Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:31:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân - Tập 1  (Đọc 7187 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #60 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2019, 06:48:29 pm »

Anh hùng Đàm Văn Ngụy


Đàm Văn Ngụy, sinh năm 1928, dân tộc Tày, quê ở xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 1 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó phụ trách tiểu đoàn trưởng thuộc tiểu đoàn 11, trung đoàn 196, đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sống trong một gia đình cách mạng, đồng chí được giác ngộ sớm, 16 tuổi đã làm liên lạc dẫn đường, tiếp tế nuôi cán bộ hoạt động bí mật ở địa phương. Nhiều lần đồng chí cùng với anh em du kích chiến đấu bảo vệ cán bộ, cõng những cán bộ đau ốm vào ẩn giấu trong rừng tránh địch càn bắt.


Từ khi vào bộ đội đến 1954, đồng chí Đàm Văn Ngụy đã tham gia chiến đấu ở nhiều nơi trên chiến trường Bắc Bộ. Đồng chí đã đảm nhiệm các cương vị: chỉ huy tiểu đội, trung đội, đại đội xung kích, trên cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chiến đấu dũng cảm, táo bạo, tiến công kiên quyết, phòng ngự ngoan cường, chỉ huy bình tĩnh, mưu trí linh hoạt trong mọi tình huống phức tạp, đã đánh là kiên quyết giành thắng lợi.


Tháng 5 năm 1945, Quân giải phóng đánh đồn Pò Mã (Thất Khê), khi nổ súng bọn địch co vào lô cốt cầm cự, Đàm Văn Ngụy xung phong cùng hai đồng chí khác tiến lên chọc thủng mái (bằng đất) ném lựu đạn vào, 30 tên địch hốt hoảng mang súng ra hàng.


Năm 1946, trong trận phòng ngự ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đàm Văn Ngụy nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội chiếm một mỏm núi ở đầu phố, chặn giữ địch cho các đơn vị và cơ quan rút ra ngoài. Một đại đội địch dùng hỏa lực mạnh vây xung quanh tiến công vào. Đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đội đánh lui bốn đợt phản kích của địch, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.


Cuối năm 1946, gần 1 tiểu đoàn địch bao vây trung đội đồng chí ở Cơn Pheo (Lạng Sơn) Đàm Văn Ngụy nhận lệnh chỉ huy tiểu đội đánh cản địch và rút sau cùng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đồng chí dẫn tiểu đội vượt qua một cánh đồng tới chân núi thì bị hai đại đội địch chặn đường bao vây. Đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đội bố trí, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên, giữ vững trận địa từ trưa đến tối, sau cùng chúng phải rút.


Tháng 4 năm 1947, đơn vị Đàm Văn Ngụy phục kích đánh đoàn xe địch ở Bố Củng (Lũng Vài). Khi có lệnh, đồng chí dẫn đầu tiểu đội xung phong nhảy lên xe thiết giáp địch, ném lựu đạn vào trong xe, diệt một số. Một tên lính nhảy ra, xông vào ôm chặt lấy đồng chí, cả hai cùng lăn xuống đường vật lộn nhau, vừa lúc đó cả đơn vị đã kịp xông đến, dùng lựu đạn đánh xe, diệt và bắt bọn địch còn sống sót.
Tháng 8 năm 1949, đơn vị phục kích đoàn xe địch ở Lũng Vài. Khi đoàn xe 70 chiếc lọt vào trận địa, Đàm Văn Ngụy dẫn đầu trung đội xung phong, đánh chia cắt đội hình phía sau quân địch, diệt 20 tên, làm cho chúng rối loạn, tạo điều kiện cho đơn vị tiến công diệt nhiều xe và lính địch.


Tháng 1 năm 1953, đơn vị đang di chuyển đội hình để bao vây tiến công Nà Sản (Sơn La) thì bị một đại đội biệt kích địch bất ngờ đánh vào bộ phận quân y phía sau, rồi rút. Đàm Văn Ngụy là quản trị trưởng, đã nhanh chóng tập hợp và tổ chức anh em luồn rừng truy kích bọn địch hơn 6 tiếng đồng hồ, diệt 14 tên, bắn bị thương nhiều tên khác.


Thu Đông 1953-1954, Đàm Văn Ngụy chỉ huy đại đội đánh nhiều trận tiễu phỉ ở biên giới Việt - Lào, diệt được nhiều toán phỉ, bảo đảm an ninh biên giới. Đồng chí còn lãnh đạo đơn vị vận động nhân dân trong 20 bản gọi được 70 con em theo phỉ trở về.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 7 lần được Quân khu và trung đoàn khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đàm Văn Ngụy được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #61 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2019, 06:49:12 pm »

Anh hùng Nguyễn Thái Nhự


Nguyễn Thái Nhự, sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc tiểu đoàn 80, trung đoàn 812, Liên khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân trong một gia đình trung nông nhưng từ nhỏ Nguyễn Thái Nhự đã phải làm lụng vất vả và sớm xa gia đình đi làm thuê ở mướn cho đến ngày vào bộ đội.

Từ ngày nhập ngũ đến năm 1951, Nguyễn Thái Nhự tham gia chiến đấu hơn 60 trận ở chiến trường Cực Nam Trung Bộ, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí, linh hoạt. Đồng chí đã 7 lần xung phong vào đội quyết tử, tiêu diệt các cứ điểm, lần nào cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hành động quả cảm của đồng chí trong nhiều trận đánh đã tạo thời cơ cho cả đơn vị xông lên diệt địch nêu tấm gương tiêu biểu cho tinh thần sẵn sàng hy sinh quên mình vì thắng lợi chung của cách mạng, có tác dụng thúc đẩy đồng đội noi theo.


Tháng 4 năm 1947, đơn vị đánh bốt ga Sông Lũy (Bình Thuận). Khi đó chưa có bộc phá, Nguyễn Thái Nhự xung phong vác quả đạn 75 ly bò sát lên đặt vào chân tường rồi đốt nổ, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt gọn bốt này.


Trận đánh xe lửa ở Suối Dầu (Phan Thiết) năm 1948, Nguyễn Thái Nhự đã chỉ huy và dẫn đầu tiểu đội xông lên dùng lựu đạn ném vào toa xe, rồi nhảy lên cướp súng, lấy được 1 trung liên và bắt sống 1 tên địch.


Tháng 6 năm 1949, Nguyễn Thái Nhự tham gia đánh phục kích địch trên đoạn đường Suối Kiệt. Khi có lệnh xung phong, ngay phút đầu đồng chí đã xông ra diệt 3 tên địch, cướp 1 trung liên, rồi dùng ngay khẩu trung liên này bắn quét mãnh liệt vào đội hình quân địch, sau đó nhảy lên xe thu thêm 10 súng trường và dẫn đầu tiểu đội truy kích diệt hết bọn địch còn lại. Trận này ta diệt 2 trung đội địch, thu 2 xe, riêng tiểu đội Nguyền Thái Nhự diệt 9 tên, bắt 8 tên, thu 2 trung liên và 20 khẩu súng trường.


Trận đánh đồn D. tháng 2 năm 1950, Nguyễn Thái Nhự chỉ huy tiểu đội quyết tử, hóa trang giả làm phụ nữ vào cổng đồn bán hàng. Khi bọn lính ra mua, đồng chí nhanh nhẹn nổ súng bắn chết ngay bọn này, rồi dẫn đầu tiểu đội đánh thẳng vào giữa vị trí địch. Địch chống cự quyết liệt, đồng chí bị thương vào ngực, đang tự băng bó thì phát hiện thấy 2 tên đang vật nhau với một chiến sĩ ta, Nguyễn Thái Nhự cố lê đến gần dùng súng bắn chết 1 tên, còn tên kia bỏ chạy. Cùng lúc đó, cả đơn vị đã kịp thời xông vào tiêu diệt gọn vị trí này.


Tháng 12 năm 1951, ta đánh trường sĩ quan Phan Thiết, một vị trí quan trọng nằm sâu trong lòng địch, địa hình rất hiểm trở. Nguyễn Thái Nhự đang dẫn đầu tiểu đội quyết tử vượt qua một hồ rộng 200 mét thì bộ phận bên ngoài bị lộ, địch báo động và bắn ra dữ dội. Đồng chí bình tĩnh động viên tiểu đội tiếp tục bí mật vượt, hồ rồi trườn qua một dốc cao, bất ngờ xông lên chiếm lô cốt đầu cầu trên đỉnh dốc, phát triển vào bên trong. Địch bị bất ngờ, lúng túng đối phó, đội hình rối loạn. Đơn vị nhân thời cơ đánh thốc vào, chỉ sau ít phút đã san phẳng vị trí quan trọng này, giết gần 100 tên phần lớn là sĩ quan, phá hủy nhiều vũ khí. Riêng Nguyễn Thái Nhự đã diệt 15 tên địch.


Tháng 1 năm 1953, 1 tiểu đoàn địch càn vào vùng Hàm Thuận, Nguyễn Thái Nhự chỉ huy tiểu đội ngoan cường đánh lui 5 đợt tiến công của địch, giải thoát 300 đồng bào bị địch bắt. Địch tập trung lực lượng quyết tâm càn lớn. Đồng chí được lệnh chỉ huy một tổ chặn địch cho đơn vị, cơ quan và nhân dân rút sang vùng khác. Giữa lúc đang chiến đấu căng thẳng thì đồng chí bị thương nặng. Một viên đạn xuyên từ nách ra lưng, Nguyễn Thái Nhự lấy khăn bịt lại, trao súng cho đồng đội, tiếp tục quan sát địch, hướng dẫn và động viên anh em kiên quyết chặn địch, bảo đảm cho đơn vị và nhân dân rút lui an toàn.


Nguyễn Thái Nhự ngoài tinh thần anh dũng chiến đấu còn bền bỉ chịu đựng gian khổ, bám sát nhân dân, góp phần cùng địa phương gây dựng cơ sở, phát triển phong trào chiến tranh du kích.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương chiến công hạng ba, 1 lần được tuyên dương công trạng trong toàn quân, 5 lần được Liên khu và trung đoàn khen thưởng và được bầu là Chiến sĩ thi đua của toàn Liên khu.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Thái Nhự được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #62 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:04:08 pm »

Anh hùng Hoàng Văn Phác


Hoàng Văn Phác sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thành, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 1 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó công binh thuộc trung đoàn 333, Cục Công binh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Hoàng Văn Phác xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo bố bị giặc Pháp giết, cuộc đời khổ cực đồng chí phải đi cày thuê cuốc mướn để kiếm sống. Đồng chí đã sớm nung nấu chí căm thù, nhiều lần xin tòng quân giết giặc.


Trưởng thành từ một chiến sĩ công binh lên cán bộ đại đội, Hoàng Văn Phác luôn luôn nêu cao tinh thần tận tụy hy sinh, tích cực phát huy sáng kiến, dũng cảm khắc phục mọi khó khăn, xung phong nhận việc khó về mình, tạo điều kiện thuận lợi cho bạn.


Trong chiến dịch Trần Hưng Đạo, công binh có nhiệm vụ bắc cầu cho bộ đội hành quân. Nửa đêm, cầu bắc chưa xong thì có đơn vị bộ binh hành quân đến. Không thể để bộ đội bị ùn, lỡ kế hoạch chiến dịch, Hoàng Văn Phác và một đồng chí nữa đã xung phong lội xuống nước lấy vai đỡ cầu để bộ đội đi qua. Hơn một giờ ngâm mình dưới nước, chịu sức nặng của cả đoàn người đi trên, đồng chí đã góp phần tích cực cùng đơn vị đảm bảo tốt cho bộ đội cơ động chiến đấu.


Trong chiến dịch Hòa Bình, đơn vị cơ động hành quân di chuyển mỗi đêm trên chặng đường 40 ki-lô-mét. Hoàng Văn Phác được cử đi tiền trạm, tới nơi nhận địa điểm xong, quay về đón đơn vị, trung bình phải đi 80 ki-lô-mét, gấp đôi anh em khác. Đồng chí rất mệt nhưng vẫn vui vẻ, đến chỗ trú quân lại tích cực đào hầm làm lán và giúp đỡ các tổ khác hoàn thành nhiệm vụ.


Trong chiến dịch Tây Bắc, một lần đơn vị Hoàng Văn Phác làm nhiệm vụ bắc cầu. Cầu bắc chưa xong thì bộ đội đã có lệnh sang gấp để diệt đồn Ba Lay. Nước sông chảy xiết, anh em chưa biết xử trí thế nào, đồng chí xung phong đóng bè chở mảng đưa một bộ phận vượt sông, rồi kịp thời rút kinh nghiệm phố biến cho anh em, đưa toàn bộ bộ đội qua sông an toàn, kịp thời gian vây đồn, diệt địch.


Trong một chiến dịch khác, đơn vị làm nhiệm vụ bắc cầu bảo đảm giao thông trên con đường lớn cho bộ đội truy kích địch. Đoàn xe đang vượt qua thì một chiếc rầm cầu bị gãy, xe ùn lại. Đồng chí đề nghị cán bộ vận động anh em đi lấy gỗ làm lại rầm cho chắc chắn. Trong khi chờ đợi, để bảo đảm thông xe, đồng chí đã xung phong ngâm mình dưới nước ghì cây chống và ghé vai đỡ rầm cầu cho 21 xe vượt qua an toàn.


Dù được giao nhiệm vụ gì: chặt gỗ, nứa, làm lán, làm cầu, đập đá, làm đường... đồng chí đều tích cực làm việc có kế hoạch nên công việc nào cũng luôn đạt năng suất gấp hai, ba lần so với các đồng chí khác. Hoàng Văn Phác còn luôn luôn rút kinh nghiệm phổ biến cho anh em và giúp đỡ các đơn vị bạn cùng hoàn thành nhiệm vụ.


Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công hạng ba, được Bác Hồ tặng danh hiệu “Cán bộ gương mẫu”, được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn, 17 lần được tiểu doàn, trung đoàn và Bộ tư lệnh Công binh khen thường.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Hoàng Văn Phác được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #63 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:04:45 pm »

Anh hùng Trần Hiền Quang


Trần Hiền Quang sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã Ninh Quới, huyện Hồng Dân, tỉnh Minh Hải, nhập ngũ tháng 1 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng công binh thuộc đại đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1947 đến năm 1954, Trần Hiền Quang hoạt động ở chiến trường miền Tây Nam Bộ. Dù là chiến sĩ bộ binh (1947-1949) hay chiến sĩ công binh đánh tàu trên sông (1950-1954), lúc nào đồng chí cũng nêu cao quyết tâm tiêu diệt địch, bảo vệ dân, nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh. Đặc biệt từ khi làm nhiệm vụ chiến sĩ công binh đánh tàu, Trần Hiền Quang đã nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, đã đánh là kiên quyết tiêu diệt địch, lập công xuất sắc, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.


Tháng 1 năm 1950, đồng chí tham gia trận đánh tàu trên sông Phong Điền (Ô Môn, Cần Thơ). Khúc sông này nằm sâu trong khu vực địch kiểm soát chúng đóng bốt xung quanh và bố phòng chặt chẽ. Trần Hiền Quang chỉ huy đơn vị len lỏi suốt đêm, tới nơi vừa bố trí xong thì trời rạng sáng. Đồng chí trực tiếp phụ trách hai tổ ở lại, còn cho anh em rút về trước. Sáng hôm sau, tàu địch đến; chờ cho chúng tới gần, Trần Hiền Quang mới chập điện; thủy lôi nổ, tàu địch chìm. Đồng chí chỉ huy anh em nổ súng diệt nốt những tên còn sống sót rồi nhanh chóng rút ra an toàn.


Tháng 2 năm 1954, Trần Hiền Quang được lệnh đánh đoàn tàu của bộ tham mưu địch ở vùng Cần Thơ, Rạch Giá đi kiểm tra vùng Bến Nhức (Châu Thành, Cần Thơ). Đồng chí trực tiếp đi nghiên cứu địa hình và đưa anh em đi đánh. Đến nơi, Trần Hiền Quang chỉ huy tiểu đội dùng xuồng để thủy lôi ở dưới, chất bao đựng rơm ở trên, giả làm dân chở lúa, đưa xuồng tới chỗ định đánh. Bố trí xong, đồng chí cho anh em rút trước, chỉ đề hai người ở lại cùng với mình. 6 giờ 30 sáng hôm sau, đoàn tàu địch lọt vào trận địa. Chiếc tàu nhỏ bảo vệ đã đến gần sát nơi đồng chí đang nấp, nhưng Trần Hiền Quang vẫn bình tĩnh để nó đi qua, chờ cho chiếc tàu chỉ huy tới gần mới chập điện. Thủy lôi nổ, chiếc tàu địch chìm tại chồ. Toàn bộ tàu bị phá hủy, bọn sĩ quan và binh lính đi trên tàu đều bị diệt. Đồng chí bị sức ép (do thủy lôi nổ gần) nhưng vẫn cố gắng dìu một đồng chí thương binh trở về căn cứ an toàn.


Trong trận đánh tàu trên sông Sa Nô (Ô Môn, Cần Thơ) tháng 3 năm 1952, Trần Hiền Quang chỉ huy một tổ, bơi thuyền hơn 50 ki-lô-mét đến nơi bố trí. Sông sâu, nước chảy xiết, gió rét, đồng chí đã gương mẫu và động viên anh em trong tổ kiên trì suốt 24 giờ, bố trí bằng được thủy lôi. Chờ đến sáng ngày thứ ba, tàu địch mới đến. Rút kinh nghiệm những lần trước, dọc theo bờ chúng cho bộ binh đi yểm hộ tàu. Bọn địch sục tới gần nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh, bí mật, chờ đúng thời cơ tàu dến, mới chập điện cho thủy lôi nổ. Tàu vỡ tung chìm ngay tại chỗ. Đồng chí hướng dẫn anh em luồn ra sau địch, rút về căn cứ an toàn.


Tháng 12 năm 1952, địch mở cuộc càn lớn, chúng cho 25 chiếc tàu và 4 tiểu đoàn bộ binh từ Cần Thơ đánh vào vùng mới giải phóng của ta. Được lệnh đánh, Trần Hiền Quang đã cùng anh em nghiên cứu chỗ đặt thủy lôi trên sông Cái Xình (Long Mỹ, Cần Thơ), và đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa. Chiếc tàu lớn của địch đậu đúng gần quả thủy lôi, quay mũi vào bờ đón quân đổ bộ. Đợi bọn địch lên gọn hết trên tàu, đồng chí mới cho lệnh nổ thủy lôi, chiếc tàu nổ tung, nhiều sĩ quan và 100 binh lính địch bị tiêu diệt, trận đánh sấm sét này làm chúng hoang mang phải bỏ dở cuộc càn.


Tháng 12 năm 1953, trong trận đánh tàu trên sông Thi Đội (Ô Môn, Cần Thơ), đồng chí đã cùng một chiến sĩ kiên trì chờ đợi 3 ngày đêm liền trong điều kiện trời mưa rét, muỗi đốt, để đón thời cơ đánh thủy lôi. Kết qua đã đánh chìm một tàu, diệt gọn một trung đội địch.


Qua 4 năm hoạt động, Trần Hiền Quang đã dẫn đầu đơn vị tích cực tham gia xây dựng phong trào du kích địa phương, đánh chìm 5 tàu chiến địch, 1 xe lội nước, đánh hỏng nặng 2 chiếc tàu khác, diệt 12 tên sĩ quan và 46 lính Âu Phi, 491 lính ngụy, phá hủy nhiều vũ khí. Chiến thắng đó đã có tác dụng lớn đối với chiến trường Khu 9 lúc bấy giờ.


Trần Hiền Quang đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 6 lần được tiểu đoàn và Quân khu khen thưởng, 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của tiểu đoàn và của Quân khu Tây Nam Bộ.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Hiền Quang được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng 1 hương Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #64 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:05:27 pm »

Anh hùng Nguyễn Riềng


Nguyễn Riềng, sinh năm 1927, dân tộc Kinh, quê ở xã Duyên Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhập ngũ tháng 11 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó bộ binh, bộ đội tình nguyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Cha mẹ Nguyễn Riềng làm phu đập đá, quanh năm vất vả vẫn chẳng đủ ăn, đồng chí phải đi làm mướn từ nhỏ. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí xung phong đi bộ đội. Từ cuối năm 1945 đến 1954, Nguyễn Riềng nhận nhiệm vụ chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ và chiến trường miền Tây. Đồng chí đã luôn nêu cao tinh thần tích cực cách mạng, tinh thần quốc tế vô sản, chiến đấu rất dũng cảm, chỉ huy mưu trí, linh hoạt, qua hơn 50 trận chiến đấu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, nhiều lần bị thương vốn tiếp tục chiến đấu và đã có nhiều hành động sáng tạo, quả cảm trong những lúc khó khăn,  nêu tấm gương tiêu biểu cho bộ đội ta và bạn cùng học tập.


Trận Hà Thành tháng 10 năm 1948, tiểu đội Nguyễn Riềng đi đầu đội hình đại đội, đang hành quân thì gặp 1 trung đội lính lê dương đi càn. Bọn này những ngày đầu kháng chiến rất hung hăng kiêu ngạo, được mệnh danh là con cưng của lực lượng viễn chinh Pháp. Chúng ào ạt xông lên và nổ súng trước áp đảo. Đồng chí chủ động dẫn tiểu đội bí mật vòng ra sau, bất ngờ dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh giáp lá cà tiêu diệt địch. Cùng lúc đó đơn vị đã tiếp cận nổ súng. Bị đòn choáng váng đánh vào hai phía, địch hoang mang bỏ chạy. Trận này ta diệt 9 tên, bắt sống 4 tên, thu 14 súng các loại; đây là trận đầu tiên ta bắt sống được tù binh lê dương Âu Phi ở chiến trường này. Bộ đội và nhân dân vô cùng phấn khởi.


Trận Thuận Phước (tháng 11 năm 1948) lần đầu đánh công sự vững chắc, đơn vị chưa có kinh nghiệm, trang bị chưa đầy đủ, tổ chức chưa hợp lý, cách đánh chưa thành thạo, bị hỏa lực mạnh của địch khống chế, xung kích đã thương vong nhiều vẫn chưa dứt điểm. Đồng chí dẫn một tổ dũng cảm vượt qua tầm hỏa lực, luồn vào bám sát một ụ súng đang bắn ra mãnh liệt. Chờ lúc địch ngừng bắn thay băng đạn, đồng chí kề tiểu liên bắn quét vào giữa lỗ châu mai, dập tắt một hỏa điểm quan trọng đang ngăn cản bước tiến của quân ta. Bọn địch còn sống sót hoảng hốt bỏ chạy. Đơn vị thừa thắng phát triển vào bên trong. Đang chiến đấu thì Nguyễn Riềng bị thương vào cả hai chân. Nhưng đồng chí vẫn cố gắng nén chịu tiếp tục chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc.


Trận Quang Thiện tháng 12 năm 1948, đơn vị Nguyễn Riềng lại chạm trán 2 trung đội lê dương. Sau khi dẫn đầu tiểu đội đánh vào phía sau đội hình, diệt gọn 1 tiểu đội địch, đồng chí phát hiện 1 tên lính Pháp đang bắn đại liên ngăn cản đội hình xung phong của bộ đội ta phía trước. Nguyễn Riềng liền bò tới sau một ụ đất bất ngờ diệt tên này rồi cướp khẩu đại liên, bắn xối xả vào quân địch, tạo thời cơ cho đơn vị xông lên diệt gọn trung đội lính lê dương.


Trận Ninh Mã tháng 12 năm 1948, khi đoàn xe thiết giáp lọt vào trận địa phục kích của ta trên đường số 1, đơn vị vừa nổ súng, chuẩn bị xung phong thì bị 2 chiếc xe thiết giáp đi sau bắn vào đội hình, trung đội trưởng bị hy sinh. Đơn vị mất chỉ huy, đang gặp khó khăn lúng túng, một số đồng chí đã ngần ngại do dự, Nguyễn Riềng chủ động nêu khẩu hiệu động viên anh em quyết tâm trả thù cho trung đội trưởng, rồi tự động dẫn đầu tiểu đội xung phong ra mặt đường đánh xe thiết giáp. Cả đơn vị ào ạt lao theo, chiến đấu quyết liệt và chỉ sau ít phút kết thúc trận đánh.


Trận Kiệt Ngôn tháng 5 năm 1950, chiến đấu trên đất bạn, Nguyễn Riềng cùng tổ súng máy chiếm giữ được điểm cao, đánh lui 2 đợt tiến công của địch. Các đồng chí có nhiệm vụ chặn giữ ở đây để đơn vị lớn bí mật di chuyển, vòng phía sau bất ngờ đánh thọc ngang sườn, tiêu diệt quân địch. Súng máy hết đạn, đơn vị lớn vẫn chưa thấy. Địch lại tiến công lên. Nguyễn Riềng bảo đồng đội ghìm súng máy tại chỗ nghi binh, còn đồng chí dùng tiểu liên kê lên thùng đạn bắn điểm xạ ngắn, diệt từng toán địch. Lúc thấy dấu hiệu phía sau địch rối loạn, biết đơn vị lớn đã bắt đầu tiến công, đồng chí liền tập trung tiểu liên bắn mãnh liệt uy hiếp dồn địch trở lại, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt gọn 2 trung đội địch (1 trung đội lính Âu Phi, 1 trung đội lính ngụy). Đây là trận thắng lớn đầu tiên ở vùng này. Nhân dân bạn rất phấn khởi và tin tưởng ở bộ đội tình nguyện Việt Nam. Trận đánh thắng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển cơ sở mơ rộng vùng giải phóng trên đất bạn.


Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, Nguyễn Riềng còn làm tốt công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính quyền cách mạng. Từ cuối năm 1950 đến 1954, đồng chí đã gương mẫu vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn, luôn luôn đi sát lãnh đạo đơn vị và vận động nhân dân cùng tích cực tăng gia, sản xuất, từ đó xây dựng và dìu dắt các đơn vị dân quân du kích ở các làng bản, củng cố chính quyền cách mạng, góp phần xây dựng vùng căn cứ của bạn thêm vững chắc.


Nguyễn Riềng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 5 lần được trung đoàn và Liên khu khen thưởng, là Chiến si thi đua Liên khu 5.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Riềng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #65 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:06:10 pm »

Anh hùng Phạm Văn Ry


Phạm Văn Ry, sinh năm 1933, dân tộc Kinh, quê ở xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 10 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng đặc công, Phân khu miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Phạm Văn Ry xuất thân từ dân nghèo thành thị, cuộc sống lam lủ, vất vả để kiếm ăn đã sớm tạo cho đồng chí sự khôn ngoan, nhanh nhẹn, tháo vát để đối phó trong xã hội cũ. Cách mạng tháng Tám thành công giữa lúc đồng chí mới 13 tuổi. Tuổi nhở nhưng chí lớn; đồng chí quyết tâm tìm mọi cách để được vào bộ đội.


Tháng 9 năm 1945, Phạm Văn Ry đang đi bán kẹo như thường lệ, nhận thấy địch sơ hở, đồng chí đã mưu trí lấy được một khẩu súng trường đem nộp cho bộ đội. Được nhận vào bộ đội, Pham Văn Ry rất phấn khởi. Hai năm đầu làm liên lạc, đồng chí đã khôn khéo, bí mật vào đồn giặc lấy được 18 súng và 9 lựu đạn về trang bị cho đơn vị.


Năm 1947, được trên phân công, Phạm Văn Ry đã vận động được người chú họ là trung úy ngụy lấy được của địch 12 súng ngắn, 1 trung liên, 4 tiểu liên và 10.000 viên đạn ra hàng.


Tháng 2 năm 1948, Phạm Văn Ry bị địch bắt: chúng tra tấn dã man, đổ nước vào mũi, quay điện, nhiều lần chết đi sống lại, đồng chí vẫn một mực không khai. Không khai thác được gì chúng đưa đồng chí qua đồn Hà Chiểu. Nhân một hôm đi làm, tên lính gác sơ hở, đồng chí đã giật được khẩu súng, chạy thoát về đơn vị tiếp tục chiến đấu.


Trong 2 năm 1948-1949, Phạm Văn Ry đã chỉ huy một tổ đánh mìn phá hủy 7 đầu máy xe lửa, tự tay đồng chí đã phá được 5 đầu máy trên đường số 9.


Có lần đồng chí giấu búa đinh trong người, giả vờ đi nhặt chim thuê cho tên quan một Pháp đi bắn chim trong 3 ngày liền. Đến ngày thứ ba đồng chí đã được tên Pháp tin cậy, nó dựng súng một bên ngồi nghỉ mát. Đồng chí nhảy tới dùng búa đập vỡ đầu tên Pháp, thu được một khẩu súng các-bin về đơn vị.


Tháng 4 năm 1949, đồng chí đã mưu trí và táo bạo lừa giết được tên đồn trưởng Nhị Bình - một tên phòng nhì lợi hại - thu được súng vả cặp tài liệu quan trọng. Tài liệu này đã giúp trên nghiên cứu bắt được 40 tên phản động chui vào hàng ngũ ta.


Từ tháng 2 năm 1950 đến tháng 6 năm 1951, Phạm Văn Ry làm nhiệm vụ giao liên dẫn đường. Đoạn đường đồng chí phụ trách thường bị địch phục kích bắt, giết cán bộ, miền Đông gọi đây là đoạn “đường máu”. Nhiều lần giữa đường gặp địch, Phạm Văn Ry đã bình tĩnh xứ trí, tìm mọi cách đưa cán bộ vượt qua an toàn. Có lần bị địch bao vây, đồng chí đã bình tĩnh cất giấu tài liệu, rồi dũng cảm chiến đấu thu hút sự chú ý của địch về mình để cán bộ vượt qua an toàn. Suốt trong thời gian này, Phạm Văn Ry đã bảo đảm an toàn cho cán bộ và không để mất mát tài liệu, giữ vững đường dây liên lạc.


Cuối năm 1953, đầu năm 1954, Phạm Văn Ry được giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở trong lòng địch và làm công tác địch, ngụy vận. Đồng chí đã kiên trì vận động nhân dân, mạnh dạn gặp các gia đình và cả binh lính ngụy để giác ngộ họ. Nhờ đó qua 6 tháng, Phạm Văn Ry đã củng cố tốt lại cơ sở ở 2 xã đã bị địch phá rã và qua gần một năm công tác, đồng chí đã làm tan rã 3 đại đội ngụy binh.


Tổng cộng trong 10 năm chiến đấu Phạm Văn Ry đã tự tay phá được 5 đầu máy xe lửa, một xe bọc thép, diệt 41 tên địch, thu 20 súng, vận động 3 đại đội ngụy ra hàng và 166 tên khác đấu tranh trở về nhà làm ăn. Hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên giao. Đồng chí được khu và huyện khen 6 lần, 2 lẫn được thưởng 2 khẩu súng ngắn.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Phạm Văn Ry được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #66 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:10:17 pm »

Anh hùng Sùng Phái Sinh


Sùng Phái Sinh sinh năm 1915, dân tộc Hơmông, quê ở xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Tham gia cách mạng năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng xã Pú Nhung.


Từ năm 1949 đến 1954, Sùng Phái Sinh tham gia chiến đấu bảo vệ làng bản. Đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say đánh giặc, kiên trì vận động, tổ chức nhân dân, chiến đấu dũng cảm, mưu trĩ, một mình cũng kiên quyết đánh địch, bảo vệ tính mạng và tài sản của đồng bào, chỉ huy linh hoạt, táo bạo, biết phát huy truyền thống lấy ít đánh nhiều, lợi dụng địa hình rừng núi để diệt địch. Đồng chí còn tích cực tuyên truyền giác ngộ đồng bào, vạch rõ âm mưu giặc chia rẽ giữa các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết giữa các bản làng ngày một tốt hơn.


Tháng 9 năm 1951, bốn lần địch càn vào xã cướp thóc, ngô và thuốc phiện của dân, ba lần chúng tới tuy chỉ có một mình nhưng Sùng Phái Sinh đã chủ động đánh địch ngay từ khi chúng chưa vào tới bản, bắn chết 10 tên, buộc chúng phải rút chạy. Lần thứ tư, chúng huy động 300 quân từ ba hướng cản vào xã; Sùng Phái Sinh báo cho cán bộ và nhân dân tạm lánh, còn mình khôn khéo lợi dụng rừng cây, di chuyên cả trên ba hướng, lúc nấp, bắn, toán địch này, lúc bắn toán địch kia, kéo chúng lại gần nhau. Sau khi bắn chết 3 tên, bắn bị thương nhiều tên và quan sát thấy chúng đã bắt đầu bắn lẫn nhau, đồng chí nhanh nhẹn lẩn vào rừng. Chúng bắn nhau loạn xạ một hồi, rồi tường lực lượng ta đông nên xô nhau bỏ chạy về đồn. Qua 4 lần tự động đánh địch, đồng chí đã xây dựng được lòng tin của nhân dân, nhiều thanh niên xung phong vào đội du kích đánh giặc giữ làng.


Tháng 2 năm 1952, địch lên cướp phá ở Mai Thuận, Sùng Phái Sinh chỉ huy tổ du kích diệt 4 tên tại chỗ, buộc chúng phải rút. Ngày hôm sau chúng lên 150 tên, thấy lực lượng địch đông, đồng chí cho chiến sĩ rút, còn mình ở lại luồn rừng, lợi dụng núi cao, khe đá, ẩn nấp bắn tỉa diệt 7 tên, trong đó có tên quan ba chỉ huy, em trai tên vua Mèo phản động Đèo Văn Long, làm địch rất hoang mang, tháo chạy.


Cuối năm 1952, Sùng Phái Sinh dẫn bộ đội đến bao vây đồn Tuần Giáo. Đồng chí gọi hàng được 25 tên, tạo điều kiện cho bộ đội chiếm đồn không tốn một viên đạn. Sau đó Sùng Phái Sinh còn chỉ huy du kích về bản Phênh Pi và Tênh La truy quét bọn tàn binh, bắt sống 1 tên Pháp, buộc nó khai nơi cất giấu súng đạn, lấy được 60 khẩu súng và nhiều đạn.


Năm 1953, địch rút chạy khỏi Nà Sản, Sùng Phái Sinh chỉ huy du kích xuỵên rừng, đón đường, vây bắt, được 20 tên giặc.

Suốt 5 năm hoạt động, Sùng Phái Sinh đã làm tốt công tác xây dựng cơ sở cách mạng trên rẻo cao miền Tây Bác, nêu tấm gương về chịu đựng gian khổ, tích cực công tác, hết lòng bảo vệ cán bộ, kiên quyết phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của địch. Khi mất liên lạc với cán bộ, đồng chí ăn rau, củ rừng thay cơm, xuyên rừng đi tìm cho kỳ được để tiếp tục hoạt động. Đồng chí đã vận động, xây dựng được cơ sở cách mạng ở 16 bản, giáo dục tinh thần tương trợ lẫn nhau và lập được 50 tổ sản xuất, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc Mèo và dân tộc Thái, được nhân dân tin yêu.


Sùng Phái Sinh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 lần là Chiến sĩ thi đua của Quân khu Tây Bắc.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Sùng Phái Sinh được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #67 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:10:48 pm »

Anh hùng Đặng Đức Song


Đặng Đức Song sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê ở xã Cộng Hòa, huvện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 4 năm 1952. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trương bộ binh đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 98, đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đặng Đức Song tham gia chiến đấu từ năm 1952, đến năm 1954. Đồng chí là chiến sĩ liên lạc và chiến sĩ xung kích, đã có nhiều hành động dũng cảm trong chiến đấu, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị kết thúc các trận đánh thắng lợi.


Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ở những trận phòng ngự rất ác liệt, địch tiến công mạnh, lực lượng ta ít, Đặng Đức Song đã anh dũng chiến đấu, dìu dắt tổ tân binh lập công xuất sắc, giữ vững trận địa, giải quyết nhiều tình huống khó khăn.


Trong trận phòng ngự Đồi Xanh chiến dịch Điện Biên Phủ, Đặng Đức Song chỉ huy một tổ tân binh chiến đấu ngoan cường, đánh lui hai đợt tiến công của địch. Sau đó pháo binh địch bắn rất ác liệt vào trận địa, đồng đội bị thương vong rút hết xuống hầm, chỉ còn đồng chí Đặng Đức Song và một tân binh, Đặng Đức Song bình tĩnh động viên đồng chí tân binh quyết tâm chiến đấu và đã cùng nhau đánh lui đợt tiến công thứ ba của địch, giữ vững trận địa.


Cũng trong chiến dịch này, trận chiến đấu trên đồi C1 là một trận chiến đấu rất ác liệt, giành đi giật lại từng thước đất giữa ta và địch. Lần thứ nhất Đặng Đức Song dẫn ba tân binh vượt qua đạn pháo địch để nghiên cứu tình hình địch rồi về đưa đơn vị lến. Khi đạn pháo làm sập hầm, đồng chí bị đất lấp nửa người ngất đi, tỉnh dậy lại tiếp tục cùng đơn vị tham gia chiến đấu. Lần thứ hai, Đặng Đức Song lại được lệnh vượt qua tầm hỏa lực ác liệt của địch, đưa một đơn vị nữa vào chiến đấu. Khi phát hiện hỏa lực trung liên địch bắn ngăn chặn đường tiến của ta, đồng chí dũng cảm bò đến gần ném lựu đạn diệt ổ trung liên này, mở đường cho đơn vị xung phong, rồi lại đưa 6 thương binh vượt ra khỏi khu vực nguy hiểm. Lần thứ ba, mặc cho hỏa lực địch bắn dày đặc, đồng chí lợi dụng pháo sáng dũng cảm lên xuống 6 lần tìm đường dẫn một đơn vị vào bổ sung chiến đấu. Quá trình lên xuống, bản thân đồng chí đã dùng lựu đạn diệt 5 tên địch để mở đường.


Trận đồi Mâm Xôi ngày 3 tháng 5 năm 1954, trên đoạn đường hào gần 2 ki-lô-mét, hỏa lực địch tập trung bắn rất ác liệt, Đặng Đức Song đã 3 ngày lội dưới đường hào bùn nước ngập đến bụng, đưa đại đội trưởng qua lại đoạn đường nguy hiểm này để nghiên cứu mở cửa đột phá. Khi chiến đấu, đại đội trưởng hy sinh, đồng chí cùng một chiến sĩ nữa đã dũng cảm đưa bằng được đại đội trưởng về phía sau. Tinh thần thương yêu đồng đội của đồng chí đã cổ vũ toàn đơn vị hăng hái xung phong diệt địch.

Đặng Đức Song đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, 14 lần được trung đoàn, đại đoàn khen thưởng, và được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956 Đặng Đức Song được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quán công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #68 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:12:31 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Thành


Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xóm Hào Nam, xã Thịnh Hào, quận Ba Đình thành phố Hà Nội, nhập ngũ tháng 10 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 48, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ ngày nhập ngũ, Nguyễn Văn Thành đã đánh 17 trận trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Đồng chí luôn luôn thể hiện rõ tinh thần dũng cảm, mưu trí, chỉ huy linh hoạt, lập nhiều chiến công xuất sắc, nhất là đánh địch trong công sự vững chắc, hai lần bị thương vẫn quyết tâm chỉ huy đơn vị chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc thắng lợi.


Trận Cầu Vật (đường số 10 - Thái Bình) năm 1952, khi mở xong cửa mở, địch bắn rất mạnh vào đội hình đơn vị, một số bị thương vong, Nguyễn Văn Thành cũng bị thương gãy ba cái răng, giữa lúc đang dẫn đầu tiểu đội xung phong. Nhưng đồng chí nén đau dẫn đầu đơn vị, vượt qua lưới lửa của địch, đánh chiếm một căn nhà và dãy tường hộp làm chỗ đứng chân, rồi phát triển vào bên trong chia cắt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho hướng chính xung phong áp đảo, diệt và bắt toàn bộ quân địch (40 tên), thu toàn bộ vũ khí và quân dụng trong đồn.


Trận Vô Tình, Nam Định, tháng 11 năm 1952, sau mấy phút nổ súng đồng chí đã chỉ huy trung đội đánh chiếm được lô cốt chính rồi nhanh chóng phát triển vào bên trong. Các hướng tiến công khác đơn vị bạn chưa vào được, Nguyễn Văn Thành đã linh hoạt tổ chức trung đội hình thành ba mũi tiến công, đánh chia cắt địch, liên tiếp chiếm được 5 lô cốt, tạo điều kiện cho các hướng khác tiến vào diệt toàn bộ quân địch (60 tên).


Trận Quỳnh Côi (Thái Bình), tháng 1 năm 1953, sau khi phá xong hai lớp rào, Nguyễn Văn Thành dẫn đầu tiểu đội xung phong, diệt lô cốt đầu cầu rồi nhanh chóng vừa phát triển vừa gọi hàng (diệt thêm 4 tên, gọi hàng 18 tên). Nhờ đó đã củng cố và mở rộng được bàn đạp cho toàn đơn vị xung phong diệt gọn vị trí địch (hơn 70 tên).


Trận Yến Vĩ, Mỹ Đức - Hà Tây, tháng 5 năm 1953, địch đóng trong công sự kiên cố, rất khó đánh, Nguyễn Văn Thành có sáng kiến tự mình dẫn đầu một tổ, bí mật vào sát lô cốt, trèo lên nóc thả lựu đạn qua lỗ thông hơi diệt ụ trọng liên 12,7 mi-li-mét tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt địch.


Trận Kim Thanh, Hà Nam, tháng 2 năm 1951, ta chiếm lĩnh trận địa vào đêm sáng trăng, địch phát hiện được chúng gọi pháo và các ụ súng trong đồn bắn ra ác liệt. Đồng chí vẫn bình tĩnh động viên đơn vị quyết tâm đánh. Ngay phút đầu, đơn vị Nguyễn Văn Thành đã phá được 20 mét rào thép gai và đồng chí dẫn đầu đơn vị xông lên đánh chiếm ngay lô cốt đầu cầu. Đồng chí bị thương nặng vào đùi, nhưng vẫn giấu đồng đội. Nằm trên nóc lô cốt, đồng chí bình tĩnh quan sát và chỉ huy đơn vị chiến đấu, góp phần chủ yếu cùng đơn vị bạn diệt và bắt toàn bộ quân địch trong vị trí (80 tên).


Nguyễn Văn Thành không những chỉ huy đơn vị chiến đấu giỏi, mà còn thường xuyên chủ động xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, hết lòng thương yêu chiến sĩ, dìu dắt anh em nhanh chóng trưởng thành. Đối với đơn vị bạn, đồng chí luôn luôn nhận phần khó về mình, nhường thuận lợi cho bạn, tích cực học tập, rút kinh nghiệm, không ngừng nâng cao trình độ chỉ huy. Đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, được mọi người mến phục tin yêu.


Nguyễn Văn Thành đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 2 lần được tiểu đoàn và đại đoàn khen thưởng, 4 lần là Chiến sĩ thi đua đại đội và đại đoàn.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Văn Thành được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #69 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2019, 08:13:59 pm »

Anh hùng Nguyễn Văn Thậm


Nguyễn Văn Thậm sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 2 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng công binh thuộc trung đoàn 1, Phân liên khu miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sáu năm hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, Nguyễn Văn Thậm đã tham gia chiến đấu 17 trận, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say chiến đấu, dũng cảm vượt qua mọi thử thách ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đặc biệt trong đánh phá giao thông địch, đồng chí đã có nhiều hành động quả cảm, nêu tấm gương tiêu biểu cho toàn đơn vị học tập. Đồng chí đã đặt mìn đánh sập 10 chiếc cầu quan trọng, phá hủy 4 xe quân sự, diệt 178 tên địch, gây cho chúng nhiều khó khăn và thiệt hại.


Trận đánh cầu An Nhơn (Sài Gòn - Thủ Dầu Một) năm 1949, lần đầu tham gia chiến đấu, Nguyễn Văn Thậm đã bình tĩnh, bám sát đồng đội vượt qua nhiều tuyến canh gác của địch, vào đặt bộc phá đánh sập chiếc cầu dài 80 mét, làm ngừng trệ giao thông đường sắt của địch trên tuyến đường này hàng tháng trời liên tiếp.


Cầu Lái Thiêu nâm trên tuyến đường chiến lược Sài Gòn - Thủ Dầu Một. Địch tổ chức canh gác tuần phòng nghiêm ngặt. Nguyễn Văn Thậm đã dũng cảm và mưu trí dùng bè chuối đưa bộc phá vào chân cầu, đánh sập hai nhịp cầu dài 120 mét, diệt luôn cả bọn lính canh gác bên trên.


Năm 1950, sau một tháng rèn luyện kỹ thuật hoạt động dưới nước, Nguyễn Văn Thậm cùng tổ tiến hành nghiên cứu và đánh 2 cầu xi măng Bến Phấn, Bến Cát để phối hợp chiến đấu với chiến dịch Lê Hồng Phong. Trong trận đánh cầu Bến Phấn, đồng chí vừa đặt bộc phá xong, vào chưa tới bờ thì bị địch phát hiện và bắn đuổi theo như trút đạn. Sợ đứt dây điện, vừa uổng công vừa mất không bộc phá, đồng chí liền không quản hiểm nguy, chập điện cho bộc phá nổ sập cầu. Đồng chí bị sức ép ngất đi, may mắn được đồng đội dò theo luồng nước cứu sống dìu về.


Trận tập kích cầu Ông Khương bị lộ, địch từ tháp canh ở hai đầu cầu bắn ra mãnh liệt, ngăn cản quân ta tiếp cận. Đồng chí đề nghị một kế hoạch táo bạo đánh nhanh diệt gọn: cho 2 tiểu đội đánh mạnh vào hai tháp canh ở hai đầu cầu, phân tán hỏa lực địch, còn đồng chí dũng cảm bất ngờ ôm bộc phá vượt qua làn đạn địch chạy thẳng vào giữa cầu giật đổ. Kế hoạch được thực hiện trót lọt. Cầu Ông Khương đổ sụp, kéo theo xác hai tiểu đội địch ở tháp canh hai đầu cầu xuống lòng sông.


Trận đánh cầu Lái Thiêu lần thứ hai, năm 1952, địch rút kinh nghiệm lần bị đánh trước, chúng bố trí hàng rào bao bọc, chăng điện sáng và cho quân tuần tra canh gác nghiêm ngặt. Nguyễn Văn Thậm đã kiên trì bám sát, điều tra tỉ mỉ 20 ngày đêm, nắm vững quy luật và tìm ra kẽ hở trong kế hoạch bố phòng của địch, giúp trên hạ quyết tâm chính xác. Khi được lệnh, đồng chí chỉ huy tiểu đội vào đặt mìn theo đúng kế hoạch. Cầu Lái Thiêu bị đánh sập đã gây nén tiếng vang rất lớn. Trận đánh đã làm rung động mạnh mẽ hàng ngũ quân địch, ảnh hưởng trực tiếp và phá vỡ cuộc càn lấn chiếm của địch vào vùng căn cứ của ta.


Tháng 6 năm 1953, Nguyễn Văn Thậm lại chuẩn bị một trận đánh thứ ba tại cầu Lái Thiêu. Lần này nắm được quy luật đại đội biệt kích địch thường ra tắm ở cầu sau lúc đi sục sạo về, đồng chí cho bộc phá vào thùng gắn kín làm thủy lôi thả chìm ở bến. Khi bọn địch ra tắm, đồng chí chập điện cho bộc phá nổ diệt 75 tên (có 10 tên Pháp). Nhân dân địa phương rất phấn khởi vì bộ đội ta đã tiêu diệt được lũ biệt kích vô cùng tàn ác, có nhiều nợ máu với nhân dân trong vùng.


Nguyễn Văn Thậm sống gương mẫu về mọi mặt, khi chiến đấu cũng như khi công tác, lúc học tập cũng như sinh hoạt bình thường, bao giờ đồng chí cũng xung phong nhận việc khó về mình, đoàn kết thân ái giúp đỡ đồng đội, khiêm tốn thật thà với đồng bào, đồng chí, được mọi người mến yêu.


Nguyễn Văn Thậm đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì và 3 lần được Quân khu khen thưởng.


Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Văn Thậm được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM