Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:07:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân - Tập 1  (Đọc 7068 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:45:10 pm »

Anh hùng Lê Văn Thọ


Lê Vãn Thọ sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thới Hiệp, huyện Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 4 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng đặc công thuộc miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Lúc còn nhỏ, Lê Văn Thọ đã tham gia canh gác, giấu cán bộ về hoạt động bí mật ở xã. Từ ngày nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, đồng chí hoạt động ở Sài Gòn và miền Đông Nam Bộ, luôn luôn dũng cảm, táo bạo trong chiến đấu, kiên trì, mưu trí, thận trọng, chính xác trong việc điều tra, trinh sát nắm địch. Gặp nhiều trường hợp khó khăn nguy hiểm đồng chí vẫn không nản, kiên quyết khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình chiến đấu, đồng chí đã diệt được 161 tên địch, góp phần tích cực cùng đơn vị phả hủy nhiều cầu cống, kho bom đạn và đồn bốt địch.


Năm 1949, Lê Văn Thọ nhận nhiệm vụ trinh sát và đánh cầu Lái Thiêu (trên đường số 13), ở đây địch canh phòng rất cẩn mật. Đồng chí đã dũng cảm kiên trì trinh sát và dẫn đơn vị vào đánh đến lần thứ tư, mới đánh sập cầu.


Từ năm 1950 - 1952, Lê Văn Thọ đã tham gia đánh nhiều trận, lập công xuất sắc, đặc biệt, trong nhiệm vụ điều tra và đánh kho bom Tân Sơn Nhất. Đây là một vị trí địch tổ chức bố phòng nghiêm ngặt: nhiều đồn bốt bao bọc bên ngoài, rồi hàng rào dây thép gai, bãi mìn, bãi cát trắng, đường xe đi tuần, con mương rộng sâu lút đầu người, dưới đáy cắm chông, rồi lại thành đất cao và dày, đèn pha bật sáng suốt đêm, một đại đội Âu Phi thường xuyên tuần tiễu. Đồng chí đã mưu trí táo bạo kiên trì trinh sát trong 4 tháng liền, hết vào lại ra, nhiều lần nằm lại theo dõi nắm chắc địch và xây dựng cơ sở. Khi được lệnh trên cho đánh, Lê Văn Thọ đã cùng một đồng chí nữa đột nhập gài mìn vào giữa kho bom và những nơi xung yếu rồi giật nổ làm chết 182 tên địch, bị thương nhiều tên, phá huy hơn 700 quả bom, một đại bác, làm sập ba tháp canh, một dãy nhà lính và 15 dãy nhà kho. Trận đánh thắng này đã gây cho địch rất nhiều thiệt hại, có tác dụng cổ vũ toàn chiến trường Nam Bộ lúc bấy giờ.


Ngoài tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, đồng chí Lê Văn Thọ còn hết lòng thương yêu đồng đội, tuy thường phải hoạt động và chiến đấu độc lập ít người giữa vòng vây dày đặc của địch, nhưng dù khó khăn ác liệt thế nào đồng chí cũng tìm cách đưa bằng được thương binh, tử sĩ ra ngoài an toàn, chu đáo. Thường xuyên trong hoạt động, đồng chí còn biết dựa vào dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân đùm bọc che chở qua các bước hiểm nghèo.


Lê Văn Thọ đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Kháng chiến hạng nhất, 5 lần được Mật trận miền Đông Nam Bộ khen vả là Chiến sĩ thi đua toàn quốc.


Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lê Văn Thọ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:45:56 pm »

Anh hùng Lộc Văn Trọng


Lộc Văn Trọng sinh năm 1905, dân tộc Tày, quê ở xã Chí Thảo, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó lái xe ô tô thuộc Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trước Cách mạng tháng Tám, đồng chí Lộc Văn Trọng bị bắt đi lính. Chúng đưa đồng chí sang Pháp học lái xe. Năm 1945, nghe tin nước nhà độc lập, mặc dù bọn đế quốc ra sức khủng bố, đồng chí đã tham gia tổ chức Ái hữu của binh lính người Việt ở Pháp, đấu tranh không chuyển vũ khí sang Việt Nam và đòi hồi hương, do đó bị chúng bắt bỏ tù và đày đi Bắc Phi. Năm 1946, trước đòi hỏi chính đáng của Chính phủ ta, bọn Pháp phải thả số anh em này và cho hồi hương.


Đồng chí trở về quê, xung phong vào du kích. Năm 1948, giặc càn vào làng, đồng chí đã cùng tổ du kích dũng cảm chiến đấu, bắt sống 2 tên lính Pháp, thu 2 tiểu liên và 200 viên đạn.


Năm 1950, tuy đã 45 tuổi, Lộc Văn Trọng được tin bộ đội đang rất cần lái xe để phục vụ kịp thời cho chiến dịch Biên Giới, đồng chí xung phong đi ngay. Từ đó đồng chí đã lái xe phục vụ trong suốt 5 chiến dịch lớn, luôn luôn nêu cao tinh thần bền bỉ, tích cực, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn ác liệt, đưa được nhiều hàng tới đích kịp thời và an toàn. Gần 3 năm, trong những điều kiện phục vụ chiến dịch hết sức khó khăn, chiếc xe do đồng chí lái và bảo quản đã chạy hơn 3 vạn ki-lô-mét an toàn đưa được hàng nghìn tấn vú khí, lương thực tới chiến trường, kịp thời phục vụ đơn vị chiến đấu. Trong phong trào thi đua lập công, đồng chí Lộc Văn Trọng là chiến sĩ lái xe xuất sắc của Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần; với tinh thần trách nhiệm cao, kết hợp những kinh nghiệm, nền nếp bảo quản và sử dụng xe, đồng chí đã nêu tấm gương sáng trong ngành vận tải, xứng đáng là lá cờ đầu của toàn đơn vị.


Chiến dịch Biên Giới, Lộc Văn Trọng theo sát bộ đội vào thu chiến lợi phẩm ở Đông Khê, Thất Khê. Xe bị hư hỏng nhiều, đồ nghề thiếu, đồng chí đã vận động anh em thu nhặt phụ tùng ở các xe hỏng, sửa chửa liên tục nhiều ngay đêm được 36 xe, riêng bản thân đồng chí sửa được 4 xe, kịp thời phục vụ đắc lực cho việc vận chuyến sau chiến dịch.


Phục vụ chiến dịch Tây Bắc và Điện Biên Phủ, qua những quãng đường gay go nguy hiểm, gặp bom nổ chậm, Lộc Văn Trọng đều bình tĩnh xem xét, tổ chức và dẫn đầu đơn vị vượt qua an toàn.


Cuối năm 1952, địch đánh lên vùng Đoan Hùng (Phú Thọ). Thấy giặc sắp đến vùng kho hàng cua ta, đồng chí nhanh nhẹn lái chiếc xe của mình dẫn đầu anh em đi chuyển kho, cứu hàng ra ngoài. Trời mưa, đường trơn, nhiều xe và hàng còn bị mắc kẹt, Lộc Văn Trọng quay lại động viên anh em chặt tre, đan phên lát đường cho xe chạy. Suốt đêm mưa, tối, đồng chí đã cùng anh em đưa được 80 thùng xăng và 14 tấn vũ khí vượt ra vùng an toàn.


Một lần trong chiến dịch Điện Biên Phủ, do yêu cầu vận chuyển cấp tốc, đoàn xe phải tranh thủ vượt một trọng điểm, vừa tiến đến thì một quả bom nổ, mảnh bom, đất đá văng tung tóe vào các xe, trong lúc đó máy bay địch vẫn đang quần lượn, Lộc Văn Trọng bình tĩnh ra lệnh tắt đèn và lái xe dẫn đầu đơn vị vượt ra khỏi khu vực nguy hiểm.

Lộc Văn Trọng luôn gương mẫu, cởi mở, khiêm tốn, chí công vô tư, được đồng đội tin yêu.

Lộc Văn Trọng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, được Cục Vận tải khen và bầu là chiến sĩ lái xe xuất sắc.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lộc Văn Trọng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:46:32 pm »

Anh hùng Nguyễn Phú Vị


Nguyễn Phú Vị sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội, nhập ngũ tháng 3 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 48, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 16 tuổi, nhà nghèo, đồng chí Nguyễn Phú Vị xin vào làm công nhân ở nhà máy điện Hà Nội. Tổng khởi nghĩa tháng Tám nảm 1945, đồng chí đã cùng công nhân tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội, chiếm nhà máy điện và trại lính bảo an, sau đó xung vào đội quân Nam tiến, chiến đấu ở Nam Bộ, bị thương, được đưa ra Bác điều trị.


Tháng 3 năm 1946, sau khi bình phục Nguyễn Phú Vị trở về đội ngũ, tham gia chiến đấu ở giữa Thủ đô những ngày đầu kháng chiến toàn quốc và sau đó đồng chí hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nguyễn Phú Vị đã đánh 30 trận luôn luôn thể hiện tinh thần hăng say đánh giặc, đã nổ súng là kiên quyết xung phong, gặp tình huống gay go ác liệt cũng không nản, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, chỉ huy bình tĩnh, mưu trí, táo bạo, đã cùng trung đội diệt 500 tên địch, thu và phá hủy nhiều xe pháo của chúng. Riêng đồng chí diệt 60 tên, bắt sống 5 tên thu 10 súng các loại.


Trận Trung Thứ, Hà Nam năm 1951, địch dùng 2 đại đội bất ngờ tiến công bao vây 1 đại đội ta ở làng Trung Thứ. Đồng chí được lệnh sang đánh giải vây cho đơn vị bạn, mặc cho địch bắn pháo chặn đường, đồng chí dũng cảm dẫn đầu trung đội vượt qua lửa đạn, đánh thốc vào sau lưng địch, diệt ngay sở chỉ huy, bắn chết tên quan ba, bắt sống tên chỉ huy và 17 tên khác, diệt gọn 1 trung đội địch, khiến toàn bộ địch hoang mang tan rã, tạo điều kiện cho tiểu đoàn bao vây chia cắt, diệt gọn cả 2 đại đội địch, giải vây cho đơn vị bạn.


Trong trận tiến công địch ở thị trấn Phát Diệm (năm 1952), Nguyễn Phú Vị nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị thọc sâu, diệt sở chỉ huy và khu điện đài của địch. Đồng chí chỉ huy đơn vị bí mật tiếp cận trước giờ nổ súng. Khi có lệnh, cả đơn vị xông lên bắn chết 2 tên lính gác, rồi nhanh chóng vượt rào, chia làm 3 mũi đánh vào sở chỉ huy, khu máy điện và khu thông tin. Chỉ ít phút sau, ta đã diệt xong địch và làm chủ khu vực này. Đồng chí tổ chức lại lực lượng chiếm giữ trận địa, và cử 6 đồng chí đánh tiếp sang khu bên, diệt thêm 2 tiểu đội địch nữa rồi cố thủ ở đó, đánh lui ba đợt phản kích của lực lượng tiếp viện địch. 7 giờ sáng, được lệnh rút Nguyễn Phú Vị chỉ huy đưa hết thương binh ra ngoài và tranh thủ tiếp tục đánh chiếm khu để pháo của địch, diệt thêm 6 tên, mở rộng bàn đạp cho toàn trung đoàn triển khai, diệt gọn 7 đại đội địch, làm chu thị trấn 1 ngày 1 đêm.


Nguyễn Phú Vị là một cán bộ gương mẫu, tận tụy, luôn luôn xung phong dẫn đầu trong mọi công tác, đoàn kết giúp đỡ mọi người. Với đức tính khiêm tốn, giản dị, chân thành, đồng chí được anh em trong toàn đơn vị tin yêu.


Nguyễn Phú Vị đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (một hạng nhất, một hạng nhì, một hạng ba), 17 lần được trung đoàn và đại đoàn khen.


Ngày 31 tháng 8 năm 1955, đồng chí Nguyễn Phú Vị được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:47:30 pm »

Anh hùng Trần Can
(Liệt sĩ)


Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 1 năm 1951. Khi hy sinh đồng chí là đại đội phó bộ binh thuộc trung đoàn 209, đại đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ hồi còn nhỏ Trần Can đã rất ham thích đi bộ đội để được cầm súng giết giặc, cứu nước. Lớn lên, đã 3 lần đồng chí xung phong tình nguyện xin đi bộ đội, nhưng vì sức yếu nên mãi lần thứ tư mới được chấp nhận.


Từ khi váo bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, đồng chí đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; đã hai lần đồng chí bị thương nặng vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương của đồng chí đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi trong toàn đơn vị.


Chiến dịch Tây Bắc năm 1952, trong trận đánh địch ờ Bản Hoa, Trần Can làm nhiệm vụ xung kích, vừa có lệnh xung phong đồng chí đã nhanh chóng cùng tiểu đội vượt qua cửa mở, dùng thủ pháo diệt một ụ súng địch rồi lập tức phát triển sâu vào bên trong. Khi tiểu đội bị thương vong hết, đồng chí tự động sát nhập với hai đồng chí của tiểu đội khác lập thành một tổ tiếp tục chiến đấu. Đồng chí dẫn đầu tổ diệt luôn ba ụ súng nữa và đánh thẳng vào sở chỉ huy địch diệt cơ quan đầu não, bắt sống 22 tên, thu 17 súng các loại.


Trong trận đánh đồn Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn giặc. Khi nổ súng, mặc cho hỏa lực địch bắn ra dữ dội, đồng chí dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào đánh chiếm sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhảy lên nóc lô cốt cắm cờ. Sau đó chỉ huy tiểu đội diệt bọn địch còn lại trong hầm ngầm, bắt 25 tên, thu nhiều súng.


Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo địch, chiếm mỏm cột cờ. Địch bắn pháo dữ dội và cho quân đánh chiếm lại. Ta với địch giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Đồng chí đã cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của chúng. Địch lại xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong, Trần Can nhặt ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên hào đánh giáp lá cà với địch. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chi huy đơn vị chiến đấu suốt một đêm. Sáng hôm sau, đồng chí tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Địch lại phản kích lên dữ dội, mong đánh bật quân ta, giành lại cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt phản kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh. Đồng chí Trần Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 nám 1954, ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.


Trần Can đã được, tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Can được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:48:06 pm »

Anh hùng Cao Thế Chiến
(Liệt sĩ)


Cao Thế Chiến sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nhập ngũ tháng 1 năm 1947. Khi hy sinh đồng chí là đại đội phó, thuộc đại đội 2, trung đoàn 101, đại đoàn 325, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Hơn bảy năm chiến đấu ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, đồng chí Cao Thế Chiến đã trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội. Ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí đã tham gia 50 trận đánh. Nhiều trận gặp tình huống gay go, phức tạp, đồng chí vẫn bình tĩnh, linh hoạt chỉ huy đơn vị đánh thắng địch.


Năm 1947, Cao Thế Chiến là chiến sĩ thông tin ở bộ phận điện đài, đồng chí đã khắc phục nhiều khó khăn để nắm vững nghiệp vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ chỉ huy chiến đấu.

Năm 1948, Cao Thế Chiến được chuyển về đơn vị chiến đấu làm nhiệm vụ diệt tề, trừ gian, đồng chí đã lập được nhiều thành tích. Một lần đồng chí dẫn tiểu đội bao vây vị trí bọn tề đang họp (gần thị xã Đồng Hới), rồi tự mình xông vào bắt bọn chúng, 2 tên ngoan cố tháo chạy, đồng chí nổ súng tiêu diệt, bọn còn lại bị tiểu đội xông vào bắt gọn.


Trận Mỹ Trung (Quảng Bình), đầu năm 1949, kế hoạch định đánh bằng binh vận bị lộ, địch xảo quyệt gài bẫy lừa ta, khi đồng chí dẫn đầu tiểu đội tiến vào, chúng đã bố trí sẵn hỏa lực bắn ra dữ dội. Tuy lâm vào tình thế bất lợi, nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh chỉ huy tiểu đội anh dũng chiến đấu với một đại đội địch, diệt 14 tên rồi phá hàng rào rút ra an toàn.


Trận Xuân Bồ (năm 1950), đơn vị Cao Thế Chiến bị địch bao vây bất ngờ. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go ác liệt. Tiểu đội trưởng hy sinh. Đồng chí thay thế chỉ huy tiểu đội và trực tiếp dùng trung liên bắn mạnh cản địch cho đơn vị rút ra an toàn.


Trong trận chống càn ở Thanh Hương (Thừa Thiên) năm 1952, địch tập trung 18 tiểu đoàn, có hơn 50 máy bay, 18 khẩu pháo và 100 xe cơ giới yểm trợ, tiến công ta. Sau đợt phản kích đầu tiên, trung đội đồng chí bị đứt liên lạc với đại đội và bị thương vong chỉ còn lại 17 người. Suốt 1 ngày, Cao Thế Chiến đã động viên và tổ chức anh em đánh lui 6 đợt phản kích điên cuồng của địch. Đến tối, được lệnh mở đường phá vây, đưa đồng bào ra ngoài. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị dũng cảm chiến đấu phá vỡ vòng vây địch, đưa 500 đồng bào rút về căn cứ an toàn.


Đầu năm 1954, địch dùng 4 tiểu đoàn bao vây tập kích vào cơ quan trung đoàn bộ của ta. Nghe tiếng súng nổ, Cao Thế Chiến chủ động nhanh chóng chỉ huy trung đội đánh tạt sườn quân địch, diệt gọn một trung đội. Bị đánh bất ngờ vào giữa đội hình, địch hoang mang tan rã. Đồng chí đang dẫn đầu trung đội truy kích địch, không may bị thương nặng. Không bỏ lỡ thời cơ kẻ địch đang hoang mang Cao Thế Chiến không cho đồng đội băng bó, tiếp tục chỉ huy đơn vị tiến công dồn dập, phá tan cuộc tập kích của chúng, bảo vệ được sở chỉ huy. Do vết thương nặng, đồng chí đã anh dũng hy sinh trên đường truy kích địch.


Cao Thế Chiến đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công (một hạng nhất, một hạng ba), 9 bằng và giấy khen.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Cao Thế Chiến được Chù tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:48:52 pm »

Anh hùng Tô Vĩnh Diện
(Liệt sĩ)


Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 7 năm 1949. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367.


Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo khổ, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, đồng chí đã phải chịu đựng bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946 đồng chí tham gia dân quân ờ địa phương, đến năm 1949 xung phong vào bộ đội. Trong học tập và công tác, đồng chí luôn thể hiện tinh thần gương mẫu đi đầu, lôi cuốn đồng đội noi theo. Trong hành quân chiến đấu, đồng chí đã cùng đồng đội bền bỉ vượt qua khó khăn, chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị cho đánh lớn, đồng chí Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị cao pháo. Quá trình đơn vị hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1.000 ki-lô-mét tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội đưa pháo tới đích an toàn.


Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, đồng chí xung phong lái để bảo đảm cho pháo được an toàn. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ từng dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xảy ra.


Kéo pháo vào đã nhiều gian khổ hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt. Đồng chí đã đi sát từng người động viên giải thích rõ nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.


Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối - một cái dốc nghiêng 70 độ, đường hẹp và cong rất nguy hiểm - Tô Vĩnh Diện cùng đồng chí Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, đồng chí vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo xuống thắng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị hất xuống suối. Trước hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em: "Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo" và đồng chí buông tay lái xông lên trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh xe pháo. Pháo bị vướng, nghiêng dựa vào sườn núi, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ được pháo dừng lại.


Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.


Tô Vĩnh Diện đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất. Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nưức Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:49:40 pm »

Anh hùng Trần Đức
(Liệt sĩ)


Trần Đức sinh năm 1917, dân tộc Kinh, quê ở xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 1 năm 1946. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc đại đội 212, tiểu đoàn 19, trung đoàn 108, đại đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, trong phong trào Nam tiến, đồng chí Trần Đức xung phong tòng quân vào Nam giết giặc. Bốn năm chiến đấu trong quân đội, đồng chí đã tham gia 40 trận đánh, với đặc điểm sử dụng trung liên rất chính xác, phát huy hiệu lực cao, đồng chí đã áp đảo hỏa lực địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xông lên giải quyết trận đánh thắng lợi. Nhiều trận, đồng chí đã góp phần quyết định trong những tình huống gay go, phức tạp, tự tay đã diệt 200 tên địch, bắn hỏng bảy xe vận tải quân sự.


Tháng 12 năm 1946, đơn vị đồng chí làm nhiệm vụ vây hãm sân bay địch. Nhiều lần địch nống ra, đồng chí đã dùng trung liên bắn chặn, bẻ gãy nhiều đợt phản kích của chúng, chân súng gãy, đồng chí lấy đá kê lên tiếp tục chiến đấu, giữ vững trận địa.


Tháng 2 năm 1947, địch dùng 2 đại đội chia làm 2 mũi tiến công vảo đơn vị. Đồng chí chờ cho địch tới thật gần, mới bất ngờ nổ súng và cùng đơn vị dũng cảm xung phong tiêu diệt quân địch. Trận này, đồng chí diệt 25 tên, tạo điều kiện cho đơn vị đánh lui 2 đợt phản kích của địch.


Tháng 4 năm 1947, 3 đại đội địch từ Nam Ô tiến công lên. Nhận nhiệm vụ chặn địch, ngay từ phút đầu, Trần Đức đã dùng trung liên diệt 15 tên. Địch thấy lực lượng ta ít liền triển khai bao vây hòng tiêu diệt, đồng chí nhanh trí lấy thùng sắt kê súng lên bắn, giả làm đại liên để uy hiếp tinh thần địch. Suốt 1 ngày, Trần Đức và đồng đội đã đánh lui 3 đợt phản kích của địch, diệt 2 trung đội, bẻ gãy một mũi tiến công nguy hiểm của địch.


Trận đánh địch trên đèo Hải Vân (tháng 5 năm 1947), đại đội đồng chí phụ trách chặn đầu đoàn xe địch. Khi 6 chiếc xe chở lính lọt vào trận địa, Trần Đức nổ súng chính xác bắn hỏng ngay chiếc xe đi đầu, bọn địch bị ùn lại, đơn vị ào ạt xung phong diệt gọn bọn địch đi trên sáu xe.


Tháng 2 năm 1949, địch dùng hơn 1.000 quân bao vây 2 đại đội ta ở Nam Thừa Thiên. Đại đội đồng chí bố trí trên đường cái, trước mặt là con sông. Ngay từ phút đầu, Trần Đức đã dùng trung liên bắn chế áp địch, buộc chúng phải phân tán đối phó. Suốt 1 ngày, đồng chí đã cùng đơn vị đánh lui 3 đợt phản kích của địch. Riêng đồng chí đã bắn chết và bắn bị thương 70 tên, góp phần cùng đơn vị phá tan cuộc tiến công lớn của chúng.


Tháng 11 năm 1950, địch tiến công ta với lực lượng đông gấp nhiều lần, có máy bay, pháo binh yểm trợ. Suốt 1 ngày, đại đội đồng chí bị vây 4 mặt. Ta quyết mở đường rút ra. Trần Đức được giao nhiệm vụ dùng hỏa lực mở đường và ngăn chặn địch, bảo vệ cho đơn vị rút. Đồng chí đã chiến đấu dũng cảm cho đến phút cuối cùng và hy sinh ngay tại trận địa.


Khi còn sống, đồng chí Trần Đức luôn luôn gương mẫu trong mọi mặt công tác, đoàn kết với anh em, hướng dần và phổ biến kinh nghiệm sử dụng trung liên, loại hỏa lực mạnh chủ yếu của bộ đội ta lúc bấy giờ, cho mọi người trong đơn vị.


Trần Đức đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 5 lần được Liên khu khen.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Đức được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:50:25 pm »

Anh hùng Lê Công Khai
(Liệt sĩ)


Lê Công Khai sinh năm 1925, dân tộc Kinh, quê ở xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 6 năm 1946. Khi hy sinh đồng chí là đại đội trưởng bộ binh Liên khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sau khi nhập ngũ, đồng chí Lê Công Khai xung phong vào đội quân Nam tiến, chiến đấu giết giặc. Gần 9 năm trong quân đội, đồng chí đã tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu 40 trận, ở cương vị nào, trong hoàn cảnh nào cũng luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, chỉ huy linh hoạt, bình tĩnh, nhiều lần bị thương vẫn bám trận địa, tiếp tục chiến đấu.


Đầu năm 1947, Lê Công Khai làm chiến sĩ liên lạc, bị địch bắt và tra tấn dã man, nhưng đồng chí vẫn không hề khai báo. Sau 4 tháng bị giam, đồng chí vận động 10 anh em trong tù tổ chức vượt ngục về đơn vị tiếp tục chiến đấu.


Trong trận Ninh Mã (Khánh Hòa) tháng 7 năm 1949, Lê Công Khai bắn súng máy kiềm chế hỏa lực địch, diệt 13 tên (có 1 tên quan ba ngụy), chi viện đắc lực cho đơn vị chiến đấu.


Trận phục kích địch ở nam Khánh Hòa (năm 1950) đồng chí phụ trách tiểu đội, tự tay bắn súng máy diệt 10 tên và chỉ huy tiểu đội đánh lui 1 đại đội địch.


Đánh đồn Túy Loan (Quảng Nam) tháng 5 năm 1952, cửa vừa mở, địch tập trung bắn ra dữ dội, Lê Công Khai bình tĩnh chỉ huy trung đội nhanh chóng đánh chiếm lô cốt đầu cầu rồi phát triển đánh vào hầm đặt pháo và sở chỉ huy địch. Lê Công Khai bị thương vào lòng bàn chân nhưng tự băng bó và kiên quyết chỉ huy đơn vị chiến đấu đến khi diệt xong đồn giặc.


Trong trận Tú Thủy, Kon Tum, trời đã gần sáng nhưng xung kích bị thương vong nhiều vẫn chưa tiến lên được. Lê Công Khai tổ chức lại bộ đội, động viên tinh thần chiến đấu của anh em rồi dũng cảm xông lên trước, lôi cuốn toàn đơn vị xung phong diệt đồn. Đại đội trương bị thương nặng, đồng chí lên thay thế chỉ huy, diệt và bắt sống hơn 1 đại đội địch.


Hè năm 1954, đơn vị Lê Công Khai đánh đồn Đắc Đoa, đây là một vị trí then chốt của địch. Ta đã đánh 2 lần nhưng chưa dứt điểm, địch càng tăng cường phòng thủ. Ba đêm liền, đồng chí kiên trì vào điều tra, về lập kế hoạch tỉ mỉ, động viên đơn vị quyết tâm đánh thắng. Khi nổ súng, trận đánh diễn ra hết sức gay go ác liệt. Lê Công Khai bị thương gãy chân trái, vẫn tiếp tục chỉ huy chiến đấu, bị gãy thêm chân phải, vẫn kiên trì chịu đựng nằm tại chỗ động viên chỉ huy đơn vị xông lên tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi tinh nhuệ của chúng.


Trên đường về quân y, vì vết thương nặng, máu ra nhiều, đồng chí Lê Công Khai đã hy sinh.

Lê Công Khai đã được tặng thưởng 2 bằng khen, 2 lần ban chỉ huy chiến dịch tuyên dương công trạng, là Chiến sĩ thi đua của Liên khu 5.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Lê Công Khai được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:51:13 pm »

Anh hùng Phạm Minh Đức
(Liệt sĩ)


Phạm Minh Đức sinh năm 1932, dân tộc Kinh, quê ở xã Diễn Trung, huyện Diễn Cháu, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 4 năm 1951. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ bộ binh thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 1, trung đoàn 53, đại đoàn 350.


Từ khi là một tân binh, dù được giao nhiệm vụ gì, làm chiến sĩ xung kích hay chiến sĩ tải thương, chiến sĩ nuôi quân, đồng chí Phạm Minh Đức đều vui vẻ chấp hành, nêu cao tinh thần tận tụy, gương mẫu trong chiến đấu, học tập và công tác. Hòa bình lập lại, khi được phân công làm nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô và thành phố cảng Hải Phòng, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, góp phần cùng đơn vị bảo đảm an toàn khu vực được phân công, đặc biệt trong trận chống bão lụt tháng 9 năm 1955, đồng chí đã dũng cảm lập nhiều thành tích và đã hy sinh thân minh để cứu sống nhân dân.


Tháng 4 năm 1951, Phạm Minh Đức vào bộ đội, cùng đơn vị đi chiến dịch Tây Bắc. Trong trận đầu tiên, thấy đồng chí xạ thu trung liên hy sinh, đồng chí đã xung phong lên thay thế và bình tĩnh chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có lần trên điều đi công tác, tuy bị thương nhưng Phạm Minh Đức vẫn bình tĩnh phối hợp cùng công an, bắt được 2 tên gián điệp đang chỉ điểm cho máy bay bắn phá.


Tháng 10 năm 1954, đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ Thu đô và cảng Hải Phòng. Phạm Minh Đức luôn luôn tích cực, tận tụy trong khi làm nhiệm vụ tuần tra canh gác nên đã phát hiện được nhiều vụ gián điệp đang liên lạc, tuyên truyền, phá hoại, cũng như bắt bọn buôn gian bán lậu, góp phần tích cực cùng đơn vị bao đảm an toàn khu vực được phân công.


Trận bão ngày 26 tháng 9 năm 1955, mưa to, nước lớn tràn đê, gây lụt lớn, tràn ngập một số vùng dân cư ở Hải Phòng, tính mạng và tài sản nhân dân bị đe dọa. Đơn vị được lệnh cấp tốc đi chống lụt cứu dân. Phạm Minh Đức bị yếu, đơn vị phân công ở nhà, nhưng đồng chí vẫn cố xin đi bằng được. Với tinh thần dũng cảm, vì dân, đồng chí đã lặn lội, vật lộn với sóng gió đưa được 18 đồng báo bị nước cuốn về chỗ an toàn. Lúc ấy đồng chí đã gần kiệt sức, nhưng không nỡ khoanh tay nhìn đồng bào bị trôi, Phạm Minh Đức lại rán hết sức cứu thêm 2 người nữa. Một cơn sóng to ập đến giữa lúc sức đã đuối, đồng chí bị dòng nước cuốn trôi và đã anh dũng hy sinh.


Đồng đội và nhân dân địa phương vô cùng thương tiếc Phạm Minh Đức. Tấm gương hy sinh của anh đã làm rạng rỡ thêm bản chất và truyền thống của quân đội ta, một quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà hy sinh chiến đấu.


Phạm Minh Đức đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 5 lần được trung đoàn, sư đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua số một của sư đoàn.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Phạm Minh Đức được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2019, 07:52:25 pm »

Anh hùng Nguyễn Đô Lương
(Liệt sĩ)


Nguyễn Đô Lương, sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Quang, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nhập ngũ tháng 9 năm 1945. Khi hy sinh đồng chí là trung đội trưởng trinh sát thuộc trung đoàn 108, đại đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Năm 16 tuổi, Nguyễn Đô Lương đã xung phong vào bộ đội, theo đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở chiến trường Liên khu 5.


Tám năm liền Nguyễn Đô Lương làm trinh sát, đồng chí đã tham dự nhiều trận đánh, luôn luôn dũng cảm, linh hoạt, vượt qua mọi khó khăn, có nhiều sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ.


Cuối tháng 12 năm 1946, Nguyễn Đô Lương đã dũng cảm giả làm người đi buôn, lọt vào thành phố điều tra tình hình địch suốt 3 ngày đêm liền. Đêm thứ tư đồng chí đưa đơn vị vào hoạt động. Quá trình diễn biến chiến đấu, đồng chí theo dõi, nắm chắc tình hình địch, báo cáo kịp thời, tạo điều kiện cho đơn vị tiêu hao được nhiều địch, giữ vững phòng tuyến Tùy Loan trong mấy tháng liền.


Tháng 3 nám 1947, Nguyễn Đô Lương cùng đơn vị chuẩn bị đánh địch ơ Đại An, Quảng Nam (cũ), vết thương ở tay chưa lành, đồng chí vẫn xin đơn vị cho làm nhiệm vụ trinh sát nắm địch. Qua một đêm theo dõi, đồng chí đã bí mật dũng cảm bắt sống 1 tù binh, khai thác được tài liệu, chuẩn bị cho trận đánh.


Trận đánh giao thông trên đường Thanh Quýt - Quảng Nam (tháng 2 năm 1950), đồng chí Nguyễn Đô Lương đã hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, nhưng vẫn đề nghị được trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt quân địch. Khi đơn vị xung phong đồng chí đã dũng cảm nhảy lên xe địch, vật lộn và giết chết 1 tên lính Pháp, thu 6 súng.


Trận Diên Hòa (Quảng Nam) tháng 11 năm 1950, máy bay, pháo binh địch bắn phá dữ dội vào đội hình quân ta. Nhận nhiệm vụ đi liên lạc, đồng chí đã dũng cảm nhiều lần đi lại truyền lệnh của cấp trên cho các đơn vị được chính xác, kịp thời. Trận này, đơn vị đã đánh tan một lực lượng lớn quân địch định bao vây uy hiếp, tiêu diệt chủ lực ta.


Cuối năm 1950, hoạt động ở miền tây Quảng Ngãi, đồng chí phụ trách trinh sát đồn Măng Giang, Mang Bút. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn gian khổ, cơ sở không có, có lần nhịn đói suốt 5 ngày, đồng chí đã kiên trì động viên đơn vị chịu đựng, khắc phục, điều tra được tình hình địch ở hai đồn này, xây dựng được cơ sở cách mạng và phong trào du kích ở 5 xã đồng bào dân tộc ít người.


Tháng 5 năm 1953, Nguyễn Đô Lương phụ trách điều tra vị trí Hòn Bàng (Quảng Nam). Tuy cơ sở quần chúng không có, địch thường phục kích bất ngờ ở các ngả đường, nhưng đồng chí đã mưu trí táo bạo, 3 lần dẫn tổ vào tận đồn điều tra tỉ mỉ, chính xác rồi rút ra an toàn. Trước khi đánh, đồng chí được cử vào điều tra lần cuối cùng. Lần này Nguyễn Đô Lương đã bị địch phục kích và bắt được. Trước khi bị bắt, đồng chí đã hô to để anh em kịp thời chạy thoát. Chúng đưa đồng chí về tra tấn cực kỳ dã man, nhưng đồng chí không những không chịu khuất phục mà còn chửi thẳng vào mặt chúng. Biết không khai thác được gì ở Nguyễn Đô Lương, bọn địch đã trói đồng chí vào cột cờ, rồi khoét 2 mắt và bắn chết.


Nguyễn Đô Lương đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 3 lần được Bộ tư lệnh Liên khu khen.

Ngày 7 thang 5 năm 1956, Nguyễn Đô Lương được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM