Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:52:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Bạc Liêu 30 năm kháng chiến (1945 - 1975)  (Đọc 10423 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:07:57 am »

Thực hiện Nghị quyết Xứ ủy và Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ, bên cạnh xây dựng vùng căn cứ kháng chiến, Xứ, Khu và tỉnh còn chăm lo việc sản xuất vũ khí trang bị cho lực lượng. Xưởng quân giới Quân khu 9 đặt ở rừng U Minh được tăng cường thêm để đàm đương nhiệm vụ xưởng Nam Bộ. Bộ Tư lệnh Nam Bộ đã bổ sung cho xưởng nhiều máy móc và nhất là kinh nghiệm, sản xuất các loại vũ khí có sức công phá lớn; các loại súng lăng xà bom, súng không giật SSA, SSB ra đời. Sửa chữa các khẩu pháo 105mm, 90mm ta thu được của giặc đang cất giấu đưa sử dụng để thành lập đơn vị bộ đội pháo binh. Binh công xướng của dân quân tỉnh và xưởng của công an tỉnh được sáp nhập làm một để phát triển năng lực và kỹ thuật sản xuất đủ đáp ứng yêu cầu chiến đấu của bộ đội và dân quân trong tỉnh. Phong trào cải tiến, phát triển vũ khí diễn ra sôi nổi trong các xưởng của tỉnh và của Khu.

Song song với việc xây dựng phát triển vùng nông thôn giải phóng, sản xuất vũ khí đảm bảo cho nhu cầu chiến đấu, việc tăng cường sức chiến đấu của đơn vị lực lượng vũ trang cũng được coi trọng.

Tử cuối năm 1949, lực lượng Vệ quốc đoàn hai tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng sáp nhập thành Liên trung đoàn 123 - 125 do đồng chí Lầu, tiếp đó là đồng chí Trần Thắng làm trung đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Hoàng (Huỳnh Chiêu) và sau đó đồng chí Đào Công Tám làm chính trị viên; các đồng chí Thơm và Nguyễn Tấn Khương làm trung đoàn phó. Bên cạnh hệ thống Vệ quốc đoàn còn có hệ thống dân quân từ tỉnh đội bộ đến xã đội. Quốc gia tự vệ cuộc trở thành Ty Công an, quốc vệ đội trở thành công an xung phong, nhiệm vụ chủ yếu là công tác bảo vệ an ninh chính trị, còn trực tiếp tham gia chiến đấu do lực lượng vệ quốc đoàn và dân quân du kích đảm nhiệm.

Cuối năm 1950, theo sự chỉ đạo của Xứ ủy và Bộ Tư lệnh Nam Bộ về tăng cường xây dựng đơn vị chủ lực mạnh, mỗi quân khu có 1 trung đoàn. Khu 9 tập trung xây dựng Trung đoàn Cửu Long, lực lượng chính được sáp nhập từ 2 trung đoàn Đồng Tháp và Tây Đô với các tiểu đoản 307, 308 và 410. Sở chỉ huy trung đoàn Cửu Long đứng chân và hoạt động tác chiến chủ yếu dựa trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

Về xây dựng lực lượng vũ trang trong tỉnh, từ đầu năm 1950, bộ đội địa phương huyện được xây dựng cấp đại đội bằng cách đưa các đại đội từ các Liên trung đoàn về tăng cường, dồn du kích. Tuy nhiên do thiếu lực lượng, mới có các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Cà Mau có đại đội, các huyện vùng giải phóng mới có đơn vị cấp trung đội.

Về hoạt động quân sự, tháng 4 năm 1950. địa phương quân huyện Vĩnh Lợi, đơn vị vũ trang thị xã Bạc Liêu phối hợp với tiểu đoàn 410 tham gia chiến dịch Sóc Trăng làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt là chính sách ruộng đất. Nếu đồng bào Khư-me rời bỏ vùng tạm chiếm trở về quê cũ, sẽ được trả lại ruộng đất, gia đình nào không có đất sẽ được tạm cấp như đồng bào Kinh. Đối với lực lượng “vũ trang tự vệ” do Pháp trang bị ở các sóc, ta chỉ tước vũ khí, giáo dục rồi thả tại chỗ, kết hợp tuyên truyền miệng và phân phát hàng chục nghìn truyền đơn tiếng Khơ-me đã có ảnh hưởng rất lớn, làm cho đồng bào Khơ-me ở vùng địch tạm chiếm thấy được chủ trương, chính sách của Việt Minh lả đúng đắn.

Phối hợp với chiến dịch Long Châu Hà của Quân khu mở cuối năm 1950, bộ đội và dân quân du kích trong tỉnh vận động nhân dân mở đợt phá hoại với quy mô lớn trên lộ 4, đồng thời bao vây uy hiếp, bắn tin địch ở các đón bót, hàng vạn dân quân đánh bức nhiều đoạn lộ Tắc Vân - Hộ Phòng, Giá Rai - Hòn Bình, gây cho địch nhiều thương vong và trở ngại trên tuyến lộ giao thông từ Bạc Liêu đi Cà Mau.

Trên phạm vi cả nước, ngày 12 tháng 8 năm 1950. Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mà chiến dịch biên giới Cao Bắc Lạng Sau 28 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, dũng cảm (từ 16-9 đến 14-10-1950) quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn trên chiến trường, loại khỏi vòng chiến đấu trên 8.000 tên địch, chiếm một nửa lực lượng cơ động của Pháp ở miền bắc Đông Dương, giải phóng 35 vạn dân, với diện tích 4.500km2 đất đai, 5 thị xã. 13 thị trấn và một dải biên giới dài 760 km, mở rộng vùng căn cứ địa Việt Bắc nối liền với phe xã hội chủ nghĩa.

Ở chiến trường Nam Bộ, quân địch gần như không có hoạt động gì đáng kể, chỉ tăng cường chốt giữ các trung tâm tỉnh lỵ, quận lỵ và hệ thống tháp canh dọc các tuyến lộ giao thông chủ yếu, còn đại bộ phận lực lượng tập trung cho chiến trưởng Bắc Bộ.

Tuy nhiên năm 1960, tình hình hoạt động quân sự của ta trên chiến trường Nam Bộ nói chung, tỉnh Bạc Liêu nói riêng lại mắc phải một số sai lầm. Đó là tư tưởng nôn nóng, muốn ăn to đánh lớn; tập trung lực lượng chủ lực đông nhưng hiệu quả chiến đấu không cao, ngược lại phong trào chiến tranh du kích ở các địa phương bị giảm sút nghiêm trọng.

Trong khi đó trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, địch tái chiếm 8 đồn, máy bay và pháo của địch gây cho ta một số thiệt hại đáng kể, phá hư 230 lò than, 7 lò đường, bắn chết gần 200 trâu bò, ném bom trúng đài phát thanh Nam Bộ ỏ kinh 9 Biển Bạch và cơ sở y tế Nam Bộ ở Cái Sắn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:10:29 am »

III. CÙNG CẢ NƯỚC CHUẨN BỊ TỔNG PHẢN CÔNG

Sau thất bại nặng nề ở chiến trường Bắc Bộ trong chiến dịch Cao Bắc Lạng của ta, Chính phủ Pháp điều tướng Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi (De Lattre de Tassigny) Tổng thanh tra quân lực Pháp, sang Đông Dương đảm nhiệm chức Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, nắm cả quyền chỉ huy dân sự lẫn quân sự. Đờ Lát chủ trương lập “vành đai trắng”. Mỹ và Pháp ký hiệp ước viện trợ cho quân đội “quốc gia”, cung cấp tối đa cho ngụy quân Việt Nam. Chính quyền bù nhìn ra lệnh tổng động viên, nâng quân số từ 65.000 quân (năm 1950) lên 110.000 (năm 1951); ở Bạc Liêu từ 2.400 tên tăng lên 3.600 tên. Chúng tiếp tục đưa quân lấn chiếm một số vùng đông dân và có nhiều tín đồ các tôn giáo như xã Minh Phố, Láng Dài, Cầu Trâu, Chệt Én, Cây Giang, lầu Huyện Kệ... mở rộng vùng kiểm soát quanh thị xã Bạc Liêu, uy hiếp một phần của huyện Giá Rai và xã An Xuyên huyện Cà Mau; tăng cường cho máy bay bắn phá vùng giải phóng nơi chúng nghi là có căn cứ của ta, nhiều nhà cửa của đồng bào bị đốt cháy, làm cho một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hoang mang dao động.

Đầu năm 1951, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định phân tán đơn vị chủ lực tập trung về các địa phương hoạt động, hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh vùng địch hậu. Các huyện Ngọc Hiển, Trần Văn Thời xây dựng địa phương quân lên cấp đại đội, đồng thời đưa lực lượng lên phối hợp với các lực lượng vũ trang hai huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi hoạt động tác chiến và phá lộ Đông Dương.

Trong chiến dịch Sóc Trăng II do Quân khu mở (tháng 5 năm 1951), bộ đội tỉnh Bạc Liêu có nhiệm vụ phối hợp chiến đấu ở mặt trận phụ, một bộ phận lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với tiểu đoàn 410 của Miền tổ chức trận vận động tập kích quân địch càn quét tại Vĩnh Hưng, ta tiêu diệt hơn 300 tên địch. Trận cầu Sập, bộ đội tỉnh yểm hộ cho trung đội chiến sĩ Hòa Bình(1) làm nhiệm vụ xung kích diệt đồn. Trung đội chiến sĩ Hòa Bình đóng giả là đơn vị lính Tây đi patrui gọi lính đồn Cầu Sập mở cửa. Nhưng mật hiệu không rõ ràng, bị lính đồn chống lại, các chiến sĩ Hòa Bình chiến đấu rất dũng cảm nhưng không phá được đồn, hai chiến sĩ hy sinh, một bị thương. Tuy trận đánh không thành, nhung thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Hòa Bình.

Tháng 6 năm 1951, Tỉnh ủy mở đợt vận động địa chủ khai minh hiến điền. Hàng chục địa chủ tỉnh Bạc Liêu đem ruộng đất hiến cho chính quyền cách mạng, Toàn bộ tố đất do địa chủ khai minh hiến được ta đem tạm cấp cho nông dân.

Tháng 7 năm 1951, Xứ ủy Nam Bộ có quyết định giải thể tình Rạch Giá, sáp nhập hai huyện Hồng Dân và An Biên vào tỉnh Bạc Liêu. Từ đây tình Bạc Liệu có thêm hai đơn vị hành chính cấp huyện, địa bàn vùng giải phóng và khu căn cứ kháng chiến được mở rộng, lực lượng vũ trang càng phát triển, tạo khả năng mới cho cuộc kháng chiến ở tỉnh.

Cuối năm 1951, phong trào du kích chiến tranh có những chuyến biến rõ rệt. Du kích các xã Thạnh Thới, Minh Diệu, Đào Văn Viết, Vĩnh Mỹ, Long Điền và Châu Thới liên tục tổ chức bao vây, bắn tỉa, tập lách, phục kích tiêu diệt nhiều địch, kềm chân địch trong các tháp canh, lô cốt. Ta bố trí nhiều bãi lửa, làm địch hạn chế đi biệt kích vào các ấp xã vùng ven. Về xây dựng lực lượng vũ trang ta, trong năm đã có trên 65.000 nam nữ thanh niên hăng hái lên đường gia nhập lực lượng bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực.

Từ cuối năm 1951, Xứ ủy Nam Bộ xác định nhiệm vụ “phát triển chiến tranh du kích, kềm chân địch ở Nam Bộ”. Xứ ủy giải quyết một loạt vấn đề về tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang để đẩy mạnh cuộc chiến tranh du kích chống càn quét và bình định lấn chiếm, ở miền Tây, Trung đoàn Cửu Long giải thể được tăng cường cho bộ đội địa phương tỉnh huyện, chỉ còn lại tiểu đoàn 307, các trung đoàn được giải thể, đưa lực lượng tăng cường cho các tỉnh. Từ đây tỉnh đội bộ dân quân chỉ huy thống nhất cả bộ đội thường trực tỉnh, huyện và dân quân du kích, để huy động cả lực lượng vũ trang trong tỉnh dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh nhân dân địa phương.

Lực lượng vũ trang ba thứ quân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Tỉnh ủy, phong trào chiến tranh nhân dân trong tỉnh phát triển mạnh mẽ. Năm 1952 quân và dân tỉnh Bạc Liêu đã đánh trên 40 trận lớn nhỏ, diệt hàng trăm tên địch.


(1) Trung đội Hòa Bình gồm anh em lính lê dương - Âu Phi chạy ra hàng ngũ kháng chiến Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:11:41 am »

Tháng 1 năm 1952 tiểu đoàn 410 cùng với lực lượng vũ trạng huyện Cà Mau và du kích xã Tân Thành tiến công đồn Đầu Dừa cạnh nhà thờ Thiên chúa giáo Cà Mau. Đồn do 1 trung đội địch đóng giữ, được xây dựng kiên cố, có hảng rào thép gai bảo vệ chung quanh khá dày. Lực lượng ta do tiểu đoàn trưởng Phạm Ngọc Thảo, chính trị viên Vũ Thượng Liên và Trần Đình Khôi, huyện đội trưởng Cà Mau chỉ huy.

Tiểu đoàn cùng lực lượng du kích bí mặt tiếp cận cắt rào gai nhanh chóng áp sát bờ tường. Đại đội 559 do đại đội trưởng Đúp và chính trị viên Lê Quốc Sũng chỉ huy làm đơn vị mũi nhọn, bất ngờ tập kích mãnh liệt và xung phông. Địch chống trả khá quyết liệt, nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm, lực lượng ta đồng loạt xung phong đánh chiếm được đồn. Toàn bộ quân địch trong đồn bị tiêu diệt và bắt sống, chỉ có 4 – 5 tên chạy thoát; về phía ta có sáu đồng chí hy sinh và bị thương.

Cuối tháng 1 năm 1952, lực lượng vũ trang tỉnh Bạc Liêu phối hợp với địa phương quân tỉnh Sóc Trăng đánh trận phục kích ở Lai Hòa - Lạc Hòa phá hủy 10 xe quân sự, tiêu diệt 100 tên địch. Đơn vị địa phương quân huyện Giá Rai đánh tiêu diệt đồn Cây Giang. Công an xung phong thị xã Bạc Liêu bắn bị thương thiếu tá Trương Văn Xương (Cao Đài phản động) giữa thị xã. Lực lượng địa phương quận Giá Rai, Vĩnh Lợi liên tiếp tổ chức nhiều trận đánh vào hệ thống tháp canh của địch trên tuyến lộ 4 từ Bạc Liêu đi Cà Mau.

Ở xã Châu Thới huyện Vĩnh Lợi, ba anh em thanh niên Minh, Mẫn và Vĩnh dùng hai khúc cây đập chết 3 tên lính nguy ở đồn Tân Hùng vào cướp phá làng, xóm thu 3 súng trường. Phát huy gương giết giặc ở Châu Thới xã Minh Diệu huy động 15 chiến sĩ du kích hóa trang dân thường gọi lính đồn ra mua thực phẩm. Khi bọn địch ra, bất ngờ anh em ôm và dùng dao diệt tên đồn trưởng cùng một tên lính khác. Số anh em còn lại nhanh chóng xông vào đồn Ấp Vôn, một số tên hoàng hốt bỏ chạy, số còn lại đầu hàng. Ta thu 5 khẩu súng mas, 3 thùng lựu đạn và trên 3.500 viên đạn.

Ba năm trước lực lượng quốc vệ đội có vũ khí đánh chiếm đồn Ấp Vòn. Lần này chỉ tay không, du kích Minh Diệu lại chiếm được đồn, một chiến thắng nhờ vào lòng dũng cảm và táo bạo.

Như vậy là từ năm 1950 đến năm 1952, Đảng bộ và quân dân tỉnh Bạc Liêu đã chuyển mình mạnh mẽ bằng cách củng cố xây dựng Đảng và xây dựng các lực lượng vũ trang nâng cao tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Lực lượng vũ trang từng bước xây dựng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và khả năng chiến đấu; Đảng bộ thống nhất lãnh đạo lực lượng vũ trang ba thứ quân trong toàn tỉnh, theo sự chỉ đạo của Khu ủy, Phân liên khu miền Tây. Để hợp lý trong việc lãnh đạo, chỉ huy, Ban chỉ huy Tỉnh đội được kiện toàn, bổ sung. Đồng chí Nguyễn Văn Sa, nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 125 của Khu được điều về thay đồng chí Hứa Bá Lộc giữ chức tỉnh đội trưởng Bạc Liêu. Đồng chí Hứa Bá Lộc giữ chức tỉnh đội phó kiêm huyện đội trưởng Giá Rai và sau đó đồng chí xin hẳn xuống làm huyện đội trưởng Giá Rai. Đồng chí Trần Văn Sớm, Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội, sau đó đồng chí Trần Văn Sớm đi học, lần lượt các đồng chí Ung Văn Khiêm, Võ Văn Kiệt kiêm chức chính trị viên tỉnh đội. Tỉnh đội phó gồm có các đồng chí Phạm Tất Khương, Trần Đình Khôi. Ở cấp huyện cũng có sự thay đổi, đồng chí Nguyễn Trường Quang (Chín Phi), ủy viên thường vụ, chính trị viên huyện đội Vĩnh Lợi được điều về giữ chức huyện đội trưởng Cà Mau. Đồng thời với việc kiện toàn, củng cố cơ quan quân sự các cấp, Tỉnh ủy còn chỉ đạo thực hiện tốt chính sách ruộng đất. Riêng năm 1952, tỉnh đã tạm cấp thêm 150.000 héc-ta đất cho nông dân, từ đó nhân dân hăng hái sản xuất, đóng góp nhiều sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến.

Có thể nói năm 1952 là năm thắng lợi về chỉnh đốn nội bộ, nhờ đó các mặt công tác và phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân trong tỉnh đã phát triển và vươn lên mạnh mẽ, đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng tỉnh Bạc Liêu thành căn cứ địa vững chắc cho Xứ ủy, trong đó có các cơ quan đầu não và chỉ huy của Nam Bộ, Quân khu, đưa cuộc kháng chiến có thời gian chuẩn bị chững lại tiến lên trong một thế trận mới, chuẩn bị mọi lực lượng sẩn sàng phối họp với chiến trường chinh Bắc Bộ trong chiến cuộc Đông Xuân năm 1953 - 1954.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:13:15 am »

IV. PHỐI HỢP CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ, ĐỈNH CAO LÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ, KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Trên chiến trường chính, bước sang năm 1953 sau chiến thắng ở Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, ta đã giành lại thế chủ động trên chiến trường, quân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động. Tình thế đó buộc Pháp phải lựa chọn, một là phải thắng nhanh, hai là phải chịu thua ở Việt Nam, chấp nhận cho Mỹ thay thế.

Về phía Mỹ, Mỹ muốn hất cẳng Pháp, quyết không để Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng lọt vào tay cộng sản. Mỹ trực tiếp can thiệp, viện trợ từ 70 - 80% chi phí chiến tranh. Mỹ cũng thỏa thuận với Pháp cử tướng Hăng-ri Na-va đang giữ chức tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Vừa đến Đông Dương, Na-va đã đề ra kế hoạch “18 tháng chuyến bại thành thắng”, buộc Việt Nam đàm phán theo điều kiện có lợi cho Pháp.

Về ta, sang năm 1953, các lực lượng vũ trang ba thứ quân đã có bước lớn mạnh cả số lượng và chất lượng, đủ sức mở những trận đánh lớn và đủ mức kiềm chế lực lượng địch ở vùng sau lưng địch.

Ở Bạc Liêu, sau các đợt “chỉnh huấn”, “chỉnh quân”, gắn với việc thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất cho nông dân, bồi dưỡng sức dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân được kiện toàn củng cố và phát triển mới. Tỉnh đội thành lập mới đại đội 552 cơ động của tỉnh, huyện Cà Mau thành lập đại đội 553, huyện Giá Rai thành lập đại đội 554, mỗỉ xã đều có từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích; dân quân du kích trong toàn tỉnh lúc này đã có trên 56.000 người(1).

Về địch, trên địa bàn Bạc Liêu, ngoài quân số chiếm đóng trước đây, chúng tăng cường thêm 3 tiểu đoàn khinh binh, liên tiếp mở hơn 100 cuộc càn quét, biệt kích lớn nhỏ, đánh phá ác liệt vào vùng căn cứ của ta. Chúng đã huy động cả 3 tiểu đoàn và phối hợp với thủy quân, không quân đánh sâu vào vùng căn cứ các huyện Hồng Dân, Trần Văn Thời, Ngọc Hiển. Địch đóng thêm một số đồn như: Rạch Rắn (4-1953), Cây Giang (5-1953) và lấn chiếm tuyến lộ Giá Rai đi Cái Cùng để kiểm soát vùng kinh tế lúa và muối. Ở thị trấn Cà Mau địch tăng cường 1 tiểu đoàn với ý đồ xây dựng Cà Mau thành căn cứ quân sự, làm đạp đánh phá vào vùng căn cứ của ta. Ở Xẻo Rô - An Biên, địch tăng cường hoạt động do thám, biệt kích. Máy bay địch tăng cường đánh phá nhằm vào cơ quan, công trường, cơ sở sản xuất, các chợ vùng giải phóng, v.v... Tàu chiến địch cũng thường thọc sâu vào các cửa sông Cái Lớn, sông Đốc, Gành Hào, kinh xáng Hộ Phòng... bắt xuồng ghe đánh cá của dân và đốt nhiều nhà dân ở hai bên bờ. Địch còn tung gián điệp, chỉ điểm vào vùng giải phóng dò la tin tức, tiến hành chiến tranh tâm lý, tung tin đồn nhảm nhằm xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng, gây hoang mang trong quần chúng. Ở vùng tạm chiếm, địch tăng cường lực lượng cảnh sát ruồng ráp, hòng đánh dạt cơ sở cách mạng, bắt thanh niên đi lính, cướp giật tài sản lúa gạo của dân.

Bước vào những tháng đầu năm 1953, nhằm chống phá âm mưu càn quét, đánh phá, lấn chiếm của địch, các đơn vị lực lượng vũ trang trong tỉnh mở đợt hoạt động tác chiến liên tục.

Ngày 1 tháng 3 năm 1953, đại đội 552 của tỉnh do đồng chí Giang Pôn chỉ huy, tập kích đồn Rạch Rập. Đồn này do 1 trung đội địch đóng giữ. Nắm chắc quy luật bọn lính đồn thường bỏ bót đi ăn nhậu để súng tại đồn, đồng chí chính trị viên trung đội Ngô Hải Kiệt chỉ huy đơn vị bất ngờ đột nhập vào đồn, một số tên địch bị diệt ngay tại chỗ, còn một tên sống sót bất ngờ bắn trả, đồng chí Kiệt hy sinh. Ta vừa chiếm được đồn thì quân địch ở Cà Mau kịp thời đến viện, ta không kịp thu chiến lợi phẩm.

Trong tháng 2 năm 1953, đại đội 554 huyện Giá Rai kết hợp với du kích các xã Minh Phí, Long Điền Đông diệt 2 đồn và kết hợp ngụy vận bức rút 3 đồn Đốc Béc, Đội Thân và Chệt Niêu.

Ngày 13 tháng 3 năm 1953, đại đội 553 địa phương quận huyện Cà Mau cùng du kích hai xã Tân Lộc và An Xuyên phối hợp với tiểu đoàn 307 chủ lực phân liên khu đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 19 BVN ngụy Cao đài (phái Tây Ninh) do thiếu tá Nhã chỉ huy tại Bào Thúi. Đã nhiều lần tiểu đoàn 307 có mặt là quân địch không dám vào. Được du kích và cán bộ địa phương góp ý, tiểu đoàn 307 về đóng quân được mấy hôm, công khai hành quân về hướng nam Cà Mau rồi đêm về bí mật trở lại ém quân phục kích. Thiếu tá Nhã tưởng như mọi lần, hắn cho gom cả tiểu đoàn 19 BVN đang đóng ở Cà Mau, Tắc Vân, Cây Gừa mở cuộc hành quân càn quét vào Tân Lộc và An Xuyên. Bất ngờ tiểu đoàn 307, đại đội 553 và lực lượng du kích tổ chức vận động bao vây tiêu diệt gọn cánh quân địch rút chạy về Bàu Thúi - Ô Rô, đồng thời chặn đánh cánh quân địch trên lộ xe Tân Lộc. Kết quả ta đã tiêu diệt 300 tên địch, bắt sống 40 tù binh, ta thu toàn bộ vũ khí, bọn lính Cao đài ở ngoài vòng vây giương cờ đạo chạy bán sống bán chết về Cà Mau.


(1) Theo “Lịch sử Đảng bộ Bạc Liêu”
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:13:56 am »

Trong tháng 4 năm 1953, Phân khu miền Tây mở hội nghị chỉnh huấn cán bộ quân sự toàn khu và mở các lớp tập huấn cán bộ quân sự đầu tiên. Các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh Bạc Liêu được Phân liên khu chọn làm điểm chỉ đạo chỉnh huấn. Hội nghị chỉnh huấn đánh dấu bước tiến bộ quan trọng, làm cho lực lượng vũ trang tỉnh nắm vững phương châm, chính sách của Đảng, kịp thời chấn chỉnh những sai lầm hữu khuynh và đề ra kế hoạch chủ động đánh địch. Cán bộ đã sâu sát nắm chắc tình hình đơn vị, thực hiện chủ trương, kế hoạch xác thực hơn.

Sau đợt rèn cán, chỉnh quân, đại đội 552 của tỉnh, được Ban chỉ huy Tỉnh đội theo sát, kịp thời lãnh đạo xây dựng về chính trị tư tưởng, bổ sung đủ quân số và đội ngũ cán bộ cấp đại đội, trung đội, các đại đội địa phương quân huyện cũng được tăng cường củng cố, tuy có chậm nhưng cơ bản vững chắc.

Để lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh, đêm ngày 11 tháng 5 năm 1953, tiểu đoàn 307 phối hợp với đại đội 552 Bạc Liêu tập kích tiêu diệt đồn Hộ Phòng, diệt và làm bị thương 2 trung đội địch, bắt sống 10 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Ngày 15 tháng 5 năm 1953, Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IV họp tại ấp Đất Sét, xã Phú Mỹ. Đại hội đã kiểm điểm tình hình 2 năm qua trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc biệt về chính sách ruộng đất cho dân, về kết quả thu thuế nông nghiệp, về phát động chiến tranh du kích và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ hai năm tới, trọng tâm là phát triển lực lượng vũ trang địa phương chuẩn bị cho tổng phản công. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 17 ủy viên chính thức, 10 ủy viên dự khuyết; Ban thường vụ 5 đồng chí do đồng chí Ung Văn Khiêm, ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Kiệt, Phó Bí thư kiêm Chính trị viên tỉnh đội.

Thực hiện nghị quyết của đại hội, một số đồng chí cán bộ đảng viên có năng lực được tăng cường sang làm chính trị viên các đơn vị lực lượng vũ trang, đồng thời tiếp tục kiện toàn các cấp ủy Đảng trong các đơn vị lực lượng vũ trang. Việc chỉ đạo lãnh đạo bên dưới có kế hoạch sâu sát và chặt chẽ hơn, thường xuyên kiểm tra đôn dốc, các biểu hiện hữu khuynh tiêu cực dần được khắc phục, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên rõ rệt, có đủ khả năng vừa độc lập tác chiến vừa phối hợp với chủ lực Phân liên khu tiến công quân địch giành nhiều thắng lợi.

Trung tuần tháng 5 năm 1953, tiểu đoàn 307 phối hợp với dân quân du kích địa phương tổ chức trận địa phục kích đánh chặn đoàn tàu xe vận tải của địch tại đoạn lộ tẻ cách Tắc Vân khoảng 6 km về hướng Cà Mau, bắn cháy 7 xe quân sự, tiêu diệt 1 đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí, tiếp đó đại đội 931 của tiểu đoàn 307 phục kích diệt 1 trung đội địch đóng tại đồn Tắc Vân.

Để lấy lại uy thế và củng cố tinh thần chiến đấu cho quân ngụy, địch tiến hành liên tục các cuộc càn quét lớn, đánh sâu vào vùng căn cứ ta. Ngày 29 tháng 5 năm 1953, địch huy động 1 trung đoàn, trong đó có 2 tiểu đoàn khinh binh: 15 BVN và 19 BVN phối hợp với thủy quân và không quân yểm trợ do đại tá Lơ Đuých chỉ huy mở cuộc càn sâu vào vùng căn cứ ta. Quân địch tiến nhanh và bất ngờ, chúng đốt phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân trên đường chúng đi qua, từ Chủ Chi, Chợ Hội, Thới Bình đến Cái Tàu, Vàm Tắc Thủ. Tai đây chúng phối hợp với một cánh quân của thị trấn Cà Mau hành quân dọc theo bờ sông Ông Đốc đến kênh xáng Bà Kẹo qua Cái Kẹo, Bờ Đập, một cánh quân khác đánh ra kinh xáng Đội Cường.

Lúc này tiểu đoàn 307 đang luyện quân ở xã Long Điền (Giá Rai) cùng lực lượng công an xung phong Nam Bộ và đại đội 552 của tỉnh Bạc Liêu tổ chức khẩn trương vận động bằng xuồng đuổi bám đánh địch đến rạch Ông Bích xã Khánh Bình cũng không kịp; địch đã đến Bà Kẹo, Thọ Mai. Ta dự đoán địch sẽ đi trở về ngã ba Đầm Cùng, về đường sông Bảy Háp. Bộ đội ta khẩn trương hành quân mang vác nặng vượt qua đồng lầy, sông rạch, ra sức đuổi theo đón đánh địch. Trên đường du kích cùng vác súng theo bộ đội đánh giặc rất đông; đồng thời nhân dân tích cực tiếp tế, giúp đỡ xuồng ghe đưa bộ đội vượt sông. Sau cuộc họp khẩn trương thảo luận quyết tâm chiến đấu, ta triển khai nhanh đội hình phục kích chặn đón địch từ vàm Nhị Nguyệt đến đầu kinh xáng Đội Cường, lúc ấy tàu địch cũng vừa đến, Sở chỉ huy ta đóng tại Bào Vũng xã Tân Hưng. Tham gia chỉ huy trận đánh có đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, tiểu đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Tiên, chính trị viên tiểu đoàn 307; các đồng chí chỉ huy đại đội các huyện Trần Văn Thời và Ngọc Hiển cùng tham gia ban chỉ huy. Đến 9 giờ sáng ngày 30 tháng 6 năm 1953, khi đoàn tàu địch lọt vào trận địa phục kích của quân ta, đơn vị đồng loạt nổ súng, đánh chìm 4 tàu địch đi đầu, 6 chiếc còn lại phía sau phản kích dữ dội và cho bộ binh lên bờ lùng sục. Đến 7 giờ 30 phút ngày 1 tháng 7 năm 1953, bọn địch tổ chức rút theo sông Bảy Háp về Cà Mau, lại lọt vào ổ phục kích của ta. Lực lượng ta cấp tập nổ súng chia cắt quân địch. Sau một giờ chiến đấu ta làm chủ trận địa. Qua hai ngày chiến đấu, ta bắn chìm 4 tàu địch, tiêu diệt 400 tên, thu 300 súng các loại. Chiến thắng Nhị Nguyệt là một bước ngoặt lớn, đánh dấu thời kỳ ta giành lại thế chủ động trên chiến trường Bạc Liêu và Tây Nam Bộ, thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh trong tỉnh phát triển và vươn lên về mọi mặt. Nhân dân nức lòng phấn khởi, ủng hộ cho tiểu đoàn 307 nhiều gà, vịt và hàng trăm xuồng; 13 chiến sĩ của tiểu đoàn 307 hy sinh được nhân dân và chính quyền địa phương tổ chức truy diệu và an táng chu đáo. Tiểu đoàn vận động hàng trăm thanh niên hai huyện Ngọc Hiển, Cà Mau gia nhập thẳng vào tiểu đoàn 307.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:14:25 am »

Về địch, bọn lính “bảo hoàng” trong tỉnh tinh thần hoang mang cực độ. Tiểu đoàn 512 của địch vừa bắt lính bổ sung 520 tên, sau đó đào ngũ mất 100 tên vì sợ đẩy ra chiến trường miền Bắc.

Sau chiến thắng Nhị Nguyệt, Tỉnh đội tổ chức tổng kết và phổ biến kinh nghiệm. Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Tây, tỉnh lập kế hoạch chống càn, tập trung chỉ đạo các huyện Cà Mau, Ngọc Hiển, Trần Văn Thời. Từ tháng 7 năm 1953, phong trào chống địch càn quét đạt được kết quả nhất định nhưng chưa đi vào thế cơ bản, vững chắc. Nhiều cuộc kiểm điểm, rút kinh nghiệm về chống càn được tổ chức, thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh đi lên, lực lượng dân quân du kích được củng cố, phát triển mạnh hệ thống công binh xưởng sản xuất nhiều vũ khí thô sơ, bồi sửa lại các cản trên sông, bố trí đều khắp hộ thống trạm canh, hệ thống mõ báo động theo các ngả địch có thể càn vào căn cứ của ta.

Cuối năm 1953, tình hình chung trên chiến trường toàn quốc thay đổi, tạo nhiều thuận lợi cho ta. Tháng 9 năm 1953 Bộ Chính trị họp quyết định nhiệm vụ quân sự năm 1953 – 1954, đưa quân chủ lực lên Tây Bắc, giải phóng Lai Châu. Quân Pháp sau thất bại trên chiến trường Lào và Bắc Bộ, để đối phó với ta trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, tướng Na-va chủ trương tập trung rút bớt lực lượng ở Nam Bộ tăng cường cho chiến trường chính. Giữa tháng 11 năm 1953, Na-va cho đổ quân thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngày 6 tháng 12 năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh báo cáo quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ, được Bộ Chính trị thông qua.

Trong lúc tinh thần quân địch hoang mang, sa sút, ta kịp thời nắm lấy thời cơ thuận lợi. Từ tháng 10 năm 1953, Phân liên khu miền Tây mở chiến dịch “trung tâm địch ngụy vận”. Kết hợp với phong trào du kích chiến tranh đang phát triển mạnh, nhiều tỉnh tiến sâu vào vùng địch hậu, vận động quần chúng nổi dậy, bức rút hàng loạt đồn bót của địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Gò Công, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Trong chiến dịch “trung tâm địch ngụy vận” ở Bạc Liêu, bên cạnh đưa chiến tranh du kích vào vùng địch hậu, liên tục tấn công và uy hiếp quân địch, bộ máy công tác địch vận được tăng cường bổ sung từ tỉnh đến cơ sở. Ta đã xây dựng được nhiều cơ sở trong lính ngụy người Khơ-me và binh lính tín đồ đạo Thiên chúa và nhiều cơ sở ở vùng địch tạm chiếm, ở thị xã Bạc Liêu, ta bố trí được cả người vào làm thư ký cho tỉnh trưởng Bạc Liêu.

Giữa tháng 12 năm 1953, Tỉnh ủy và tỉnh đội Bạc Liêu xác định nhiệm vụ phối hợp với chiến trường chính trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954. Trước đó, vào tháng 9 năm 1953, các đơn vị đại đội 553 huyện Cà Mau cùng du kích xã Tân Lộc, An Xuyên tiến công tiêu diệt 1 đồn và 2 tháp canh ven thị trấn Cà Mau, tiêu diệt hàng chục tên địch. Cùng thời gian này bộ đội địa phương và du kích hai huyện Vĩnh Lợi, Giá Rai liên tục bám đánh tiểu đoàn 19 BVN của địch mới vừa được củng cố lại. Trong thời gian này ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, buộc địch phải rút bỏ nhiều tháp canh dọc trên tuyến lộ 4 từ Cà Mau - Bạc Liêu.

Nhân dân trong tỉnh hăng hái tham gia kháng chiến. Ngoài nghĩa vụ đóng thuế nông nghiệp, nhân dân còn đóng góp nhiều của cải vật chất cho kháng chiến, riêng số tiền ủng hộ cho các công binh xưởng sản xuất vũ khí trong tỉnh đã lên tới hàng triệu đồng.

Các đoàn thể quần chúng tích cực phát triển hội viên và có nhiều phong trào thiết thực ủng hộ kháng chiến. Các ngành tôn giáo vận, Khơ-me vận và Hội Liên Việt được củng cố và được Tỉnh ủy quan tâm lãnh đạo, đã tập hợp được đông đảo khối đại đoàn kết toàn dân một lòng theo Đảng và ủng hộ kháng chiến.

Phối hợp chiến trường chung, mở đầu cho chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. tại Bạc Liêu, tiểu đoàn 307 phối hợp với đại đội 553 địa phương Cà Mau, cùng du kích xã Tân Thành tiến công đồn nhà thờ Thiên chúa giáo Cà Mau, do một đại đội địch đóng giữ. Một đêm đầu tháng 12 năm 1953, đại đội độc công và đại đội 932 tiểu đoán 307 bí mật tiếp cận, bất ngờ dùng bộc phá mở cửa nhanh chóng chiếm tầng cao của đồn địch và từ trên đánh xuống, từ trong đánh ra. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Trận tiêu diệt đồn Nhà Thở mở đầu đợt hoạt động chiến đấu trong tỉnh diễn ra ở giữa thị trấn Cà Mau, quân dân Bạc Liêu vô cùng phấn khởi, khí thế càng vươn lên mạnh mẽ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:17:37 am »

Cuối năm 1953, địch tiếp tục lún sâu vào thế bị động. Đầu năm 1954, ở Bạc Liêu địch còn 3 tiểu đoàn khinh binh 19, 512, và 521.

Tháng 2 năm 1954, chúng phải đưa 2 đại đội của tiểu đoàn 512 lẽn Sóc Trăng thay thế cho lực lượng Sóc Trăng rút ra chiến trường chính, đến ngày 20 tháng 3 năm 1954 tiểu đoàn 512 của địch lại rút khỏi Bạc Liêu. Địch tăng cường bắt lính bổ sung quân gấp cho 2 tiểu đoàn 19 và 512, quân số cũ và đặc biệt số mới bổ sung tinh thần hoang mang cực độ, có gần 100 tên đào ngũ.

Tuy bị động, nhưng những tháng đầu năm 1954, địch vẫn cố gắng đánh phá vùng ven, vùng căn cứ với 8 cuộc hành quân lớn nhỏ. Chúng đóng thêm một số lô cốt tăng cường kiên cố các bót Lò Heo, Phán Tề và Nhà Thờ để phòng giữ quận lỵ Cà Mau.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, quân dân tỉnh Bạc Liêu cùng quân dân khu Tây Nam Bộ nỗ lực phấn đấu chuẩn bị mọi mặt để tiến công địch. Hưởng úng chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, phát huy thắng lợi trận Nhà Thờ Cà Mau, ngày 23 tháng 12 năm 1953 đại đội 552 của tỉnh phối hợp với tiểu đoàn 307 chủ lực Phân liên khu phục kích kết hợp với vận động chiến tiêu diệt 1 tiểu đoàn quân Hòa Hảo ở “vườn Cụ Hồ”(1) xã Tân Thành huyện Cà Mau. Ngày 7 tháng 2 năm 1954, địa phương quân huyện An Biên phối hợp với đại đội đặc công và đơn vị trợ chiến của tiểu đoàn 307 tổ chức tấn công quận ly An Biên, bắt sống quận trưởng Sàng, quận phó Thiện, tiêu diệt gần 100 tên địch, thu nhiều vũ khí đạn dược.

Ngày 1 tháng 3 năm 1954, tiểu đoàn 307 do đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, tiểu đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Tiên. chính trị viên chỉ huy, có sự phối hợp với đại đội 552 của tỉnh do đồng chí Lê Quốc Sỹ chỉ huy cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích An Biên mở đợt hoạt động 15 ngày để giải phóng An Biên. Mở đầu đợt hoạt động, ngày 1 tháng 3 năm 1954, ta dùng hỏa lực bao vây, tập kích đồn chính của chi khu An Biên và các tháp canh từ chợ Thứ Ba(2) đến Xẻo Rô, vừa bao vây pháo kích vừa tuyên truyền kêu gọi binh sĩ trong đồn trở về với gia đình. Sáng ngày 2 tháng 3 năm 1954, địch cho 2 đại đội đến cứu viện. Đại đội 552 của tỉnh cùng 2 đại đội 931, 933 của tiểu đoàn 307 chặn đánh, diệt 20 tên, số còn lại tháo chạy về Rạch Giá. Sau 3 ba ngày đêm bao vây, pháo kích mãnh liệt, đến chiều ngày 4 tháng 3 năm 1954, toàn bộ hệ thống đồn bốt, tháp canh từ chợ Thứ Ba đến Xẻo Rô số bị tiêu diệt, số bỏ chạy.

Ngày 6 tháng 3 năm 1954, địch cho tiểu đoàn Hòa Hảo 522 do Nguyễn Giác Ngộ chỉ huy đến chi viện cho khu An Biên. Khi quân địch đến Bàu Môn, chúng lọt vào trận địa phục kích của ta, bộ đội ta bất ngờ nổ súng, tiêu diệt tại chỗ 237 tên, chỉ còn 12 tên sống sót chạy về Xẻo Rô, ta thu hàng trăm súng. Trận này ta cũng thiệt hại nặng, có 63 chiến sĩ hy sinh. Ngày 7 tháng 3 năm 1954, địch đưa thêm 2 tiểu đoàn đến tiếp viện lần thứ ba. Trên đường chúng vấp phải mìn và bị bộ đội ta chặn đánh liên tục, chúng tiến quân chậm chạp. Quận ly An Biên càng bị cô lập hoang mang. Ngày 8 tháng 3 năm 1954, bọn ở quận lỵ An Biên và quân chi viện đều tháo chạy. Quân ta truy kích diệt nhiều địch, bắn chìm 1 tàu, hư 1 tàu. Chỉ sau 8 ngày bao vây, tiến công mãnh liệt, cuối tháng 3 năm 1954 ta tiêu diệt đồn Xẻo Rô, hoàn toàn giải phóng quân An Biên, bắt sống quận trưởng Lâm Quang Thiệp (cha của Lâm Quang Phòng).

Qua đợt hoạt động này, ta loại khỏi vòng chiến đấu 500 tên địch, thu 400 súng, hệ thống đồn bót tại quận ly An Biên đến Xẻo Rô tận sông Cái Lớn bị ta quét sạch, huyện An Biên được hoàn toàn giải phóng. Đây là huyện được giải phóng đầu tiên ở khu Tây Nam Bộ.

Phát huy chiến thắng ở quận lỵ An Biên, các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh liên tiếp tiến công địch, giành nhiều thắng lợi. Đại đội 552 của tỉnh tấn công 2 lô cốt ở Cầu Sập, diệt 24 tên, bắt sống 2 tên, thu 6 súng. Một đại đội của tiểu đoàn 307 phục kích đánh giao thông đoạn Tắc Vân tiêu diệt 1 trung đội địch. Trong đêm 1 tháng 5 năm 1954, các đại đội địa phương Bạc Liêu, Giá Rai, Vĩnh Lợi phối hợp với tiểu đoàn 307 tấn công toàn bộ đồn bót địch trên lộ Đông Dương từ cầu Sập đến Cà Mau, diệt và bắt sống gần 200 tên địch. Hai ngày 16 và 17 tháng 5 năm 1954, địch đưa 2 tiểu đoàn 19 BVN và 512 BVN càn vào xã Vĩnh Hòa, Bình Phú, Minh Diệu huyện Vĩnh Lợi đốt trên 500 nhà dân. Chúng bị đại đội 554 huyện Giá Rai và du kích các xã diệt 30 tên. Ngày 26 tháng 5 năm 1954, hai tiểu đoàn này lại càn vào xã Long Điền, bị du kích xã Long Điền bắn tỉa diệt 14 tên.

Đợt hoạt động tấn công địch từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1954, phối hợp với chiến trường chính, quân dân tỉnh Bạc Liêu tích cực, chủ động bám đánh địch, loại khỏi vòng chiến đâu trên 1.000 tên địch, trong đó trận phục kích ở Bàu Môn ta tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn, giải phóng một chi khu (An Biên), san bằng hàng chục đồn bót, bức rút, bức hàng nhiều tháp canh dọc tuyến lộ 4. Với những chiến công, thành tích trên, Đảng bộ và quân dân tỉnh Bạc Liêu được Xứ ủy Nam Bộ và Quân khu biểu dương.

Quân địch bị thất bại nặng nề ở chiến trường Điện Biên Phủ. Chỉ sau 55 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống 16.000 tên địch, tướng Đờ Caxtơri và toàn bộ cơ quan tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đều bị bắt sống. Nhung ở chiến trưởng miền Tây và tỉnh Bạc Liêu, từ tháng 5 đến 20 tháng 7 năm 1954, địch vẫn tăng cường hoạt động đánh phá nhằm giành lại thế chủ động để mặc cả với ta tại Hội nghị Giơ-ne-vơ và duy trì sự chiếm đóng làm hậu phương lâu dài cho âm mưu xâm lược của chúng. Máy bay địch mấy tháng đầu bị hút vào chiến trường Điện Biên Phủ lúc này hoạt động trở lại, oanh tạc và trinh sát sâu vào vùng căn cứ ta; các đồn bót cũng tăng cường lùng sục, nống ra càn quét xung quanh, mở và sửa lại đường giao thông bị cắt đứt.


(1) Đây là khu vườn có địa hình tốt, gần quốc lộ 4 nay thuộc phường 6 thành phố Cà Mau. Tại đây ta đã nhiều lần phục kích tiêu diệt địch, được nhân dân ca tụng là “Vườn Cụ Hồ”.
(2) Quận lỵ An Biên của địch đóng tại chợ Thứ Ba.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2019, 06:19:00 am »

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Chính phủ Pháp kỷ Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, tôn trọng độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nước Việt Nam tam thời chia làm hai miền, miền Bắc được giải phóng, quân Pháp tạm thời quản lý miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, trong hai năm sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Lệnh ngừng bắn có hiệu lực từ 7 giờ ngày 11 tháng 8 năm 1954. Tỉnh Bạc Liêu được chọn làm khu tập kết tạm thời 200 ngày để lực lượng vũ trang ta tiến hành công tác chuẩn bị tập kết ra Bấc.

Lực lượng vũ trang Phân liên Khu miền Tây được biên chế thành 3 trung đoàn. Bộ đội địa phương và dân quân, du kích tỉnh Bạc Liêu trở thành tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 3.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của Đảng bộ và quân dân tỉnh Bạc Liêu kể từ ngày 9 tháng 1 năm 1946, mở đầu bằng trận đẩy lùi cuộc tiến công của quân Pháp ở cầu Nhu Gia đến ngày ngừng bắn 11 tháng 8 năm 1954 trên chiến trường tỉnh Bạc Liêu trải qua hơn 8 năm rưỡi.

Với những ngày đầu kháng chiến “chỉ nóp với giáo mang trên vai”, quân dân Bạc Liêu với lòng yêu nước, chí khí quật cường đã chiến đẩu dũng cảm băng cách triển khai nhiều một trận ngăn chặn, làm chậm bước tiến của địch và gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhưng đối đầu với thực dân Pháp, một đội quân nhà nghề được trang bị khá hiện đại, có nhiều kinh nghiệm và thủ đoạn xâm lược, quân dân Bạc Liêu vũ khí trang bị thô sơ, thiếu kinh nghiệm trong chiến đấu. Vì vậy các mặt trước sau đều bị phá vỡ, quân Pháp đã chiếm đóng các vùng đô thị và một số vùng nông thôn sâu. Lực lượng vũ trang bước đầu chưa vững chắc, tổ chức chính quyền và các đoàn thể đến nhiều tổ chức cơ sở Đảng do chưa có kế hoạch chu đáo, khi quân địch tiến chiếm Bạc Liêu, mỗi tổ chức và một số cá nhân tự sơ tán về mỗi nơi nên hầu như mất liên lạc. Nhưng nhờ có Đảng bộ được xây dựng từ rất sớm, được rèn luyện thử thách trong đấu tranh chính trị và qua hai cuộc khởi nghĩa(1), nhiều đảng viên kiên định và dũng cảm, có đông đảo quần chúng nhân dân và các chiến sĩ kiên cường, bất khuất, thà chết tự do còn hơn sống nô lệ, lại được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy và Quân khu, cuộc kháng chiến của Đảng bộ quân dân Bạc Liêu được duy trì và phát triển.

Chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi mặt trận Tân Hưng tan vỡ, lực lượng ta nhanh chóng được tổ chức xây dựng lại trên cơ sở nhân dân cách mạng. Đảng bộ đã kịp thời kiện toàn, củng cố, tập trung lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ta vừa tiến công địch vừa xây dựng, tổ chức lực lượng, vừa chiến đấu vừa học tập rèn luyện và sáng tạo nhiều cách đánh độc đáo. Quân dân Bạc Liêu đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phối hợp với chiến trường toàn quốc tiến công và phản công quân địch. Bằng vũ khí thô sơ tự tạo và súng cuớp của địch, các lực lượng vũ trang liên tiếp tấn công diệt đồn, đánh viện, tự chế thủy lôi đánh chìm nhiều tàu chiến của địch ở Mương Điều, Nhị Nguyệt, Ao Kho,v.v… từng bước giải phóng nông thôn. Căn cứ địa càng được mở rộng trên 9/10 diện tích toàn tỉnh với 6/7 số dân, suốt cuộc kháng chiến, Bạc Liêu thực sự là căn cứ địa của khu Tây Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ và Xứ ủy Nam Bộ. Vùng tự do được mở rộng, lại sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Cục và Quân khu đã tạo điều kiện thuận lợi cho Bạc Liêu đào tạo nguồn cán bộ, xây dựng lực lượng và cơ sở vật chất, đồng thời tiến hành thực hiện tốt chính sách giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất, xem đây thực sự là một cuộc cách mạng để nông dân làm chủ ruộng đất, hăng hái lao động sản xuất, ủng hộ tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng. Qua thực hiện chính sách ruộng đất và công tác tuyên truyền giáo dục, Đảng bộ đã xây dựng vững chắc đội ngũ đảng viên, nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong, giáo dục, rèn luyện bản chất cách mạng, tinh thần chiến đấu cho các lực lượng nhân dân.

Song song với việc tăng cường xây dựng căn cứ địa kháng chiến vững chắc, Đảng bộ, quân dân Bạc Liêu đẩy mạnh tiến công địch về quân sự, chính trị và địch ngụy vận trong vùng bị chiếm đóng. Phối hợp với các chiến dịch của bộ đội chủ lực trên chiến thắng khu Tây Nam Bộ và toàn quốc, quân và dân Bạc Liêu lần lượt đánh bại các cuộc càn quét lớn của địch vào vùng giải phóng, liên tiếp tiến công hệ thống đồn bót, tháp canh của quân địch ở vùng ven và trục lộ giao thông chính từ Bạc Liêu đi Cà Mau gây cho địch nhiều thiệt hại lớn và cả tiến công tiêu diệt địch ở trong quận lỵ, tiến lên tiến công làm chủ quận lỵ, giải phóng hoàn toàn huyện An Biên. Ta ở thế chủ động tiến công, thế mạnh, quân địch càng lún sâu vào bị động phòng giữ. Cho đến khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bạc Liêu được chọn là khu 200 ngày để chuyển quân tập kết.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Bạc Liêu đã thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tập hợp đoàn kết chặt chẽ các dân tộc, đoàn kết lương giáo. Với tinh thần tự lực, dựa vào sức mình là chính, chiến tranh nhân dân ở Bạc Liêu đánh địch cả ở nông thôn và thành thị kết hợp cả đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và binh địch vận, vận dụng nhiều cách đánh sáng tạo như “thủy lôi chiến” và hàn cản trên sông, buộc quân địch phải rút về cố thủ thị trấn, thị xã, vùng giải phóng được mở rộng. Là một tỉnh vừa là căn cứ địa cách mạng, vừa cung cấp nhiều sức người sức của cho cuộc kháng chiến ở Tây Nam Bộ và Nam Bộ, nhân dân Bạc Liêu đã tùng đùm bọc, nuôi chứa, chở che cho nhiều cơ quan và cán bộ lãnh đạo của Xứ ủy và Quân khu 9.

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bọn đế quốc xâm lược phải thừa nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; chấp nhận rút quân về nuớc. Nhưng với âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, chúng can thiệp sâu và trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ. Con đường giải phóng dân tộc Việt Nam mới đi được một nửa. Nhân dân Bạc Liêu cùng nhân dân miền Nam “đi truớc về sau” còn phải vượt qua bao gian nan hiểm nghèo, bao trở lực trong cuộc chiến đấu, tiếp tục cùng toàn dân giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.


(1) Khởi nghĩa Nam Kỳ và Tổng khởi nghĩa tháng Tám.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Mười Một, 2019, 03:34:12 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2019, 06:02:03 am »

Chương hai

KẺ THÙ MỚI, CHUYỂN HƯỚNG ĐẤU TRANH MỚI
(1954 - 1960)

I. KHU TẬP KẾT 200 NGÀY

Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp đối với ba nước Đông Dương. Việt Nam tạm thời bị chia cắt hai miền: miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào thuộc sự kiểm soát của quân Pháp, sau 2 năm hai miền Nam, Bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước (theo Hiệp định đã ký).

Về tập kết, theo điều khoản của Hiệp định, lực lượng của ta tập trung từ nam sông Cái Lớn tới ngã ba Nước Trong, từ rạch Nước Trong tới ấp Xẻo Lá và kinh xáng Ngan Dừa đến xã Vĩnh Hưng, từ Vĩnh Hưng thẳng hướng Nam ra biển, gồm địa giới các huyện An Biên, Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai, Cà Mau, Thới Bình, Trần Văn Thời và Ngọc Hiển của tỉnh Bạc Liêu là khu tập kết của lực lượng vũ trang các tỉnh miền Tây, các cơ quan Nam Bộ, quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia, Chính phủ kháng chiến Cam-pu-chia bộ đội Ít-xa-rắc để chuyển quân ra Bắc.

Ngày 20 tháng 8 năm 1954, Tỉnh ủy chỉ định ban quân chính để tiếp quân khu vực tập kết. Kinh Xáng Chắc Băng trở thành trung tâm khu tập kết.

Ngày 25 tháng 8 năm 1954, quân đội liên hiệp Pháp cùng các cơ quan hành chính cai trị rút toàn bộ khỏi thị trấn Cà Mau, Tắc Vân, Hộ Phòng, Giá Rai để ta tiếp quản.

Ngày 26 tháng 8 năm 1954, hai vạn đồng bào các huyện Trần Văn Thời, Ngọc Hiển và các xã ven thị trấn Cà Mau rẩm rộ kéo ra mít tinh mừng hòa bình. Thị trấn Cà Mau tràn ngập rực rỡ cờ hoa.

Lực lượng vũ trang các tỉnh miền Tây rầm rộ kéo về đây chuyển quân ra Bắc. Gia đình cán bộ, bộ đội, đồng bào yêu nước các vùng lân cận cũng kéo về đông đảo để gặp gỡ, chia tay người đi, kẻ ở. Cà Mau như ngày hội mừng chiến thắng.

Trong thời gian lực lượng vũ trang đóng quân ở khu tập kết, các đơn vị vừa học tập, vừa khẩn trương giáo dục quần chúng, tuyên truyền thắng lợi của hiệp định. Đồng thời cùng chính quyền cách mạng địa phương giải quyết những vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân như: chia cấp ruộng đất, đổi tiền Đông Dương, thu lại tiền tài chính Việt Nam cho đồng bào. Tại thị trấn Tắc Vân, Cà Mau, Giá Rai, Hộ Phòng chính quyền cách mạng cứu trợ hơn 10.000 tấn gạo, hàng trăm nghìn tiền Đông Dương cho các gia đình nghèo, cất sửa nhà cửa cho nhân dân khó khăn về nhà ở; cùng ngành giáo dục tu sửa lại các trường học cũ của khu táp kết gồm: 875 trường, mở 200 lớp học bình dân, xóa 75% số người không biết chữ. Các trạm y tế, nhà bảo sanh được xây dựng thêm 24 trạm ở các xã, đào tạo hàng trăm cán bộ y tế đảm bào chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Chỉ trong vòng 200 ngày có trên 10 nghìn lượt người dân đến khám chữa bệnh. Thanh niên tập trung hát hò liên hoan văn nghệ, thể dục thể thao giao lưu với bộ đội tạo ra nếp sống vui tươi lành mạnh. Các tệ nạn xã hội mất hẳn. Ban đêm nhà nhân dân không cần đóng cửa, đồ đạc không sợ trộm cắp. Nhiều người ở các nơi kể cả Sài Gòn - Chợ Lớn cũng đến để xem, tìm hiểu vùng giải phóng, để được tai nghe, mắt thấy những việc lãm tốt đẹp của cách mạng.

Mặc dù thời gian tập kết không lâu nhưng lực lượng vũ trang và chính quyền có những việc làm thiết thực ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư tình cảm của nhân dân. Từ đó niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố vững chắc, nhân dân thương yêu, gắn bó mật thiết với lực lượng vũ trang. Mọi người thấy rằng có Đảng là có cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Cùng với việc chuyển quân tập kết, việc sắp xếp lực lượng bố trí thế trận cho cuộc đấu tranh mới cũng được tiến hành khẩn trương. Tỉnh ủy Bạc Liêu được đồng chí Lê Duẩn Bí thư Xứ ủy Nam Bộ và một số đồng chí của Liên tỉnh ủy miền Tây trực tiếp chỉ đạo, các đồng chí đã giúp cho tỉnh ủy nắm chắc âm mưu của kẻ thù, dự kiến tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2019, 06:02:26 am »

Các đồng chí đã chỉ ra: “Chúng ta phải kháng chiến trường kỳ 9 năm đến Điện Biên Phủ mới bắt đế quốc trả một nửa đất nước, còn một nửa nước không đời nào đế quốc chịu trả dễ dàng cho ta. Đối với đế quốc Mỹ thì phải dùng bạo lực, phải có sức mạnh”, và còn tiên đoán cuộc đấu tranh quyết liệt mà nhân dân miền Nam phải đương đầu. Dự kiến về sự lâu dài của cuộc chiến tranh ước tính phải mất 15 - 20 năm và chỉ đạo xây dựng Đảng bộ vững chắc, chất lượng của đoàn thanh niên, tổ chức lực lượng vũ trang bí mật, tự vệ bán công khai và công tác binh vận được coi là tầm quan trọng chiến lược.

Khi chuyển quân tập kết, Đảng bộ Bạc Liêu còn lại trên 10.000 đảng viên, Đảng bộ tiến hành sắp xếp cho phù hợp với cuộc chiến tranh mới. Đảng viên được giáo dục tình hình nhiệm vụ mới và bồi dưỡng 5 bước công tác cách mạng, công tác bí mật.

Lúc này Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh được Xứ ủy chỉ định, đồng chí Châu Văn Đặng làm Bí thư. Các ban chấp hành huyện ủy và chỉ ủy được củng cố kiện toàn tinh giảm về số, mạnh về chất đảm bảo lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Đoàn thanh niên lao động được Đảng tổ chức thay cho thanh niên cứu quốc, xây dựng theo hướng chú trọng chất lượng, lựa chọn những thanh niên là con em nông dân kiên quyết cách mạng, dũng cảm mưu trí.

Các tổ chức quần chúng trước đây đều giải thể, thay thế bàng các tổ chức biến tướng như: vạn vần đổi công, tổ chức bình dân học vụ, hội phụ huynh học sinh, hội cứu tế, các tổ chức nữ công, hội thể thao…

Về lực lượng vũ trang, các đồng chí cán bộ xã đội, du kích không tập kết mà ở lại địa phương. Ta để lại nhiều chiến sĩ bộ đội địa phương tỉnh, huyện và 200 cán bộ cấp trung đội đến tiểu đoàn, rút từ các đơn vị tiểu đoàn 307, 410. Sau khỉ chiếc tàu Stavropol đưa quân tập kết đến bến Sầm Sơn - Thanh Hóa, đồng chí Lê Đức Thọ lại điều nguyên 1 tiểu đoàn theo tàu trở lại miền Nam và đưa về Cà Mau cùng với nhiều cán bộ binh vận.

Vũ khí còn lại 2.000 khẩu ta đem chôn giấu (không kể súng ngắn trang bị cho các đồng chí Bí thư Đảng ủy xã trở lên). Được Xứ ủy Nam Bộ và Khu ủy Khu 9 giúp đỡ, vũ khí để lại Bạc Liêu nhiều gấp 2 lần vũ khí trước đây tỉnh có trong kháng chiến chống Pháp. Công binh xưởng Bạc Liêu được để lại đồng bộ. Xưởng và vũ khí được cất giấu.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang tự vệ ở làng xã được xây dựng theo hình thức tự vệ thanh niên và các đội dân canh chống cướp.

Đối với binh vận, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ, ban binh vận tỉnh Bạc Liêu do đồng chí Tăng Văn Manh (Hồng Phúc) phụ trách đã chuẩn bị và đưa cán bộ, chiến sĩ ta cài cắm vào quân đội và cơ quan chính quyền các cấp của địch để góp phán che giấu lực lượng, bảo vệ nhân dân, cơ sở cách mạng.

Ngày 31 tháng 1 năm 1955, trong lễ bàn giao khu tập kết 200 ngày cho quân đội liên hiệp Pháp, đồng chí Phạm Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban liên hiệp đình chiến thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoan nghênh và khen tinh thần cách mạng của nhân dân Bạc Liêu và kêu gọi đồng bào, cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới với niềm tin Việt Nam nhất định thắng lợi. Đồng chí thay mặt cán bộ, bộ đội đi tập kết chia tay với đồng bào và hẹn sẽ trở lại.

Chuyển tàu cuối cùng ở cửa sông Ông Đốc chở quân tập kết công khai lên tàu. Trước lúc tàu nhổ neo đồng chí Lê Duẩn đã bí mật trở lại hoạt động và trực tiếp chỉ đạo Tỉnh ủy Bạc Liêu. Lúc chia tay, đồng chí Lê Duẩn nhờ đồng chỉ Lê Đức Thọ báo cáo với Bác Hồ, với Trung ương Đảng: “Tình hình cách mạng miền Nam rất phức tạp, việc chia cắt có thể kéo dài 15 - 20 năm không thể giải quyết sớm hơn”.

Như vậy, ngay từ đầu được sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn, Đảng bộ Bạc Liêu đã hiểu được âm mưu thủ đoạn của địch và nắm chắc đường lối chủ trương chính sách của Đảng nên đã có chủ trương biện pháp chỉ đạo đứng đắn, xác thực trong việc chuẩn bị các mặt cho cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM