Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:39:37 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia Lai 30 năm chiến tranh giải phóng  (Đọc 9124 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:23:35 am »

Tên sách: Gia Lai 30 năm chiến tranh giải phóng
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai
Xuất bản 22-12-1993

* Chỉ đạo nội dung:
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY GIA LAI.

* Cơ quan chủ quản:
BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH.

* Chủ nhiệm đề tài:
Đại tá PHAN ANH TUẤN
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh.

* Ban Biên tập gồm:
PHAN ANH TUẤN      Đại tá.
LÂM HUẾ         Đại tá.
NGUYỄN PHIÊN      Đại tá.
ĐẶNG VÂN         Thượng tá.
NGUYỄN NGỌC HÒA   Thiếu tá.

LỜI GIỚI THIỆU

Gia Lai là một trong hai tỉnh Bắc Tây Nguyên, là quê hương sinh sống lâu đời của các dân tộc anh em: Jơrai, Bahna và Kinh; là địa bàn có giá trị chiến lược quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng trong chiến tranh giải phóng cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Trải qua bao thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai luôn luôn đoàn kết gắn bó, lao động cần cù, khắc phục muôn vàn khó khăn, đã hun đúc tinh thần thượng võ bất khuất, liên tục vùng lên chống mọi áp bức bất công của bọn xâm lược và phản động bán nước.

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng bộ Gia lai thành lập, trực tiếp lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh vùng lên tiến hành đấu tranh cách mạng. Thấm nhuần chân lý “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do”, trải qua hai cuộc kháng chiến chống giặc Pháp và giặc Mỹ xâm lược nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Đảng, dựa vào dân, phát huy truyền thống quật cường, tự lực cánh sinh, kiên trì tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng góp phần cùng cả nước giành thắng lợi vĩ đại Mùa xuân năm 1975 lịch sử.

Để ghi lại những chặng đường lịch sử chiến đấu đã qua, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tổ chức biên soạn cuốn Sử “GIA LAI 30 NĂM CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG” nhằm phản ánh cuộc chiến tranh nhân dân của các dân tộc trong tỉnh đầy hy sinh gian khổ, nhưng đã giành thắng lợi vẻ vang.

GIA LAI 30 NĂM CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG là công trình khoa học lịch sử, sau cuộc lịch sử Đảng bộ Tỉnh, nó đáp ứng được tình cảm, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc để làm tài liệu nghiên cứu, học tập, tuyên truyền phát huy truyền thống cách mạng của tỉnh.

Nhân dịp này, chúng tôi chân thành cảm ơn các cơ quan, các đồng chí cán bộ lãnh đạo lão thành, các cán bộ chỉ huy qua các thời kỳ hoạt động ở Tây Nguyên, Gia lai đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu để cuốn sử được ra mắt bạn đọc.

Quá trình biên soạn, tuy Ban biên tập có nhiều cố gắng nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót. Mong các đồng chí, bạn đọc chân thành góp ý để cuốn sử đạt chất lượng cao hơn.


Bác Sỹ Ksor Krơn
                                                                                                                       
ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:29:23 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:29:07 am »

Chương mở đầu
*
*   *
KHÁI QUÁT VỀ
ĐỊA LÝ THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI GIA LAI.

Gia Lai là một trong những tỉnh ở cửa ngõ Bắc Tây Nguyên, nằm phía tây Quân khu V, ở vào khoảng 12o85’’20 – 14o36’’30 vĩ độ Bắc và 107o27’’23 – 108o54’’40 kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum.

Tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum có nguồn gốc gắn bó từ xưa. Vào cuối năm 1932, thực dân Pháp tách huyện Tân An và huyện Cheo Reo (AyunPa) thuộc địa bàn tỉnh Kon Tum để lập tỉnh Pleiku. Đến tháng 8 năm 1943 chúng sát nhập huyện An Khê (thuộc tỉnh Bình định) và tỉnh Pleiku.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công. Chi đội Tây sơn, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên được thành lập, phụ trách địa bàn hai tỉnh Gia Lai(1) và Kon Tum. Tháng 1 năm 1950 Trung đoàn 120 biên chế mới đảm nhận công tác quân sự địa phương ở hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Để thống nhất chỉ đạo hoạt động trên chiến trường địch hậu, tháng 4 năm 1950 Thường vụ Liên khu ủy 5 quyết định thống nhất hai tỉnh Gia lai và Kon tum gọi là tỉnh Gia-Kon.

Sau hiệp định Genève, trong điều kiện tiến hành đấu tranh chống địch trong giai đoạn Cách mạng mới, Tỉnh ủy Gia Lai và Tỉnh ủy Kon Tum thành lập riêng trong khu vực Liên tỉnh 4 (gồm tỉnh Kon Tum, Gia Lai và ĐăkLăk).

Đại thắng mùa xuân năm 1975, Miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, tổ quốc Việt Nam thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; tháng 9 năm 1975 hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum sát nhập lại thành tỉnh Gia Lai – Kon Tum để cùng cả nước đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Đến tháng 11 năm 1991, chấp hành nghị quyết của Quốc hội khóa VIII tách thành hai tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum.

Ngày nay tỉnh Gia lai phía bắc giáp tỉnh Kon Tum, phía tây giáp tỉnh BaTaNaKiRi (đông bắc Campuchia) có biên giới dài 90 km. Phía nam giáp tỉnh ĐăkLăk, phía đông giáp tỉnh Bình Định và một phần tỉnh Phú Yên.

Diện tích tỉnh có: 16.527 kilômét vuông. Dân số có 726.123 người(2), mật độ dân số gần 44 người/km2, gồm ba dân tộc đông là Kinh (51%), 49% đồng bào các dân tộc ít người, số đông là dân tộc Jơrai và dân tộc Bahnar. Gia lai là một tỉnh rừng núi trùng điệp, có thế đứng cao so với các vùng tiếp giáp. Rừng có nhiều loại gỗ quí như trắc, cẩm lai, giáng hương, kờte, săng lẽ… và có nhiều động vật quí hiếm có giá trị kinh tế cao như voi, hổ, báo, hươu, nai, gấu, bò tót, trâu rừng, sóc bay, thằn lằn bay v.v…. Rừng Gialai còn có nhiều dược liệu quí. Rừng chẳng những là nơi kín đáo cất dấu kho tàng, che dấu lực lượng hành binh đoàn lớn, mà còn là nguồn tài nguyên vô tận để ta khai thác phục vụ chiến đấu và đời sống.

Địa bàn tỉnh được hình thành bởi nhiều dạng địa hình không đều nhau; có hai loại phổ biến, đó là núi và cao nguyên, ngoài ra cũng có những thung lũng, đất bằng giữa các núi hay là những hố sụt. Phía bắc tỉnh có núi Kông Kah King (1761m) quanh năm mây mù bao phủ, ở giữa dọc đèo Mang Yang có núi Kông La Pang (1571m), phía tây La – Sơn có điểm cao Chử HơDrung (1028m)(3). Phía nam tỉnh vùng AyunPa không có ngọn núi nào cao đáng kể. Từ những nơi cao hạ thấp dần xuống hình thành những cao nguyên tương đối bằng phẳng, có độ cao trung bình từ 600 – 700 mét (so mặt biển), xen kẽ có những mỏm núi có giá trị khống chế các vùng xung quanh. Phía đông tỉnh, sát cao nguyên Pleiku là lòng chảo An khê rộng vào khoảng 40 kilômét, phù sa cổ trong các thung lũng sông tạo thành những bậc thềm rất rõ nét bị cắt quãng bởi những dòng suối đâm ngang. Cao nguyên này còn có những đồi nhỏ tròn như những chiếc vung khum khum nằm giữa đèo Mang Yang và đèo An Khê.

Phần cao nguyên phía tây tỉnh thường có rừng thưa, phần lớn là rừng khoọc, xen lẫn rừng le, có các bãi trống có bãi rộng đến một kilômét vuông.

Đất Gia Lai rất màu mỡ. Nhìn chung có hai loại đất được phong hóa chính là phong hóa ba-dan và phong hóa gra-nít rất tích hợp với các loại cây công nghiệp như cau su, cà phê, chè v.v… Gia Lai có những sông lớn và rất nhiều suối phát nguyên từ những dãy núi cao. Các sông, suối chảy về hai hướng: một hương ra biển Đông, một hướng sang phía tây đổ vào lực vực sông Mê Kông. Đáng kể là các sông Ba, sông Sêrêpôk, sông Ayun và một phần sông SéSan (còn gọi là sông Pô-kô). Sông Ba bắt nguồn từ phía đông bắc tỉnh, có hệ thống chi nhánh chằng chịt, xuyên qua các vùng dân tộc Bahnar, Jơrai qua thị trấn Ayun Pa đổ về Phú Yên trên một chiều dài trên 300 kilômét. Sông Ba lại còn có phụ lưu Ayun vửa nổi tiếng thơ mộng, có nhiều cảnh đẹp quyến rũ, có dung tích hơn 4 triệu mét khối nước(4), Các suối lớn như Ia Mơ, Ia Drăng, Ia Puch… bắt nguồn từ cao nguyên Pleiku đổ về sông SéréPôk. Sông suối lắm thác ghềnh, không thuận tiện cho việc giao lưu, vận chuyển.

Trên các vùng đất bằng của tỉnh có những hồ tự nhiên rộng và đẹp. Như hồ Ayun thượng (1265 hecta), hồ Ia Hrung (106 ha). Đặc biệt có Biển Hồ và tên địa phương là Ia Nueng rộng 230 hecta, không xa thị xã Pleiku bao nhiêu, in rõ hình dáng của miệng núi lửa tròn vành vạnh, là cảnh đẹp thiên nhiên, có sự tích xa xưa đau buồn cho dân 3 làng Jơrai, dấu vết của một sự kiện bi thảm khó quên, một tình cảm triều mến của đồng bào Pleiku. Đến Gialai không ai không nhắc đến thác Ya-Ly, cách thị xã Pleiku khoảng 30 kiômét về phía tây bắc. thác cao 30 mét, nước chảy mạnh tạo thành một bức tường trắng xóa. Đây là nơi du ngoạn của nhân dân và khách vãng lai.


(1) Sau khởi nghĩa Cách mạng tháng 8 ta gọi tỉnh Pleiku thành tỉnh Gia Lai.
(2) Số liệu Cục thống kê tỉnh theo Niên giám thống kê 1991-1992
(3) Còn thường gọi là núi Hàm Rồng hay Hòn Rồng
(4) Sách Tây Nguyên. Nxbản Văn hóa 1980 – Trang 24
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:31:40 am »

Tỉnh có mạng lưới giao thông quan trọng. Quốc lộ 14, con đường chiến lược xương sống của Tây nguyên chạy từ Đà Nẵng lên Kon Tum, xuyên ngang tỉnh Gia Lai vào ĐăkLăk. Con đường đó có một thời kỳ đã được xây dựng bằng máu và nước mắt của những chiến sĩ cách mạng trung kiên thời kỳ tiền khởi nghĩa:

                                    “… mỗi hòn đá đó bao hòn huyết,
                                          Một khúc cầu dây, mấy khúc thây!”

Tố Hữu.

Quốc lộ 19 chạy từ cảng Quy Nhơn lên thẳng phía tây tỉnh sang tỉnh RaTaNaKiRi (CPC). Con đường có ý nghĩa quan trọng cả về chiến lược và chiến dịch. Vừa là một đường chiến lược quan trọng ở Miền Trung, vừa có thể chia cắt chiến dịch và chiến lược chiến trường Việt Nam và cả Đông Dương ra làm đôi. Là trục đường cơ động của các đơn vị vũ trang tập trung, các binh đoàn cơ giới của ta (cũng như của địch) trong các chiến dịch tiến công và phản công. Trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, những đỉnh đèo An khê, Mang Yang, suối ĐakPơ, cầu Ayun và biết bao địa danh khác theo trục đường đã trở thành tên của những chiến công bất diệt, là mồ chôn giặc Pháp, giặc Mỹ và tay sai, mà chiến thắng GIM100 đã đi vào lịch sử oai hùng của quân và dân Khu 5, trong đó có tỉnh ta.

Con đường số 7 từ Mỹ Thạch (Chư Sê) chạy xuống Củng Sơn – Phú Yên, con đường còn nhiều dấu vết băm nát của mạng chiến tranh nhân dân ta, là bãi tha ma của hàng ngàn xe cơ giới Mỹ ngụy trong cuộc tháo chạy lịch sử 3-1975.

Tỉnh còn có mạng lưới đường hàng tỉnh nối liền Thị xã Pleiku đến các Huyện nông thôn: Đường 7B đi từ An khê về thị trấn AyunPa và Thuận Mẫn. Đường 6B nối Phú Mỹ - PleiMe – Phú Nhơn. Đường 509 từ Pleiku đi Plei Jirăng. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ phía tây tỉnh đã hình thành tuyến đường hành lang.

Đường 1B cắt ngang phía tây tỉnh từ Bắc vào Nam, sát biên giới Việt Nam – CPC. Đường 220 nối liền đường số 14 từ Võ Định vòng qua đông bắc Pleiku ra giáp đường số 19 tại ngã ba làng Kon Dỏng. Mạng đường sá trên tỉnh có tác dụng rất tốt đối với hoạt động quân sự, đặc biệt là vào mùa khô.

Trong những năm chiếm đóng, thực dân Pháp xâm lược Mỹ và tay sai đã tổ chức, xây dựng một hệ thống sân bay lớn như Cù Hanh, Aréa, Tân Tạo, có lúc hàng 30 – 40 máy bay phản lực hoạt động. Ngoài ra còn xây dựng hàng loạt sân bay dã chiến phục vụ mưu đồ chiếm đóng lâu dài của chúng.

Núi rừng Gialai còn bị chi phối bởi thời tiết, khí hậu. Hàng năm có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trung bình hàng năm 164,5 ly(1). Tháng 7, 8,9 là những tháng cao điểm mưa to, liên tục, gây ra lũ lụt, rất trở ngại cho sinh hoạt, canh tác và hoạt động quân sự. Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4,5 năm sau; nhiệt độ trung bình từ 21-25oc, đất se cứng, khô hanh. Nhiều suối khô cạn, trời trong xanh, thời tiết đưa lại nhiều thuận lợi cho giao thông và hoạt động quân sự.

Dân cư tỉnh Gia Lai sống thưa thớt, nhưng các buôn làng thường ở tập trung với những tập quán cổ truyền mang nhiều bản sắc tốt đẹp của nhiều dân tộc. Nét nổi bật là mỗi làng có một nhà Rông cao to và rộng, loại nhà sàn có kiến trúc đặc biệt gắn chặt tâm lý, tình cảm sinh hoạt xã hội của đồng bào dân tộc. Là trái tim của buôn làng đời đời không thể xóa nhòa trong tâm trí của đồng bào dân tộc.

Thiên nhiên ở đây không những tạo cho tỉnh những tiềm năng kinh tế rất dồi dào, mà còn tạo nên những đặc điểm hình thành một địa bàn quân sự có tầm chiến lược quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Gia lai có thế đứng cao so với các khu vực tiếp giáp. Từ đây có thể khống chế hầu như toàn bộ các khu vực chung quanh. Đây là một thế đứng vô cùng lợi hại. Thêm vào đó, địa bàn rộng lớn cả chiều sâu và kín đáo, từng khu vực địa hình có giá trị được núi rừng bao quanh, nối liền nhau, hỗ trợ cho nhau càng tạo thêm một thế hiểm trở vững chắc. Những yếu tố trên tạo thành Gialai là một địa bàn chiến lược của Tây Nguyên, là căn cứ lâu dài, bền vững của Cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Gia lai bắc giáp tỉnh KonTum, trong những năm dài kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, địa bàn hai tỉnh có liên quan mật thiết trong hợp đồng chi viện cho nhau chiến đấu. Là nơi dung trú lực lượng tích trữ lương thực thực phẩm, cơ động lực lượng chiến lược của trên chi viện cho các chiến trường.

Phía nam, vùng huyện Krong Pa và một phần huyện AyunPa là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Đăk-Lăk trong hai cuộc kháng chiến.

Phía đông tỉnh giáp miên tây tỉnh Bình Định. Trong suốt cuộc kháng chiến chống giặc Pháp là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo tỉnh Gia lai, là địa bàn đứng chân của cơ quan chỉ huy Trung đoàn 120 và các cơ quan Huyện đội, làm bàn đạp phát triển tiến công lên Tây Nguyên và là hậu phương khai thác được nhiều tiềm lực vật chất cung cấp cho xây dựng và hoạt động của lực lượng ta, phá được thế bao vây ngăn chặn kinh tế của giặc Pháp.

Phía tây tỉnh, đường số 19 kéo dài từ Thị xã Pleiku lên Đức Cơ sang tỉnh RaTaNaKiri (CPC), trong hai cuộc kháng chiến là địa bàn liền núi, liền sông, thuận lợi làm nơi xuất phát của các lực lượng quân tình nguyện sang giúp lực lượng cách mạng chân chính Cămpuchia và Nam Lào.

Nhận thức Gia lai là địa bàn chiến lược quân sự quan trọng, những năm giặc Pháp chiếm đóng, chúng lợi dụng địa hình hiểm trở để tổ chức khu vực phòng ngự nhiều tuyến, xây hệ thống cụm điểm tựa để bảo vệ phòng giữ các khu căn cứ, thị xã, quận lỵ; áng ngữ khống chế các trục giao thông chiến lược tạo thành hệ thống phòng thủ chung trên chiến trường Tây Nguyên.

Về mặt tiến công quân sự, ta có thể thực hành đánh chia cắt, bao vây, cô lập địch từng khu vực để tiêu diệt chúng. Tỉnh là địa bàn dung lượng và sử dụng thuận lợi các lực lượng binh chủng hợp thành tương đối lớn, các đơn vị cơ giới hóa để tiến công địch. Là chiến trường thường xuyên nổi ra những đòn tiến công tiêu diệt lớn quân địch, giải phóng từng khu vực, phá từng mảng ấp chiến lược của chúng.

Địa bàn Tỉnh có tầm quan trọng về mặt chiến lược quân sự như trên, nên trong suốt 30 năm tiến hành hai cuộc kháng chiến, quân và dân Gai Lai đã từng trải qua muôn vàn gian khổ, ác liệt hy sinh; những cũng nơi đây đã từng bao phen đánh những đòn tiêu diệt lớn làm cho địch thất bại nặng nề. Quân và dân Gia Lai đã làm nên bao sự tích anh hùng.


(1) Lượng mưa theo số liệu Cục thống kê tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:34:46 am »

*   *
*

Hiểu rõ vị trí chiến lược của Gia Lai, kẻ địch luôn luôn tìm cách giành giật địa bàn này. Trong cuộc xâm lược nước ta lần thứ nhất, thực dân Pháp đã dốc mọi cố gắng, dùng nhiều thủ đoạn thâm độc, từ những hoạt động tình báo khoác áo thầy tu truyền đạo đến những đạo quân xâm lược ào ạt hòng xâm chiếm Việt Nam, có Tây Nguyên, GiaLai.

Khi Pháp chiếm xong Tây Nguyên vào khoảng năm 1890(1) với tham vọng khai thác thuộc địa, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, vơ vét thật nhiều tài nguyên trên những vùng đất đai màu mỡ; chúng còn nhận ra ngay giá trị về mặt quân sự của miền cao nguyên rừng núi này. Vì vậy, khi đến nơi là chúng lập ngay các đồn binh để cai trị, tiếp đó chúng đặt vấn đề “ra sức phòng thủ Tây Nguyên để bảo vệ Đông dương”.

Năm 1928 thực dân Pháp thành lập các tiểu đoàn bộ binh miền núi. Đến xâm lược Đông dương lần thứ hai, vào giữa năm 1946, những cánh quân Lê dương có xe cơ giới máy bay chi viện từ phía Tây (Bô Keo – Campuchia) đánh xuống cùng phối hợp với cánh quân phía Nam (Buôn Hồ - Đăk Lăk) ra hợp điểm tập trung đánh chiếm Gia Lai theo dọc trục quốc lộ số 19 và số 14 đến sát ranh giới tỉnh Bình Định. Từ đây chúng lập phòng tuyến chiếm giữ và uy hiếp, khống chế đánh phá đồng bằng Khu V. Chúng tổ chức ngay lực lượng vũ trang Cao nguyên(1), có bộ phận tập trung công khai hoạt động, có bộ phận ngấm ngầm nằm trong dân để bám giữ Tây Nguyên, làm chỗ dựa cho ý đồ xâm lược lâu dài đen tối của chúng.

Đế quốc Mỹ nhảy vào thay thế thực dân Pháp càng chú trọng đến địa bàn Tây Nguyên. Nhận thức đây là địa bàn rất có giá trị về chiến lược quân sự; chúng cho rằng: “Muốn chiến thắng ở Nam Việt Nam thì phải kiểm soát bằng được vùng Cao nguyên trung phần” có tính chất chiến lược này. Chúng dùng chính sách thực dân kiểu mới, thông qua bọn tây sai tư bản mại bản và phong kiến phản động để nắm Tây Nguyên.

Về quân sự, đế quốc Mỹ và tay sai lập Vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy Quân đoàn II ngụy đóng tại Pleiku, làm căn cứ chiến lược lớn để hòng đè bẹp phong trào cách mạng ở Tây Nguyên và đồng bằng Khu V. Mỹ ngụy lập các trại huấn luyện “lực lượng đặc biệt”, thực chất là đào tạo các loại biệt kích nhằm đánh phá sâu trong các khu dân cư cả vùng chúng kiểm soát đến tận dọc biên giới cùng với lực lượng cơ động quân cộng hòa, biệt động, bảo an để thiết lập hệ thống phòng thủ kiên cố nhiều tuyến, nhiều vòng, từ giáp biên giới Campuchia đến trung tâm Thị xã, thị trấn, nhằm ngăn chặn các cuộc tiến công của ta từ ngoài vào, kìm kẹp quần chúng, đánh phá phong trào cách mạng trong tỉnh. Thực hiện các biện pháp chiến lược trong “chiến tranh đặc biệt”, tại Thị xã Pleiku thường xuyên có từ 1.000 đến 1.200 cố vấn quân sự Mỹ các loại.

Leo thang lên chiến tranh cục bộ, ở Miền Nam Việt Nam đế quốc Mỹ đã tung vào địa bàn Gia Lai những đơn vị quân chiến đấu sừng sỏ hòng tìm diệt quân chủ lực và dập tắt phong trào kháng chiến của tỉnh. Với lực lượng chiến đấu cơ động Mỹ và tay sai liên tiếp mở hàng ngàn cuộc hành quân càn quét, kết hợp với hàng ngàn trận ném bom, rải thảm B52, thả chất độc hóa học, hòng biến núi rừng Gia Lai thành những vùng trắng hoang vu.

Hiệp định Pa Ri ký kết, quân viễn chinh Mỹ cam chịu thất bại cuốn cờ về nước; bọn tay sai Ngụy Sài Gòn liên tiếp sử dùng hàng chục Trung đoàn của các Sư đoàn bộ binh 22, 23 các liên đoàn biệt động cùng công binh, pháo binh, cơ giới… của biệt khu 24 mở hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm giành giật những vùng tranh chấp và đánh sâu vào vùng giải phóng của tỉnh.

Suốt hai cuộc kháng chiến cứu nước, Gia lai là tỉnh có phong trào nhân dân du kích chiến tranh vững mạnh, có vùng căn cứ rộng, là nơi đứng chân của các binh đoàn chủ lực cấp trên; là chiến trường phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa ba lực lượng, ba thứ quân, liên tục tổ chức những đòn đánh tiêu diệt nhỏ, vừa và lớn quân địch. Là địa bàn có lợi thế để bộ đội ta mở những chiến dịch tiến công địch nhiều vùng, nhiều hướng. Cả lúc cách mạng ở giai đoạn tạm thời gặp khó khăn, tỉnh vẫn là nơi đứng chân vững chắc của cơ quan lãnh đạo để tạo và chuyển thế cho cả vùng rộng lớn.

Gia Lai cũng là bàn đạp cho các lực lượng ta làm nhiệm vụ quốc tế giúp cho phong trào cách mạng các tỉnh bạn ở Nam Lào và Đông bắc Campuchia.


(1) Sách CDịch Tây Nguyên đại thắng – Nxbản QĐND trang 17
(2) Forces armées des hauts plateause.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:45:33 am »

*   *
*

Từ thế kỷ trước, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã căm ghét chống lại bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương.

Vào giữa thế kỷ thứ 18 (khoảng năm 1771), cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn – Nguyễn Huệ lập căn cứ ở địa bàn vùng An khê, đồng bào dân tộc Bahnar phía đông tỉnh đã đứng lên, sát cánh cùng với đạo quân voi hùng dũng của Vua Quang Trung đập tan các tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn. Đèo An khê, cửa ngõ lên Tây nguyên từ xa xưa, con đườn giao thông cổ chủ yếu nối liền đồng bằng Bình Định – Gia Lai, nơi đây đã cháy bùng lên ngọn lửa của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Các di tích: Lũy 7 cạnh ở An Khê, Sở chỉ huy của Nghĩa quân, các di tích đồn lũy, kho tàng trên nền Ông Nhạc, Ông Bình, cánh đồng Cô Hầu v.v… đã chứng minh điều đó.

Từ đây đến cuối thế kỷ 18, lịch sử đấu tranh của các dân tộc trong tỉnh bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đoàn kết gắn bó giữa anh em dân tộc Kinh và Thượng, Jơrai và Bahnar chung sức đấu tranh chống lại các thế lực áp bức, bảo vệ buôn làng.

Những năm đầu của thế kỷ 19, để chuẩn bị cho cuộc vũ trang xâm lược Tây Nguyên, các giáo sĩ người Pháp(1) tìm đường lên vùng đồng bào dân tộc Bahnar (KonTum) truyền đạo đã bị nhân dân địa phương bắt nộp cho Triều đình Huế. Mãi đến năm 1850, các giáo sĩ Pháp khác(2) lên Kon Tum tiếp tục truyền đạo. Đến năm 1852 sơ sở công giáo đầu tiên đã hình thành và đến năm 1870 địa phận giáo đạo KonTum thành lập.

Thực hiện âm mưu thôn tính nước ta, thực dân Pháp áp dụng chính sách “chia để trị” kích động sự kỳ thị dân tộc, chúng lập ra “Liên minh Bahnar” để chống lại người Séđăng, đầu độc tư tưởng hằn thù dân tộc.

Lịch sử phong trào đấu tranh yêu nước của đồng bào các dân tộc trong tỉnh bắt đầu từ khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược lên buôn làng mình. Các cuộc đấu tranh này diễn ra lúc sôi nổi quyết liệt, bùng lên rồi lại bị vùi dập đàn áp, rồi lại bung lên liên tiếp và nổ ra trên nhiều nơi, nhiều vùng làm cho kẻ thù phải tìm cách đối phó.

Đoàn công cán của Nevelle, công sứ Pháp ở Qui Nhơn ngày 6 tháng 1 năm 1885 lên Pleiku, đã bị dân làng Piơm (dân tộc Bahnar) tiến công giết một người và bắn bị thương chín người khác. Nevelle buộc phải bỏ dở cuộc hành trình quay về Qui Nhơn.

Sau cuộc đấu tranh sôi nổi của đồng bào KonTum chống Pháp, cướp đất lập đồn điền, ngày 7 tháng 4 năm 1904 lại xảy ra cuộc đấu tranh lớn ở vùng Cheo Reo. Ô-đăng-đan (Ođendhal) tên quan cai trị Pháp xuất phát từ Phan Rang lên khảo sát Tây Nguyên đã dừng chân ở Gia Lai và gặp Hỏa Xá. Tên thực dân cáo già này một mực đòi xem “gươm thần” đã bị Hỏa Xá từ chối, và cho người phục đập chết cùng tất cả tùy tùng. Hỏa Xá lúc bấy giờ là Ơi Ất(3).

Được tin Ô-đăng-đan chết, quân Pháp đưa 34 lính lê dương và 200 dân binh đến khủng bố dân làng. Ngày 29 tháng 5 năm 1904, khi quân Pháp kéo vào làng thì dân làng đã lánh sâu trong rừng, chúng đành quay về không dám lùng sục sâu vào rừng sợ bị phục đánh. Sự kiện dũng cảm và mưu trí này làm chấn động thực dân Pháp ở Đông dương lúc ấy và đã làm cho các dân tộc Tây Nguyên khâm phục, ngưỡng mộ(4).

Phía An khê, này 26 tháng 1 năm 1907, một lực lượng lính Pháp đến làng Kon Klót đã bị dân làng vây đánh quyết liệt. Tên Pari (Charles Paris) chủ đồn điền KonTum trúng tên thuốc độc chết, số còn lại phải luồn rừng quay về, đến ngày hôm sau mới đến Đồn Tú Thủy.

Từ ngày 07 đến ngày 16h tháng 8 năm 1911, hai tên lãnh binh Pháp (là Berner và Marel) chỉ huy cuộc càn vào làng Plei Bông (đông thị xã Pleiku), chúng đốt phá làng mạc, nhân dân đã dũng cảm chống lại, bắn bị thương một tên cai và một tên lính rồi rút vào rừng.

Những năm 1929 đến năm 1931, đồng bào dân tộc nhiều vùng trong tỉnh đã bất hợp tác với chính quyền cai trị Pháp, đồng bào các làng Đé ChơGang, Đé Krúi… các làng phía Nam và Bắc đường 19 đã nổi lên chống bắt phu, chống giặc thu thuế; đã cắm chông, làm chướng ngại chống giặc Pháp lùng sục khủng bố. Tuyến đường KonTum, Peiku đi Bình Định luôn luôn bị phục đánh xe bưu điện, xe vận tải của Pháp. Dây điện thoại dọc đường thường bị cắt phá, một số cột điện thoại bằng gỗ bị đào vứt bỏ, cuộc đấu tranh của nhân dân kéo dài nhiều năm liền gây cho Pháp nhiều thiệt hại.

Đầu tháng 1 năm 1929, tên giám binh Saint PéRon và tên lãnh bị Jurier chỉ huy cuộc càn vào làng BăBlŏt (An khê) dân làng dùng tên tẩm thuốc độc, bẫy đá chống lại. Sang tháng 3 năm 1929 chúng lại cho quân càn quét vào làng ĐéBar, làng Su, làng Thắng, làng Kŏ; cho máy bay ném bom xuống các làng để uy hiếp, nhưng dân làng không sợ phân tán vào ở trong rừng(5).

Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1931, đồng bào làng ĐéKrưĭ (An khê) có già làng lãnh đạo đấu tranh bất hợp tác với Pháp. Địch càn vào làng, đồng bào dùng tên ná bắn chết 10 lính, bắn bị thương một số khác. Đến tháng 9 năm 1931 dân làng ĐéTơRưng dưới sự chỉ huy của già làng Ven, làng Nhơn, làng Lung đã nổi lên sống bất hợp tác với Pháp, dân làng không đi làm xâu, không nộp thuế, không đi làm đường, làm đồn điền cho giặc Pháp; còn tổ chức phục đánh các toán lính đi lùng càn. Trong hai năm chống địch, dân làng đã bắn chết 10 lính Pháp, bắn bị thương 3 tên khác.

Nhìn chung, những cuộc nổi lên đấu tranh chống giặc Pháp của nhân dân các dân tộc trong tỉnh trước năm 1945 tuy có liên tục, nổi dậy trên nhiều vùng, gây thiệt hại cho quân cai trị Pháp, làm cho chúng phải khiếp sợ. Nhưng đều là những cuộc nổi dậy tự phát, do một số tù trưởng, gia làng cầm đầu. Lực lượng nổi dậy thường giới hạn trong vài ba làng, có lúc trong một khu vực nhỏ hàng chục làng, nhưng phần đông ở thế cô lập, cục bộ, hạn chế trong thời gian rất ngắn, trong chừng mực mà đất đai, tính mạng của đồng bào bị trực tiếp đe dọa.

Vì vậy những cuộc đấu tranh của nhân dân các làng rất dũng cảm, quyết liệt, nhưng chỉ thời gian ngắn bị cô thế nên phải tan rã.

Tuy nhiên những cuộc đấu tranh của đồng bào mang tính quần chúng nhân dân bắt nguồn từ truyền thống thượng võ từ ngàn xưa, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh địa thế hiểm trở của rừng núi, mà sau này trong những năm kháng chiến chống giặc Pháp và giặc Mỹ, ta đã phát huy lợi thế, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rất thuận lợi.


(1) Hai giáo sĩ là Miche và Duclos
(2) Là Comlees và Fontaine
(3) Sách Tây Nguyên Nxb Văn hóa 1980 Trang 180
(4) Sách Tây Nguyên Nxb Văn hóa 1980 Trang 180
(5) Lịch sử Đảng bộ Ankhê.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:49:05 am »

Phần thứ nhất

*   *
*

KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954)

CHƯƠNG I

Từ các phong trào yêu nước đến Khởi nghĩa
giành Chính quyền ở Gia Lai

I/ Phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền trong tỉnh những năm trước 1945:

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp chủ trương khai thác quy mô tài nguyên thuộc địa. Từ năm 1919 – 1925 chúng đã lập thêm 15 đồn điển ở tỉnh Gia Lai và Kon Tum chiếm gần 17.000 ha đất(1).

Quá trình lập các đồn điền đã thu hút đông đảo lực lượng lao động từ các nơi đến, phần đông là nông dân các tỉnh đồng bằng trung châu bị tước đoạt hết ruộng đất là dân nghèo thị thành không có công ăn việc làm, một số ít có tham gia các phong trào đấu tranh hoặc quần chúng cảm tình với cách mạng, thoát lưới mật thám từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quy Nhơn, Sài Gòn lánh về. Vì vậy trong lúc phong trào các nơi tạm lắng xuống, thì ở các đồn điền, nhất là đồn điền Bàu Cạn đã lập các tổ chức bí mật hoạt động.

Tại Gia Lai công nhân các đồn điền Bàu Cạn, Biển Hồ, Đăk Đoa, Sac Ko… phải làm việc từ 13 – 14 giờ trong ngày. Trước năm 1936, công nhân các đồn điền ở đây đã đấu tranh với chủ đòi cải thiện đời sống, nhưng tự phát, rời rạc nên giới chủ không chịu nhượng bộ, lại tìm cách sa thải các anh em hăng hái đấu tranh.

Đồng bào Jơrai quanh thị xã Pleiku (các làng Tiêng, làng Nhiên, làng Dôr…) đã đấu tranh chống Pháp bắt đi làm xâu khai phá vỡ đất cho các đồn điền. Cũng thời gian cuối năm 1939, chúng đưa công nhân đi làm đường số 19 tại vùng Chư Ty (huyện Đức Cơ), anh em đã đấu tranh không đi làm – bọn Pháp điều lính đến đàn áp. Cuộc xung đột quyết liệt giữa công nhân chống lại lính đã làm chết một công nhân và làm bị thương 7 người khác. Cuộc đấu tranh tuy không thành công nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng công nhân các đồn điền trong tỉnh sớm có ý thức đấu tranh.

Cùng thời gian ấy, anh Trần Ren từ Sài Gòn lên và chị Phan Thị Út từ Huế vào Bàu Cạn hoạt động để tránh lưới mật thám theo dõi. Tháng 03 năm 1940 sau khi chắp nối được liên lạc với nhau, hai người là Đảng viên Cộng sản cũ đầu tiên tổ chức hội ái hữu có 900 hội viên, tổ chức Hội tương tế, Hội đá bóng…, tập hợp được đông đảo công nhân tham gia các tổ chức quần chúng. Hoạt động của các tổ chức tuy này công khai, được chủ chấp nhận (Như đấu bóng đá, đấu võ đài…).

Tháng 05 năm 1940 ở đồn điền Bàu Cạn thành lập Hội cứu tế đỏ, có 7 hội viên, do anh Trần Ren phụ trách. Phong trào công nhân ở Bàu Cạn bắt đầu phát triển. Năm 1940, trong một thời gian ngắn đã nổ ra những lần đấu tranh của công nhân hái chè, công nhân sấy chè khô đòi tăng lương, cải thiện đời sống, chống bọn cai trị hãm hiếp nữ công nhân. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ, hợp lẽ phải, chủ Tây phải nhượng bộ, giải quyết một số yêu sách của công nhân, giảm giờ làm từ 19 giờ xuống 12 giờ trong ngày, trưa được nghỉ 30 phút, cai ký không được vô cớ cúp phạt như trước.

Để phát triển hoạt động của phong trào công nhân mạnh hơn, đúng hướng, chị Phan Thị Út được cử xuống các tỉnh đồng bằng để tìm bắt mối liên lạc và xin ý kiến chỉ đạo của trên. Ngày 07 tháng 08 năm 1940 chị Út bị mật thám theo dõi bắt. Sang ngày 09 tháng 08 anh Trần Ren cũng bị bắt và sau đó số Hội viên cứu tế đỏ bị bắt 4 người. Bọn địch bắt đầu khủng bố, kiểm soát công nhân gắt gao, một số công nhân cốt cán bị sa thải. Phong trào phải chuyển vào thế bảo toàn cơ sở, không hoạt động như trước.

Tại đồn điền Đăk Đoa, anh em công nhân cũng tổ chức đấu tranh đòi chủ, cai ký giải quyết cấp lương thực kịp thời, sửa sang nhà ở, cấp thuốc men chữa bệnh cho công nhân. Đòi giảm giờ làm và tăng lương. Cuộc đình công kéo dài một ngày rưỡi (từ ngày 03-01-1941) buộc chủ phải chấp nhận.

Những năm từ 1941 đến 1945 phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền trong tỉnh đã được tổ chức xây dựng cơ sở và liên lạc móc nối nhau hoạt động. Lực lượng có phát triển, có một số nòng cốt được thử thách qua đấu tranh, xây dựng thành cốt cán, hình thành được các tổ chức quần chúng hoạt động có kết quả. Các cuộc đấu tranh bắt đầu từ nội dung kinh tế nang lên hoạt động xã hội; ảnh hưởng tốt đến công nhân các đồn điền lân cận trong tỉnh. Nhưng phong trào mới dấy lên chưa được bao lâu thì bị địch khủng bố, tan rã. Do đó kết quả rất ít; tuy vận cũng tích lũy được những nhân tố tích cực, phát triển tiềm lực cách mạng, góp phần khơi dậy cuộc đấu tranh cách mạng trong tỉnh, khi có thời cơ điền kiện nổ ra.


(1) Năm 1889 Hội Delignon mở đồn điền Chầu Pầu (An Khê) chiếm 531 ha; Năm 1921 lập đồn điền Chè Biển Hồ 513 ha; Năm 1923 lập đồn điền chè Bàu Cạn 500 ha; Năm 1924 lập đồn điền chè ĐăkĐoa 500 ha; Năm 1932 lập đồn điền Hà Lòng 571 ha. Năm 1936 lập đồn điền chè Suối Đôi 428 ha.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:50:40 am »

*   *
*
II/ Phong trào quần chúng nhân dân trong tỉnh trước năm 1945 đến khởi nghĩa tháng 8 giành thắng lợi:

Những năm trước 1945 tình hình chung trên thế giới cũng như trong nước đang có những chuyển biến mau lẹ. Thời cơ giành thắng lợi cho cách mạng đang đến gần. Tháng 02 năm 1943 Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định xúc tiến khởi nghĩa vũ trang. Tháng 05 năm 1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa. Ngày 22 tháng 12 năm 1944 Đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập.

Hòa nhịp với phong trào chung cả nước, phong trào cách mạng ở Nam Trung bộ cũng có những bước phát triển mới. Ngày 11 tháng 03 năm 1945 Tỉnh ủy Lâm thời Quảng Ngãi phát động khởi nghĩa giành chính quyền ở Ba Tơ và thành lập đội du kích Ba Tơ ngày 12 tháng 03 năm 1945.

Lúc này hàng trăm Đảng viên Cộng sản, chiến sỹ cách mạng bị giam giữ trong các nhà tù Buôn Ma Thuột, Đăk Tô đấu tranh buộc địch phải trả lại tự do. Giữa tháng 4 năm 1945 cuộc vận động đón tiếp các đoàn chiến sỹ cách mạng được trả tự do từ Đăk Tô – Kon Tum về Quy Nhơn được tổ chức trở thành buổi sinh hoạt, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân, nhất là thanh niên đứng lên tập hợp lực lượng chống giặc Nhật, cứu nước. Trong buổi đón tại Pleiku anh Lê Văn Hiến căn dặn thanh niên: “Độc lập của Nhật đem lại là độc lập bánh vẽ, ta phải tiếp tục đấu tranh nữa, phải tuyên truyền cho nhân dân thấy thất bại tất yếu của Nhật, phải đấu tranh giành độc lập thật sự…”. Qua cuộc tiếp xúc này ý thức giác ngộ cách mạng của Thanh niên được nâng lên.

Tháng 4 năm 1945, Đoàn thanh niên Pleiku thành lập. Ban trị sự của Đoàn do anh Trần Ngọc Vỹ phụ trách; lúc đầu có 60 đoàn viên, chia làm 3 toán, sau phát triển lên 6 toán.

Tháng 5 năm 1945, Đoàn thanh niên Chấn Hưng ở An Khê thành lập do các anh Trần Sanh, Đỗ Trạc phụ trách. Đến tháng 7 năm 1945 đoàn thanh niên Cheo Reo thành lập. Các đoàn Thanh niên Pleiku, An Khê, Cheo Reo đã tập hợp thu hút đông đảo anh em viên chức tiến bộ vào đoàn. Ở Cheo Reo, ngoài số viên chức tiến bộ còn phần đông gồm thanh niên người dân tộc các làng quanh thị trấn, học sinh trung, tiểu học được tiếp xúc với thời cuộc.

Lúc đầu các đoàn thanh niên hoạt động nhằm vận động quần chúng tham gia hoạt động xã hội, văn nghệ thể thao, sau tiến lên đấu tranh đòi dân chủ, chống bọn tham quan ô lại, thực chất là chống bọn tay sai thân Nhật. Được sự giúp đỡ của Đoàn thanh niên Pleiku, nhân dân thị xã đấu tranh tổ giác tên Quản đạo Nguyễn Hữu Nhơn tay sai Nhật tham nhũng, buộc tên này phải từ chức.

Các đoàn thanh niên sinh hoạt đi sâu vào nội dung yêu nước, nói chuyện về lịch sử, nêu gương chiến đấu hy sinh của các chiến sỹ cách mạng tiền bối. Hình thức tổ chức bằng cắm trại, tập võ, đấu kiếm, đá bóng… Đặt tên các toán: Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Lê Lợi, Quang Trung…

Chỉ trong thời gian ngắn hạt động của các đoàn thanh niên lan rộng ra các đồn điền quanh thị xã: Bàu Cạn, Biển Hồ và các vùng nông thôn lân cận như Ngô Sơn, Tiên Sơn, An Mỹ… đều phát triển lực lượng thanh niên nhanh chóng và hoạt động sôi nổi.

Nòng cốt các tổ chức thanh niên là viên chức tiến bộ, tự họ có căm ghét chế độ thực dân phong kiến nên dễ tiếp thu ảnh hưởng phong trào yêu nước; khi thành lập là thời điểm các nơi ở đồng bằng phong trào cách mạng đang lên cao. Để có phương hướng hoạt động chắc chắn, cụ thể, đoàn Thanh niên Chấn Hưng An Khê cử cán bộ về chiến khu Ba Tơ để bắt liên lạc với phong trào Việt Minh.

Nhận thấy Phong trào hoạt động của thanh niên mạnh mẽ, đều khắp thị xã, thị trấn đến vùng nông thôn dân tộc lân cận thị xã, bọn Nhật và tay sai bù nhìn Trần Trọng Kim ra mặt khủng bố, chúng định trục xuất các cán bộ phụ trách phong trào. Nhưng lúc phong trào cách mạng đang dâng cao, phát xít Nhật và bọn bù nhìn đang hoang mang, lực lượng thanh niên đấu tranh mạnh mẽ, hợp lý được quần chúng nhân dân hậu thuẫn ủng hộ, nên các cán bộ lãnh đạo Đoàn Thanh niên vẫn ở Pleiku tiếp tục hoạt động.

Song song với hoạt động của các Đoàn thanh niên phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền Bàu Cạn, Biển Hồ, Đăk Đoa nổi lên công khai đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống cướp bóc tài sản, đòi đưa người do công nhân cử lên thay thế cho bọn cai ký chủ sở là tay sai của Nhật. Các tổ chức cứu tế, ái hữu trước đây bị lắng xuống, nay củng cố hoạt động trở lại mạnh mẽ, thu hút được nhiều công nhân tham gia. Phong trào công nhân các đồn điền ngày càng phát triển và liên kết chặt chẽ với phong trào thanh niên trong tỉnh.

Trong vùng đồng bào các dân tộc lợi dụng tình trạng bộ máy cai trị của tỉnh ở nông thôn bị tê liệt sau khi Nhật đảo chính Pháp, đồng bào đã tự động không đi xâu, không nộp thuế. Mặc nhiên không thừa nhận bộ máy thống trị của giặc Nhật và tay sai, thực hiện quyền tự quản của mình. Nhân dân các làng dân tộc ven thị xã Pleiku, Cheo Reo, An Khê liên kết và hưởng ứng phong trào đấu tranh của thanh niên và nhân dân trong nội thị.

Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1945, bọn Nhật và tay sai lại nhiều lần đe dọa khủng bố phong trào thanh niên Gia Lai, nhưng mọi thủ đoạn của chúng đều bị thất bại trước khí thế đang lên của đông đảo quần chúng nhân dân thị xã, thị trấn và nông thôn rộng rãi. Phong trào yếu nước của nhân dân Gia Lai có bước phát triển mới. Đoàn Thanh niên Chấn Hưng An Khê đã bắt liên lạc được với Mặt trận Việt Minh ở Quảng ngãi. Hoạt động của quần chúng các nơi được tổ chức chặt chẽ hơn. Những toàn bảo vệ cho quần chúng đấu tranh được hình thành. Các Đoàn Thanh niên Pleiku, Cheo Reo đã vận động được lính bảo an giác ngộ ủng hộ phong trào, có một số cai tiến bộ tham gia, ta tranh thủ họ trấn áp bọn tay sai Nhật.

Thế địch đang suy yếu, phong trào cách mạng của quần chúng đang rầm rộ vươn lên, mặc dù lúc ấy chưa có sự chỉ đạo trực tiếp của tổ chức Đảng và của Mặt trận Việt minh, nhưng phong trào đấu tranh của đồng bào kinh và đồng bào dân tộc đã diễn ra đều khắp và thực hiện đúng theo chỉ dẫn của mặt trận Việt Minh cho Đoàn Thanh Niên Chấn Hưng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:52:29 am »

*   *
*

III/ Gia Lai khởi nghĩa giành chính quyền:

Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9 tháng 8 năm 1945 Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Sau một tuần lễ tiến quân như vũ bão, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt hoàn toàn đạo quân Quan Đông. Phát Xít Nhật đầu hàng không điều kiện. Những điều kiện chủ quan và khách quan của cuộc Tổng khởi nghĩa ở nước ta đã chín muồi.

Đêm 13 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa; Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, toàn quốc đồng bào đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…”(1). Bão táp cách mạng cuồn cuộn dâng cao, nhân dân cả nước triệu người như một nhất tề đứng dậy với sức mạnh như nước vỡ bờ.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi rực rỡ ở Hà Nội, tiếp theo ở Huế ngày 23-8-1945 và Sài Gòn ngày 25-8-1945. Cao trào cách mạng cả nước đang giáng đòn quyết định vào kẻ thù tại các trung tâm chính trị, làm tan rã hàng mảng bộ máy thống trị của giặc Nhật và tay sai.

Ở Gia Lai, bọn địch càng hoang mang cực độ, những tên hiến binh Nhật đã cuốn khỏi Pleiku. Lực lượng bảo an, chỗ dựa duy nhất của bù nhìn tay sai, một số ngả về phía cách mạng, ủng hộ các hoạt động của quần chúng và nhân dân yêu nước. Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Đoàn thanh niên Chấn Hưng An Khê, huy động quần chúng nổi dậy chiếm quận lỵ, tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng, sau đó tỏa về các làng nông thôn tổ chức mít tinh biểu dương lực lượng. Ngày 21 tháng 8 các xã lân cận thị trấn đều lập chính quyền cách mạng ra mắt quần chúng nhân dân.

Trong khí thế thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, Đoàn thanh niên An Khê gấp rút chuẩn bị quần chúng có vũ trang kéo về Pleiku phối hợp với lực lượng Thị xã cướp chính quyền ở tỉnh lỵ.


(1) Hồ Chí Minh – Tuyển tập – Tập 1 – Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa – Nhà xuất bản sự thật – 1980 – trang 348
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:53:18 am »

Thị xã Pleiku khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 13 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh tỉnh Bình Định điện cho Tỉnh trưởng Pleiku, bức điện viết: “Nhật đã đầu hàng đồng minh, Việt Minh sẽ khởi nghĩa, thái độ của Thanh niên Gia Lai như thế nào?” Nhưng mãi đến ngày 18 tháng 8 năm 1945 tên Bữu Phu Tỉnh trưởng mới dám đưa bức điện cho đại diện Đoàn thanh niên hỏi ý kiến. Đoàn Thanh niên yêu cầu Bữu Phu từ chức, nhưng y chần chừ chưa trả lời.

Chiều 22 tháng 8 năm 1945, Đoàn thanh niên trực tiếp nhận điện của Việt Minh lần thứ hai: “Bảo Đại đã thoái vị, Việt Minh đã giành chính quyền, yêu cầu Đoàn thanh niên tổ chức biểu tình ủng hộ Việt Minh!”

Ngay đêm 22 tháng 8 năm 1945, Đoàn thanh niên Pleiku dùng áp lực buộc Tỉnh trưởng Bữu Phu ký lệnh trưng dụng xe đưa thanh niên đi vận động quần chúng, chia về các cơ sở, đồn điền, các xã ven phụ cận Pleiku tập trung về thị xã để cướp chính quyền.

Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, từng đoàn nhân dân thị xã, các vùng lân cận có vũ trang giáo mạc, gậy gộc từ các ngả tiến về trung tâm thị xã. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng dương cao từ các nơi nhân dân rầm rập về tập trung tại Tòa Công Sứ. Cuộc mét tinh có trên mười ngàn người gồm công nhân các đồn điền, nhân dân thị xã, nông dân kinh và dân tộc các làng vùng ven. Tại cuộc mét tinh đại diện Mặt trận Việt Minh trịnh trọng tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền cai trị của Nhật, tay sai, thành lập chính quyền cách mạng, kêu gọi toàn thể đồng bào ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Ngày 23 tháng 8 năm 1945 bộ máy chính quyền cách mạng bắt đầu hoạt động. Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Gia Lai do ông Trần Ngọc Vỹ làm Chủ tịch và các ông Phan Bá, Nay Phin làm phó Chủ Tịch.

Những tên tay sai thân Nhật có tội ác với nhân dân đều bị bắt giam. Số lính bảo an tình nguyện theo cách mạng đều được tiếp nhận, số khác cho về nhà làm ăn. Ủy ban cách mạng lâm thời tổ chức ngay các đoàn cán bộ về các huyện, các đồn điền để giúp đỡ tổ chức lập bộ máy chính quyền các cấp, đồng thời nhanh chóng tổ chức một đoàn có lực lượng vũ trang ra Kon Tum để hỗ trợ cho Kon Tum khởi nghĩa giành chính quyền.

Tại Cheo Reo, từ trước phong trào quần chúng đã phát triển khá mạnh, nhân dân đã thực sự làm chủ buôn làng của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, trước tình hình diễn biến thuận lợi khởi nghĩa ở An Khê, Pleiku, Đoàn thanh niên Cheo Reo do các anh Nay Phin, Rơ chăm Thép, Rơ Chăm Briu, Ksor Ný dẫn đầu đã vận động quần chúng nhân dân nội dậy có sự tham gia ủng hộ của một số lính bảo an người dân tộc có cảm tình với cách mạng đã nổi dậy chiếm đồn bảo an, bắt Đồn trường, thu 70 súng các loại, thu hết số vũ khí của chánh Tổng Chủ làng. Đầu tháng 9 năm 1945, đại diện chính quyền Gia Lai về thị trấn Cheo Reo tổ chức mét tinh chào mừng cuộc nổi dậy giành chính quyền thắng lợi. Ủy ban cách mạng lam thời huyện được thành lập ra mắt nhân dân, ông Nay Phin làm chủ tịch; 5 ủy viên: Rơ Chăm Thép, Rơ chăm Briu, Ksor Ný, Siu Deo, Siu Sing.

Các huyện Chu Ty, Pleikly và khắp vùng nông thôn dân tộc được tác động của cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lỵ, An Khê, Cheo Reo, dùng áp lực của quần chúng, vận động một số bảo an đồng tình đứng lên lần lượt hạ uy thế bọn thống trị, chờ tỉnh về lập chính quyền cách mạng.

Trong vòng hơn một tuần lễ nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã hoàn thành cuộc nổi dậy cướp chính quyền, thiết lập bộ máy chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở. Dựa theo chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh, Ủy ban cách mạng lâm thời các cấp nhanh chóng ban bố và thực hiện các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc, bãi bỏ sưu thuế, tịch thu tài sản kho tàng của giặc Nhật và tay sai. Chính quyền cách mạng kêu gọi nhân dân các dân tộc phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết kinh thượng, hăng hái thực hiện các chủ trương nhiệm vụ của chính quyền cách mạng.

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Gia Lai nổ ra và thu thắng lợi giòn giã trong hoàn cảnh chưa có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và Mặt trận Việt Minh, nhưng đó là cả quá trình quần chúng lao động đã được tiếp thu ảnh hưởng cách mạng, được giác ngộ từ ít đến nhiều, từ gián tiếp đến trực tiếp, một quá trình liên tục và kịp thời hành động theo đường lối của Đảng. trước cách mạng tháng 8 nhân dân các dân tộc ở Gia Lai đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống áp bức bóc lột. Những cuộc nổi dậy đó tuy bị kẻ thù đàn áp rất dã man, nhưng đã làm cho nhân dân Gia Lai ngày càng có ý thức đấu tranh mạnh mẽ với địch, tạo điều kiện tiếp thu nhanh chóng ảnh hưởng phong trào chung theo đường lối của Đảng.

Trong hoàn cảnh chưa có cơ sở Đảng trực tiếp chỉ đạo, được tiếp thu chủ trương khởi nghĩa của Đảng nhân dân các dân tộc, nhất là các Đoàn thanh niên yêu nước đã nhận rõ bước ngoặt lịch sử trong đời sống chính trị - xã hội của mình châm dứt cuộc đời nô lệ, đã đem lại ánh sáng rực rỡ của độc lập tự do, bình đẳng dân tộc, sẵn sàng đứng lên giành và giữ cuộc sống mới của chính quyền cách mạng đem lại với khẩu hiệu “Thà chết không chịu làm nô lệ!”.

Thắng lợi cách mạng tháng Tám ở Gia Lai đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, mở ra một khả năng to lớn chưa từng có cho việc tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước trong các dân tộc, các từng lớp nhân dân trong tỉnh, mở rộng Mặt trận đoàn kết nhanh chóng, rộng rãi, phát động cao trào cách mạng trong tỉnh, với tinh thần cách mạng tiến công thể hiện sức mạnh vùng lên mau lẹ, kịp thời đồng loạt nổi dậy cướp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở trong thời gian ngắn, trong điều kiện tỉnh Gia Lai lúc bấy giờ dân cư thưa thớt, đi lại nhiều khó khăn, thông tin liên lạc rất hạn chế, nhưng có các Đoàn thanh niên yêu nước hăm hở làm nòng cốt, có các cơ sở trong anh chị em công nhân các đồn điền từng tập dợt qua đấu tranh, nay có thời cơ vùng lên cùng đồng bào các dân tộc đã từng tẩy chay bộ máy trị của địch từ trước, nay tiếp thu mệnh lệnh khởi nghĩa là vùng dậy như sóng trào lan nhanh ra toàn tỉnh.

Thắng lợi cách mạng tháng 8 ở Gia Lai đã mở ra bước ngoặt lịch sử về phát triển nhanh chóng, củng cố lực lượng cách mạng, đoàn kết chặt chẽ giữa kinh và dân tộc, bình đẳng thực sự trong khí thế mới, kề vai sát cánh đấu tranh chống địch. Nhân dân các dân tộc Gia Lai vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, càng nhận thức sâu sắc là chỉ một lòng, một dạ đi theo con đường mà Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn mới thoát khỏi nô lệ, lầm than, lạc hậu để cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Giêng, 2020, 03:11:57 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2020, 10:56:08 am »

CHƯƠNG II

Năm đầu kháng chiến, từng bước ngăn chặn
cuộc tấn công của giặc Pháp, bảo vệ
lực lượng Cách mạng
(Tháng 8/1945 đến 1946)

Cách mạng giành chính quyền thắng lợi. Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Độc lập, tự do; Nhưng lịch sử lại một lần nữa thử thách sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt nam.

Ở ngoài Miền Bắc 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch do đế quốc Mỹ giật dây, mượn cớ tước vũ khí quân Nhật, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng đang non trẻ, mưu lập chính phủ bù nhìn tay sai của chúng.

Ở trong Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân Anh, được quân Anh giúp sức, âm mưu đánh chiếm từ Vĩ tuyến 16 trở vào, chuẩn bị bàn đạp để thôn tính phần còn lại của Đông Dương.

Ở Gia Lai, sau khởi nghĩa tháng 8 thắng lợi bọn tay sai phản động còn đang bàng hoàng nằm im trước khí thế sục sôi của quần chúng chưa dám ngóc đầu dậy. Do vậy ta vẫn còn điều kiện thuận lợi để tranh thủ củng cố và phát triển lực lượng cách mạng. yêu cầu khách quan của phong trào cách mạng của tỉnh lúc bấy giờ là: “Triệt để tranh thủ tình hình, gấp rút thành lập tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo phong trào, củng cố giữ vững chính quyền, cải thiện đời sống nhân dân, tích cực chuẩn bị điều kiện cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai…”.

Đầu tháng 6 năm 1945, Đoàn thanh niên Pleiku với tư cách là lực lượng khởi nghĩa cử đoàn đại biểu ra Xứ ủy Trung kỳ xin chỉ thị, được Xứ ủy tiếp và giao nhiệm vụ cho Đoàn, đồng thời cử đồng chí Phan Thêm làm phái viên của Xứ ủy lên Gia Lai hoạt động; cùng đi với đồng chí Phan Thêm có 7 cán bộ du kích Ba Tơ.

Tháng 10 năm 1945, Chi bộ Đảng cộng sản Gia Lai được thành lập tại Pleiku có 9 Đảng viên, đồng chí Nguyễn Đường làm Bí thư. Ban chấp hành Việt Minh tỉnh cũng được thành lập; mặt trận cấp tốc mở các lớp huấn luyện về điều lệ, chương trình hoạt động. Các Đoàn thể quần chúng nông dân, phụ nữ, thanh niên và công hội đều được tổ chức và triển khai các công tác cụ thể. Nhất là Đoàn thanh niên cứ quốc vận động thanh niên xung phong tòng quân tham gia vào lực lượng dân quân du kích.

Vấn đề cấp bách đặt ra cho chính quyền cách mạng lúc này là gấp rút tổ chức lực lượng vũ trang và nửa vũ trang để củng cố và bảo vệ chính quyền. Những đội vũ trang quần chúng đầu tiên trong cách mạng tháng 8 làm nhiệm vụ giữ trật tự an ninh trong thị xã, thị trấn, đồn điền được nhanh chóng xây dựng thành các đội tự vệ, lực lượng dân quân các buôn làng được khẩn trương tổ chức, thực hiện õ trang toàn quân, từ tỉnh xuống huyện đều lập quỹ “Đở đầu nuôi quân”.

Tháng 10 năm 1945, Chi đội Phan Đình Phùng ở Bình Định được điều lên Gia Lai. Sau đợt tuyển quân bổ sung một số thanh niên địa phương cả kinh và dân tộc đổi thành Chi đội Tây Sơn, có các chiến sĩ du kích Ba Tơ làm nòng cốt:

Đồng chí: Phan Phong – Làm Chi đội trưởng

Đồng chí: Võ Văn Dật – Làm chi đội phó

Đồng chí: Phan Thêm – Chính trị viên.

Chi đội có 3 Phân đội(1):

Phân đội Nguyễn Nhạc đóng ở Pleiku và Móc Đen.

Phân đội Nguyễn Huệ đóng ở An Khê.

Phân đội Nguyễn Lữ đóng ở Kon Tum.

Đây là đơn vị bộ đội tập trung đầu tiên của trên chi viện cho hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Chi bộ đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Tây Sơn(2). Một số Đảng viên được bổ sung vào Chi đội để tăng cường lãnh đạo đơn vị và nhanh chóng chọn một số cán bộ đưa đi học trường lục quân của Miền.

Đến cuối năm 1945, ngoài bộ đội tập trung tỉnh ở đâu có chính quyền cách mạng đều có tổ chức dân quân du kích. Tỉnh tổ chức trường Quân chính của tỉnh ở An Khê để huấn luyện cho số cán bộ thanh niên kinh và dân tộc, mãn khóa số này về làng huấn luyện lại cho thanh niên các làng. Trong vòng một tháng tỉnh mở được hai lớn gần 100 cán bộ, trong đó có một số bổ sung cho Chi đội Tây Sơn.

Dân quân du kích khá đông, trang bị vũ khí quá thô sơ ít ỏi; ngoài một số súng trường, tiểu liên thu được của lính bảo an khi khởi nghĩa, còn chủ yếu bằng giáo mác, mã tấu, đại đao, lựu đạn.

Thực hiện vũ trang toàn dân ai nấy đều sôi nổi, hăng hái cầm vũ khí sẵn sàng giết giặc giữ buôn làng; Thanh niên trai tráng, dân quân tự vệ hăng hái luyện tập quân sự. Mỗi người dân đều tự kiếm một loại vũ khí sẵn sàng chờ lệnh. Lò rèn quanh thị xã, thị trấn ngày đêm rèn dao, kiếm, giáo mác để trang bị cho dân. Xưởng đúc vũ khí được xây dựng tại núi Đất (tại Cửu An – An Khê) lấy tên xưởng Hoàng Hoa Thám, nhân dân trong tỉnh đã quyên góp hàng trăm tấn sắt, gang đồng, nhôm chì… nhiều gia đình mang những chiếc nồi đồng, lư đồng, mâm thau mới ủng hộ cho cách mạng để xưởng công binh đúc vũ khí. Chính quyền cách mạng còn huy động hàng vạn ngày công đào đắp con đường từ chân núi Đất ra giáp đường số 7 dài hơn 7km để vận chuyển nguyên liệu, vũ khí.

Phòng Quốc dân thiểu số tỉnh cấp tốc mở một khóa huấn luyện chính trị cho 30 cán bộ và 25 thanh niên các vùng Pleiku, An Khê, Cheo Reo, Chư Ty đào tạo thành cán bộ tuyên truyền xung phong vào hoạt động các buôn làng đồng bào dân tộc. Đặc biệt Hội phụ lão cũng được tổ chức trong các buôn làng đồng bào dân tộc, các cụ là những bậc cốt cán trung kiên trong việc khuyên bảo con cháu một lòng theo kháng chiến.


(1) Chi đội tương đương Trung đoàn, phân đội tương đương tiểu đoàn. Phân đội Nguyễn Nhạc đồng chí Lê Đình Lệ làm Phân đội trưởng.
(2) Đầu tháng 12 năm 1945 Ban chấp hành Lâm thời Đảng Cộng sản tỉnh Gia Lai thành lập lấy tên là Đảng bộ Tây sơn. Ban chấp hành có 7 ủy viên, đồng chí Phan Thêm làm Bí thư.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM