kiềm giữ địch, không cho chúng rảnh tay điều lực lượng đánh phá vùng tự do.

Tỉnh còn chỉ đạo các cấp, các lực lượng, các ngành tích cực đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ mùa màng, cứu đói, phòng đói; phát triển mạng lưới mậu dịch, giải quyết nhu yếu phẩm cho nhân dân để góp phần xây dựng và củng cố các cơ sở chính trị vững mạnh.

Nhiều Hội nghị các ngành cấp tỉnh, huyện khẩn trương chuẩn bị các mặt cho nhiệm vụ chính trên chiến trường. Khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng, tất cả cho chiến dịch” được chuyển từ chiến sĩ trên thao trường huấn luyện đến các đoàn dân công phục vụ tiền tuyến, các đội thanh niên xung phong làm nhiệm vụ hỏa tuyến.

Ngày 01 tháng 01 năm 1954, Bộ tư lệnh Quân khu 5 phát động phong trào thi đua lập công giành cờ luân lưu “Quyết chiến, quyết thắng” của Hồ Chủ tịch.

Giữa tháng 01 năm 1954, quân và dân Gia Lai đón tiếp các đoàn quân chủ lực, các đoàn dân công, các đội thanh niên xung phong hỏa tuyến lên đường.

Cuộc tiến công Đông xuân 1953-1954 trên chiến trường Gia Lai mở màn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2020, 06:04:46 am »

Giải phóng tỉnh Kon Tum

Mặc cho địch ra sức thực hiện kế hoạch “Atlante” lấn chiếm một phần vùng tự do Khu 5, nhưng ta vẫn nắm chủ động kiên quyết tập trung lực lượng thực hiện theo kế hoạch đã định.

Ngày 27 tháng 01 năm 1954, cuộc tiến công chiến lược ở bắc Tây Nguyên bắt đầu. Cứ điểm Mang Đen, Mang Búk, Kon Braih là ba mục tiêu được chọn tiến công đầu tiên.

Nhưng để đánh lạc hướng chú ý của địch, đêm 26 rạng ngày 27 tháng 01, Trung đoàn 120 cùng với Tiểu đoàn 40 chủ lực đảm nhận hướng phụ đường 19, cùng một lúc nổ súng tiêu diệt cứ điểm Ba Bah Kơtu, sau đó tiêu diệt cứ điểm Ka Tung và Bup Bê, diệt hàng trăm tên địch, cắt đứt giao thông đường 19 hơn chục Kilômét.

Hướng chính, đêm 27 rạng ngày 28 tháng 01, lực lượng chủ lực khu nổ súng. Mang Đen là một tiểu khu kiên cố. Trung đoàn 108 đảm nhận tiêu diệt Khu A và Khu B. Sau 6 giờ chiến đấu quyết liệt, tiểu đội xung kích của đại đội 225 thuộc tiểu đoàn 19 do Tiểu đội trưởng Võ Cát chỉ huy đã chiếm được lô cốt cố thủ cuối cùng của khu B. Đến 6 giờ 05 phút sáng 28 tháng 01 toàn bộ quân địch ở cứ điểm Mang Đen bị tiêu diệt.

Ở cứ điểm Kon Baih, đường hành quân xa, khi ở Mang Đen bộ đội ta nổ súng thì tiểu đoàn 59 còn cách Kon Braih 5km. Địch đã báo động ra nằm ngoài đối phó. Rút kinh nghiệm chiến đấu đồn Thượng An, bộ đội ta bí mật bố trí sẵn hỏa lực, bộ binh ếm sát địch, chờ đến mờ sáng khi địch kéo nhau về đồn, toàn bộ đội hình tấn công của ta dũng mãnh lao vào xung phong tiêu diệt cả số địch ở ngoài và trong đồn; địch lớp chết, lớp bỏ chạy. Trung đội phó Trần Xưng tuy bị thương vẫn lao người nằm đè lên bờ rào giây kẽm gai, lấy thân mình làm cầu thang cho bộ đội lao thẳng vào đồn. Đến 6 giờ 30 phút ngày 28 tháng 01 cờ chiến thắng của ta phất cao giữa đồn.

Cùng đêm liên đội đặc công của Khu phối hợp với tiểu đoàn 89 san bằng cứ điểm Mang Bút.

Thế là chỉ trong một đêm cụm phòng thủ kiên cố phía Bắc và Đông thị xã Kon Tum bị phá vỡ, tiểu khu Kon Tum hối hả xin quân tiếp viện.

Tranh thủ thời cơ viện binh địch còn sa lầy ở Phú Yên, Bộ chỉ huy chiến dịch đẩy nhanh tốc độ tiến công địch. Tối 28 tháng 01, sử dụng Trung đoàn 108 tiến nhanh về phía tây tiêu diệt toàn bộ các cứ điểm của địch từ Đăk Tô đến Đak Glei, giải phóng toàn bộ vùng bắc tỉnh Kon Tum. Trung đoàn 803 được lệnh áp sát thị xã Kon Tum bố trí một lực lượng cùng bộ đội tỉnh cắt đường số 14 đoạn từ thị xã Kon Tum đi PleiKu.

Trên đường 19 Đại đội 54 thuộc Trung đoàn 120 phát triển chiến đấu trên hướng Đèo Mang Yang, đêm 29 tháng 01, ta pháo kích bao vây bức rút đồn Kon Rong – Kà Tu; Đêm 31 tháng 01 ta tiêu diệt đồn Plei Bông và đến ngày 5 tháng 2 ta tập kích đồn ĐăkĐoa, tiếp tục dùng lực lượng phục kích uy hiếp đường 19. Trong vòng một tuần lễ, các lực lượng vũ trang Gia Lai cùng một bộ phận chu lực Khu 5, bộ đội địa phương, dân quân du kích các huyện Plei Kon, Đăk Rơt được huy động tấn công địch khu vực ngã ba đường 19 và đoạn đường 19 bis.

Hướng đông thị xã Kon Tum, sáng ngày 01 tháng 02 Trung đoàn 803 chặn đánh tiêu diệt một đại đội thuộc Binh đoàn cơ động số 100 vừa keo đến làng Kon Sơlũh; Ngay trong đêm đơn vị đặc công Khu 5 thọc sâu tiêu diệt Sở chỉ huy của tiểu đoàn địch tại trung tâm thị xã Kon Tum.

Ngày 04 tháng 02, tiểu đoàn 39 thuộc trung đoàn 803 chặn đánh diệt 7 xe quân sự địch trên đường 14, đoạn ngã ba đi Ia Ly.

Trước sức tấn công ào ạt của quân chủ lực ta, lực lượng địa phương quân địch chốt trên các điểm dọc đường 14 tháo chạy. Nắm chắc tình hình, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích tổ chức truy kích địch, hàng đoàn dân công nam, nữ, vai gánh nặng lương thực, thực phẩm băng rừng lội suối hồ hởi bám sát bộ đội cùng đuổi bắt địch.

Địch bị thất bại nặng nề, dồn dập, trước nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Bộ chỉ huy viễn chinh Pháp buộc phải ra lệnh cho tướng Đơ Bô-Pho rút bỏ thị xã Kon Tum về tăng sức phòng thủ cho thị xã PleiKu. Quân Pháp buộc phải dừng cuộc hành quân Atlante, đưa quân lên bổ sung phòng giữ thị xã PleiKu và Quốc lộ 19.

Ngày 7 tháng 2 năm 1954 thị xã Kon Tum và toàn tỉnh Kon Tum hoàn toàn giải phóng với diện tích hơn 10 ngàn km2 và hơn 20 vạn dân.

Giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum là một thắng lợi lớn của quân và dân Khu 5. Ta đã dồn địch từ thế tung quân ra càn quét giành chủ động chiến trường phải quay về thế phòng ngự bị động chống đỡ cuộc tiến công chiến lược của ta.

Về ta, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum là thắng lợi lớn đầu tiên trên chiến trường miền Nam Việt Nam, tiêu diệt từng mảng cứ điểm địch, tiêu diệt các binh đoàn cơ động, lực lượng phòng thủ kiên cố của địch, vừa giải phóng vùng đông dân, đất đai rộng lớn nối liền vùng tự do Khu 5, với các vùng chiến đấu của các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Campuchia.

Tỉnh Kon Tum được giải phóng, mảng phòng thủ phía Bắc thị xã PleiKu bị hở sườn, làm đảo lộn thế bố trí của địch, phải có thời gian dài mới củng cố được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2020, 06:05:58 am »

*   *
*

Sau chiến thắng Kon Tum tạo một đà phấn khởi mạnh mẽ, thuận lợi cho ta, đồng thời lực lượng ta cũng có những khó khăn mới. Một bộ phận lực lượng bị thương vong chưa kịp bổ sung, sức khỏe bộ đội giảm sút.

Vùng tự do Khu 5, địch lấn chiếm thị xã Quy Nhơn và một số vùng ở Phú Yên, từ đó có những diễn biến tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ, cả trong lực lượng dân công, thanh niên xung phong phát sinh, lo âu, phân vân giữa chủ trương tiến công lên Bắc Tây Nguyên với lo giữ bảo vệ vùng tự do.

Trước tình hình đó Thường vụ Khu ủy 5 Hội nghị mở rộng khẳng định; “thắng lợi của ta vừa qua chứng minh phương châm chỉ đạo chiến lược của Trung ương là đúng”. Nếu ta không tiến công lên Tây Nguyên thì không củng cố được hậu phương; mà muốn phòng ngự chống lại sức tấn công của địch những nơi chúng đánh ra ta cũng không thực hiện được.

Chấp hành Chỉ thị của Khu 5, Ban cán sự Gia Lai triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng và củng cố vùng mới giải phóng; phát huy thắng lợi, đẩy mạnh hoạt động du kích chiến tranh, liên tục tấn công vùng địch còn kiểm soát; động viên toàn thể cán bộ, dân, quân, chính, Đảng bám chiến trường, khẩn trương xây dựng lực lượng củng cố các đoàn thể quần chúng, nắm dân huy động phục vụ chiến đấu và chống địch càn quét bắt lính.

Lực lượng Trung đoàn 120, bộ đội huyện An Khê, Đăk Bơt chuyển hoạt động sang nam đường 19. Đại đội 54 và Đại đội 68 hoạt động vùng ngã ba Mỹ Thạch đường 14 và đường 7, vùng tam giác Cheo Reo, An Khê, PleiKu đánh địch càn quét nống chiếm, đánh giao thông trên đường 19, đường 7.

Sau khi địch rút bỏ Kon Tum, chúng tập trung quân phòng thủ Tây Nguyên, nhất là thị xã Pleiku,

Tại thị xã PleiKu địch bố trí 9 tiểu đoàn cơ động, trong đó có lực lượng binh đoàn cơ động 100, thành hình cánh cung từ cứ điểm Đăk Đoa (đông bắc thị xã khoảng 15km) vòng về phía tây bắc giáp đồn điền Chè Biển Hồ giữ mạn Bắc thị xã.

Hướng An Khê – đường 19 địch bố trí 9 tiểu đoàn thuộc binh đoàn cơ động số 11 và 21, tổ chức tuyến phòng giữ đông – tây, để ngăn chặn lực lượng ta chuyển sang tiến công phía nam đường 19.

Hai binh đoàn 41 và 42 địch bố trí vùng điểm cao Trà Khê phòng thủ phía nam.

Về ta, tuy đã giành được thắng lợi lớn, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc này trên chiến trường Gia Lai thì ta vẫn chưa hơn hẳn địch về số lượng và chưa giành được thế chủ động hoàn toàn về chiến dịch. Do đó Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương tổ chức một đợt tấn công ngắn nhưng thật mạnh vào cụm phòng thủ thị xã PleiKu và trên đường trục số 19 nhằm tiêu diệt tiếp một bộ phận quan trọng sinh lực địch, buộc chúng phải đối phó, chưa dám tung lực lượng ra phản công ta.

Đúng kế hoạch đêm 16 rạng ngày 17 tháng 2, cùng một lúc ta dồn dập tấn công vào cánh cung phòng thủ vòng ngoài và một bộ phận khác bí mật luồn sâu đánh vào trung tâm thị xã PleiKu.

Ngày 18 tháng 2 sau 8 giờ chiến đấu quyết liệt, bộ đội ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Đăk Đoa, diệt một đại đội của Binh đoàn cơ động 100, bắt số 150 tên lính Âu Phi. Đây là trận đánh cứ điểm có công sự bê tông vững chắc, có trận địa pháo lớn 8 khẩu 105 ly từ đồi Cơ Ty Prông yểm trợ. Dưới ánh trăng rằm, cán bộ chiến sĩ ta dùng bộc phá liên tục phá hết lớp rào này đến lớp rào khác để xông lên. Đại đội trưởng Lê Công Khai bị pháo bắn dập nát đôi chân, anh vẫn lê mình theo bộ đội chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ mở cửa. Người này ngã xuống, người khác xông lên, cán bộ trên hy sinh, cán bộ dưới lên thay chỉ huy quyết tâm giành thắng lợi kỳ được.

Tại Trung tâm thị xã Pleiku, bộ đội đặc công cùng các phân đội bộ binh tập kết vào nhiều cơ sở, kho tàng của địch, giết và làm bị thương gần 200 tên, phần lớn là sĩ quan chỉ huy và phá nhiều vũ khí trang bị.

Phía tây thị xã quân địch bị ta lừa kế nghi binh hộc tốc kéo quân ra lấn nống đã sa vào thế trận bày sẵn trên dãy đồi Cơ Ty prông, bị giết và bị thương hàng trăm tên.

Sáng 25 tháng 2, bọn chỉ huy Pháp ở Pleiku xưa các binh đoàn 11, 21 và 100 ra càn quét sâu hai bên đường 19. Chúng đã vấp phải bố phòng chông thò, mìn, lựu đạn gài của dân quân du kích các huyện Mang Yang, Đăk Bơt, An Khê thêm hàng chục tên bỏ mạng.

Cùng với đà tiến công quân sự, bộ đội địa phương, dân quân du kích, cán bộ dân, chính đảng phát động nhân dân nổi dậy diệt tề trừ gian, phá các khu dồn phía Nam đường 19 sát đường số 7, diệt và bức rút nhiều cứ điểm lẻ trong vùng du kích của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2020, 06:06:29 am »

Ngày 8 tháng 2 đại đội 54 và bộ đội huyện Đăk Bơt tiến công diệt đồn Đăk Bơt, địch ở đồn Đăk Lá, Kon Thụp đã rút chạy. Ngay hôm sau bộ đội huyện Đăk Bơt đột nhập địch ở thị trấn Cheo Reo diệt một số, phá hủy trụ sở cơ quan ngụy quyền địch.

Hoạt động của các đại đội 54, 68, bộ đội huyện, dân quân du kích đã phá vỡ phần lớn bộ máy ngụy quyền địch phía nam tỉnh. Tiểu đoàn 109 hoạt động đánh địch quanh An Khê. Ta đã bắt gọi hàng ngàn tên ngụy quân, ngụy quyền, tề điệp do địch cài lại trong vùng mới giải phóng, giải tán gần hết các ổ vũ trang phản động địa phương, thu gần 200 súng các loại. Chính quyền cách mạng được thiết lập trên vùng vừa mới giải phóng.

Phía Nam thị xã bộ đội đặc công có du kích mật phục vụ, đã tiêu diệt cứ điểm Plei Pơ tại một tiền đồn bảo vệ ngã ba đường 14 và đường 7.

Phát hiện bộ đội ta chuyển hoạt động sang phía nam tỉnh, Tướng ĐơBôPho lệnh cho binh đoàn cơ động 100 tập trung quân tại PleiRing vào tối 20 tháng 03 để giải tỏa càn quét vùng giải phóng Đăk Bơt.

Trung đoàn 803 (thiếu tiểu đoàn 365) kịp thời phát hiện địch, tổ chức tập kích quân Pháp vừa đến Plei Ring, ta đã linh hoạt chuyển phương án đánh địch trong công sự vững chắc sang đánh địch đang tập trung xe pháo, người đang ngổn ngang ngoài trời.

Đúng 2 giờ sáng ngày 21 tháng 03, toàn bộ hỏa lực ta cùng lúc bất tập trung giáng xuống khu tập trung xe pháo và binh lực địch ngoài trời. Từ phút đầu ta đã diệt hàng trăm tên lính Âu Phi, phá hủy hàng chục xe cơ giới, hàng chục khẩu pháo; giữa lúc bọn địch đang kinh hoàng với cú đánh phủ đầu của hỏa lực ta chưa kịp hồi phục thì 5 mũi xung phong của bộ đội ta nhanh chóng thọc sâu vào chia cắt đội hình địch tiêu diệt chúng. Sau giờ chiến đấu bộ đội ta đã giết, bắn bị thương 600 tên lính Âu Phi.

Cùng thời gian một cánh quân khác về giữ đèo Mang Yang trên trục đường 19 đã bị chủ lực ta tiêu diệt thu toàn bộ vũ khí.

Trước thất bại dồn dập, nặng nề địch buộc phải rút hết số tàn quân về Pleiku để củng cố, bỏ dỡ cuộc càn quét lấn nống. Khu du kích Đăk Bơt được củng cố vững chắc.

Trên đường 19, Đại đội 54 cùng bộ đội chủ lực phục kích các đoàn xe vận chuyển của địch. Ngày 4 tháng 4 đoàn xe địch từ An Khê về Pleiku bị bộ đội ta tiêu diệt tại cầu Hà Tam. Ngày 10 tháng 04, 20 xe từ Pleiku xuống tiếp tế cho An Khê bị bộ đội ta tiêu diệt tại đèo Mang Yang. Như vậy từ ngày 4 đến ngày 28 tháng 4 liên tiếp có 6 đoàn xe quân sự địch bị tiêu diệt trên đoạn đường dài 20km ở khu vực đông và tây cầu Ayun. Tiếp sau, từ tháng 4 sang tháng 5 các đơn vị bộ đội bám liên tục cắt nhiều đoạn đường giao thông số 19, buộc địch không giám nống lấn ra giải tỏa vì hệ thống tuyên bố phòng chông mìn của du kích và bộ đội địa phương các huyện liên tục phục kích trên trục đường. Địch phải dùng máy bay tiếp tế các cứ điểm lẻ.

Sau một tháng đọ sức giữa ta và địch, tỉnh Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. Đại bộ phận vùng nông thôn rừng núi và đất bằng đông dân của tỉnh Gia Lai đã đứng lên làm chủ Chính quyền cách mạng đã lập nên cả những vùng ven thị xã, thị trấn. Toàn bộ hệ thống chính quyền tay sai của Pháp, bộ máy tề điệp bị tan rã tại chỗ, hàng nghìn tên ra nạp vũ khí đầu hàng chính quyền Cách mạng, một số ít tên ngoan cố gian ác bỏ chạy vào thị xã Pleiku. Vùng căn cứ du kích được mở rộng liên hoàn. Địch ở thị xã Pleiku bị bao vây cô lập. Dọc đường giao thông 19 và 14 các cứ điểm co nằm im không dám lấn nống như trước; phong trào du kích chiến tranh trên địa bàn lên mạnh, nhân dân, cán bộ, bộ đội hồ hởi phấn khởi trước chiến thắng Xuân Hè 1954. Nhân dân thị xã Pleiku số đông reo mừng chiến thắng của ta, bọn phản động hoang mang giao động bám sát gót chân Pháp chờ ngày tháo chạy.

Kìm chân cánh quân địch ở Quy Nhơn, đập nát các cánh quân trên đường 19 và các bộ phận lấn nống càn quét, ta đã đẩy quân Pháp trên chiến trường Tây Nguyên lui về thế phòng ngự bị động. Quyền chủ động trên chiến trường Khu 5 đã ở trong tay Bộ chỉ huy chiến dịch. Từ trước đến nay chưa bao giờ quân Pháp tập trung một lực lượng mạnh và đông, cố gắng chiến tranh lớn như thế, ném vào một địa bàn hẹp như chiến trường Khu 5 mà phải cam chịu thất bại. Thắng lợi của các lực lượng vũ trang ta không chỉ đánh bại một cuộc hành quân lớn của địch, mà còn mở rộng được khu căn cứ địa cách mạng to lớn, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh vùng hậu địch lên cao chưa từng có. Ta đã làm thất bại, phá sản âm mưu thâm độc của địch, tạo ra sức biến đổi to lớn về so sánh lực lượng giữa ta và địch, làm biến đổi cục diện chiến trường hoàn toàn có lợi cho ta. Thế và lực của quân và dân Gia Lai đã mạnh lên góp phần cùng chiến trường Khu 5 tạo tiền đề giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM