Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:46:20 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Lai 30 năm chiến tranh giải phóng  (Đọc 9348 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2020, 08:15:48 am »

Tỉnh Gia Lai là vùng địch tạm chiếm, vì vậy nhiệm vụ hàng đầu là đẩy mạnh chiến tranh du kích sâu trong lòng địch, để đánh bại kế hoạch “Bình Định” của chúng, từng bước giành thế chủ động về ta. Tháng 01 năm 1948 Ban cán sự tỉnh quyết định các nhiệm vụ: “Phát triển du kích chiến tranh hoạt động mạnh phía sau lưng địch, nhằm tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Lực lượng vũ trang phải đánh được các điểm nhỏ, đánh phá liên tục các đường giao thông quan trọng, hỗ trợ tích cực cho phát triển xây dựng cơ sở, phá bằng được âm mưu “Bình Định của địch”. Đẩy mạnh hơn nữa công tác binh, địch vận, đồng thời tích cực chống chính sách bao vây phong tỏa kinh tế của địch động viên mọi lực lượng tăng gia sản xuất tại chỗ…”

Các biện pháp cụ thể:

- Về quân sự: Ra sức chấn chỉnh tổ chức lực lượng, tích cực luyện quân lập công, phát triển rộng và mạnh lực lượng dân quân du kích.

+ Thành lập Tỉnh đội Bộ dân quân do đồng chí Phạm Phương và Siu Ken phụ trách chuyên lo xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang cơ sở.

+ Tiếp tục củng cố và đưa các đội công tác đi sâu vào gây cơ sở trong lòng địch. Củng cố chính quyền ở những vùng ảnh hưởng ta còn ít. Lập những ban vận động chính quyền đi sâu vào những vùng địch còn khống chế xây dựng. Các đơn vị người dân tộc, các đại đội độc lập và các địa phương phối hợp hoạt động với các đội công tác.

+ Tổ chức luyện quân lập công cho bộ đội tỉnh và huyện.

- Về chính trị: Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công tác phát động quần chúng gây cơ sở trong vùng địch. Phá bộ máy Ngụy quyền thôn xã, phá kế hoạch dồn dân của địch, tích cực vận động binh lính địch.

- Về kinh tế: Đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc, chỉnh đồn ngành quân giới, quân y, quân nhu, cải tiến trang bị cấp dưỡng cho bộ đội, thực hiện dân, quân, chính tham gia bài trừ hàng ngoại.

Thực hiện những biện pháp trên, phong trào kháng chiến ở tỉnh từng bước được mở rộng, với khẩu hiệu “Tây Tiên”, với lời ca “Tiến lên Tây Nguyên, tiến lên Tây Nguyên, vui trong gian lao, đội ta kiên trì…” tiến sâu vào lòng địch thành hành động thiết thực, cụ thể của cán bộ, chiến sỹ gây cơ sở địch hậu.

Đội vũ trang tuyên truyền 101 đã liên lạc được với công nhân đồn điền chè Bàu Cạn, Xá Gào, Nước Đỗ.

Đội vũ trang tuyên truyền 102 củng cố bàn đạp ở Bơ Năm tiến lên nối lại cơ sở ở KonMơba và phát triển lên vùng Đăk Đoa.

Đội vũ trang tuyên truyền 103 đã gây cơ sở vùng Đê Sê Rơn, Đê Kuk.

Đại đội 1 (trước là Y Bhin Bắc) hoạt động ở đường 7 (Hoàng Hoa Thám) bám xây dựng kèm cặp du kích làng Kon Trut (xã Krem), hướng dẫn nhân dân bố phòng, chống càn quét, dùng ná diệt 2 lính Pháp.

Đại đội 3 hoạt động phía Nam do đồng chí Đàm làm Đại đội trưởng, phối hợp với bộ đội huyện Đak Bơt đánh 9 trận ở vùng Đê A Lao, Đăk Bơt, bắt 5 tù binh, thu 8 súng.

Tháng 5 năm 1948, Đại đội Y Bhin Nam (Đại đội 3) cùng với cơ sở binh vận do đồng chí Kpă Yao chỉ huy dùng chiến thuật kỳ tập với lực lượng một trung đội trang bị mạnh, trong một đêm đột nhập diệt hai đồn Plôk và Ia Ke, thu 42 súng các loại, được Bộ chỉ huy Quân khu 5 khen ngợi. Phát huy thắng lợi Đại đội Y Bhin Nam phối hợp cùng đại đội Văn Lượng chiến đấu hỗ trợ cho xây dựng, củng cố vùng căn cứ Ya Hội chống càn quét, diệt 60 tên địch.

Lực lượng tập trung tỉnh có điều kiện tập kích, tiêu diệt, đánh thiệt hại nhiều cứ điểm: An Thạch, Đăk Bơt, đột nhập đồn điền Sac Ko, ven thị xã Pleiku. Tháng 8 năm 1948 Tiểu đoàn 80 cùng các Đại đội Y Bhin Nam và Y Bhin Bắc phục kích đoàn xe địch tại suối Đak Pơ trên đường số 19, diệt 9 xe quân sự, thu một súng đại liên browning và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Sau đó đại đội Y Bhin Bắc phân tán làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, củng cố vùng Kan nak, làng Lợt, Sơ Tang, Đê Rooh và các làng vùng Tây Nam Kannak.

Cán bộ về, bộ đội về bám xây dựng cơ sở, phong trào vùng địch hậu dần dần chuyển động; cơ sở chính trị; cơ sở vũ trang được xây dựng và củng cố. Nhiều nơi lực lượng vũ trang phối hợp với quần chúng diệt tề trừ gian. Những trận chiến đấu tập trung để hỗ trợ cho phong trào quần chúng được chuẩn bị chu đáo thu thắng lợi như đánh địch ở Đăk Đoa, đột nhập đồn điền chè Biển Hồ, Bàu Cạn đã gây tiếng vang lớn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2020, 08:16:31 am »

Đi đôi với tác chiến diệt địch hỗ trợ cho gây cơ sở, tỉnh tổ chức đột “luyện quân lập công” trong tháng 6 năm 1948 tổ chức lớp huấn luyện 25 ngày cho 27 cán bộ huyện đội đến Trung đội để bồi dưỡng thống nhất nội dung học tập cho cán bộ chỉ huy. Tiếp sau các huyện mở được 6 lớp huấn luyện cho cán bộ chỉ huy dân quân xã, chủ yếu huấn luyện biết sử dụng thành thạo vũ khí thô sơ, các động tác bắn súng, ném lựu đạn, gài mìn…

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng trong tỉnh có tiến bộ một bước, chính quyền cách mạng được mở rộng thêm 77 làng so với đầu năm, đưa tổng số làng có chính quyền ta trong tỉnh là 397 làng, có nơi phát triển cơ sở trong vùng đồng bào kinh sát ven thị xã. Tình hình cơ sở chính trị ngày càng mở rộng, cán bộ cơ sở động viên nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất. Lực lượng vũ trang cũng bước đầu có kế hoạch sản xuất tự túc tại địa bàn hoạt động.

Hoạt động tác chiến thu được kết quả, cơ sở chính trị được mở rộng. Dân quân du kích đầu năm có 700 đội viên, đến giữa năm 1948 đã phát triển lên được 1040 đội viên, trong đó có 79 du kích thoát ly được huấn luyện và tác chiến khá. Phong trào huấn luyện dân quân du kích được chỉ đạo chặt chẽ, có nơi huấn luyện từ 2-3 lần, mỗi lần 10 ngày; dân quân vùng Bahnar An Khê biết bố trí bom mìn, ném lựu đạn; đã độc lập tác chiến được 5 trận, giết 01 tên Pháp, 02 lính Ngụy, bắn bị thương 6 tên khác, phá 14 cầu, treo cờ cách mạng, rải truyền đơn quanh đồn Cửu An, Tú Thủy.

Cán bộ chiến sỹ trong tỉnh đã dấy lên khí thế thi đua sôi nổi, xác định được trách nhiệm, kiên định tư tưởng, chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai, nâng được ý thức kỷ luật, ra sức chiến đấu chống càn quét, bảo vệ vùng du kích, vùng căn cứ có kết quả. Các căn cứ Thượng Bình, Xóm Ké, Ya Hội, Kan nak, Kơ Chơng Bơng được củng cố vững chắc.

Tháng 6 năm 1948 Tỉnh đội bộ dân quân và các huyện đội An Khê, Đak Bơt, Cheo Reo được kiện toàn. Phát động mạnh việc xây dựng dân quân du kích chiến tranh sâu vào lòng địch. Nắm vững phương châm du kích chiến là chính, đánh nhỏ ăn chắc, kết hợp chặt chẽ phương thức hoạt động của Ban xung phong, đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập cùng bộ đội chủ lực tạo sức mạnh tổng hợp để phá kế hoạch “Bình Định” chiêu an của giặc Pháp. Tích cực củng cố chính quyền cách mạng, động viên lực lượng vũ trang tham gia tích cực xây dựng và củng cố cơ sở, nhằm không cho hậu phương địch ổn định, giam chân địch lo đối phó với hoạt động của ta, làm cho địch không rảnh tay đưa quân đi càn quét vùng tự do và vùng căn cứ du kích.

Năm 1948 tình hình cơ sở trên địa bàn có nhiều chuyển biến mới, nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm.

Cơ sở phát triển chưa đều, chậm. Đến cuối năm 1948 phía đông đường 14 vẫn còn 350 làng chưa có cơ sở; một số làng vùng Pleikly địch càn quét, không có cán bộ bám sát cơ sở nên bị mất liên lạc với dân gần 100 làng.

Phía Tây giáp biên giới Campuchia, vùng các đồn điền, một số vùng đất bằng đông dân còn bị địch kiểm soát chặt, nhiều nơi còn cơ sở “trắng”.

Nắm phương châm hoạt động vùng sau lưng địch, nhất là chấp hành chính sách dân tộc còn nhiều lệch lạc, hoạt động của các đội công tác, đội vũ trang tuyên truyền còn lộ liễu, bộc lộ lực lượng, trong đội ngũ cơ sở chưa chú ý xây dựng số trung kiên nòng cốt, nên khi địch càn quét khủng bố dễ vỡ hàng loạt.

Trong chỉ đạo hoạt động du kích chiến tranh còn ỷ lại vào các đợt hoạt động của các đơn vị chủ lực, chưa chủ động đẩy phong trào hoạt động toàn diện và liên tục.

Công tác phá tề trừ gian còn phạm “Hữu khuynh” có nơi sử dụng tề sai nguyên tắc, có lúc phạm “tả khuynh” diệt tề bừa bãi gây phản ứng trong nhân dân.

Phát triển lực lượng dân quân chậm vì thiếu kế hoạch bồi dưỡng đào tạo cán bộ tại chỗ, nhất là cán bộ người dân tộc.

Sang đầu năm 1949, giặc Pháp tập trung lực lượng càn quét ngăn chặn các trục đường tiến quân của ta nhằm đẩy lùi các đội vũ trang tuyên truyền đang đi sâu vào quần chúng kiểm soát. Chúng ra sức bắt lính, bắt phu, lập ngụy quyền, bổ sung cho các đơn vị bị thương vong. Mặt khác chúng lợi dụng các thiếu sót của cán bộ, bộ đội ta để tuyên truyền chia rẽ, kích sâu mâu thuẫn, kích động hằn thù dân tộc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2020, 08:18:53 am »

Chúng tập trung đánh phá phong trào với nhiều thủ đoạn nham hiểm xảo quyệt. Nhưng ta chưa thực sự sâu sát tình hình nhân dân, chưa nhạy bén trước âm mưu địch, kế hoạch đối phó với các thủ đoạn của địch chưa kịp thời nên phong trào có phần chững lại. Phần lớn các đội vũ trang tuyên truyền, các đội công tác cắm sâu vào vùng địch bị đánh bật ra. Có một số cán bộ, chiến sỹ bị hy sinh, một số cơ sở bị vỡ, một số trung kiên trong cơ sở bị bắt hoặc bị khủng bố.

Tháng 2 năm 1949, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Gia Lai họp lần thứ nhất. Đại hội kiểm điểm đánh giá tình hình phong trào cách mạng trong tỉnh, đề ra phương hướng nhiệm vụ đến, bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới và bầu đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai(1).

Đại hội đã nhất trí đề ra nhiệm vụ năm 1949 là: Phát động phong trào du kích chiến tranh rộng rãi, đánh sâu vào hậu địch, dồn hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng; liên tục đánh phá các trục giao thông; tích cực chống càn quét, tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch bồi dưỡng lực lượng ta để hỗ trợ đắc lực cho xây dựng và phát triển chính quyền, phát triển cơ sở, giữ vững vùng căn cứ du kích.

Phải nắm vững chiến thuật du kích chiến, đánh giỏi về phục kích, tập kích, địa lôi, đánh giao thông nghi binh, phá hoại. Các lực lượng vũ trang phải nắm vững phương châm hoạt động, xây dựng cơ sở, phấn đấu mở rộng cơ sở lên phía Tây đường số 14.

Xây dựng lực lượng du kích xã, thôn, chiến đấu tại chỗ vững vàng để dần dần có thể thay thế các đơn vị bộ đội địa phương.

Sử dụng lực lượng phù hợp tình hình từng địa bàn, tổ chức ban xung phong 116 tiến lên hoạt động hướng Bơ Ngoong – Pơ Tó.

Đại đội 29 hoạt động tại Cheo Reo, Đại đội 79 hoạt động vùng M’Drak(2).

Các đội vũ trang tuyên truyền trụ bám các địa bàn:

Đại đội 101 hoạt động vùng Bàu Cạn.

Đại đội 102 hoạt động vùng Đăk Đoa.

Đại đội 103 hoạt động vùng Đăk Bơt.

Đại đội 3 hoạt động khu nam Đăk Đoa.

Đại đội 1 hoạt động khu Trung.

Cán bộ, chiến sỹ các lực lượng vũ trang phải học tập nắm vững các điều cơ bản, mục đích, nội dung công tác gây cơ sở địch hậu, lấy vận động chính trị, giác ngộ nhân dân làm chính, làm cho nhân dân tự giặc đứng lên đánh địch và điều quan trọng nhất phải khắc phục mọi hành động lệch lạc, gò ép, tập hợp ghi tên…

Phải nắm vững phương châm hoạt động là kiên trì vận động, lấy vận động giác ngộ chính trị và cải thiện đời sống cho nhân dân là chính. Hoạt động quân sự chỉ để hỗ trợ cho vận động chính trị. Hành động quân sự phải đúng lúc và có phương thức thích hợp. Khi đã có cơ sở vững chắc thì vũ trang cho quần chúng, tổ chức cho quần chúng đứng lên đánh giặc, từng bước xây dựng thành làng chiến đấu, vùng du kích và căn cứ du kích.

Sau một thời gian học tập kiểm điểm rút kinh nghiệm, ta đã tổ chức sử dụng lực lượng phù hợp từng địa bàn hoạt động. Các Ban xung phong, các đội vũ trang tuyên truyền lại bắt đầu những ngày chiến đấu gian khổ để giành dân, giành đất trong vùng địch kiểm soát. Cán bộ, chiến sỹ với khí thế bừng sôi nhằm thẳng lên núi rừng Tây Nguyên tiến lên. Câu hát: Ta mau lên đường nhằm Tây Nguyên ta tiến lên…! vang động trong từng đơn vị, từng lòng người cán bộ, chiến sỹ địch hậu.


(1) Ban chấp hành Đảng bộ mới có 5 ủy viên, đồng chí Nguyễn Xuân làm Bí thư và là đại biểu của Đảng bộ đi dự Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ hai.
(2) Đại đội 29 và 79 thuộc D MaTrong Lơng tháng 10/1948 Cheo Reo sát nhập tỉnh Đăk Lăk (hồ sơ 8/LK5 VP quân ủy Trung ương 315
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2020, 08:21:29 am »

Biến quyết tâm thành hành động cụ thể, cán bộ chiến sỹ người kinh lên công tác gây cơ sở, có đồng chí tự cà răng, căng tai, phơi mình trần giang nắng cho da đen để hòa mình trong đồn bào dân tộc. Cuộc chiến đấu thầm lặng, không có trận địa, không có hàng rào ranh giới địch ta, nhưng vô cùng gian khổ, khẩn trương và quyết liệt. Ngoài tinh thần dám hy sinh, chịu đựng gian khổ, kiên trì thuyết phục, hết lòng thương yêu nhân dân; cán bộ chiến sỹ các đội vũ trang tuyên truyền, các đội gây cơ sở còn phải có quan điểm tư tưởng hiểu thấu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân. Phải có nhận thức suy nghĩ đúng, biết phân biệt đâu là hành động lầm lạc nhất thời của một số ít người bị địch cưỡng ép mua chuộc, và đâu là tình thần đấu tranh bất khuất, tinh thần yêu nước, khát khao độc lập tự do của quần chúng nhân dân các dân tộc, để biết vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, gạt đám tro tàn, khơi lên nhen nhóm những đóm than hồng thành ngọn lửa cách mạng đấu tranh.

Trong chiến tranh gian khổ đã xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh, tận tụy quên mình vì sự nghiệp cách mạng.

Trung đội phó Nguyễn Hữu Nhơn, vừa gây cơ sở ở một số vùng đồng bào dân tộc Bah nar đang bị địch khống chế nặng. Lúc đầu dân không chịu tiếp xúc, không cho vào làng. Nhơn đã kiên trì lót lá ngủ ngoài rừng, lân la đi rẫy này đến rẫy khác để cùng dân cuốc đất, nhổ cỏ. Người lớn không chịu gặp Nhơn tìm cách làm quen với các em nhỏ, có lúc Nhơn giả làm Bò cho các em cưỡi, hát cho các em nghe; từ chỗ quen thân sau được các em yêu mến, từ đó Nhơn bắt chuyện được với người lớn và lần lượt bám dân móc nối gây dựng cơ sở cách mạng(1).


Với việc kiên trì vận động quần chúng và việc chấp hành đúng đắn chính sách dân tộc của Đảng cộng sản với tinh thần chân thành đoàn kết thương yêu nhân dân, các đội cán bộ cơ sở đã làm cho nhân dân từ chỗ bị địch tuyên truyền xuyên tạc nên nghi ngờ lẩn tránh không gặp cán bộ chuyển dần thành tin tưởng mến phục. Những định kiến hằn thù giữa các dân tộc do địch cố tình xúi giục, gây mất đoàn kết trong dân đã được giải quyết xóa bỏ(2). Ngọn lừa căm thù của đồng bào dân tộc đã được hướng đúng mục tiêu là đứng lên làm cách mạng, đuổi giặc Pháp. Núi rừng Tây Nguyên đã đứng lên! Khối đoàn kết kinh thượng, đoàn kết giữa các dân tộc, giữa các vùng, đoàn kết quân và dân ngày càng gắn bó.

Phong trào cơ sở Gia Lai đã có bước tiến khá, nhưng vẫn còn diễn ra trong thế giằng co giữa ta và địch. Thực dân Pháp một mặt tập trung lực lượng đánh phá phong trào quyết liệt hòng đẩy lùi các đội vũ trang tuyên truyền gây cơ sở của ta, mặt khác ráo riết tổ chức mạng lưới tề điệp ngầm trong dân, cho bọn gián điệp giả danh lái buôn người truyền đạo đi sâu vào các buôn làng dò la tình hình, tổ chức các ổ vũ trang phản động.

Nắm chính sách dân tộc của Đảng và phương châm kiên trì vận động quần chúng, các lực lượng vũ trang của tỉnh vẫn nắm chặt địa bàn, thực hiện “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với dân, ngày đêm rĩ rã phát động quần chúng giúp dân sản xuất cải thiện đời sống.

Phong trào du kích chiến tranh cũng từ đây mở rộng địa bàn hoạt động sâu vào vùng sau lưng địch, tạo cơ sở cho bộ đội tập trung tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch. Các đại đội độc lập tỉnh đã lên đứng hoạt động phía Sông Ba theo tục Nam đường số 19. Vùng đồn điền Chè Bàu Cạn ta đã tổ chức được chính quyền nhân dân ở cơ sở, lập Hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến. Phía Tây Mang Yang đến Mỹ Thạch, sát chân núi Hơ Drung đã xây dựng các các đội du kích.

Xã Ya hội có phong trào du kích khá vững, có 21 làng với 3000 khẩu, có truyền thống chống xâm lược từ lâu, phong trào du kích chiến tranh phát triển sớm được xây dựng thành xã chiến đấu từ năm đầu kháng chiến.

Xã có hệ thống bố phòng liên hoàn, nhân dân và du kích đã chiến đấu hàng trăm trận, diệt nhiều địch bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản nhân dân.

Cuối năm 1949, xã Ya hội được Bộ chỉ huy Quân khu 5 tặng danh hiệu “xã kiểu mẫu”(3).


(1) Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc 1952, Nguyễn Hữu Nhơn được bầu làm chiến sĩ thi đua toàn quân.
(2) Vụ mất đoàn kết đánh nhau giữa dân làng Kon Hà Nừng với dân làng Kon blô (Vĩnh thanh) đã được giải quyết.
(3) Hội nghị du kích chiến tranh K5 năm 1952 được biểu dương “Ya hội là xã chiến đấu miền núi tiêu biểu của Tây Nguyên” Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Huyện ủy An Khê.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2020, 08:24:35 am »

Tháng 6 và tháng 7 năm 1949 lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với Trung đoàn 210 của khu 5 mở đợt hoạt động mạnh hướng bắc Tây Nguyên, bộ đội ta đã đánh thắng địch liên tục mấy trận tại suối Đăk Pơ đường 19. Việc kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động quân sự với gây cơ sở có nhiều tiến bộ. Đến cuối năm 1949, một vùng cơ sở rộng đã được hình thành trong khu tam giác Cheo Reo - Buôn Hồ - M’Drak (Đăk Lăk) và dọc Nam và Bắc đường số 19 từ Tây đèo Mang Yang lên gần giáp ven thị xã Pleiku. Nhiều khu căn cứ vững chắc, nhiều làng chiến đấu kiên cường vùng Nam và Bắc An Khê đã hình thành. Ngoài xã Ya Hội là căn cứ vững chắc còn có căn cứ du kích làng Sơ Tơr do đồng chí Núp chỉ huy, tạo thành khu du kích vững quanh thị trấn An Khê.

Khu du kích làng SơTơr nằm phía Bắc đường số 19, có 18 hộ, 100 khẩu dân tộc Bahnar. Ba năm liền nhân dân bị địch bao vây không cho dân mua muối, vải, nông cụ… Nhân dân SơTơr phải đốt tranh lấy tro ăn thay muối, lột vỏ cây làm khố mặc. Giặc Pháp dụ dỗ “Về hàng, cho muối ăn” dân làng Sơ Tơr đồng thanh bảo “ăn muối của Tây khổ suốt đời”. Bảy lần giặc càn vào làng, bảy lần nhân dân xây dựng lại làng chiến đấu mới. Sau ba năm kiên cường chiến đấu, dưới sự chỉ huy hướng dẫn của anh Núp, du kích SơTơr đã diệt hàng chục tên giặc bằng vũ khí thô sơ, tự tạo. Sơ Tơr trở thành pháo đài bất khả xâm phạm, sừng sững hiên ngang đứng vững trên mạng Tây Bắc huyện An Khê.

Thôn Đội trưởng Núp được bầu là chiến sỹ thi đua Trung đoàn 120 năm 1952(1)

Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương Đảng, từ đầu năm 1948 về phát triển phong trào du kích chiến tranh trong vùng địch hậu, các lực lượng vũ trang Gia Lai dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh, đã nắm vững và vận dụng linh hoạt phương thức hoạt động để gây cơ sở. Qua đó mà xây dựng lực lượng dân quân du kích ngày càng lớn mạnh. Từ đó hình thành các khu du kích liên hoàn, xây dựng một số làng, xã chiến đấu vững. Các đội du kích có khả năng chiến đấu tập trung có kết quả, làm nòng cốt cho phong trào nhân dân du kích chiến tranh, phát triển đủ sức tiêu hao địch rộng rãi, tiêu diệt những toán địch càn quét, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng vũ trang kháng chiến.

Từ năm 1948 sang năm 1949, các lực lượng vũ trang Gia Lai đã mở liên tục các đợt hoạt động, bàng mọi hình thức chiến tranh đánh địch liên tục, đã diệt 694 tên địch, trong đó có 4 sỹ quan Pháp, bắn bị thương 105 tên, bắt 64 tên, thu nhiều vũ khí, đạn, trang bị.

Từ thực tế hoạt động trên chiến trường ta đã đạt được:

+ Nắm vững mục đích gây cơ sở địch hậu là nhằm phát động phong trào du kích chiến tranh sau lưng địch, mở rộng khu vực giải phóng của ta trong lòng địch.

+ Phải dựa hẳn vào dân là điều cơ bản, phải chú trọng xây dựng cơ sở chính trị, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, tổ chức nhân dân thành đội ngũ, phải có kế hoạch đào tạo cán bộ địa phương tại chỗ, vừa gắn chặt đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống cho dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch từ thấp đến cao; Phải biết dùng hành động quân sự hoạt động đúng lúc, đúng điều kiện để đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.

+ Phát động du kích chiến tranh phải trên cơ sở trình độ nhân dân khá vững; tổ chức vũ trang cho dân, chuẩn bị cho dân sẵn sàng chống địch, khủng bố càn quét có bộ đội tập trung giúp sức duy trì và phát triển phong trào.

+ Trong đẩy phong trào du kích chiến tranh lên phải đặc biệt quan tâm xây dựng vùng căn cứ du kích thật vững chắc(3).

Qua ba năm thực hiện chủ trương chấn chỉnh lực lượng trở lại bám địa bàn chiến trường đẩy mạnh hoạt động vùng sau lưng địch, các lực lượng vũ trang Gia Lai đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, nắm vững phương châm, phương thức hoạt động đã bảo toàn và phát triển được lực lượng ta; nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương bám sát chiến trường, mở được thêm nhiều cơ sở, giữ được các vùng căn cứ du kích.

Thành công của Gia Lai đã góp phần cùng chiến trường khu 5 và cả nước đẩy địch quay về thế phòng ngự củng cố các vị trí chiến lược, lo giữ thị xã, thị trấn và các trục giao thông quan trọng. Thế cầm cự giằng co giữa ta và địch trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện rõ rệt; trọng tâm hoạt động của các lực lượng vũ trang ta là vùng địch tạm chiếm.


(1) Anh Núp được đi dự đại hội chiến sĩ thi đua Liên khu 5 tháng 5 năm 1953; được Chính phủ tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 8 năm 1955
(2) Hồ sơ lưu trữ ở K5 44 tờ 42
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:22:23 am »

CHƯƠNG IV

Thống nhất Quân, dân, chính, tích cực mở rộng cơ sở địch hậu,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp các chiến trường.
(1950-1951)

Đến cuối năm 1949 sang đầu năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đang trên đà phát triển mạnh. Nghị quyết Trung ương Đảng(1) chỉ rõ: “Mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến đấu tiến tới…”. Các lực lượng vũ trang trên toàn quốc đã mở một loạt chiến dịch với quy mô từ 3 đến 5 tiểu đoàn để hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh(2).

Hòa nhịp với khí thế chung của cả nước, tháng 01 năm 1950 Hội nghị cán bộ Đảng toàn Khu 5 sau khi phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường đã chủ động tiếp tục đẩy phong trào du kích chiến tranh lên cao trong vùng sau lưng địch. Đồng thời tập trung lực lượng mở những chiến dịch lớn tạo chuyển biến mới tương quan lực lượng giữa ta và địch.

Trên địa bàn Gia Lai lúc này, thế cầm cự giằng co giữa ta và địch diễn ra rõ rệt, địch buộc phải quay về đối phó với ta tại vùng chúng kiểm soát. Chúng xúc tiến mạnh chính sách chiêu an, dồn dân, chủ yếu tập trung vào vùng đồng bào Kinh dọc các trục giao thông quan trọng, vùng ven Thị xã, Quận lỵ, Vùng đồng bào các dân tộc, giặc Pháp bắt đầu thực hiện âm mưu phát triển tổ chức vũ trang phản động địa phương. Tuyến phòng giữ trước đây dọc giáp ranh giữa Gia Lai và Bình Định nay buộc địch phải co lập tuyến phòng giữ dọc theo đông và tây bờ sông Ba. Chúng củng cố các cứ điểm Đaktung, Tung Bung và Tô Năng, tăng thêm cứ điểm củng cố tuyến bảo vệ quanh thị xã. Đưa các Cha Linh mục xuống các khu dồn dân để chiêu an, hoạt động chiến tranh tâm lý.

Về ta, Tỉnh chủ trương đẩy mạnh công tác chiến tranh du kích, củng cố các đơn vị đủ sức tiến sâu hoạt động vào lòng địch. Tháng 01 năm 1950, Trung đoàn 120 biên chế tổ chức lực lượng phù hợp chiến trường đặc trách địa bàn tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum .

Tháng 4 năm 1950, hội nghị tổ chức Khu ủy 5 bàn công tác xây dựng Đảng, Thường vụ Khu ủy quyết định thống nhất 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia-Kon.

Phía Gia Lai, tỉnh phân chia các Khu để chỉ đạo sát tình hình cơ sở:

* Đông đường 14:

Khu 4 vùng đồng bào dân tộc bắc đường 19 (An Khê)

Khu 5 vùng ĐakBơt.

Khu 6 vùng Ya Hội, Sơ Rô, Djama.

Khu 7 vùng Kinh Thị trấn huyện An Khê.

Khu 8 Huyện PleiKon từ Hà Bàu đến Kommơha.

(Đến tháng 3 năm 1951 sát nhập Khu 4 và 7 lập huyện An Khê.

Nhập Khu 5 và 6 lập huyện Đak Bớt vào cuối năm 1950.

* Tây đường 14:

Đoàn 118 hoạt động vùng Chưty (gồm ChưPrông và Đức Cơ hiện nay).

Đoàn 112 hoạt động vùng Phưpăh (hiện nay).

Mỗi Khu lập Ban cán sự Đảng chỉ đạo, có tăng cường 1 đại đội của Trung đoàn 120 hoạt động xây dựng cơ sở.

Về lực lượng quân sự: Trung đoàn 120 biên chế 8 đại đội độc lập. Bố trí 3 đại đội vượt vùng Kan nak, Mang Yang, ĐakBơt, Ya Hội, Djama và Sơ Rô; sử dụng 2 đại đội làm lực lượng cơ động của Trung đoàn.

Bộ đội địa phương mỗi Huyện từ 2 đến 3 Trung đội.

Đại đội 8 bổ sung kiện toàn Huyện đội KonPlong nam – hoạt động vùng từ Đak Pne, đến ĐakProng, Kon Ha Nưng, đến làng KonTrun, Kon Hai thuộc xã Krem.

Huyện PleiKon có đại đội 1 hoạt động, đến cuối năm 1950 tăng cường Đại đội 5 lên phối hợp xây dựng cơ sở.

(Còn lại 3 Đại đội của Trung đoàn bố trí ở hướng tỉnh Kon Tum).


(1) Nghị quyết BCH Trung ương lần thứ 6 Khóa 1 – Tháng 1/1949
(2) Các chiến dịch: Sông Thao 5-1949, Sông Lô 5-1949, Hòa Bình 11-1949 và Lê Hồng Phong 01-1950
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:23:18 am »

*   *
*

Sau củng cố sắp xếp lực lượng, các đơn vị triển khai Kế hoạch hoạt động. Tháng 07 năm 1950, Đại đội 1 phá hoại cầu Châu Phu, phục kích đánh xe địch trên đoạn ngã ba đường 19 và đường 7, tập kích đồn KukKông, diệt 50 tên. Đại đội 3 đánh 5 trận chống địch càn quét vùng Djama, Sơ Rô, Kon Thup, đặc biệt liên tục quần đánh lực lượng địch tràn vào chiến khu Đe Krăp diệt hàng chục tên địch, bảo vệ căn cứ an toàn.

Hoạt động quân sự có tiến bộ, hỗ trợ cho củng cố và mở rộng cơ sở, tạo điều kiện phát triển và xây dựng lực lượng dân quân du kích. Toàn tỉnh đã có 2.000 đội viên dân quân. Mỗi huyện có thêm tân binh xây dựng Đại đội địa phương Huyện. Các Huyện KonPlong và PleiKon, mỗi huyện xây dựng 02 trung đội.

Các đội vũ trang tuyên truyền cũng được củng cố. Đội vũ trang tuyên truyền 102 bám trụ hoạt động vùng ĐăkĐoa, xây dựng cơ sở được 5 làng khu vực Đé SơMay. Đội 103 hoạt động vùng ĐăkBơt, có 2 tổ vượt qua sông Ayun móc nối cơ sở vùng Chí Rùi lên sát Mỹ Thạch.

Nhìn chung bước sang năm 1950, việc chỉ đạo hoạt động trong tỉnh được tập trung đúng mức. Đảng viên, cán bộ, chiến sĩ thống nhất hành động bám sát cơ sở. Tình hình cơ sở phát triển thuận lợi, mở rộng nhiều nơi, có vùng nhân dân bắt đầu tham gia chiến đấu, bố phòng chống địch, ủng hộ bộ đội về vật chất. Thanh niên người dân tộc xung phong vào bộ đội 1.500 người bổ sung cho bộ đội các huyện và tỉnh. Các địa phương tổ chức bố phòng xây dựng làng, xã chiến đấu có kinh nghiêm. Bộ đội địa phương Huyện tiến bộ vững, trưởng thành. Huyện ĐăkBơt xây dựng 2 Đại đội Huyện, nòng cốt cho việc kết hợp giữa chiến đấu với chống dồn dân, chống địch vũ trang cho dân, xây dựng làng, xã chiến đấu được chặt chẽ.

Phong trào du kích chiến tranh tiến bộ thúc đẩy việc sản xuất tự túc trong dân và lực lượng vũ trang. Nhất là phong trào trồng mỳ (sắn) được phổ cập rộng rãi. Chủ trương của Tỉnh: Mỗi cán bộ, chiến sĩ bộ đội, mỗi cán bộ dân, chính, Đảng lên chiến trường hoạt động, mỗi người phải mang theo từ 50 hom sắn trở lên (sắn gòn) để trồng làm lương thực tự túc tại chỗ. Giống sắn mới đưa lên chiến trường vừa cải thiện đời sống bộ đội, vừa gây giống sắn mới cho dân trồng giải quyết bớt nạn đói giáp hạt. Đưa cây sắn lên Tây Nguyên còn có ý nghĩa gắn bó tình cảm, tư tưởng của cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang bám chặt địa bàn hoạt động.

Năm 1950, các đơn vị tỉnh, huyện đã sản xuất tự túc được 35 tấn lúa, hàng trăm hecta sắn. Nhân dân các căn cứ du kích động viên góp cho bộ đội các chiến dịch được 200 tấn lương thực. Các đơn vị, cơ quan ngành quân chính, kinh tế đã giải quyết cho dân 60 tấn muối, cứu đói gần 100 tấn gạo.

Phát động phong trào trồng sắn, tự túc tại chỗ, dự trữ lương thực có ý nghĩa chính trị to lớn góp phần khắc phục nạn đói của Khu 5 trong năm 1950, đưa việc sản xuất tự túc cùng với Khu 5 có tính chất chiến lược thúc đẩy cuộc Kháng chiến.

Tình hình trên đã tạo nên bộ mặt chiến trường hậu địch địa bàn Gia Lai sáng sủa hơn nhiều. Tuy vậy, phong trào du kích chiến tranh trong tỉnh tiến bộ chưa đều. Bộ đội địa phương Huyện, du kích xã có số lượng đông nhưng chất lượng không đều, còn một số nơi yếu, hiệu suất chiến đấu còn thấp. Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy của của tỉnh, một số huyện còn đóng ở đồng bằng, xa chiến trường, ít sát tình hình, giải quyết uốn nắn tình hình không kịp thời; nhất là trong uốn nắn thực hiện phương châm, phương thức tác chiến và xây dựng cơ sở chậm.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:26:06 am »

*   *
*

Cuối năm 1950, quân ta chiến thắng lớn ở chiến dịch biên giới, tiêu diệt và bắt sống hơn 8.000 tên địch, đa số là lính Âu Phi tinh nhuệ. Chiến thắng biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến trường giữa ta và Pháp, mở ra bước ngoặc đưa cuộc kháng chiến của ta từ chiến tranh du kích là chủ yếu, tiến lên kết hợp chiến tranh du kích với đánh vận động. Quân dân ta đã giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Trên địa bàn tỉnh Gia Lai, qua 5 năm chiến đấu trong vùng hậu địch cực kỳ gian khổ, ác liệt, quân và dân tỉnh ta đã giành được những thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới ta phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém để tiến lên kịp thời với sự phát triển chung của cả nước.

Về địch, sang năm 1951, chúng có những thay đổi:

+ Tiểu khu Pleiku có 5 chi khu, sang hè năm 1951, chúng tách chi khu Kon Tum xây dựng thành Tiểu khu độc lập trực thuộc Bộ tư lệnh Tây nguyên.

Ở Gia Lai còn 4 Chi khu phụ trách các vùng:

- Chi khu Nam An Khê.            - Chi khu Bắc An Khê.
- Chi khu DjamaKênh.            - Chi khu Cheo Reo.

+ Để tập trung sức “bình định” Tây Nguyên, tướng Đơ Lát đơ Tát-xi-nhi (De latttre de Tassigny) – Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương chủ trương tách Tây Nguyên ra khỏi vùng chiến thuật Nam Trung phần (Zone Sud An Nam) thành Quân khu Tây Nguyên độc lập, củng cố xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ thoái thủ.

+ Đi đôi việc lập hệ thống cứ điểm lô cốt “BoongKe”, chúng ra sức phát triển củng cố ngụy quyền, bắt lính xây dựng ngụy quân; kết hợp “bình định” với càn quét; càn quét quy mô lớn, dài ngày kết hợp với càn quét nhỏ nhưng liên tục nhằm chà đi, xát lại các vùng căn cứ du kích của ta.

+ Cùng với càn quét đánh phá quyết liệt, chúng tung tiền hàng để mua chuộc, lũng đoạn, chia rẽ nhân dân; phát triển đạo Thiên chúa, đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc, vùng ven thị xã. Đặc biệt chúng đẩy mạnh xây dựng các ổ vũ trang phản động địa phương (gọi là GOUM) nhằm tạo ra một mạng lưới kiểm soát của chúng ở các vùng.

GOUM là một tổ chức vũ trang phản động người dân tộc địa phương. Hoạt động của GOUM thâm độc, nham hiểm. Chúng lấy làng tổ chức đơn vị, chọn thanh niên trai tráng khỏe mạnh để cấp vũ khí. Lúc đầu khuyến khích số này dùng súng bắn thú rừng. Nhưng về sau khi thấy Việt Minh thì bắn Việt Minh. Từng làng do Chủ làng làm chỉ huy (Chef Goum). Nhiều làng (Goum) ở liền khu vực liên kết lại thành “Groupement” để có đủ lực lượng tập kích vào các bộ phận hoạt động nhỏ lẻ của ta.

Đầu năm 1951, trên Gia Lai địch đã tổ chức GOUM trên nhiều vùng. Vùng KonPlong nam địch đã tổ chức ở các làng KonLen, Konvon, Kon Lôc (xã Đak Krong) xuống đến Komplo (Vĩnh Thạnh). Vùng này chúng trang bị cho GOUM 57 súng các loại. Ở Kan nak chúng trang bị 14 súng, vùng An Khê 27 súng, vùng Đak Bơt 19 súng. Về sau lan ra đến các làng Vong Bong, Đe Du, Đe’Bom, Đe’Mơnang (thuộc huyện AyunPa nay).

Bị Pháp mua chuộc, lừa phỉnh, đã có tên ham tiền của địch trở nên gian ác, bắt cán bộ cơ sở của ta (chủ yếu là cán bộ Kinh) giết, cắt tai nạp cho Pháp để lấy thưởng bằng muối (01 cái tai Việt Minh nạp cho Pháp lấy thưởng 25 kg muối)(1).

Tổ chức GOUM đã gây cho hoạt động của ta gặp nhiều khó khăn trong việc bám dân, bám địa bàn, một số vùng phong trào bị lắng xuống. Đại đội 5 của tỉnh lên hoạt động vùng Kon Len, Đak Krong (tháng 5/1951); một đêm phải di chuyển chỗ ngủ 02 lần để tránh GOUM tập kích, bắn tỉa quấy rối.


(1) Năm 1951 chúng bắt cắt tai đồng chí Đoan – công tác ở làng Đê Dơng tih (lớn) và cắt tai đồng chí Long – công tác ở làng Đê Tơnăng Sang (thuộc huyện Kong ChRo hiện nay)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:26:54 am »

Trước chủ trương chiến lược của địch ra sức “bình định” Tây Nguyên, Ban cán sự tỉnh quyết định: “Nhiệm vụ quan trọng số một là tập trung sức mở rộng và xây dựng cơ sở địch hậu, phá chính sách “bình định”, phá âm mưu củng cố Tây Nguyên của địch. Động viên quân và dân trong tỉnh ra sức chiến đấu, mở rộng cơ sở, phát triển nhanh lực lượng. Kiên quyết phấn đấu đưa toàn bộ vùng cơ sở phía đông đường 14 thành căn cứ du kích, phía tây đường 14 thành Khu du kích, phấn đấu mở rộng lên sát biên giới nối với đông bắc CamPuChia. Trọng tâm củng cố cơ sở vùng Đak Bơt, Đak Đoa. Thị xã Pleiku tổ chức cho được đội quân ngầm. Chú ý phát triển cơ sở vào vùng Bàu Cạn, Mỹ Thạch, Chuty để tạo điều kiện đưa vùng đông đường 14 xây dựng thành Khu căn cứ du kích.

Trước hết phải khẩn trương kiện toàn các đại đội độc lập, tăng số lượng và chất lượng cho các đội vũ trang tuyên truyền. Xây dựng nhanh, mạnh lực lượng dân quân du kích. Phát động phong trào sản xuất tự túc mạnh trong các lực lượng.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Ban Cán sự Tỉnh chủ trương mở đợt học tập cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang để nâng cao giác ngộ giai cấp, nâng lập trường chính trị, rèn luyện quan điểm tư tưởng chiến tranh nhân dân, tư tưởng trường kỳ kháng chiến, quan điểm quần chúng, xây dựng ý thức tự lực, tự cường; đấu tranh khắc phục những biểu hiện tư tưởng muốn thắng nhanh, trông chờ ỷ lại ngoại viện, ngán lâu dài, ngại gian khổ, coi nhẹ công tác gây cơ sở địch hậu, coi nhẹ chỉ đạo phong trào du kích chiến tranh.

Lần đầu tiên bộ đội tỉnh, huyện được học các nội dung: Ai là bạn, ai là thù, kháng chiến để làm gì? Vì sao phải kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Bản chất quân đội ta v.v…. Về Đảng, học tập và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao trình độ lãnh đạo cho Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng.

Sau chỉnh huấn chính trị, tỉnh tổ chức đợt huấn luyện quân sự, rèn luyện cho cán bộ các đơn vị tập trung Tỉnh và Huyện về chiến thuật phục kích cấp Trung và Đại đội và huấn luyện các môn kỹ thuật cơ bản. Qua huấn luyện, cán bộ chiến sĩ hiểu được về tư tưởng quân sự vô sản của Đảng được vận dụng vào huấn luyện bộ đội.

Đồng thời thực hiện “Rèn cán chỉnh cơ” thực hiện giản cơ quan, học tập sửa đổi lề lối làm việc cải tiến kỹ thuật, hợp lý tổ chức, tăng hiệu suất công tác.

Qua học tập, huấn luyện để nâng cao một bước giác ngộ giai cấp cho cán bộ, chiến sĩ. Tình thương yêu đồng đội, một lòng phục vụ nhân dân, tinh thần quyết khắc phục khó khăn bám trụ chiến trường, dũng cảm chiến đấu vì sự nghiệp Cách mạng được củng cố nâng cao hơn trước.

Với sự nổ lực củng cố xây dựng nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang đi đôi với xây dựng tiềm lực kháng chiến; được Liên khu 5 hỗ trợ chi viện(1) tỉnh Gia Lai có cơ sở vững chắc để hoàn thành nhiệm vụ đẩy mạnh du kích chiến tranh, xây dựng và mở rộng cơ sở địch hậu, góp phần phá chính sách “bình định” củng cố Tây Nguyên của địch.

Ngày 6/01/1952, Trung đoàn tổ chức Lễ xuất quân trọng thể tại làng Trà Sơn (huyện Bình Khê – Bình Định) phát động thi đua rầm rộ giữa các đơn vị Tiểu đoàn 14 cùng 8 Đội vũ trang tuyên truyền và Cơ quan trung đoàn bộ.

Dưới ánh sáng Nghị quyết của Ban Cán sự, mệnh lệnh hoạt động của Trung đoàn các đội vũ trang tuyên truyền hăm hở tiến sâu vào lòng địch. Cơ sở cách mạng đã phát triển đều khắp phía đông đường 14 từ ĐakBơt ra phía bắc giáp ranh giới tỉnh Kon Tum.

Phía tây đường, đã dựa vào cơ sở ở huyện PleiKon làm bàn đạp phát triển lên vùng Ruộng Lào. Phía Chu Ty phát triển được 200 làng, nối liền cơ sở từ Đak Bơt lên Bàu Cạn qua Chu Ty lên giáp biên giới Campuchia.

Lực lượng dân quân du kích được xây dựng đều ở 4 huyện phía đông đường 14. Các thôn đều có tổ chức dân quân. Xã có một Tiểu đội đến một Trung đội du kích tập trung, bộ đội địa phương huyện được tăng quân số, nâng được chất lượng.


(1) Năm 1950 Liên khu ủy 5 bổ sung cho tỉnh Gia Lai 30 cán bộ được học tập bồi dưỡng về gây cơ sở địch hậu ở Tây Nguyên (còn gọi là lớp “chuẩn bị cho Tổng phản công” của Liên khu 5.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2020, 06:28:56 am »

*   *
*

Để hỗ trợ cho xây dựng cơ sở, đồng thời củng cố và mở rộng căn cứ Bắc Tây Nguyên, tháng 8 năm 1951, Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu 5 chủ trương mở hoạt động hè ở Bắc Tây Nguyên (Khu vực Kon Tum) nhằm đập tan bọn phiến loạn Chí Xẻng ở Sơn Hà, tập trung lực lượng chủ lực Khu 5 tiêu diệt cứ điểm Kon Plong.

Konplong là một chi khu (Sous Quartier) tương đối kiên cố của địch ở mạn đông Kon Tum có trên 200 tên lính đóng giữ để bảo vệ Tiểu khu Kon Tum, khống chế hành lang miền tây Quảng Ngãi, uy hiếp vùng tự do đồng bằng. Tên đồn trưởng Đuy-Sê huyênh hoang tuyên bố: “Khi nào nước sông Rhe chảy ngược thì Việt Minh mới lấy được đồn này!”.

Đúng 4 giờ 30 phút ngày 6/8/1951, Trung đoàn 108 chủ lực Khu 5 mổ súng tiến công đồn Konplong. Mặc cho địch ngoan cố chống cự, sau 8 giờ chiến đấu quyết liệt ta làm chủ trận địa. Tên đồn trưởng và 90 lính bị giết và bị thương, gần 100 tên bị bắt làm tù binh. Ta thu 200 súng các loại, 20 tấn đạn, nhiều quân trang, quân dụng.

Thừa thắng xông lên, Đại đội 5 của Trung đoàn 120 và một bộ phận của Trung đoàn 803, một trung đội bộ đội huyện Konplong nam tiến công tiêu diệt đồn Konpông đêm 15 tháng 5 năm 1951. Các đồn Konplông, Konpông bị tiêu diệt rung động trong hàng ngũ quân ngụy, nhất là trong số ngụy quân người dân tộc; nên địch ở các đồn Kon Kơleng, Kon Mơha hoảng hốt bỏ đồn tháo chạy. Mảng cứ điểm án ngữ đông Kon Tum bị bộ đội ta đánh tan rã làm mất chỗ dựa của bọn phản động địa phương.

Chiến thắng Konplông, thực hiện được yêu cầu tiêu diệt sinh lực địch, thu nhiều vũ khí trang bị, bồi dưỡng cho lực lượng ta, đánh giá một bước tiến bộ về xây dựng lực lượng, nâng trình độ chiến, kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ, hỗ trợ đắc lực cho phong trào du kích chiến tranh gây cơ sở Cách mạng.

Được đòn tiến công quân sự hỗ trợ, bộ đội ta cùng cán bộ dân, chính, Đảng phân công đi sát từng buôn làng, mang gạo, muối, vải, nông cụ để giúp dân ổn định tình hình, an tâm sản xuất. Cán bộ đi sâu giáo dục phát động nhân dân, vách tội ác giặc Pháp và tay sai, vận động các gia đình binh lính địch đi gọi chồng, con, em về. Cán bộ chiến sĩ thi đua học tiến dân tộc để có khả năng tuyên truyền hướng dẫn cho nhân dân xây dựng buôn làng chiến đấu. Cán bộ, bộ đội sống sát dân, hết lòng phục vụ nhân dân qua hành động thực tế hàng ngày, mà dần dần cảm hóa vận động được quần chúng nhân dân đồng loạt đứng lên phá các Khu dồn dân, Khu tập trung gom dân của địch; giải tán kịp thời các ổ vũ trang phản động địa phương.

Đại đội 3 do đồng chí Dương Lâm Thai chỉ huy đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội huyện Đak Bơt, phát động nhân dân 23 làng trong Khu dồn dân, có 6.000 người nổi lên phá Khu đồn trở về làng cũ. Cơ sở chính trị xây dựng mới ở 20 làng từ vùng Đe’Ar, Kon Thup đến dọc đông bờ sông Ayun. Phía đông bắc tỉnh, các đội cán bộ công tác cơ sở xát vào phát động các làng Konlen, Konlốc, Konvon vùng lên phá ổ vũ trang Kon Hà Nừng, ĐakKrong thu 46 súng trường các loại. Phát động nhân dân tuyển chọn xây dựng được 02 Trung đội du kích tập trung xã, trang bị 50 súng.

Phong trào du kích chiến tranh được mở rộng. Dọc hai bên đường 19 đến vùng ĐakĐoa, Biển Hồ nhiều căn cứ du kích, làng chiến đấu được xây dựng vững hơn trước.

Đội du kích làng ĐéĐoa (xã ĐakĐoa) có người con dân tộc Bahnar kiên cường bất khuất. Bok Wừu sanh nhăm 1905(1) tham gia hoạt động đánh địch từ ngày đầu kháng chiến. Nhiều lúc đứt liên lạc với trên, Bok vẫn kiên trì vận động quần chúng xây dựng cơ sở. Trong những năm Pháp chiếm đóng xây đồn ĐakĐoa, Bok đã kiên trì, bí mật vận đông nhân dân quyên góp lương thực nuôi 10 cán bộ, chiến sĩ đội vũ trang tuyên truyền và cán bộ cơ sở suốt 8 tháng trời hoạt động. Bok đã chỉ huy đội du kích diệt tên đội Wit khét tiếng ác ôn ở đồn ĐakĐoa và cảnh cáo, vạch mặt tên Thảng tay sai gian ác. Có lần Bọk bị địch bắt, nhanh trí Bok kêu lên thật to làm hiệu cho 6 cán bộ cơ sở chạy thoát. Lần thứ hai bị địch bắt, Bok tìm cách trốn thoát khỏi tay giặc. Lần thứ ba bị địch bắt, dù dùng nhục hình tra tấn: cắt hai tai, xẻo mũi, chặt đứt 10 ngón tay; nhưng địch không làm lay chuyển ý chí kiên cường của người đội trưởng du kích. Trước lúc hy sinh, Bok còn dùng mưu lừa quân địch đi vào khu có hầm chông, bố phòng của du kích, chúng chết và bị thương hàng chục tên. Quân địch hèn hạ đã dùng dao khoét mắt của Bok rồi kéo xác Bok vứt lên bờ suối ĐakPne. Năm 1953, Bok Wừu được truy tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua Liên khu V(1).

Trên tục đường 19, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân du kích bao vây bức rút các cứ điểm: Tô Năng, Đak Bung, ĐakVen, Đak Tung, Đé Kơjiêng. Một thời gian sau không lâu, địch rút cứ điểm Đé Alao, ĐéTơjil, Plei Bông. Du kích và nhân dân tổ chức phá đường liên tục, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải, các toán tiếp tế gây cho địch nhiều thiệt hại, quân Pháp phải dùng máy bay tiếp tế cho các cứ điểm lẻ.

Phía Nam bộ đội địa phương huyện Đak Bơt mở rộng hoạt động xuống Cheo Reo, đánh trận giao thông trên đường 7 ( tháng 1/1951) tiêu diệt một tiểu đội địch, phá hủy 03 xe quân sự.


(1) Bok từ dân tộc Bah Nar dịch sang tiếng Việt là Ông, nói lên sự kính trọng của nhân dân
(2) Ngày 07 tháng 05 năm 1956 Bok Wừu được Chính phủ tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM