Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:09:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Patton - trọn đời chinh chiến, một thuở thanh bình  (Đọc 7030 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2019, 08:40:34 am »

        - Tên sách : Patton - trọn đòi chinh chiến, một thuở thanh bình

        - Ladislas Far ago : Patton, ordeal and triumph
          Omar N. Bradley : A soldier’s story
          20th Century Fox thực hiện thành phim
          Cosunam Film tuyền chọn hình ảnh

        - Số hóa : Giangtvx

« Sửa lần cuối: 16 Tháng Ba, 2021, 02:39:01 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2019, 12:22:23 pm »

     
1. ĐẠI THỐNG CHẾ CỦA NÃ-PHÁ-LUÂN
 

        Có chứng cớ cho thấy chắc chắn George Patton sinh vào ngày thứ sáu, 11 tháng 11, năm 1885, vào lúc 18 giờ 38 phút, tại đồn điền Wilson-Patton rộng 1800 mẫu Anh ở San Marino, nằm bên ngoài thành phố Pasadena thuộc tiểu bang California. Trong quyển Thánh Kinh của mẹ ông, trong hồ sơ lưu trữ của giáo đường dòng Chúa Cứu Thế và giáo đường Espiscopalian cổ nhứt ở Nam California (do ông nội của ông xây cất) đều ghi như trên, Nhưng Patton đã xem ngày sanh của ông như là cái móc nối liền một chuỗi lịch sử. Ông tin rằng cuộc đời của ông có liên quan đến nhiều thế hệ. Ông thường nhắc đến những biến cố xảy ra nhiều thế kỷ trước đó, mà chính ông, tiền thân của ông, có tham dự một phần trong đó.

         Có lỹ lẽ để giải thích những ý nghĩ kỳ lạ này, Patton giống như nhân vật Don Quixote của Miguel de Cervantes, nửa phần do nhưng điều học hỏi và nửa phần do sự tưởng tượng mà ra. Ông đọc ngấu nghiến bất kỳ quyển sách lịch sử quân sự nào nằm trong tay ông. Do đó trong đầu của ông chứa đựng, giống như Cervantes nói về Don Quixote : «hoàn toàn không có gì hết, chỉ là một mớ lộn xộn bất khả dụng...»

        Những giai đoạn quá khứ tích tụ trong trí óc của Patton chẳng khác nào những hạt vàng nằm dưới đáy một con sông, không biết bị nước cuốn đi lúc nào. Tuy nhiên sự mê hoặc của ông nằm trên phương diện khác : Đó là một con người bất biến, sẵn sàng thích hợp với đời sống, và trở thành một vị anh hùng ở bất kỳ thế kỷ nào. Điều này đã chứng tỏ qua những giòng chữ Patton viết cho phu nhân của ông trong khi ông tham dự mặt trận Sicily vào mùa hè năm 1943 : «Tuổi thọ của tôi tính bằng hành động, không phải tính bằng năm».

        Patton có lần đã tỏ ra khoái chí khi Đại Tướng  Sir Harold Alexander nói với ông ở Phi Châu « Anh biết không, George, anh sẽ là một vị thống chế vĩ đại của Nã Phá Luân, nếu anh sống vào thế kỷ thứ 18». Patton đã mỉm cười và bình thản nói :« Đúng vậy!».

        Thời Đệ Nhứt Thế Chiến, trong khi đang huấn luyện một trung đoàn thuộc đạo quân Thiết kỵ vừa mới thành lập ở Pháp vào năm 1918, Patton được chỉ định thi hành nhiệm vụ bí mật tại một nơi mà trước đây ông chưa từng biết đến. Theo lịnh, ông sẽ đến một nhà ga để «đáp chuyến xe lửa đầu tiên về hướng Tây, xuống nhà ga thứ ba rồi đáp một chuyến xe lửa khác chạy về hướng Nam, và xuống nhà ga kế đó », nơi đây sẽ có một chiếc Jeep chờ đón ông.

        Khi xuống ga, ông gặp chiếc xe với một tên tài xế. Tên tài xế này lái đưa ông đến một nơi mà ông không biết, vl lúc đó trời tối. Khi chiếc xe chạy lên đỉnh một ngọn đồi, Patton hỏi tên tài xế :

        « Nơi mà chúng ta sắp đến nằm ở bên phải ngọn đồi, phải không Trung sĩ? »

        « Dạ thưa không. Nhưng ở phía bên phải có một căn cứ của người La Mã. Tôi đã từng thấy tận mắt ».

        Cuối cùng Patton đến bản doanh nơi mà ông được lịnh trình diện. Sau đó, khi sắp bước ra khỏi cửa, ông xoay lại hỏi viên Đại úy trong phòng : « Ở ngay phía trước chúng ta có một hí viện phải không ? »

        Viên đại úy đáp :

        « Không, ở đây chúng ta có hí viện nào đâu ». Nhưng sáng hôm sau, khi Patton thức dậy dạo cảnh một vòng, ông nhìn thấy một hí trường La Mã chỉ cách bản doanh khoảng 300 thước. Không biết thế nào mà Patton cứ khăng khăng cho rằng trước đây, ông đã từng dự khán các buổi trình diễn ở hí trường này, có lẽ lúc đó ông là một người lính La Mã dưới trướng Caesar.

        Vào năm 1943, ở Sicily, ngay lúc ông vừa chiếm đóng hòn đảo này, ông yêu cầu Signora Marconi, nữ quản thủ bảo tàng viện ở đây, hướng dẫn ông đi xem qua một vòng các di tích cổ. Nhưng sau đó, Patton đã chứng tỏ ngay rằng, ông không cần phải có người hướng dẫn. Thật vậy, chính ông đã vạch rõ cho người hướng dẫn ông biết những biến cố lịch sử liên quan đến nhiều di tích cổ khác nhau. Chẳng hạn như ở Agrigenỉo, ông đã nói đúng mọi sự việc xảy ra từ năm 470 trước Thiên Chúa Giáng Sinh.

        Ông đã giải thích tỉ mỉ cho Marconi các chi tiết về quân đội của người Carthage, đã từng đổ bộ lên nhiêu địa điểm ở phía tây Agrigento, nhưng tại sao với quân số 300.000 người phải mất đến 5 năm mới đánh chiếm được Syracuse, thành phố có hải cảng lớn ở biển Ionian và tại sao quân đội này, sau đó bị tiêu diệt.

        Về sau nầy Patton viết :

        « Thành phố và hải cảng Syracuse đã cho tôi nhiều kinh nghiệm đặc biệt, vì nơi đó đã xảy ra những cuộc đụng độ vừa ở trên bờ vừa ở dưới biển nhiều hơn bất kỳ một hải cảng nào trên thế giới. Khi nhìn hải vực này, tôi có thể thấy những chiến hạm ba từng của Hy Lạp, các đại chiến thuyền của La Mà, của người Vandal, của người Ả Rập, của Thập Tự Quân, của người Pháp, người Anh Cát Lợi và cả Hiệp Chủng Quốc, đã сố gắng liên tục đánh chiếm hải cảng này ».

        Signora Marconi hỏi một cách sửng sốt :

        « Trước đây ông đã từng ở đó ? »

        « Phải », Patton đáp, mặc dù đây là lẫn dẫu tiên ông đặt chân đến Sicily.

        Thật là kỳ dị. Quá khứ như chứa cả trong đầu óc Patton. Ở San Gabriel lúc ông mới lên tám, một giáo sĩ tên Bliss đã kể cho ông nghe về câu chuyên của Parthenon, một ngôi đền vĩ đại của người Hy Lạp xây dựng ở Acropolis vào năm 432 trước Tây Lịch. Câu chuyện này không gây cho ông một hứng thú nào cả. Rồi năm mươi năm sau, ông đến Segesla ('Sicily) nhìn những đường nét chạm trổ tuyệt mỹ của một ngôi đền Hy Lạp, ông cố vẻ như không lấy gì làm lạ. Và hình như khỏng có vật gì trong lịch sử mới lạ đối với ông cả.
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười Hai, 2019, 09:10:24 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2019, 09:13:03 pm »

 
* * *

        Nguồn gốc của George Patton phát xuất từ To Cảch Lan vào thế kỷ thứ 18. Người ta không hiểu nguyên cớ nào tổ tiên của Patton bỏ quê hương để phiêu lưu sang các vùng đất xa xôi rồi cuối cùng đến Fredericksburg ở Virginia (Hoa Kỳ) trong suốt cuộc cách mạng đầy hỗn loạn vào thập niên 1770. Tên thật của chàng thanh niên, ông tổ giông họ Pallon ở Mỹ, không thể nào biết được, vì tất cả hồ sơ ghi lại đều mất sạch, sau chuyến đi từ Tô Cách Lan đến Tân Thế Giới.

        Chàng thanh niên này mang một cái tên mới, Robert Patton (một tên Mỹ hoàn toàn). Mặc dù anh ta đến Virginia với hai bàn tay trắng, nhưng điều đó cũng không ngăn được anh ta làm giàu nhanh chóng và ngoạn mục. Anh ta kết hôn với Anna Gordon Mercer, con gái duy nhứt của Bác sĩ Hugh Mercer, phục vụ trong quân đội về ngành giải phẫu, dưới quyền Đại tá George Washington. Mercer và Washington sát cánh tranh đấu cho nền độc lập Hoa Kỳ.

        Mercer cũng được xem là ông tổ đầu tiên của Tướng George Patton đã tạo danh vọng bằng máu và lòng can đảm, đưa đến những thế hệ tranh đấu liên tục của giòng họ sau này. Mercer leo lên từ cấp bậc một, Trung tá vào năm 1758, chỉ huy pháo đài Duquesque, và sau đó là Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3 Virginia. Vào tháng 6 năm 1776, qua lời yêu cầu của Washington, quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận cho ông lên Tướng và trở thành Lữ đoàn trưởng. Những cuộc chiến đầu đầy dũng cảm của ông tổ bên ngoại trong thời gian đó đã gây ấn tượng sâu xa cho George Patton sau này,

        Vào năm 1797, Robert Patton và Anna Mercer sinh được một cậu trai — John Mercer Patton. Cậu trai này lớn lên, mặc dù thích trở thành một luật sư, nhưng người cha độc đoán đã bắt buộc cậu trở thành một bác sĩ như ông ngoại. John Patton đe dọa « treo cổ ». Cuối cùng người cha phải nhượng bộ.

        John Patton trở thành một luật sư và sau đó, qua nhiều giai đoạn tranh đấu, ông đắc cử vào lập pháp và giữ ghế Chủ tịch Quốc hội Hoa Kỳ, và Thống đốc Tiểu bang Virginia một giai đoạn ngắn. Mặc dù không có tài hùng biện và quyết đoán như người cha, và thiếu vẻ uy nghiêm của người ông, JohnjPatton cũng đã tiêu biểu cho tinh thần độc lập và mở lối đi riêng cho giòng họ Patton sau này.

        Vào ngày 8 tháng giêng 1824, John Patton kết hôn với cô Margaret French Williams, con gái của Đại tá Isaac Hite Williams. Hai người có 6 cậu con trai. John chết trước cuộc nội chiến, nhưng tất cả con trai của ông đều tham dự cuộc chiến này và không người nào lành lặn. Bốn người bị thương. Đại tá Waller Tazewell Patton thiệt mạng ở Gettysburg. George Smith Patton, Thiếu Tướng lúc mới 26 tuổi, ngã gục ở mặt trận Cedar Creek gần Winschester, Virginia, vào năm 1862. Người này chính là ông nội của Tướng Patton, trùng tên với ông.

        George Patton « tiên khởi » (tức ông nội Tướng Patton) là một chàng thanh niên đáng chú ý, mặc dù đời sống quả ngắn ngủi. Gia đình  sống tại Charleston or Kanawha, cạnh giang khẩu Elk (Alleghenies). George thường được gọi với cái tên riêng « Frenchy », vì dáng vẻ của dân đại lục Âu Châu hơn là dân Mỹ trong con người của ông và được xem là « hấp dẫn » đối với các bà vào thời ấy. Ông tốt nghiệp Viện Quân Sự Virginia, và từ đó, theo truyền thống gia đình (và cũng là khởi đầu cho truyền thống ở Hoa Kỳ) tất cả những thanh niên mang họ Patton đều trải qua một giai đoạn giáo dục quân sự.

        George Smith Patton đọc các sách về luật trong văn phòng của người cha, nhưng ông không có ý nghĩ trở thành một luật sư. Năm 1859, chàng thanh niên Patlon tổ chức các bạn bè của ông thành một đơn vị chiến đấu thường được gọi là « các tay súng Kanawha » một đơn vị bán quân sự, có tính cách trình diễn hơn là thực chất.

        Nhưng Patton cũng được những tay súng dưới quyền xem ông như là vị « đại tá » của họ. Đơn vị này cũng có quân phục riêng : áo xanh đậm với những chiếc nút vàng, quần dài có nhiều sọc vàng, thắt lưng lớn bảng, nón và găng màu trắng. Khi cuộc Nội chiến bùng nổ, các tay súng của Patton trở thành Đại đội H, thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh Virginia, và Patton được giữ chức vụ ngang hàng với một Trung đoàn trưởng.

        Vào năm 1862, Patton mang cấp bậc Đại tá thực thụ, và hướng dẫn đơn vị của ông (bây giờ có cấp số Trung đoàn), tham dự trận đánh thứ hai ở Winchester. Trung đoàn của ông bị một đơn vị kỵ binh Miền Bắc võ trang trường kiếm đánh tan. Ông thiệt mạng, được truy thăng Thiếu Tướng và tang lễ được cử hành với tất cả danh dự dành cho một sĩ quan cấp tướng.

        Cái chết của ông đã khiến cho gia đình rẽ sang một khúc quanh mới. Ông bỏ lại một góa phụ trẻ, hai cậu con trai và một gái trong tình trạng nghèo túng. Trước cuộc chiến, gia đình ông khá sung túc nhưng không may tất cả đều bị quét sạch sau cuộc chiến bại của miền Nam. Bà Patton tái hôn với một trong những người bạn của chồng bà, Đại tá George Hugh Smith, một sĩ quan kỵ binh miền Nam liều lĩnh, gan dạ và nóng tánh.

        Cuộc đầu hàng của Tướng Lee (miền Nam) là một cú đấm không thể nào chịu đựng nỗi đối với Smith. Không thể tồn tại trong nỗi nhục nhã của kẻ chiến bại, ông đã tập hợp thành phần còn lại thuộc trung đoàn của ông và hướng dẫn các binh sĩ tã tơi này lưu vong sang Mễ Tây Cơ, trong một chuyến đi đầy bi tráng, bỏ lại người vợ trẻ và mấy đứa con bơ vơ ở Charleston. Thời gian sau, ông trở về Hoa Kỳ, đến cư ngụ ở Nam California và hành nghề luật sư ở Los Angeles.

        Smith đón vợ và các con san khi căn cơ đã vững chắc. Trong thời gian này, George Smith Patton II (tức cha của Tướng Patton) vào V.M.I (Viện quân sự Virginia). Ông là một chàng thanh niên thông minh và tài ba, nhưng lúc ấy lại quá nghèo túng, ông phải làm nghề gác cổng và dạy thêm cho một số bạn đồng học để kiếm tiền tiếp tục việc học. George II đã thừa hưởng tất cả dáng vẻ của người cha, được xem là một chàng thanh niên hấp dẫn và đẹp trai vào thời ấy. Nhưng những năm hậu chiến này mọi người như đã bừng tỉnh, nghiệp binh không được xem là quan trọng nữa, nên mặc dù ông đứng đầu lớp ở V.M.I, tương lai của ông rất mù mịt.

        Cuối cùng, một bức thư của mẹ ông gởi đến, yêu cầu ông về sống với bà ở Pesadenia (California), bà đề nghị ông học luật ở văn phòng người cha kế của ông. Ông nhận lời, và sau này trở thành một trong những luật sư trẻ tuổi nổi tiếng nhứt. Hiện thời hình như sự chú tâm về quân sự của giòng họ Patton đã chấm dứt, vì George đã quyết định chuyển sang lãnh vực trí tuệ, chiến đấu trên mặt trận chánh trị. Ông gia nhập đảng Dân Chủ, và trở thành Chánh án Tiểu bang Los Angelea sau đó.
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Mười Hai, 2019, 07:41:02 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 04 Tháng Mười Hai, 2019, 07:41:45 am »

           
* * *

        Trong số khách hàng của văn phòng Luật sư Smith và Patton, có một tỉ phú nổi tiếng, nhứt ở California, người xây dựng Pasadena, « nhà độc tài của thung lũng San Gabriel», như ông ta thường được gọi. Tỉ phú này là Benjamin Davis Wilson tổ tiên gốc Tô Cách Lan, những kẻ đã vạch đường tiến về miền Viễn Tây trong một cuộc phiêu lưu đầy ngoạn mục.

        Ben Davis sanh ra ở Wilson County, Kentucky, vào năm 1811, ấu thời sống ở Tennessee, sau đó đến miền Tây, và là một trong những người đầu tiên đi xuyên qua lục địa Âu Châu. Ông thành lập và điều khiền cơ sở thương mại ở New Mexico từ năm 1833 đến năm 1840, rồi chuyển đến California với 25 nhân viên của ông, đó là nhóm di dân lớn nhứt tiến vào lãnh thổ miền Nam. Năm 1844, ông mua cơ sở thương mãi vĩ đại Zurapa Kancho của Zuan Bandinin và kết hôn với Ramona Yorba, con gái của Don Barnardo Yorba, chủ nhân của cơ sở Rancho Santa Ana đồ sộ.

        Mặc dù không phải là công dân Mễ Tây Cơ, Wilson đứng về phía dân thành phố California chống lại cư dân Tây Ban Nha ở đây. Sau cuộc đại bại của Thống đốc Micheltorena, ông rút về địa hạt thương mại và thị trường chứng khoán cho đến năm 1816. Sau đó, ông lại hoạt động chống người Tây Ban Nha mạnh mẽ hơn. Vẫn biết thời gian đó Wilson sống ở Pasadena, nơi mà ông đã giúp đỡ xây dựng, yểm trợ, vật chất, và trở thành một trong những trại chủ lừng danh ở Viễn Tây. Năm 1855 ông đắc cử Nghị sĩ và tái đắc cử vào năm 1869.

        Khi người vợ đầu tiên của ông qua đời, Wilson chấp nối với bà Margaret s. Hereford, góa phụ của bác sĩ Thomas Hereford ở Los Angeles, sanh được hai cô gái, Annie và Ruth.

        George Patton gặp gỡ Ruth Wilson, yêu nhau và tiến đến hôn nhân. Hai vợ chồng về sống trên một mảnh đất rộng 1800 mẫu Anh gần San Gabriel cách phía đông thành phố Los Angeles 9 dặm. Mảnh đất này được cắt ra từ khu vực khồng lồ, thuộc quyền sở hữu của giòng họ Don Benito Wilson, nằm trong một thung lũng bao gồm các thành phố Los Dobles, Oak Knoll, San Marino và một phần lớn hai thành phố Pasadena và San Gabriel hiện thời.

        Nhưng, lúc George III (tức Tướng Patton) chào đời, Benjamin David Wilson (ông ngoại của Patton) — lúc sinh thời, với công trạng to tát của ông, tên ông đã được đặt cho một ngọn núi, một cái hồ, một ngôi trường và một đường phố ở Pasadena — nhưng ông không quanh quẩn trên « tên tuổi » của ông lâu đài. Ông qua đời tại ngôi nhà riêng ngày 11 tháng 3 năm 1878, cạnh hồ Vineyard.

        Địa vị chánh trong gia đình Patton được nắm giữ bởi Đại tá Smith. Người kỵ binh chuyển sang nghề luật sư này đã hết lòng xây dựng cho đứa con người chồng trước của vợ ông là George II, và kế đó là cháu của ông, George III, một đứa trẻ náo động và cứng đầu.

        Đó là một gia đình sung túc và hạnh phúc nhưng bóng tối của chiến tranh luôn luôn lảng vảng trước mặt. Smith không lúc nào không hồi tưởng quá khứ của ông. Ông thường liên lạc với một sổ chiến hữu già thời Nội chiến.

        Patton đã lớn lên và chịu ảnh hưởng không khí « hồi tưởng » này rất nhiều, nhứt là ảnh hưởng các ông bạn già của người ông đã từng tranh đấu dũng cảm trong quá khứ.

        Từ một người bạn của người cha, giáo sư Frederick Holder, nhà động vật học lừng danh thời ấy, Georgie (tên gọi ở nhà của Tướng Patton) đã được học hỏi nhiều về thiên nhiên. Gia đình ông có một căn nhà nhỏ trên đảo Catalina, giáo sư Holder đã từng đến đây với Patton để giải thích cho ông hiểu những điều bí ẩn dưới đại dương. Patton cũng được Holder dạy lái thuyền và tàu.

        Đó là một đời sống tuyệt diệu đối với một cậu bé. Patton được ưu đãi hơn những đứa trẻ khác qua sự liên hệ giòng họ và sự thịnh vượng của gia đình — và nhứt là ông không phải cắp sách đến trường. Cha của Patton có thể nói là một người rất thông thái, nhưng ông lại không tin vào sự giáo dục thông thường cho các con của ông. Ông cho rằng đầu óc non nớt của chúng không thể chịu đựng nổi sự gò bó của chương trình học hỏi hiện đang áp dụng tại các học đường. Do đó Patton học tại nhà và ngoài thiên nhiên.

        Đứa trẻ thông mình tột bực của thung lũng San Gabriel này có một sự hiểu biết rất rộng, nhưng hầu như « vô học » ; cho nên cuối cùng vào mùa Thu năm 1897, Patton lên 12 tuổi, cha ông quyết định cho ông đi học như các đứa trẻ thông thường. Ông vào học trường của Tiến sĩ Stephen Cotter Clark, dành riêng cho nam sinh ở Pasadena. Lúc ấy ông chưa biết đọc mà cũng chẳng viết được một câu nào. Nhưng cậu bé Georgie đã tìm mọi cách để học và viết nhanh chóng. Sau này, khả năng về văn chương của ông có thể nói là vượt bực. Điều đó đã được chứng tỏ trong nhiều bài rất sâu sắc do chính ông viết và đăng trên tờ nội san Kỵ binh ; lối hành văn lưu loát trong nhật ký của ông, những nhận định sáng suốt trong quyển « Chiến Tranh Dưới Mắt Nhìn Của Tôi » ; những bức thư ông gởi về gia đình, và nhứt là những chỉ thị, lịnh lạc vừa cô đọng vừa rõ ràng mà ông đã ban xuống cho các đơn vị của ông.

        Môn toán là môn kém nhứt của ông. Mặc dù ông đủ điểm để rời khỏi trường của Tiến sĩ Clark, nhưng ông đã suýt bị đánh hỏng về môn toán ở West Point.

        Ở nhà, ông được gọi là « Georgie », nhưng các bạn học ở trưởng gọi ông là « Pat». Tên Pat này không giữ lâu — nó biến mất khi ông rời khỏi Pasadena. Tên Georgie giữ mãi mãi suốt đời ông, nhưng người được phép gọi cái tên này ngay mặt ông rất hiếm.

        Mặc dù Patton được xem là một trong những tướng lãnh không kiểu cách, dễ thân thiện, nhưng ông chọn bạn rất kỹ, luôn luôn giữ một khoảng cách giữa ông và thuộc cấp, ngay cả với các sĩ quan cấp tướng. Trong suốt thời Đệ Nhị Thế Chiến, ông không tỏ ra thân mật đặc biệt với bất kỳ sĩ quan nào trong bộ tham mưu của ông, và không một ai dám gọi ông bằng cái tên Georgie. Nhưng không phải riêng trong bộ tham mưu, ngay đến các viên tư lịnh binh đoàn, bạn thân và ngang hàng với ông cũng tỏ ra é dè khi gọi tên riêng của ông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 04 Tháng Mười Hai, 2019, 07:43:55 am »


* * *

        Trong lúc còn ở Pasadena, George s. Patton Jr. đã có hai quyết định quan trọng trong đời sống của ông : trở thành một quân nhân và kết hôn với cô Beatrice Ayer.

        Cô Ayer đã hiện đến trong đời sống ông một cách bất ngờ. Con gái của một chủ hãng dệt bề thế ở Massachusettes. Năm 1902 nàng đến nghỉ hè trên đảo Catalina, nhà của cậu nàng, ông Joseph Banning, cách ngôi nhà của gia đình Patton không xa mấy. Thoạt đầu nàng chỉ nhìn Patton ở xa xa, vì nàng không dám hy vọng làm quen với chàng thiếu niên ồn ào, náo động, như nàng đã tiết lộ sau này. Nhưng cuối cùng nàng đã đánh bạo làm quen với chàng.

        Lúc ấy Ayer chỉ mới 15 tuổi, trong khi đó Ceorgie cao gần 1 thước 8 và đang thời kỳ phát triển. Tánh nàng e thẹn, và vẫn còn chơi búp bê, nên dưới đôi mắt của Georgie nàng chỉ là một cô bé con. Sắc đẹp của Ayer cũng không có gì đặc sắc, chỉ có đôi mắt xanh biếc dịu dàng, một nữ tính đầy mê hoặc. Có thể nói Ayer hoàn toàn trái ngược với một Georgie ngổ ngáo, thường tham dự những trỏ chơi hóc búa, dữ dội.

        Suốt mùa hè đó, cả hai lái thuyền và cỡi ngựa dạo chơi như bao nhiêu đôi bạn khác. Nhưng khi mùa hè chấm dứt, giữa họ hình như có sự quyến luyến nào đó khác hơn tình bạn, có thể nói là họ đã « hiểu nhau ».

        Sau đó, Georgie và Ayer thư từ qua lại nhưng không gặp mặt nhau trong suốt ba năm; cho đến ngày 13 tháng 3 năm 1905. Trong thời gian này, Georgie đã qua hết bậc trung học ở Pasadena và vào V.M.I học thêm một năm. Kế đó, ông thi vào West Point. Trong năm đầu tiên ở đây, ông cùng một số sinh viên sĩ quan đồng khóa được gởi về Hoa-thịnh-đốn diễn hành trong ngày lễ nhậm chức của Tổng Thống Theodore Roosevelt.

        Cô Ayer viết thư cho ông biết nàng cũng sẽ có mặt ở thủ đô vào ngày ấy.

        Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ « quyết định» hôn nhân của họ. Vào năm 1910, sau khi tốt nghiệp West Point một năm, ông và Ayer thành hôn.

        Nơi phục vụ đầu tiên của Palton là Pháo đài Sheridan, tiểu bang Illinois. Là một sĩ quan kỵ binh, dĩ nhiên ông phải cỡi ngựa, đây là binh chúng rất hấp dẫn vào thời đó. Tuy rằng sau thế chiến thứ nhứt kỵ binh không còn thích hợp, nếu không nói là vô dụng, trước hỏa lực của các loại vũ khí tân tiên, nhưng vẫn còn tồn tại trong lục quân Hoa Kỳ cho đến khoảng thời gian gần bước vào cuộc chiến thế giới lần thứ hai. Trong khi đó, ở Nga Sô, binh sĩ cỡi ngựa vẫn còn được sử dụng trong cuộc thế chiến sau này.

        Nhiều vị tư lịnh và chỉ huy Hoa Kỳ của các binh chúng Thiết giáp, Pháo binh thời Bệ Nhi Thế Chiến nguyên từ binh chủng kỵ binh chuyển qua.

        Vào thời bình nhiệm vụ của một sĩ quan rất nhàn rỗi. Ở Sheridan, Patton và vợ ông tổ chức một đội banh, với cầu thủ toàn là binh sĩ và chính ông là thủ môn. Đây là đội cầu khởi đầu cho những đội cầu trong các đơn vị quân đội Hoa Kỳ sau này.

        Vào tháng Giêng năm 1912, Patton được thuyên chuyển đến Sư đoàn 3 Kỵ binh ở Pháo đài Myer, Virginia. Không lâu sau đó, ông trở thành Aide-de-Camp (Tùy viên) của Tướng Leonard Wood, Tham mưu trưởng Lục quân. Trong nhiệm vụ này, ông quen biết Đại lá Henry L. Stimson, sau này là Bộ Trưởng Ngoại Giao kiêm Bộ Trưởng Chiến Tranh thời Đệ II Thế Chiến. Sự quen biết này ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống và sự nghiệp của Patton sau này.

        Khi Thiếu Tướng Pershing được chọn để chỉ huy quân đội Hoa Kỳ tham chiến về phía Đồng minh trên đất Pháp vào mùa Xuân năm 1917, ông yêu cầu cho Patton theo ông, lúc ấy mang cấp bậc Đại úy.

        Patton đặt chân lên đất Pháp với các đơn vị đầu tiên của Hoa Kỳ khi cuộc chiến Thế giới lần thứ nhứt bùng nổ. Và trở thành Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh của Tướng Pershing cho đến đầu năm 1918, khi Pershing quyết định thành lập một Quân đoàn Thiêt giáp. Thiếu Tướng Samuel D Rockenbach làm Tư Lệnh Quân đoàn này và Đại-úy Patton được thuyên chuyển đến phục vụ dưới quyền ông.

        Patton được chỉ định nhiệm vụ huấn luyện và chỉ huy hai tiểu đoàn thiết giáp hạng nhẹ, bao gồm các đại đội từ A đến F, và sau đó trở thành Trung đoàn 1 Thiết giáp, thuộc Quân đoàn Thiết giáp Hoa Kỳ. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ mới này, ông theo học các quân trường Thiết giáp ở Anh và Pháp.

        Sau đó, ông thiết lập một trung tâm huấn luyện cách phía Nam Langre ở Haute Marne (Pháp) một vài dặm. Hai tiểu đoàn của Patton được trang bị loại thiết giáp Renault hạng nhẹ

        của Pháp, sau khi huấn luyện xong cải danh thành Trung đoàn 1 Thiết giáp và được đưa đến ở khu vực St. Michel và Argonnẹ.

        Loại thiết giáp Renault này chỉ có hai kỵ binh : tài xế và xạ thủ, trang bị loại đại bác 37 ly. Trong thời gian này thiết giáp không có các hệ thống truyền tin, thành thử người chỉ huy (cũng là xạ thủ) chỉ ra lịnh cho tài xế bằng cách lấy chân đá. Đá nhẹ vào lưng cố nghĩa là tiến về phía trước; muốn quẹo về phía nào thì đá vào vai phía đó. Đá vào đầu một cái tức là bảo ngừng lại, và nhiều đá vào đầu tức là thực lùi về phía sau.

        Chiến thuật thiết giáp trong thời gian này không có tính cách chọc thủng hoặc tấn công như hiện thời, chỉ thuần túy bao che cho bộ binh. Thiết giáp dàn hàng ngang phía trước và bộ binh tiến lên cách 100 thước phía sau. Тốс lực tối đa là 4 dặm giờ với loại xăng thường và 5 dặm với loại xăng máy bay.

        Vào mùa hạ năm 1918, Trung đoàn 1 Thiết giáp của Patton trở nên một đơn vị thiện chiến và gây nhiều tiếng tăm. Cũng nên biết, từ khi rời khỏi West Point, vào ngày 18 tháng 1 năm 1909, với cấp bậc Thiếu úy, ông phải mất 7 năm mới lên Trung úy, (tuy nhiên trong thời bình sự thăng cấp này có thể là quá mau, vì có nhiều sĩ quan phải mất đền 15 năm mới lên một cấp). Nhưng như vậy cũng chưa đáng ngạc nhiên. Patton được thăng cấp Đại úy, Thiếu tá, Trung tá và Đại tá chỉ trong vòng 22 tháng sau đó, từ giữa năm 1916 đến năm 1918.

        Vào ngày 1 tháng 10 năm 1918, một tháng mười một ngày trước sinh nhựt thứ 33, Patton được thăng cấp Đại tá, chỉ huy một Lữ đoàn Thiết giáp ở Pháp. Có lẽ ông sẽ được thăng cấp Tướng nếu không có hai «tai nạn quan trọng» : thứ nhứt là sức khỏe của ông, ông bị thương vào ngày 16 tháng 9 năm 1918 trước đó trong một cuộc tấn công ở Meuse — Argonne, và Đệ Nhứt Thế Chiến chấm dứt trước khi ông binh phục.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2019, 08:15:37 pm »

     

Vẻ kiêu hãnh và trầm tư hiện rõ trên khuôn mặt lúc ông còn là sinh viên tại viện Quân Sự Virginia. Sau đỏ ông tình nguyện vào trường Võ bị West-Point.


Ảnh chụp Patton lúc ông còn là Thiếu úy Kỵ binh tại Fort Sheridan năm 1910.


Patton đoạt giải « băng xanh » trong cuộc đua ngựa năm 1929.


Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2019, 08:18:55 pm »


GIỮA HAI CUỘC CHIẾN

        Năm 1919, sau chiến tranh, Patton trở về Hoa Kỳ với Lữ đoàn 1 Thiết giáp của ông, trú đóng ở căn cứ Meade, Maryland, ông miễn cưỡng tiếp tục nhiệm vụ phát triền về chiến thuật và kỹ thuật của chiến xa. Tuy nhiên công việc có hơi quá sớm vào thời ấy.

        Ngàv 16 tháng 10 năm 1939, Tướng Marshall giữ chức vụ Phụ tá Tham mưu trưởng, ông đã từng quen biết Patton ở Pháp. Marshall xem Patton là người đầy đủ khả năng trên phương diện tổ chức, huấn luyện và điều hành binh chủng thiết kỵ Hoa Kỳ trong tương lai. Trước khi đếnHoa-thịnh-đốn nhậm chức, ông nói với phự tá của ông là Trung tá Leonard T. Geron : « Patton là một sĩ quan tài ba nhứt về chiến pháp thiết giáp của quân đội Hoa Kỳ. Tôi xem Patton là người đủ điều kiện chỉ huy những chiếc thiết giáp tân tiến đầu tiên của chúng ta. Ông ta là một sĩ quan cứng đầu, nhưng tôi biết cách xử dụng ông ta. Tỏi muốn Patton ở gần Hoa-thịnh-đốn hơn, nếu cần, có thể dùng ngay ông ta được ».

        Sau đó, việc đầu tiên mà Marshall làm sau khi nhậm chức là thuyên chuyển Patton về Pháo đài Myer, gần Hoa-thịnh-đốn. Thời gian ấy Marshall lãnh nhiệm vụ tổ chức lại quân đội, và ông không trao các chức vụ chỉ huy quan trọng cho bất kỳ sĩ quan nào dưới 50 tuổi. Patton rất thích hợp với chính sách dùng người này của Marshall, vì lúc đó ông đã 53 tuổi.

        Đại tá Patton ở Myer khoảng hơn 8 tháng thì chiến tranh ở Âu Chân bùng nổ qua cuộc vượt hiên giới Ba Lan của Đức quốc xã.

        Thống Tướng Marshall được chỉ định vào chức vụ Tham mưu trưởng quân lực Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 7 năm 1939. Quyết định đầu tiên của ông là thành lập đạo quân thiết giáp với hai sư đoàn đầu tiên.

        Trong vòng 48 tiếng đồng hồ sau khi có quyết định thành lập Sư đoàn 2 Thiết giáp, Marshall đích thân sắp xếp để đưa Patton từ Myer về tổ chức một lữ đoàn thuộc sư đoàn này.

        Vài tuần sau đó, Marshall trao gắn cấp bậc Thiếu Tướng cho Patton.

        Patton trở thành Tư lịnh Sư đoàn 2 Thiết giáp. Đây là đơn vị mà nhiều tướng lãnh mong muốn được nắm trong tay vào thời ấy.

        Sư đoàn của Patton được xem là đơn vị sản xuất Tướng lãnh tương lai cho Hoa Kỳ nhiều nhứt: hơn 30 người. Ngoài ra còn nhiều nhân vật danh tiếng khác đã từng phực vụ dưới quyền Patton, trong số có Chánh án Frank Murphy được gọi nhập ngũ với cấp bậc Trung tá đồng hóa và sau đó được Tổng Thống Roosevelt gọi về chỉ định vào chức vụ Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, và một người nữa là Thượng nghị sĩ Henry Cabot Lodge Jr., tình nguyện vào quân đội và mang cấp bậc Thiếu tá, từng chiến đấu ở Libya khi Sư đoàn 2 Thiết giáp gia nhập vào Binh đoàn 8 Anh. Lodge là một trong những người có công trong việc phát triển chiến pháp thiết giáp thời Đệ Nhị Thế Chiến.

        Đầu mùa Xuân năm 1942, Patton rời khỏi Sư đoàn 2, và được lịnh đến Indio, trong một vùng sa mạc rộng lớn của Hoa Kỳ ở California, để tổ chức công cuộc huấn luyện chiến pháp sa mạc cho binh chúng thiết giáp, vì thời gian đó Hoa Kỷ tin rằng hầu hết các trận đánh chiến xa sẽ xảy ra trong sa mạc, có thể là ở Libya.

        Sau đó, từ nhiệm vụ ở Indio, Tướng Patton được chỉ định chỉ huy cuộc hành quân «Torch » (Bó đuốc) — Mật danh của cuộc đổ bộ lên Bắc Phi.

        Lúc đó Patton, đã mang cấp bậc Trung Tướng, rời khỏi sa mạc để đến Hoa-thịnh-đốn vào ngày 30 tháng 7 năm 1942. Lúc 6 giờ chiều ngày 4 tháng 8, Patton được lịnh bay sang Anh. Sáng ngày hôm sau ông lên đường cùng với Đại Tướng Không quân J.H Doolittle (Tư lịnh Không lực 8 Hoa Kỳ) và 5 sĩ quan Không quân cao cấp khác. Tại Anh, hai vị tướng này kết hợp với các tướng Eisenhower, Tổng Tư Lịnh Lực Lượng Đồng Minh, đóng bản doanh ở Luân-đôn; Tướng Lucian Truscott, và Tướng Mark c. Clark để thảo luận kế hoạch « Torch ».

        Các cuộc thảo luân kéo dài và dứt khoát vào đầu tháng 9. Patton trở về Hoa Kỳ.

        Cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện ở bờ biển Địa Trung Hải, phía bắc Phi Châu thuộc lãnh thổ Oran và Algiers, và một cuộc đổ bộ khác ở bờ biển Địa Trung Hải thuộc Ma-Rốc. Cả ba đều đặt dưới quyền điều động tổng quát của Patton.

        Tuy nhiên cuộc đổ bộ chánh sẽ là bờ biển Ма-rốс, ở Fedala, một thành phố nhỏ cách thành phố lớn nhất của Ma-Rốc là Casablanca 10 dặm với Sư đoàn 3 Bộ binh của Tướng Anderson và chính Patton chỉ huy cuộc đổ bộ này. Cuộc đổ bộ thứ nhì ở Safi, phía nam Casablanca, chỉ huy bởi Trung Tướng Ernest Harmon, Tư lịnh Sư đoàn 2 Thiết giáp. Và cuộc đổ bộ thứ ba ở Lyautey, chỉ huy bởi Thiếu Tướng Lucian Truscott.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2019, 08:20:14 pm »

   
CUỘC ĐỔ BỘ LÊN MA-RỐC ROBERT ĐẾN

         Ngav khi hoàng hôn vừa xuống vào ngày 7 tháng 11 năm 1942, đài phát thanh Anh quốc, thường chen vào các chương trình hướng về Bắc Phi, loan một tin khó hiểu, vỏn vẹn chỉ có hai tiếng :

        « Robert đến ! »

        Tất cả hệ thống truyền thanh của đài BBC, hướng về các xứ bị phe Trục chiếm đóng, cũng thường phát đi nhiều ám hiệu vắn tắt tương tự, « Robert đến » là một trong những ám hiệu được xen vào các chương trịnh trong đêm thứ bảy này. Thính giả ở vùng đất địch thường xuyên nghe những chương trình ca nhạc của đài bí mật mà không làm sao hiểu được ý nghĩa của hai chữ này như thế nào. Ngay cả những người được gài trên các mặt trận bí mật để chiến đầu chổng lại Phát-xít cũng không hiểu đầu đuôi ra sao, trừ phi các công điện đặc biệt này gởi thẳng cho họ, hiển nhiên là được mã hóa, và chỉ có họ mới có trong tay chìa khóa mật mã diễn dịch mà thôi!

        Cỏ nhiều công điện nhằm phá rối địch quân thường mệnh danh là các cuộc « Săn Ngỗng Trời » để họ phí công ra các cuộc lùng địch. Các công điện phát thanh công khai thường chứa đựng nội dung mù mờ khó hiểu, được phát xen kẽ vào các chương trình khác. Tuy nhiên, có nhiều công điện có ý nghĩa thực sự. Đó là chỉ thị cho những điệp viên bí mật của đồng minh nằm phia sau các phòng tuyến địch để họ chuẩn bị trước cho các cuộc hành quân sắp khai diễn.

        « Robert đến », một công điện thực sự có ý nghĩa. Hai tiếng này để gởi cho một nhóm chống Phát-xít ở Algeria và Ma-Rốc thuộc Pháp biết rằng, cuối cùng « Robert » sắp đến để giải phóng xứ sở của họ.

        Vào một ngày thứ bảy yên tĩnh và mát dịu này, Ma-Rốc đang đón mừng nền hòa bình giả tạo mà chính phủ Vichy đã chấp nhận một cách ti tiện từ tay của Adolf Hitler sau cuộc đầu hàng từ năm 1940 ở Compiegne. Từ 2 giờ sáng qua ở Rabat, thủ đô thần thánh nơi mà Mohamed V, vị hoàng đế bù nhìn của xứ Hồi giáoMa-Rốc cùng Đại Tướng Auguste Nogues, thống sứ của Vichy « trị vì », không hề tỏ ra một chút nghi ngờ rằng cuộc chiến sẽ bất ngờ

        bùng nổ trong vòng 12 giờ đồng hồ tới đây trên miền duyên hải cổ xưa ở vùng cao nguyên Barbaree.

        Tại Ma-Rốc, những kẻ chinh phục thực dân Pháp đang du hí và nghỉ xả hơi. Một ủy ban đình chiến của Đức, gần 200 nhân viên, dưới quyền một tướng lãnh đeo kính một mắt tên là Erich von Wulisch, nguyên là một cố vấn ôn hòa thân cận của Hitler, Wulisch với sự khôn ngoan đầy đủ của một nhà ngoại giao lãnh nhiệm vụ có tính cách tế nhị nầy. Nhưng ủy ban này dần dần sinh ra hưởng thụ và lười biếng bởi nhiệm vụ không mấy gì làm bận rộn này. Do đó, khi một hiệu thính viên nhận được các ám hiệu phát đi liên tục trên đài BBC và đệ trình lên Đại Tướng Von Wulisch ông ta không thèm lưu ý đến mà còn xem như bị phá rằy các cuộc vui của ông. Ông luôn luôn cảm thấy tươi tỉnh và an toàn trong chức vụ ngồi chơi xơi nước này.

        Trên một sân thượng ở Casablanca. Trong một cái hóc giống như chuồng bò câu, một thanh niên Pháp mặt xanh xao nhưng nhanh nhẹn, cũng đang theo dõi đài BBC. Anh ta là « Ajax » một hiệu thính viên giỏi, được gài ở Ma-Rốc, đang điều khiển đài phát thanh « Lincoln », một trong những đài bí mật của gián điệp Hoa Kỳ hoạt động trên xứ này nhằm chuẩn bị cho những biến cố trong tưong lai. Nhưng chắc chắn « biến сố » nầy cũng sẽ không được họ tiết lộ, bởi vì chinh họ cũng không biết.

        Một vài tháng nay, Ajax thường chuyển đi một số tài liệu tình báo mà Luân-đôn và Hoa- thịnh-đốn yêu cầu, hầu hết bằng hệ thống truyền tin thông thường. Anh ta cũng đã thông báo các sự kiện này cho một số điệp viên Hoa Kỳ ở Ma-Rốc như David King, W. Stafford Reid và Kenneth W. Kendar ngụy trang dưới chức vụ tùy viên của tòa Tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Casablanca. Vào tháng 10, King nói với Ajax hãy lưu ý một ám hiệu khẩn cấp đặc biệt : « Robert đến » thế thôi, nhưng theo linh tính anh ta cảm thấy « Robert » này không phải là một du khách tầm thường.

        Bây giờ vào tối thứ bảy Ajax mở máy tìm đài BBC như thường lệ. Đợi chờ tin tức vẫn không có gì, anh ta tỏ vẻ bồn chồn đưa mắt nhìn xuống hải cảng đen thẫm dưới bầu trời không sao. Anh ta lại nhìn xa mãi về phía bên kia là các đập đá ngăn nước. Hoàn toàn yên tĩnh ngoại trừ tiếng sóng vỗ rì rào.

        Trong đêm tối Ajax có thể nhìn thấy chiếc tàu chiền Jean Bart của Phảp buông neo dọc theo Mole de Commerce, một pháo đài phòng duyên nằm trên mũi đất nhô ra biển El Hank, một điểm xa hơn nữa là các ổ trọng pháo 100 ly đặt ở bờ bên kia hải cảng chĩa mũi về Fedala.

        Phia sau Ajax, chiếc máy thâu thanh Hallierafter màu xám phát chương trình của đài BBC bắt đầu bằng giọng lảnh lót của xướng ngôn viên. Cho đến đúng 6 giờ 38 phứt, Ajax mới nghe thấy hai tiếng « Robert đến ».

        Đây không phải ià công điện đầu tiên mà anh nhận được để chuyển cho mấy ông bạn « tùy viên Hoa Kỳ » của anh ta. Anh ta đã quen nghề lắm rồi, nhưng công điện này đã làm anh ta giật bẳn người, chẳng khác nào chạm phải điện.

        « Xong rồi ! Xong rồi ».

        Anh ta nhảy dựng lên như cố làm cho mình cao hơn chút nữa, vai anh lắc lia lắc lịa, hai bàn tay của anh nắm chặt lại rồi đấm vào nhau. Nhưng thần trí gần như hôn mê của anh chỉ kẻo dài một vài giây. Ajax lại quần quật trở lại bên chiếc máy thâu thanh. Đồng thời anh phái cô bạn gái Marie, một người đàn bà hai mươi tuổi có nước da ngăm ngăm khá hấp dẫn, tìm Staffor Reid. Đó là một trong ba nhân viên thuộc tòa lãnh sự ở Palace de la Fraternity. Reid nguyên là một kỹ sư kiến trúc ở Nữu-ước bỏ nghề sang làm gián điệp, hiện giữ trong tay chìa khóa mã hóa của ám hiệu khó hiểu nầy.

        Khi Ajax xong công việc, anh ta bước xuống ga-ra bôn cạnh hải cảng, nơi mà Reid và anh ta thường hẹn gặp nhau. Thế rồi, sau khi đắn đo, vì thật ra nhiệm vụ của Ajax không cần phải biết ý nghĩa của những công

        điện như thế, anh ta hỏi:

        — Xin lỗi, ông Reid...

        — Có gì đâu Ajax. Có điêu gì anh muốn

        nói ?»

        — Robert là ai ?

        Reid có vẻ nghĩ ngợi, vì đây là một bí mật mà ông ta chỉ được thảo luận với ba người Pháp khác ở Morocco, còn Ajax không phải trong ba người này. Trong phút giày phấn khởi bất ngờ, ông ta không thể giữ kín được :

        — Robert chính là Patton, Ajax!

        Chựt ông ngừng ngang ở đó,

        — Pattohn ?

        Ajax hỏi, mặt có vẻ bực bội.

        — Pattohn ? Là ai, ông Reid ?
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2019, 08:29:05 pm »

       

Patton lúc còn chơi tronq đội banh « Xừng xanh » của ông tại quân trường Fort Benning, Georgia.






Trong một pha thao đợt huấn luyện, Patton đang biểu diễn điều khiển một trong những thiết giáp của ông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2019, 08:31:24 pm »

        
* * *

        « Pat-tohn », dĩ nhiên là George Smith Patton Jr. một tướng lãnh Hoa Kỳ nóng nảy, nhậm lẹ và cao lớn, mới nổi tiếng chưa được bao lâu. Vị tướng này qua nhiều hành động bốс đồng, ở Hoa Kỳ người ta gọi ông là «anh hùng rơm ». Stafford nói như vậy, nhưng không đúng hoàn toàn. Vì « Robert » là ám hiệu của « Torch » (Bó đuốc), tên một cuộc hành quân lớn và liều lĩnh của Đồng minh được đưa ra trong vòng năm tháng trơ lại đây, nhằm thiết lập một bàn đạp ở Bắc Phỉ thuộc Pháp.

        « Torch » cũng là tên cua một lực lượng mệnh danh lực lượng Đặc nhiệm Tây Phương dưới quyền của Trung Tướng Patton, hiện đang xúc tiến công việc vượt đại dương dưới sự yếm trợ qui mô của hạm đội Hoa Kỳ đổ bộ lên bờ biển Ma-Rốc thuộc Pháp. Lực lượng này có một quân số gồm 33.845 binh sĩ trẻ tuổi Hoa Kỳ, được xếp trên 29 quân vận hạm, lướt sóng theo hình chữ chi qua các hải vực dày đặc tiêm thủy đỉnh Đức.

        Vào ngày 7 tháng 11 này, không đầy 4 ngày sau lễ sinh nhựt thứ 57 và kỷ niệm 33 năm phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ của ông. George Patton đang « di chuyển với tốc độ 14 hải lý » hướng về những gì mà ông ưa gọi là « điểm hẹn với định mạng ». Hôm trước đó, ông đã viết sẵn một bức thư cho phu nhân của ông và định bụng sẽ bỏ vào hộp thư ở Casablanca, có mấy chữ như sau : « Hình như cả cuộc đời anh đều qui hết vào chuyến đi này ».

        Và trong quyển nhựt ký, ông viết : « Tôi không thể nào biết được có phải tôi là một gã của định mạng hay là một tên ngốc đầy may mắn. Nhưng tôi nghĩ là có thiên vận. Năm ngày nữa sẽ biết... Mấy hàng chữ này sẽ giống như đồ bỏ, hoặc một lời tiên tri, trong vòng một tuần ».

        « Torch» cần một ngưỉri có thiên vận may mắn. Điều này không thể nghi ngờ ở Patton.

        Cnộc hành quân quan trọng đầu tiên của Hoa Kỳ trong thời Đệ Nhị Thế Chiến này giống một cuộc phiêu lưu liều lĩnh hơn là một hoạt động quân sự. Ngồi trong văn phòng nhỏ bé của ông trên chiếc tuần dương hạm hạng nặng Augusta, soái hạm của hạm đội chuyển vận lực lượng Đặc nhiệm Tây phương, Patton cảm thấy mình giống như nhân vật Dauphin trong kịch bản King John của Shakespeare. Ông cố nhái theo giọng của nhân vật vở kịch này: « Hãy tim nơi tốt và ngủ kỹ đêm nay, để thức sớm và tiếp tục chuyến phiên lưu đầy thích thú vào ngàv mai».

        Nhiệm vụ của Patton vừa đơn giản vừa tế nhị. Theo đó ông sẽ đổ bộ lực lượng của ông vào lúc 4 giờ sáng ngày 8 tháng 11 ở ba địa điểm then chốt trên bờ biển Ma-Rốc trải dài 240 dặm, nơi mà một thế kỷ trước đây bọn hải khấu Barbary thường ẩn náu — nằm ở phía Nam Safi, phía Bắc hải cảng Lyautey và trung tâm vùng Fedala. Ông được chỉ thị « bảo vệ » chế độ Bảo hộ của Pháp càng nhanh càng tốt — tránh đổ máu nếu có thể, hoặc «chinh phục » nếu cần.

        Nhưng kế hoạch cũng đầy vẻ hàm hồ, và nhiêu gút mắc, chẳng phải là một trò chơi đơn giản như người ta tưởng. Patton được cho biết, theo một nguồn tin mật, chắc chắn các sĩ quan Pháp ở Ma-Rốc sẽ tiếp đón lực lượng của ông mọi cách niềm nở và cuộc đổ bộ của ông sẽ không gặp một sự đề kháng nào. Nhưng ông phải nghi ngờ. Ngay cả khi bước chân cuối cùng của chuyến du hành đại dương này sắp đặt xuống, nghĩa là lúc Patton chỉ còn cách điểm định mạng của ông 20 dặm, ông vẫn chưa biết chắc chắn việc gì sẽ xảy ra khi lực lượng của ông bước lên bờ. Mấy tên Pháp hay dời đổi, khó hiểu, không thể nào tin được. Trường hợp sau cùng, họ quyết định chống đối thì sao ?

        Lực lượng của Patton khoảng 4 sư đoàn, tất cả những gì mà Hoa Kỳ có thể đặt vào tay ông trong cuộc hành quân đầu tiên lớn nhứt trong cuộc chiến này, xuyên qua hai đại dương cùng một lúc. Không có một binh sĩ nào trong lực lượng này đã từng chiến đấu. Toàn là những người được huấn luyện vội vã, để hoàn tất quân số vào giây phút cuối cùng. Một sư đoàn được giao cho 400 sĩ quan chưa biết qua một khóa huấn luyện căn bản nào.

        Ở Ma-Rốc, người Pháp có 100.000 quân, tất cả đều được huấn luyện kỹ càng, cấp chỉ huy toàn là các sĩ quan đầy đủ kinh nghiệm. Trong số lực lượng này, có những đơn vị người Boumier thuộc vùng Berber, họ chiến đấu dũng cảm, không bao giờ lùi bước và cũng không bao giờ thắc mắc bất kỳ vấn đề nào do cấp chỉ huy ban ra. Những binh sĩ này không thề nào hy vọng vào các tổ chức bí mật lôi cuốn hoặc gây ảnh hưởng đổi với họ được.

        Trước ngày Patton rời Hoa-thịnh-đốn, Paul Frederick Catbert, cựu lãnh sự Hoa Kỳ ở Ma Rốc, hiện thời là cố vấn ngoại giao của ông, mang đến cho ông một tài liệu mà Bộ Ngoại giaо Hoa Kỳ đã chuẩn bị sẵn để ông có thể thích nghi, đối phó với những biến cố bất ngờ mà ông có thể gặp. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn gói kèm theo cả ba bản nháp về một thỏa ước đình chiến để nếu có thể, ông ký với người Pháp khi đặt chân lên Ma-Rốc. Mỗi bản nháp có một nội dung và giọng điệu khác nhau.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM