Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:24:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Kỷ niệm Cứu quốc quân  (Đọc 6943 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #90 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:19:16 am »

Lời nói của Đảng thấm vào từng người. Ai cũng thấy mình có vinh dự, có trách nhiệm lớn lao, tin tưởng lời chỉ dẫn của Đảng sẽ thành sự thật.

— Cứu quốc quân đoàn kết với nhau, đoàn kết với nhân dân thành một khối rắn như thép, dũng cảm làm tròn nhiệm vụ Đảng giao cho.

Tôi đã hứa với Đảng, với nhân dân như vậy.

Nữ đồng chí Vinh, cán bộ giao thông liên lạc của Trung ương được cứu thoát từ nhà lao Tuyên Quang, sống ở Chiến khu mấy ngày đã thấy được cái gian khổ, khó khăn, thiếu thốn của miền núi; địa hình, địa thế rất hiểm trở, mỗi bước đi là một bước trèo đèo, lội suối, xuyên rừng, chưa kể còn gặp ác thú... Chị xúc động, phát biểu:

— Sống ở Chiến khu mới thấy lực lượng ở Chiến khu thật là to lớn. Lần nay về đến dưới kia, chúng tôi sẽ hết lòng hết sức vận động phong trào chị em phụ nữ dưới xuôi ủng hộ nhiều hơn nữa cho Chiến khu...

Sau chị Vinh, đến lượt đồng bào nói những ý kiến của mình. Bà con hứa sẽ sát cánh cùng với Cứu quốc quân đi theo ngọn cờ cách mạng, giành lấy độc lập.

Lời nói của Đảng, của dân, của quân, tất cả đều khắc sâu vào tâm trí mọi người. Kết thúc buổi lễ là cuộc diễn tập của Cứu quốc quân. Những tiếng hô dõng dạc vang lên.

Cả trung đội nhanh chóng nghe theo lệnh của người chỉ huy, khẩn trương xếp hàng có cự ly gián cách rõ ràng.

Thoắt một cái, Cứu quốc quân triển khai đội hình, súng ống đầy đủ, bước chân rập, rập — tuy chỉ là đi chân đất cả — động tác mạnh mẽ, không chút ngượng ngập.

— Thành ba tư thế ! Ngồi bắn, quỳ bắn, đứng bắn !

Miệng tuy hô, nhưng lòng tôi vẫn cứ lo ngay ngáy anh chị em làm chuệch choạc. Nhưng tất cả đều cố gắng làm đúng nhiều điều đã học được. Hàng ngũ nghiêm chỉnh, họ đã dàn đúng đội hình thành ba hàng ngồi bắn, quỳ bắn, đứng bắn. Mắt đồng chí nào dường như cũng nảy lửa hướng về một điểm nhất định tượng trưng cho quân thù.

Đứng cương vị là người chỉ huy quân sự lúc bấy giờ, tôi thấy tự hào về đơn vị của mình, về những đồng chí của mình. Tôi chắc anh chị em cũng cùng một ý nghĩ như tôi.

Tôi quay mặt về phía đồng chí đại diện Trung ương và nhân dân tới dự, đưa tay lên ngang lông mày chào theo kiểu quân sự.

Quần chúng xem biểu diễn động tác, mắt nhìn chăm chú, tay chỉ trỏ, miệng xuýt xoa, ca ngợi, tán thưởng, môi nở nụ cười phấn chấn. (Lúc ấy đang là thời kỳ hoạt động bí mật nên không có vỗ tay, hoan hô ầm ĩ). Ngày nay, nhớ lại hình ảnh đội quân ngày hôm ấy, thấy đơn giản, du kích, ấu trĩ, nhưng lúc đó nhân dân các dân tộc và chúng tôi đều lấy làm kiêu hãnh vì đội quân cách mạng của ta trông rất hùng dũng, uy nghi.

Xong lễ, Cứu quốc quân với nhân dân cùng nhau hát mấy bài, rồi ăn cơm đoàn kết. Có đến một trăm người dự. Các bàn ăn làm bằng cây và sàn nứa đơn sơ mộc mạc nối nhau thành hàng, đều nhau. Mọi người đều đứng, nhưng vui vô cùng : dân tiếp thức ăn cho Cứu quốc quân, đơm cho nhau những bát cơm đầy có ngọn, chúc sức khỏe, diệt được nhiều địch. Tiếng cười tiếng nói ran ran.

Ăn xong lại tập họp ở bai, liên hoan bằng tiếng hát lời ca. Những bài « Cùng nhau đi Hồng binh », « Anh em trong đoàn quân du kích », « Cách mạng hiện thời đang nổi khắp năm châu», «Tuốt gươm trường ba thước, ta cùng nhau bước » được hát đi hát lại nhiều lần bằng các thứ tiếng.

Cuộc vui kéo dài mãi tới khuya, không ai tự động bỏ ra về trước. Nhưng đã đến lúc phải tạm chia tay. Quân, dân cùng lưu luyến. Người lấy đuốc, kẻ chào nhau, từng tốp tíu tít: tiếng Tày, Nùng nhanh và vang động tựa núi đá, tiếng Dao ấm áp thong thả, tiếng Kinh như chim hót. Du kích quân và nhân dân các dân tộc tới dự mít-tinh hẹn ngày gặp nhau sau sẽ được vui chơi lâu hơn và ăn bữa cơm đoàn kết quân dân to hơn...

Những bó đuốc nối tiếp nhau sáng rực các ngả đường uốn khúc theo bờ suối đưa các đoàn người về lại những bản sâu xa tít để lại mở rộng phong trào. Rừng Khuổi Kịch như còn vang đọng mãi lời hứa quyết tâm của Cứu quốc quân...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #91 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:20:39 am »

*
*   *

Trung đội Cứu quốc quân III bắt tay ngay vào việc học tập và bàn bạc công tác. Anh Chính giáo dục cho Cứu quốc quân tư tưởng, tinh thần cách mạng của Đảng, góp những ý kiến có ý nghĩa quyết định cho công tác của chúng tôi. Chúng tôi phân công nhau đi Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên để làm nhiệm vụ mới. Riêng tôi sẽ phụ trách hai tiểu đội đi dần sang phía tây-bắc Thái Nguyên tức là vùng Đại Từ — Phú Lương và bên Tuyên Quang làm mấy nhiệm vụ sau đây: một, phát triển và xây dựng phong trào mới làm cho căn cứ địa thêm vững mạnh ; hai, xây dựng lực lượng quân sự và chính trị đi đôi ; ba, Bắc tiến tiếp tục đánh thông đường hành lang lên Cao Bằng đón đơn vị Nam tiến.

Hai ngày sau lễ thành lập Trung đội Cứu quốc quân III, các đồng chí Chính, Hòa, Châm, Vinh, Ân, Thánh và tôi từ Khuổi Kịch về Làng Cam để kịp ngày khai hội bàn công tác của hai phân khu A và B. (Phân khu A là vùng đất đai nằm bên này sông Cầu gồm có Bình Gia, Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Võ Nhai, Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên), Hữu Lũng, Yên Thế (tỉnh Bắc Giang). Phân khu B ở bên kia sông Cầu gồm có Phú Lương, Đại Từ, Chợ Chu (tỉnh Thái Nguyên), Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã (tỉnh Bắc Cạn), Sơn Dương, Yên Sơn (tinh Tuyên Quang).

Làng Cam ở trên đỉnh núi Chúa chỉ là một xóm bé nhỏ có năm gia đình thôi mà lại rộng hơn nhiều nơi khác. Chính nhờ đây mà chúng tôi có chỗ nương thân, thường xuyên hàng chục, có khi hai chục cán bộ về hội họp, ăn uống. Chính đây cũng là nơi đón anh em chúng tôi sau bao lần vượt khó khăn gian khổ. Cứu quốc quân đã lấy Làng Cam làm bàn đạp để phát triển phong trào rộng ra khắp vùng.

Hội nghị lần này cũng tổ chức ở Làng Cam. Hội nghị rất đông. Có đủ các đồng chỉ châu Võ Nhai, do anh Quốc Hưng dẫn đầu sang dự. Phong trào đòi hỏi chúng tôi bàn những vẩn đề khó khăn và phức tạp hơn. Công tác của hai phân khu A và B, củng cố hành lang liên lạc giữa hai phân khu, đường liên lạc từ Chiến khu với Trung ương ở xuôi, tiếp tục đánh thông đường lên Cao Bang, củng cố và phát triển cơ sở, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, công tác bí mật, toàn là những vấn đề lớn, cấp thiết chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang tiến lên giành chính quyền.

Sau Hội nghị này, một số anh chị em Cứu quốc quân được phân công ở lại Làng Cam công tác. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, trừ một số đồng chí đưa anh Chính vả chị Vinh về xuôi, còn tất cả lại lên đường làm nhiệm vụ.

Chúng tôi đưa hai người về tận Võ Nhai. Đến đây, anh Chính, chị Vinh và tôi gặp một số bà con, nói chuyện về tình hình sáng sủa và phấn khởi của phong trào các nơi, động viên, khuyến khích bà con tiếp tục đấu tranh chống địch. Sau đó, chúng tôi cùng chia tay trong mối tình quyến luyến : anh Chính, chị Vinh về xuôi ; bà con Võ Nhai ở lại Chiến khu ; tôi cùng một vài anh em nữa đi công tác...

Phấn khởi với nhiệm vụ mới, anh em mong chóng về đến nơi công tác, nhưng cũng lưu luyến với những người đồng chí ruột thịt, với tình thương yêu của các bà, các mẹ, các chị. các anh ở Làng Cam hẻo lánh mà vô cùng đầm ấm này. Cũng từ Làng Cam này, ai có thể ngờ rằng mối tình giữa anh Chính và nữ đồng chí Vinh bắt đầu, phát triển và keo sơn cho đến ngày nay...

Rừng giang, rừng nứa trên núi Chúa vươn những cánh tay dài vẫy gọi tất cả chúng tôi đang xuống núi, đi về những hướng khác nhau nhưng cùng mang theo niềm tin chắc chắn cách mạng nhất định thành công.

*
*   *

Trung đội Cứu quốc quân III được phân đi từng tiểu đội một, mỗi tiểu đội phụ trách một khu vực. Mỗi đồng chí trong Ban chỉ huy trung đội nắm trực tiếp lấy một tiểu đội.

Đồng chí Lê Dục Tôn, một trong ba đồng chí chỉ huy Trung đội Cứu quốc quân II, được cử phụ trách tiếp Định Hóa. Thời gian này, Định Hóa đã trở thành trung tâm về binh vận, là mối dây liên lạc với Ban lãnh dạo trong nhà tù, đồng thời phong trào quần chúng cũng rộng hơn. Ở Định Hóa một thời gian, tôi đi xuống Bản Pình, Bản Pài, rồi lên Chợ Chu. Hồi này, Hoàng Thượng và anh Nhất Quý vẫn phụ trách con đường Bắc tiến.

Tháng 5 năm 1944, tôi về Xứ họp. Kỳ họp này là kỳ họp bất thường ở huyện Hiệp Hòa (tỉnh Bắc Giang) để nghe các nơi báo cáo tình hình của phong trảo. Song vì có một số đồng chí Xứ ủy không tới kịp, nên kỳ họp chính thức của Xứ định vào tháng tám. Trước khi đi họp Xứ ủy, tôi bảo Lê Dục Tôn : «Cứ cho ra, độ mươi, mười lăm người cũng được». Dục Tôn hiểu rất rõ ý tôi nói, gật đầu đáp : «Cậu cứ yên trí mà đi họp. Mình cũng đang thiếu cán bộ ! Được các anh ấy ra giúp đỡ thì còn gì bằng !». Từ ngày anh Văn viết thư và cho giao thông đặc biệt đưa thư lên khu căn cứ, nói «cán bộ ở trong nhả tù Chợ Chu ấy», chúng tôi rất chú ý đến khu vực Chợ Chu. Và chị giao thông đã cầm thư của Trung ương lên cho chúng tôi chính là đồng chí phụ trách binh vận trung ương. Chúng tôi hy vọng được số cán bộ mà Trung ương đã dự định tăng cường cho khu chúng tôi. Cho nên khi đi họp Xứ ủy lần này, cái vui mừng được thấy phong trào càng lớn mạnh làm cho cái chân đi không biết mỏi là gì.

Cuộc họp Xứ tháng 8 năm 1944 vẫn được tổ chức ở Hiệp Hòa, tôi thấy có cả anh Sơn (Trường Chinh), anh Văn Tiến Dũng, v.v. Xứ chính thức quyết nghị chia hai phân khu A và B, phân công phụ trách và chủ trương cho cán bộ vượt ngục ở hai nơi Bá Vân và Định Hóa.

Tôi khấp khởi mừng thầm trong bụng, chỉ mong cho xong hội nghị ra về để tổ chức thực hiện nghị quyết quan trọng này của Xứ. Cuộc họp gần xong thì có một đồng chí nói : «Đêm mai căng Bá Vân vượt ngục». Tôi sửng sốt nhìn đồng chí ấy và nghĩ bụng : Bá Vân và Định Hóa thì ra cùng chứ, Bá Vân đêm mai ra thì tài thánh mình cũng không làm kịp cho Định Hóa được. Như muốn nhấn mạnh điều nay cho anh em phụ trách Bá Vân nhớ, đồng chí đó nhắc lại : «Đêm mai căng Bá Vân vượt ngục». Lúc ấy tôi cùng hiểu được rằng đưa anh em mình ở trong nhà giam đế quốc ra là cả một công trình nghiên cứu, điều tra và sáng tạo cách đưa êm thấm nhất, không những giải phóng cho những người được vượt ngục mà còn giữ được bí mật cho những anh em mình còn ở lại và nhân mối. Nhưng không hiểu sao hôm đó tôi còn kỳ kèo: «Bá Vân vượt ra trước. Về không khéo thì tắc đường... Không đợi nhau ! Chúng tôi không có cán bộ...» Song Xứ đã «quyết» rồi, các nơi cứ thế mà thi hành.

Họp xong, tôi về đến Cây Thị, đã thấy không khí khang khác. Tới La Hiên, thấy lính đã gác cả, tôi nhờ một cơ sở tên là Ba làm dõng sang điều tra tình hình đường cái Phú Lương. Tôi chỉ nằm cách huyện lỵ có trăm thước, đợi tin. Anh Ba về, nói cho biết là các thứ lính và dõng canh gác rất nghiêm ngặt. Dò hỏi, có đứa không nói, có đứa thì nói là « tù căng Bá Vân trốn ». Tôi thừa biết là anh em ta ở Bá Vân đã thành công và bọn địch đang cuống cuồng đối phó từ «sau đêm hôm ấy». Mừng cho các đồng chí mình mà cũng lo cho khu mình, cho Dục Tôn «ở nhà». Không biết có nhanh nhạy chớp đúng thời cơ mà làm hay không. Đứt dây động rừng ! Bá Vân rồi, ở Chợ Chu, bọn chó sói sẽ canh phòng cẩn mật hơn. «Nhưng không sợ! Tôi nghĩ — Cứu quốc quân không sợ khó khăn, không nề gian khổ, quyết chí hy sinh, dũng cảm làm tròn nhiệm vụ Đảng giao cho». Những ý nghĩ của tôi rất phù hợp với lời ca của một bài hát mà bất cứ một đội viên Cứu quốc quân nào, dù là nam hay nữ, rất thích hát: bài hát «Cùng nhau đi Hồng binh».

Đó lại cũng là lời thề của Cứu quốc quân mà...

Sau đó vài ngày, lính tráng rút đi hết, tôi mới về chỗ Lê Dục Tôn. Thấy mặt là tôi hỏi ngay cái chuyện nói từ trước khi đi họp Xứ. Dục Tôn, vẻ mặt không đổi khác — tôi cũng không hiểu nó vui hay nó buồn nữa—bảo tôi:« Chờ cậu về. Rồi mới làm». Hắn vẫn cứ cộc lốc như thế, nhưng nói câu nào chắc câu ấy, người mới nghe, mới tiếp xúc cứ tưởng như nó là đứa khinh người! Cá tính Dục Tôn thế thôi, chứ đã làm cái gì là làm bằng được. Tôi cũng hiểu được rằng Dục Tôn «chờ tôi về rồi mới làm» có cái lý của nó : tình hình đã thay đổi, không thể làm bừa, làm ẩu. Tôi gật đầu bảo Dục Tôn: «Ừ! Bàn rồi làm!» Dục Tôn cũng không nói gì hơn. Tính « ông » cháu tôi vẫn thế!
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #92 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:22:30 am »

*
*   *

Ngày 2 tháng 10 năm 1944 mới tổ chức cho anh em ta ở nhà tù Chợ Chu ra. Tất cả là mười hai người: đồng chí Song Hào, đồng chí Hiến Mai, đồng chí Tạ Xuân Thu, đồng chí Trung Đình, đồng chí Chì, đồng chí Phong đen, đồng chí Nhị Quý, đồng chí Khang, đồng chí Môn, đồng chí Sơn, đồng chí Chu Nhữ và đồng chí Tùng, toàn là những cán bộ xuất sắc của Đảng cả. Chiến khu chúng tôi « được các anh » thì « bằng trời cho của », tôi nghĩ thế. Lúc bấy giờ, sự thật ra trời cho của cũng không bằng được các anh! Chuẩn bị rất chu đáo và giải quyết cũng nhanh chóng và gọn. Các đồng chí vượt ngục có cả chi ủy và bí thư là đồng chí Song Hào. Chúng tôi đã bố trí ông Tư già ở Bãi Hội chờ đón các đồng chí ở một con suối chảy ngang qua đường, cách Khuôn Lình dăm cây số. Ông Tư già đưa anh em vào sâu nữa: ở đây đã có Lê Dục Tôn(1) đứng đợi bên một gốc cây lớn. Dục Tôn phát cho mỗi người một quả lựu đạn, phổ biến kế hoạch hành quân. Tất cả lên đường ngay vì chỗ này chưa phải là đất an toàn. Dục Tôn và ông Tư bỏ các đường mòn đưa anh em vào các khu rừng rậm, hướng về mục tiêu đã định.

Gần nửa đêm, tới bờ sông Đáy. Trời không trăng không sao, đen sẫm. Bỗng dưới sông có ánh đuốc. Dục Tôn ra hiệu cho anh em dừng lại, còn ông Tư cầm ngang khẩu súng kíp tiến lên trinh sát. Được một lúc, ông Tư quay lại nói:

— Hồng Hải(2) nó đi bắt cá đấy!

Thì ra Hồng Hải chờ dẫn đường tiếp, lâu quá, đã tranh thủ chặt nứa — bờ sông là rừng nứa rất dày — làm bó đuốc đi dọc sông chém cá! Hồng Hải, một đội viên Cứu quốc quân II, người Dao cao to, cái anh chàng gác mà suy nghĩ miên man ngày ấy nay đã trở thành một cán bộ có uy tín trong vùng. Từ đây Hồng Hải sẽ thay thế ông Tư dẫn đường. Đêm thứ ba về đến Bản Pài.

Bọn địch đã phát hiện được «tù Cộng sản trốn». Lính khố xanh đã kéo tới Bản Pài cùng với hàng trăm lính dõng tập trung về. Tất cả các đường mòn đều đã bị canh gác. Địch chăng dây để phát hiện dấu vết của những người đi trốn. Cơ sở báo cho biết «lính của Chợ Chu đang đuổi gần tới nơi, dân Bản Pài đang bị tra khảo rất gắt».

Cả đoàn phải dừng lại để tìm cách đối phó. Cùng lúc đó một tiểu đội Nam tiến ở trên kéo xuống, bị tắc đường. Trước tình hình khó khăn phức tạp này, tất cả nhất trí «tạm lánh vào nương thật xa, kiên trì đợi cho đến khi quân địch rút đi, mới có thể đi tiếp được». Hồng Hải dẫn anh em lên một đỉnh núi xa tít, rậm rạp. Chân người Dao quen leo núi, người Kinh chỉ quen đi đường bằng, lần đi này quả là vất vả đối với các đồng chí.

Qua bao nhiêu gian khổ, đói khát, nhưng nhờ nhân dân Bản Pài hết lòng che chở và giúp đỡ nên các đồng chí đã về tới được Chiến khu. (Cho đến ngày thứ bảy, không tìm thấy được một dấu vết nào của đoàn mà cũng không khai thác được một tí tài liệu nào trong dân chúng, bọn địch đành phải hậm hực kéo nhau trở về Đại Từ, Chợ Chu, Sơn Dương).

Lúc này tôi đang ở xã Văn Minh, gần Vân Lãng. Đến gần chục ngày, từ sau khi cử Dục Tôn, Hồng Hải và ông Tư đi đón anh em mình, đêm tôi không ngủ được trọn giấc. Nhất là khi nghe tin lính địch từ các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang được lệnh của Hà Nội «phải bắt lại cho được bọn tù Cộng sản này lên vùng Chợ Chu». Khi nghe tin địch đã rút đi thì đêm nào tôi cũng ngồi chờ bên bếp lửa. Tôi cứ mong được nghe cái giọng cộc lốc của Lê Dục Tôn: «Cậu! Mang các đồng chí ấy về rồi đấy!».

Đêm ấy cũng như những đêm khác, tôi ngồi chờ bên bếp lửa. Bỗng có tiếng nói ở chân cầu thang :

— Tới nơi rồi, các đồng chí à !

Đúng Dục Tôn rồi ! Đúng anh em mình về đến đây rồi. Tôi vùng dậy, tiến lại phía anh em. Cái nhà sàn nhỏ rung rinh. Ánh lửa trong bếp soi tỏ từng bộ mặt thân yêu. Mắt tôi thấy đủ mười hai đồng chí. Cảm động quá, tôi nói mà không nén được xúc động :

— Các đồng chí đã ra. Phong trào đang cần các đồng chí lắm !

Cơ sở đã nấu sẵn cháo gà thết khách. Chúng tôi ngồi quây quần bên bếp lửa, sì sụp ăn cháo gà nóng, chuyện trò, tâm sự...

Ngày hôm sau Xứ ủy phân công một số sang hoạt động ở phân khu Quang Trung (còn gọi là phân khu A) và một số khác hoạt động ở phân khu Nguyễn Huệ (tức là phân khu B). Các đồng chí Song Hào, Hiến Mai, Tạ Xuân Thu. Trung Đình, Chì, Tùng, Môn, Phong về phân khu Nguyễn Huệ. Đồng chí Song Hào làm Bí thư, phụ trách chung tất cả các mặt của phân khu. Cùng đi có cả Dục Tôn : Dục Tôn đang công tác gây cơ sở phía đó cùng với đồng chí Triệu Khánh Phương.


(1) Hiện nay là Thường Vụ Khu ủy Khu tự trị Việt Bắc.
(2) Hiện nay ở Mặt trận Tổ quốc Khu tự trị Việt Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #93 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:23:38 am »

*
*   *

Chúng tôi vẫn hoạt động chung quanh dãy núi Hồng.

Sau khi anh em ta vượt ngục rồi, thực dân Pháp cho quân lính và bọn tay sai phản động bắt bớ, tra tấn người ở vùng Chợ Chu. Chúng vu cho là «đã đồng lõa với bọn tù Cộng sản, giúp cho đi thoát mà không báo cho nhà chức trách biết». Làng Cóc cũng nằm trong sự khủng bố của địch, có người bị địch bắn giết. Sự điên cuồng giãy giụa của địch ở đây cũng là sự giãy giụa điên cuồng của địch ở nơi nào phong trào cách mạng lên mạnh: cuộc khủng bố lan rất nhanh ra khắp các nơi, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn...

Chúng tôi phân tán vào các cơ sở hoạt động. Lúc đó, lực lượng cán bộ trong Chiến khu là một lực lượng đáng kể. Lại thêm Cứu quốc quân III hầu hết là những đồng chí đã trải qua chiến đấu trong những hoàn cảnh phức tạp, khó khăn, có nhiều kinh nghiệm, thì địch làm gì nổi ? Trong khi phân công đồng chí Trung Đình ở lại Đại Từ, Xứ ủy điều một vài anh em khác về vùng Kim Long (Tân Trào) cùng đồng chí Lê Dục Tôn xây dựng cơ sở và thành lập chính quyền cách mạng; anh Tạ Xuân Thu, tôi và một số anh em nữa vào Đội võ trang tuyên truyền tập trung, vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục quần chúng, vừa tổ chức triển lãm để nhân dân thấy được sự lớn mạnh của phong trào cách mạng cả nước cũng như uy tín ngày càng cao của Việt Minh.

Từ tháng 5 năm 1944, dựa vào chủ trương của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh đã ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa, thúc đẩy hơn nữa việc xây dựng lực lượng để khởi nghĩa giành chính quyền.

Cuối tháng 5 năm 1944, trong không khí háo hức của việc thi hành chỉ thị mới của Tổng bộ Việt Minh, tin đồng chí Hoàng Văn Thụ bị đế quốc Pháp xử bắn ở Bạch Mai làm cả Chiến khu tiếc thương vô hạn, càng bầm gan tím ruột đối với bọn Pháp thực dân và tay sai. Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã hy sinh nhưng gương bất khuất của đồng chí trước kẻ thù tàn bạo mãi mãi để chúng tôi soi mà chiến đấu quên mình vì Đảng, vì nhân dân.

Ngày 10 tháng 8 năm 1944, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi sắm vũ khí đuổi thù chung. Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng, Cứu quốc quân càng đẩy mạnh việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Ở căn cứ địa cách mạng, quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy. Tuy vậy lúc này vẫn là thời kỳ tích trữ lực lượng, chuẩn bị phát động khởi nghĩa.

Tháng 10 năm 1944, dưới sự thúc ép của phát-xít Nhật, phát-xít Pháp mở một cuộc càn quét lớn vào vùng Võ Nhai. Đây là cuộc khủng bố lớn lần thứ ba vào vùng này. Đầy lòng căm thù giặc, Cứu quốc quân và quần chúng cách mạng đã sẵn sàng chiến đấu. Song đáng lẽ trong tình hình ấy, phải kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu để chống địch khủng bố, bảo vệ nhân dân thì Ban lãnh đạo phân khu lại đưa quần chúng vào rừng, phát động đấu tranh vũ trang, tiến hành trừ gian hàng loạt, liên tục phục kích, đánh đồn, cắt đứt đường giao thông của địch v.v. Cuộc đấu tranh chống khủng bố đó mang tính chất một cuộc khởi nghĩa. Ban Thường vụ Trung ương đã biểu dương tinh thần cách mạng của quần chúng, nhưng mặt khác, đã phê bình những thiếu sót và khuyết điểm. Trung ương kịp thời cử cán bộ về giúp đỡ, khắc phục tư tưởng cục bộ, nóng vội, cho nên nói chung đã duy trì được cơ sở cách mạng và giữ gìn được lực lượng để chờ thời cơ thuận lợi hơn.

(Sau này tôi được nghe kể lại: ở căn cứ địa Cao — Bắc — Lạng, từ tháng 7 năm 1944, Liên tinh ủy Cao — Bắc — Lạng đã nhận định là các điều kiện để phát động khởi nghĩa vũ trang đã chín muồi. Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa được xúc tiến rất khẩn trương. Liên tỉnh ủy dự định triệu tập một cuộc họp cuối cùng quyết định ngày giờ phát động khởi nghĩa. Đúng lúc ấy, đồng chí Hồ Chí Minh ở Trung Quốc về, đã kịp thời ra lệnh đình lại. Người cho rằng chủ trương phát động khởi nghĩa của liên tỉnh Cao — Bắc — Lạng mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục. Người nói: « Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếụ bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động khởi nghĩa vũ trang, ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp mới có thể đẩy phong trào tiến lên. Nếu phát động đấu tranh mà mỗi khi địch đến, nhân dân lại phải tản cư vào rừng núi, thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Phải làm sao cứ hoạt động vũ trang mà dân ở đâu cứ ở đấy sản xuất chỉ cần tăng cường canh gác đề phòng không để địch bắt, hại những người hoạt động...». Rồi Người đề ra một cách giải quyết: «Lực lượng vũ trang của ta hiện nay đã ít lại phân tán quá. Bây giờ nên tập họp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến phải nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở phát triển lực lượng vũ trang, Chúng ta sẽ lập đội Quân giải phóng».

Nhận định sáng suốt đó của Người đã tránh cho Cao — Bắc — Lạng những tổn thất lớn...).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #94 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:26:39 am »

*
*   *

Mùa đông năm 1944...

Tiếng súng diệt đồn Phai Khắt, Nà Ngần vang vọng về. Bọn lính khố xanh, khố đỏ «đi trận mạc» về kháo với nhau : «Các ông Cộng sản làm loạn ở Cao Bằng, giết Tây đồn, còn tha lính người an-nam». Đồng bào đi chợ, nghe nói thế, về báo cho cán bộ biết. Tôi nghĩ ngay đến những đồng chí ở Cao Bằng: anh Lã, anh Tống, anh Hoa, anh Vũ Anh và nhiều anh khác nữa. Và nhớ nhất là anh Văn. Từ sau cuộc gặp gỡ lịch sử ở Khuổi Tà, bặt tin trong lúc đế quốc Pháp coi Cao Bằng là trọng điểm khủng bố để đánh phá cách mạng, đồng thời tạo một thứ hậu phương khi chúng thấy cần phải rút lui, đến nay lại nghe tiếng súng Cao Bằng diệt địch, tôi đoán chắc cánh anh Văn «đã làm nên chuyện rồi». Những người anh em ở trên ấy đã lên tiếng! Nghe thấy tiếng súng của nhau, lòng mừng náo nức. Một, hai đồng chí ở phía trên về cũng nói «Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân» đã được thành lập do chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh. Lễ thành lập Đội đã được cử hành trong một khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám ngày 22 tháng 12 năm 1944. Đội có cả nam và nữ. Có cả chi bộ Đảng. Nghe nói có cả anh Văn, anh Sơn Hùng, anh An. Tôi vụt nhớ lại hình dáng những người đồng chí thân yêu ấy: Sơn Hùng và An năm xưa được chọn đi học nước ngoài nay chắc đã xong và lại tham gia vào đội ngũ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Và anh Văn, chắc anh hãy còn nhớ những nơi, những bản anh đã đi qua, những Bản Pình, Bản Pài, Bản Bằng, và cái tên xã Thắng Lợi anh đặt cho xã Nghĩa Tá...

Đồng chí Hồ Chí Minh! Ông cụ Thu Sơn! Đồng chí đại biểu Quốc tế Cộng sản ! Như vậy là « Ông cụ đi công tác xa chưa biết bao giờ về » ấy chấc là đã về Cao Bằng rồi. Phấn khởi quá! Hồi được đến Pác Bó, lúc nào cũng muốn thấy Ông cụ. Lúc nào cũng muốn gặp; không thấy Ông cụ thì cứ y như có cái gì thiêu thiếu, lúc nào tâm trí cũng nhớ. Những lúc nào làm việc thì thôi, lúc ngồi suy nghĩ là nhớ đến Người. Tình hình thế giới đang chuyển biến mạnh có lợi cho cách mạng. Phong trào trong nước lại mở rộng. Nay Ông cụ về Cao Bằng. Ông cụ lo cho quần chúng, lo cho cán bộ, cho phong trào cả nước. Cách mạng nhất định thành công!

Lúc ấỵ thật chỉ muốn có đôi cánh tay dài muôn dặm để vượt qua rừng thẳm, núi cao, mà ôm chặt lấy anh em đồng chí để tỏ nỗi mừng vui và phấn, khởi lạ lùng này. « Khi nào gặp lại anh Văn, nhớ bảo anh kể lại cho nghe về Ông cụ Thu Sơn về nước mới được ». Tôi tự nhủ mình như vậy.



Đúng như dự đoán của Đảng ta, những mâu thuẫn gay gắt giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương và tình hình ngày càng nguy ngập của Nhật ở Thái Bình Dương đã bắt buộc bọn đế quốc phát-xít Nhật phải làm đảo chính để lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương.

Đêm 9 tháng 3 năm 1945, Nhật nổ súng đánh Pháp cùng một lúc trên toàn Đông Dương, Pháp chống cự yếu ớt ở Hà Nội, Lạng Sơn, Huế, Hà Giang... thường dân Pháp bị Nhật bắt. Binh sĩ Pháp đầu hàng nhanh chóng, tan rã hoặc chạy trốn sang Hoa Nam. Tàn quân Pháp chạy qua đâu là bắt nhân dân phục dịch và cướp phá của nhân dân ở đấy. Trước khi rút chạy, bọn Pháp ở Cao Bằng đã ném lựu đạn vào nhà tù, giết hơn trăm tù chính trị Việt Nam.

Lúc Nhật nổ súng lật Pháp ở Hà Nội thì cũng chính là lúc Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở rộng bắt đầu họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn — Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng chủ trì. Hội nghị họp từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3. Hội nghị đã phân tích những nguyên nhân tất yếu buộc Nhật phải truất quyền của Pháp để độc chiếm Đông Dương. Hội nghị nhận định rằng : cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang chưa chín muồi đang đi đến chín muồi nhanh chóng... Đó là «thời kỳ tiền khởi nghĩa» và nhiệm vụ của Đảng ta là phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị quyết định thay đổi mọi hình thức tuyên truyền cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, nhất là phải cổ động quần chúng mạnh dạn ra đường đấu tranh, phá kho thóc của bọn đế quốc để giải quyết nạn đói, nhằm «phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ những hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao hơn như biểu tình thị uy vũ trang, du kích». Hội nghị nhận định rằng: phát động chiến tranh, du kích giải phóng từng vùng, mở rộng các căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích phải là phương pháp đấu tranh của dân tộc ta «để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước».
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #95 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:26:59 am »

Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.

Cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 đã kết thúc nhanh chóng bằng sự sụp đổ thảm hại của chính quyền thực dân Pháp, nhưng bọn phát-xít quân phiệt Nhật chưa xây dựng được ngay bộ máy thống trị của chúng một cách hoàn chỉnh. Tình hình đó đã tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa của nhân dân ta.

Tại phân khu B, được tin phát-xít Nhật đánh Pháp, Ban lãnh đạo quyết định phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở các thôn xã và tiến đánh châu Sơn Dương lần thứ nhất (13 tháng 3). Ngay sau đó, Cứu quốc quân đã tiến đánh Chợ Chu và phối hợp với quần chúng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Chợ Chu (25 tháng 3), Đại Từ (29 tháng 3), Yên Sơn (1 tháng 4), Yên Bình (18 tháng 5). Tại Chợ Chu, Cứu quốc quân đã giải phóng khoảng 30 cán bộ cách mạng bị giam giữ ở đó. Đồng thời Cứu quốc quân còn tước vũ khí của tàn quân Pháp trên đường rút chạy qua Thái Nguyên và Tuyên Quang để sang Trung Quốc. Đáng kể nhất là những trận Cứu quốc quân phục kích quân Nhật ở Đèo Khế, thu được nhiều vũ khí, quân trang quân dụng.

Khí thế cách mạng của quân chúng trong phân khu B lên rất cao. Các Hội cứu quốc và các đội tự vệ phát triển rất nhanh và được củng cố. Phân khu vừa có địa thế thuận lợi, lại vừa dễ liên lạc với Ban thường vụ Trung ương đóng ở gần Hà Nội.

Tại phân khu A, Cứu quốc quân đã tiến công và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi thuộc Thái Nguyên và Lạng Sơn như: La Hiên, tức châu lỵ Võ Nhai (19 tháng 3), Tràng Xá (23 tháng 3), Đình Cả (10 tháng 4), Mỏ Gà (15 tháng 4), Vũ Lễ (16 tháng 4), Nam Nhi (17 tháng 4), Bắc Sơn (18 tháng 4), Bình Gia (29 tháng 4), Bằng Mạc (2 tháng 5). Cứu quốc quân đã phối hợp với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống, giải phóng Tràng Định, Điềm He, Thoát Lãng. Cứu quốc quân còn cho một bộ phận phối hợp với Tự vệ chiến đấu của Bắc Giang đánh Yên Thế lần thứ nhất (1 tháng 4), Hữu Lũng (15 tháng 4), Bố Hạ (18 tháng 4), Mỏ Sắt (19 tháng 4), Lục Ngạn (30 tháng 5) và Phổ Yên (3 tháng 6). Tri huyện Hữu Lũng, Lục Ngạn đầu hàng Việt Minh. Ở nhiều nơi, Cứu quốc quân đã phá kho thóc chia cho nhân dân...

Thế của ta như chẻ tre. Các ủy ban Việt Minh đã được thành lập ở nhiều châu, huyện từ bờ sông Lô đến quốc lộ số 3 và về phía nam tới gần tỉnh lỵ Vĩnh Yên.

Tại Chiến khu Lê Lợi, Ban thường vụ liên tỉnh Cao — Bắc — Lạng họp vào ngày 10 tháng 3 năm 1945 đã quyết định:

1. Lập tức đánh đổ chế độ thống trị của Pháp ở nông thôn, rồi tùy nơi thành lập chính quyền nhân dân cấp xã, châu, huyện, phủ hay đến cấp tỉnh.

2. Phân phối cán bộ của Đội tuyên truyền về cùng với các đội vũ trang của địa phương tổ chức thêm những đơn vị Giải phóng quân, chuẩn bị trực tiếp đánh Nhật.

3. Đối với quân đội Pháp, chủ trương không tập kích lúc họ rút lui, trái lại, tích cực kêu gọi họ cùng nhau tổ chức chống Nhật.

Thực hiện chủ trương đó, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chia làm nhiều bộ phận, tỏa đi các nơi lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Một bộ phận sang chiến đấu ở Bảo Lạc (Cao Bằng) rồi tiến về mạn Thất Khê, Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn), phối hợp hành động với Cứu quốc quân. Một bộ phận ngược lên biên giới Việt—Trung, đánh đồn Sóc Giang, giải phóng châu Hà Quảng. Sau đó, tiếp tục tiến công về phía Bắc Quang (Hà Giang). Còn bộ phận lớn do anh Văn chỉ huy tiến xuống châu Ngân Sơn, bao vây đồn Ngân Sơn và kêu gọi địch ra hàng. Tên đồn trưởng Pháp kéo toàn bộ binh sĩ ra hàng Việt Minh. Sau đó, tiến về giải phóng Chợ Rã, huyện Phủ Thông, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Cạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Tới đâu Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quần cũng được quần chúng mang theo cờ đỏ sao vàng và vũ khí thô sơ hoan nghênh nhiệt liệt và cùng phối hợp tước vũ khí của bọn lính dõng, thu bằng triện của bọn tổng lý, trừng trị Việt gian, lập chính quyền cách mạng. Tại các địa phương, Đội đều chú ý phát triển và củng cố các Hội cứu quốc, đặc biệt chú trọng xây dựng các đội tự vệ chiến đấu và du kích để bảo vệ chính quyền nhân dân mới được thành lập.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #96 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:27:31 am »

*
*   *

Tôi không bao giờ quên được cái ngày cuốí tháng 3 năm 1945 đáng ghi nhớ ấy!

Một cánh quân của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân do anh Văn chỉ huy về đến Chợ Chu.

Hơn một năm trước, anh Văn và tôi gặp nhau trên đỉnh núi cao, ở một xóm nhỏ người Mèo, trong một hoàn cảnh còn phải giữ bí mật.

Lần này, trong khí thế mới, chúng tôi gặp nhau trên đất Chợ Chu vừa được giải phóng, không phải chỉ có hai người và một vài cán bộ đi cùng mà là cuộc gặp nhau của hai đội quân. Vui mừng xiết bao khi tôi gặp lại anh Văn, giữa ban ngày, giữa phố chợ đông đúc. Bao nhiêu chuyện muốn nói với nhau!

Ai có thể ngờ cái điều tôi mong ước cuối mùa đông năm trước mà mới chỉ có ba tháng sau đã được thực hiện! Thế là hai cánh quân Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân đã gặp nhau. Và hai người đồng chí quen nhau và mến nhau từ sau Hội nghị Lũng Hoàng, đã từng lo lắng cho nhau trong thời gian địa phương bị địch khủng bố, nay lại thấy mặt nhau, khỏe khoắn hơn trước, phấn khỏi hơn trước. Chúng tôi bứt tay nhau thật chặt, cười sung sướng và nhìn nhau bằng đôi mắt sáng ngời.

Cuối năm ngoái, nghe phong thanh tin thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đến lúc này, gặp anh Văn ở Chợ Chu tôi mới được biết cụ thể những chỉ thị cụ thể của đồng chí Hồ Chí Minh ngày 22 tháng 12 năm 1944 và quá trình xây dựng, chiến đấu của Đội trong mấy tháng qua.

Tôi mừng lắm. Mừng vì gặp lại anh Văn. Mừng vì phong trào Bắc Sơn, phong trào Cao Bằng, phong trào cả nước phát triển rất nhanh. Mừng vì sự lớn mạnh của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, của Cứu quốc quân. Tôi tin tưởng chắc chắn là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phỏng quân sẽ làm được đúng như Bác Hồ đã dạy; «... Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta ».

Những chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh về việc thành lập Đội Vịệt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm cho tôi suy nghĩ nhiều đến tình hình, nhiệm vụ của Cứu quốc quân từ trước đến nay và từ nay về sau. Phương châm hoạt động vũ trang tuyên truyền, chính tri trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, dùng hoạt động vũ trang mà bảo vệ, củng cố và phát triển cơ sở chính trị mà tiến tới một bước củng cố và phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang không những đúng với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân mà còn là ánh sáng soi rọi cho mọi hoạt động của Cứu quốc quân.

Nhớ lại hồi đồng chí Lê Quảng Ba nói là «Ông Ké thượng cấp đi công tác xa chưa biết bao giờ về», tôi liền hỏi anh Văn về chuyện ấy. Anh Văn gật đầu cười vui vẻ, nhưng ở ngay giữa phố chợ không tiện nói nhiều, anh hẹn lúc nào đó sẽ kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Bác Hồ từ khi Bác trở lại Cao Bằng.

Trên một bãi cỏ ở Tổng Quằng, chúng tôi tiến hành một cuộc hội nghị giữa hai cánh quân để nghe phổ biến về tình hình thế giới, trong nước, đồng thời nhận định và thảo luận về thời cơ khởi nghĩa. Tất cả đều ngồi vòng tròn. Dự hội nghị có các anh Văn, Tống, Song Hào, Khang (bí danh lúc bấy giờ của anh Hoàng Văn Thái), Trung Đình và tôi. Nữ thì có các chị Thanh, Cầm, Loan và Ngọc. Anh Văn chủ trì cuộc họp này, đề nghị tôi phát biểu trước. Anh em khác cũng phát biểu tập trung vào tình hình thế giới và thời cơ. Sau đó hai cánh quân sát nhập với nhau và cùng nhau bố trí đánh bọn Nhật lên cây số 31 Bắc Cạn, sau đó chia nhau đi làm công tác dân vận...

Trên đường làm nhiệm vụ, tôi nhận được thư triệu tập họp của Ban thường vụ Trung ương Đảng...

Ban thường vụ Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự Cách mạng Bắc Kỳ ở Hiệp Hòa (tỉnh Bắc Giang), do đồng chí Trường Chinh tổng bí thư của Đảng chủ trì. Hội nghị tiến hành trong sáu ngày từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 4 năm 1945. Đây là hội nghị quân sự quan trọng đầu tiên của Đảng ta.

Anh Trường Chinh điều khiển cuộc họp này.

Anh Văn báo cáo tình hình phong trào Cao Bằng — Bắc Cạn và những hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại đây. Tôi báo cáo tình hình phong trào và những hoạt động của Cứu quốc quân tại Thái Nguyên — Tuyên Quang. Hội nghị cho tôi cái nhìn bao quát khắp nơi. Lúc đó tôi mới hiểu được rằng một cao trào kháng Nhật đang lên mạnh từ Bắc chí Nam: Nhiều cuộc biểu tình vũ trang hàng hai, ba ngàn người kéo đi đánh chiếm kho thóc trong các đồn điền Tây phản động và các kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thái Nguyên v.v. Nhiều vùng ở Trung du đã có ủy ban giải phóng dân tộc. Anh em tù chính trị Nghĩa Lộ (Yên Bái) nổi dậy phá ngục. Ngoài những lực lượng vũ trang của Đảng tại Việt Bắc, còn rất nhiều những đội tự vệ và tự vệ chiến đấu ở Trung du, ở miền xuôi và cả ở trong các thành phố lớn. Ở Quảng Ngãi, du kích cũng nổi dậy, đó là đội du kích Ba Tơ. Ở Nam Kỳ, Việt Minh hoạt động ở Mỹ Tho và Hậu Giang...

Hội nghị nêu ra những ưu điểm và khuyết điểm của phong trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân Đông Dương. Hội nghị nhận định : Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Phải tích cực phát triển chiến tranh du kích gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Trong nhiệm vụ quân sự, chúng tôi đều thấy cần phải vạch rõ và định nhiệm vụ các Chiến khu ; đánh thông liên lạc giữa các Chiến khu Bắc Kỳ và Trung, Nam Kỳ ; gây dựng những căn cứ địa kháng Nhật; thống nhất, củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang, thống nhất chỉ huy quân sự, tổ chức các đội quân đặc biệt v.v. Theo nghị quyết tháng 4 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân được thống nhất lại. Hội nghị cử ra Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ để chỉ huy các Chiến khu miền Bắc Đông Dương (Chiến khu Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Trần Hưng Đạo), đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ về mặt quân sự cho cả nước. Trung ương chỉ định các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn... tham gia ủy ban này. Về vấn đề cán bộ, sẽ chọn trong các lực lượng vũ trang một số đội viên khá, huấn luyện thành đội trưởng và chính trị viên ; mở trường quân chính kháng Nhật; thu dụng nhân tài; lấy học sinh lên Chiến khu học quân sự; cán bộ phải quân sự hóa.

Một không khí mới, tràn đầy phấn khởi và tin tưởng bao trùm mọi nơi. Bao nhiêu công việc phải làm. Chúng tôi có cảm giác thời gian cứ chạy vùn vụt...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #97 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:28:09 am »

*
*   *

Sau khi dự Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, anh Văn về đến Chợ Chu (Định Hóa) đúng vào ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5. Chấp hành Nghị quyết tháng 4-1945, anh triệu tập hội nghị ở Định Biên thượng tuyên bố chính thức việc thống nhất các lực lượng vũ trang, xác định lại tư tưởng cho anh em về nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Ngoài anh Văn, về phía cán bộ chủ chốt có các đồng chí Hiến Mai, Môn, Khánh Phương...

Sau đó, được tin Bác Hồ sẽ từ Cao Bằng về xuôi, anh Văn đã phóng ngựa lên phía Đèo Re để đón Bác.

Chúng tôi vẫn công tác ở vùng Chợ Chu. Được ít ngày, anh Văn có thư về nói «chuẩn bị đón Ông cụ». Chúng tôi và anh Quang Trung kéo quân lên bố trí ở Đèo Só để bảo vệ con đường Bác về, mừng đón Bác. Sau lại có thư của anh Văn báo lại là «Bác đi đường trong rồi. Bác sẽ về Sơn Dương ». Anh em chúng tôi lại quay trở lại, qua Đèo Re, xuống Định Hóa, đi vào Thanh Điều, Lục Rã, ra đình Hồng Thái đón Bác.

Bác ở lại ít ngày tại một gia đình cơ sở xóm Kim Long (Tân Trào) rồi chuyển lên một lán nhỏ làm trên sườn đồi. Thời gian này đồng chí Nguyễn Lương Bằng ở xuôi lên và đồng chí Hoàng Quốc Việt ở nước ngoài mới về, cũng đến Tân Trào.

Bác đã chọn Tân Trào làm chỗ ở và làm việc để chỉ đạo phong trào cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.

Sau khi nghe báo cáo tình hình chung cả nước về Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, Người chỉ thị: Vùng giải phóng miền núi Bắc Bộ đã bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng bên ngoài các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, địa thế nổi liền nhau, cho nên cần thành lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là Khu giải phóng. (Tân Trào được chọn làm thủ đô của Khu giải phóng). Thống nhất các lực lượng vũ trang lại do Trung ương trực tiếp lãnh đạo là rất đúng. Nên đặt tên là Giải phóng quân vì chữ Giải phóng nó vừa giản đơn, dễ hiểu, vừa rõ ràng, sâu sắc, nó chỉ rõ mục đích đánh Tây, đuổi Nhật, giải phóng đất nước, mưu cầu độc lập.

Chấp hành chỉ thị đó, ngày 4 tháng 6 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời và phải được xây dựng vững chắc về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, để làm bàn đạp Nam tiến, giải phóng cả nước.

Lúc bấy giờ, tình hình cụ thể của các Chiến khu, các địa phương trong Khu giải phóng rất khẩn trương. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Thường trực của ủy ban, một mặt giữ liên lạc với bộ phận Trung ương ở dưới xuôi, với các đồng chí Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh tại Bắc Giang, một mặt giữ liên lạc với Cao Bằng, Bắc Sơn.

Trong Khu giải phỏng, các Ủy ban nhân dân cách mạng do nhân dân cử lên đã thi hành 10 chính sách lớn. Mười chính sách đó là :

1. Thủ tiêu lực lượng của Nhật, trừ khử Việt gian, trừng trị lưu manh.

2. Tịch thu tài sản của lũ giặc nước và của Việt gian, tùy trường hợp để làm của chung toàn dân hoặc chia cho dân nghèo.

3. Thực hiện phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ khác.

4. Vũ trang quần chúng, động viên nhân dân ủng hộ du kích và tham gia Giải phóng quân chống Nhật.

5. Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kính tế tự túc cho Khu giải phóng.

6. Hạn chế ngày lao động, thi hành luật bảo hiểm xã hội, cứu tế nạn dân.

7. Chia lại ruộng công, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ.

8. Bỏ thuế khóa và phục dịch, dự định đặt thuế lũy tiến lợi tức duy nhất và nhẹ.

9. Chống nạn mù chữ và huấn luyện quân sự, chính trị phổ thông cho nhân dân.

10. Dân tộc bình đẳng, gái trai ngang quyền.

Nước Việt Nam mới ra đời. Một phần Bắc Bộ đã thực tế đặt dưới chính quyền cách mạng. Hơn một triệu đồng bào đã bắt đầu được hưởng một cuộc sống mới do cách mạng đem lại...

Với sự thống nhất các lực lượng vũ trang, Giải phóng quân lúc này khá đông đảo đã tổ chức thành những chi đội. Hầu hết các đội viên cũ của những đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân trước đây bây giờ đều trở thành những cán bộ chỉ huy.

Vấn đề đào tạo. huấn luyện cán bộ trở nên rất khẩn thiết. Đầu tháng 7-1945, theo nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, Trường quân chính kháng Nhật ra đời do anh Hoàng Văn Thái phụ trách, nhằm đào tạo các trung đội trưởng và chính tri viên trung đội. Nhà trường được dựng lên ở Khuổi Kịch, bên bờ một con suối, nơi các bà các chị người Dao đã chứng kiến lễ thành lập Trung đội Cứu quốc quân III. Học sinh được tuyển lựa trong hàng ngũ Giải phóng quân và những thanh niên ở miền xuôi được các đoàn thể cứu quốc giới thiệu.

Chính quyền nhân dân trong toàn Khu giải phóng được chỉnh đốn lại bằng bầu cử, theo phổ thông đầu phiếu. Mỗi xã đều có một nhà Hội đồng cứu quốc, nhân dân thường đến họp để nghe tình hình và bàn bạc những việc chung...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #98 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:29:02 am »

*
*   *

Vừa được tin giặc Nhật hoàn toàn tan rã và đã xin đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh, ngày 12 tháng 8 năm 1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa cho Giải phóng quân, các đội tự vệ các ủy ban nhân dân cách mạng và toàn thề nhân dân trong khu.

Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào. Tham dự Hội nghị có đủ đại biểu các Đảng bộ Bắc, Trung, Nam và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài

Trong tình hình vô cùng khẩn trương, Hội nghị đã làm việc trong ba ngày. Để đảm bảo lãnh đạo tổng khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị đề ra 3 nguyên tắc :

1. Tập trung: tập trung lực tượng vào những việc chính,

2. Thống nhất: thống nhất mọi phương diện quân sự, chính trị, lãnh đạo và chỉ huy.

3. Kịp thời: kịp thời hành động, không bở lỡ cơ hội.

Hội nghị nhấn mạnh «phải tập trung lực lượng vào những chỗ cần thiết để đánh», «đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành phố hay thôn quê».

Ngay đêm 13 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa do Tổng bộ Việt Minh thành lập, ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.

Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân cũng họp ngay ở Tân Trào vào ngày 16 tháng 8. Đại hội quyết định quốc kỳ, quốc thiều và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Chấp hành lệnh của Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng phát ra từ ngày 12 tháng 8 và của ủy ban khởi nghĩa, các Đội Giải phóng quân đã liên tiếp hạ các đồn Nhật còn lại thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn. Thái Nguyên, Yên Bái v.v. rồi tiến lên giải phóng các thị xã.

Ngày 16 tháng 8, một đơn vị Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. xuất phát từ Tân Trào, tiến đánh thị xã Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội.

Ngày 17 tháng 8, Giải phóng quân tiến đánh tỉnh lỵ Tuyên Quang. Phát-xít Nhặt bắn lại, nhưng trước khí thế của quân cách mạng, chúng phải xin điều đình và ngày 21 tháng 8, chính quyền tỉnh đã về tay Việt Minh...

Giải phóng quân đi trong bão táp cách mạng đang cuồn cuộn dâng lên. Toàn thể đảng viên Cộng sản, chiến sĩ Việt Minh và nhân dân cả nước tỏ rõ ý chí quyết tâm và tinh thần dũng cảm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đúng như lời căn dặn của Hồ Chủ tịch :

«Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập».



Từ những ngày ấy đến hôm nay, thấm thoắt 24 năm đã qua đi. Việt Bắc — cái nôi của các lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của Đảng — đã thay da đổi thịt nhiều lắm. Nhớ lại những năm tháng sống ở khe Khuổi Nọi, trong khu rừng Khuôn Mánh, trên bờ suối Khuổi Kịch, những nơi đã được chứng kiến lễ thành lập của các Trung đội Cứu quốc quân I, II và III, tôi vẫn còn thấy bồi hồi xúc động. Hình ảnh những người đồng chí thân yêu đã khuất, tôi vẫn còn giữ mãi trong tim: anh Vân, anh Trần Đăng Ninh, anh Phùng Chí Kiên, anh Lương Văn Chi. Các anh là những người lãnh đạo và chỉ huy đầu tiên của Cứu quốc quân, những người được nhân dân các dân tộc Việt Bắc hết mực yêu thương, đùm bọc và kẻ thù rất đỗi khiếp sợ.

Là con đẻ của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, quá trình phát triển của Cứu quốc quân gắn liền với phong trào Bắc Sơn. Cán bộ, chiến sĩ Cứu quốc quân là những thanh niên trai và gái thuộc các dân tộc cùng chịu chung một số phận của đất nước Việt Nam bị áp bức, đè nén, nhưng đã được ánh sáng của Đảng soi rọi tới, thức tỉnh, giáo dục, rèn luyện, tổ chức và bồi dưỡng, họ đã cầm vũ khí, hướng theo mục đích cách mạng của Đảng mà tiến lên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #99 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2019, 08:32:23 am »

Được Đảng sinh ra và nuôi dưỡng, qua quá trình hoạt động thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở Khu giải phóng, Cứu quốc quân đã tận tụy hy sinh, đã tỏ ra hết sức trung thành với Đảng, đi sâu vào quảng đại quần chúng của nhân dân các dân tộc.

Cứu quốc quân đã làm tròn vai trò lịch sử của nó. Qua từng thời kỳ hoạt động, nó đã đạt được một số thành tích nhất định. Sở dĩ được như vậy là do Cứu quốc quân đã được sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt của Trung ương Đảng và đã dựa chắc vào nhân dân các dân tộc.

Ngay từ khi mới được thành lập, Cứu quốc quân đã được sự đặc biệt quan tâm chăm sóc về mọi mặt của Trung ương Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự phát triển thắng lợi của Cứu quốc quân. Dưới ánh sáng của các nghị quyết, các chỉ thị của Đảng, Cứu quốc quân đã vượt qua muôn ngàn khó khăn, từng bước tiến lên. Chính nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, mà Cứu quốc quân, ngay từ đầu và mãi mãi sau này đã có được, đã giữ vững và ngày càng phát triển phẩm chất chính trị tốt đẹp của một lực lượng vũ trang cách mạng, lực lượng vũ trang của nhân dân, vì nhân dân.

Được sự đùm bọc của nhân dân các dân tộc, đứng vững trên miếng đất, trên cơ sở chính trị đã sinh ra mình, Cứu quốc quân đã thực sự trở thành một lực lượng mà bất cứ kẻ địch tàn bạo, xảo quyệt nào cũng phải khiếp sợ.

Mọi thắng lợi của Cứu quốc quân từ nhỏ tới lớn đều bắt nguồn từ nhân dân, nhờ nhân dân mà có. Chấp hành chỉ thị của Đảng, Cứu quốc quân ngày càng chú ý kết hợp chặt chẽ giữa phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị với việc xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Sự trưởng thành của Cứu quốc quân còn gắn liền với sự phát triển của các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước, với phong trào cách mạng và các lực lượng vũ trang ở căn cứ địa Cao Bằng, nhất là với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.

Những Nghị quyết của Hội nghị ở Lũng Hoàng đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của Cứu quốc quân. Sau tháng 6 năm 1945, Cứu quốc quân sát nhập với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Hoạt động của Việt Nam Giải phóng quân đã vượt ra ngoài phạm vi căn cứ địa Việt Bắc, thực, hiện đúng chỉ thị của Hồ Chủ tịch «... đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta».

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân ta, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã tiến từ thắng lợi này tới thắng lợi khác lo lớn hơn, đã làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công. Nhìn những lá cờ đỏ sao vàng năm cánh rực rỡ tung bay hiên ngang khắp nơi, từ rừng núi đến miền xuôi, tôi không khỏi bùi ngùi nhớ tiếc những đồng chí Cứu quốc quân và quần chúng nhân dân đã bỏ mình vì nước. Tuy không được tận mắt nhìn thấy cái thế đứng uy nghi, lẫm liệt của Việt Nam ngày hôm nay trên bờ Biển Đông, tiền đồn chống chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ xâm lược và đang đánh thắng đế quốc Mỹ, từ những ngày trong tay chỉ có vũ khí thô sơ, súng kíp và giáo mác, họ đã trông thấy được tương lai tươi sáng của đất hước mà chiến đấu quên mình.

Khi kể lại những việc đã qua, tôi luôn luôn nhớ đến các đồng chí đó, mong thay mặt các đồng chí mà giới thiệu lại một vài giai đoạn tranh đấu, giúp các bạn trẻ hiểu thêm những ngày sơ khai của quân đội ta.

Tôi không có tham vọng nói lên ở đây những bài học của Cứu quốc quân, đúc kết kinh nghiệm này nọ. Đó có thể là nội dung của một cuốn sách khác. Ở đây chỉ là một số kỷ niệm sâu sắc không thể quên của tôi mà thôi.

Có nhiều việc lâu ngày quên đi không nhớ hết được, nên có thể có nhiều thiếu sót. Vả lại, đây cũng chỉ là những phần chính mà tôi được biết, còn bao nhiêu công việc khác của các đồng chí Cứu quốc quân hoạt động trong điều kiện phân tán lúc đó, tôi cũng không nắm hết được. Nếu có điều gì sai sót, mong các đồng chí khác bổ sung.

Mùa thu 1969
                                                                                                                                                                           
     
NGỌC TỰ ghi
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM