Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 03:49:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử liên Trung đoàn 301-310-1945-1950  (Đọc 6114 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:49:12 pm »

2. Tổ chức biên chế Chi đội 1

Thực hiện nghị quyết Hội nghị An Phú xã, cuối tháng 11-1945, các lực lượng vũ trang trong tỉnh Thủ Dầu Một thống nhất lại thành một chi đội, lấy tên là Chi đội 1 giải phóng quân. Ban Chỉ huy Chi đội gồm: Huỳnh Kim Trương - Chi đội trưởng; Nguyễn Văn Thi, Trịnh Khánh Vàng - Chi đội phó; Vương Anh Tuấn - Chính trị viên Chi đội. Quân số có 800 cán bộ chiến sĩ, trang bị 80 súng trường, 1 súng máy, 10 súng phun lửa, 5 súng lục, 100 lựu đạn, còn lại là dao găm, mã tấu. Đây là lực lượng vũ trang mạnh ở một tỉnh vào thời điểm đó.


a. Ban Chỉ huy Chi đội:

Ban chỉ huy Chi đội 1 gồm có 4 người, thực tế hoạt động chỉ có Huỳnh Kim Trương và Nguyễn Văn Thi. Trịnh Khánh Vàng chưa đến Chi đội lần nào, sau chuyển về Tây Ninh. Vương Anh Tuấn còn quá bận việc ở trường huấn luyện, sau thuyên chuyển đi nơi khác. Chi đội 1 được thành lập ngoài thành phần công nông còn thu hút được nhiều người thuộc thành phần khác như viên chức, tri thức, học sinh tại thị xã và Sài Gòn.


Bộ phận chuyên môn trực thuộc, gồm:

Văn phòng Chi đội 1 và khối hậu cần: do đồng chí Nguyễn Khắc Cần nguyên là nhà giáo dạy trường tư thục Thanh Trước tại thị xã Thủ Dầu Một, trong lực lượng vũ trang Thanh niên Tiền phong được cử làm Chánh văn phòng kiêm phụ trách khối hậu cần Chi đội.

Ban Quân nhu: do đồng chí Hạ Hầu Cẩm - một thanh niên trí thức làm Trưởng ban; đồng chí Lương Văn Minh - thanh niên trí thức, con của Đốc học Lương Văn Phận làm phó ban.

Ban Quân y: do đồng chí Phạm Văn Sở thuộc gia đình nhà thuốc Võ Văn Vân làm Trưởng ban.

Ban Tài chính: do đồng chí Nguyễn Văn Thọ công chức Sở Bưu điện làm Trưởng ban.

Ban Quân giới: do Nguyễn Sanh Nhựt trong Ban chấp hành Thanh niên Tiền phong làm Trưởng ban.

Ban Giao thông liên lạc: do đồng chí Nguyễn Văn Thôi - Trung đội trưởng lực lượng Thanh niên Tiền phong nguyên là thuyền trưởng thời Pháp làm Trưởng ban.


Chi đội 1 được biên chế thành 3 đại đội chiến đấu từ đại đội 1 đến đại đội 3, phân bổ trên ba địa bàn các huyện Lái Thiêu, huyện Châu Thành, hai huyện Bến Cát và Hớn Quản. Thành phần các đại đội biên chế như sau:

b. Đại đội 1:

Đại đội 1 gồm các chiến sĩ chiến đấu ở mặt trận cầu Bến Phân, sau khi mặt trận này vỡ rút về bám trụ tại xã An Sơn dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Thi và trở thành lực lượng nòng cốt của đại đội 1. Sau khi Chi đội 1 thành lập, thống nhất, đơn vị này trở thành Đại đội 1. Đại đội 1 chịu trách nhiệm hoạt động vùng Lái Thiêu, An Sơn, Bình Đức... thuộc phía nam Thủ Dầu Một.


Ban chỉ huy Đại đội 1: gồm các đồng chí Hà Ngọc Tiếu (tự Hoàng), đại đội trưởng kiêm chính trị viên đại đội; Nguyễn Trọng Nghĩa (tự Mạnh) - Đại đội phó có biệt hiệu “Thánh đồng đen” sau chuyển về Chi đội 11 Tây Ninh; Phùng Gia Quỳ đại đội phó là một cựu binh Pháp, có tuổi, hy sinh sớm lúc đầu kháng chiến. Bước sang năm 1946, Ban chỉ huy đại đội 1 có thay đổi: Đinh Văn Cần - Đại đội trưởng, Nguyễn Văn Trinh - đại đội phó và Nguyễn Ngọc Ngoạn - chính trị viên. Đại đội 1 tổ chức thành 2 trung đội chiến đấu A và B, 1 đội trinh sát liên lạc và các Ban quân y, quân lương, quân giới.


Trung đội A: Ban chỉ huy trung đội A gồm các đồng chí: Vũ An Úy (Trung đội trưởng); Tư Quý (Trung đội phó), hy sinh trong trận tiến công chợ Búng trong dịp kỷ niệm Quốc khánh 1947, sau đồng chí Quản Câu lên thay. Trương Văn Vẻ (chính trị viên), tháng 8 năm 1947 đồng chí chuyển về Ban Tham mưu Chi đội, đồng chí Trần Minh Phú về thay. Quân số của Trung đội có 150 người, lực lượng ban đầu chủ yếu là các chiến sĩ từ Mặt trận cầu Bến Phân về, số còn lại là chiến sĩ quê ở miền Bắc và miền Trung, dù vậy tình đồng chí, đồng đội luôn thắm thiết, chan hoà.


Trung đội B: Ban chỉ huy Trung đội B gồm: Trần Ngọc Lên (Trung đội trưởng), Nguyễn Đình Tự (Chính trị viên). Lực lượng của Trung đội B được tập trung từ các đội du kích, các tay súng lẻ tẻ, trong đó có “bộ đội Tư Hồi”, tiếng tăm lừng lẫy ở chợ Lái Thiêu và các xã Vĩnh Phú, Phú Long, Tân Thới. Ngoài ra, Trung đội B còn có một số hàng binh đã giúp cho trung đội hoạt động rất tốt trong thời kỳ đầu: một người lính Nhật Bản sử dụng đại liên 7/7 rất hiệu quả, hai lính Pháp là Henri de Forgel và Alain, Henri đã đóng giả sĩ quan Pháp giúp Trung đội lấy bót Phú Hữu ban ngày... Trang bị buổi đầu tuy kém hơn so với Trung đội A, nhưng hoạt động của các chiến sĩ trung đội B rất dũng cảm. Trung đội thường đóng quân ở các vùng du kích, luồn sâu trong lòng địch để đánh địch. Vì vậy, chỉ sau một năm, Trung đội B đã tự trang bị 1 đại lên, 4 trung liên và gần 100 súng trường tốt.


c. Đại đội 2:

Ban chỉ huy đại đội 2 gồm các đồng chí: Đoàn Hữu Hoà - Đại đội trưởng, Lục Sĩ Nam - Đại đội phó, các đồng chí Phùng Gia Quỳ, Bùi Khánh Ngươn và sau này là đồng chí Trần Phùng đều là đại đội phó.


Lực lượng ban dầu là bộ đội Phú Hoà do Đoàn Hữu Hoà chỉ huy, trong quá trình chiến đấu Đại đội 2 tiếp tục được bổ sung thêm lực lượng của một số đơn vị như: lực lượng cảnh sát của đồng chí Tám Sáng, đồng chí Sương, Tám Cả, Cộng hoà vệ binh, một số cựu binh sĩ của đồng chí Hai Ngươn, bộ đội lò chén của đồng chí Nghiệp, dân quân Đề Thám phần lớn là anh em công nhân cao su. Về sau được tăng cường thêm bộ đội Lục Lâm quân của Tám Liễu, Ba Tiếu chỉ huy (Lực lượng này trước Cách mạng tháng Tám 1945 vốn căm ghét chế độ hà khắc của thực dân phong kiến nên tụ tập ở 2 xã Vĩnh Lợi, Tân Lợi sống bằng nghề trộm cướp. Đến Cách mạng tháng Tám, lực lượng này được giác ngộ, đứng lên thành lập một đơn vị vũ trang lấy tên là bộ đội Lục Lâm, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 đã sát cánh cùng nhân dân chiến đấu rất dũng cảm).


Về trang bị vũ khí, ngoài vũ khí thô sơ, đại đội 2 lúc bấy giờ còn có 4 trung liên, 1 đại liên, súng trường thuộc loại khá. Đại đội 2 đóng quân tại rừng Vĩnh Lợi và chịu trách nhiệm hoạt động vùng Châu Thành, thị xã Thủ Dầu Một.


d. Đại đội 3:

Ban chỉ huy đại đội 3 do đồng chí Nguyễn Văn Ngọ (tự Quỳ) làm Đại đội trưởng. Địa bàn hoạt động của đại đội ba là quận Bến Cát và Hớn Quản. Lúc mới thành lập, đại đội 3 gồm lực lượng vũ trang nòng cốt của tỉnh và bộ đội Hớn Quản, Lộc Ninh. Với 3 phân đội và 2 ban công tác là: Ban phá hoại và Ban công tác đặc biệt, quân số tương đối đầy đủ. Về trang bị vũ khí: mỗi phân đội được trang bị ba khẩu súng trường, súng săn cũ với một ít đạn, còn lại là giáo mác, gậy tầm vông, cung, ná... Đại đội có 3 phân đội. Phân đội I hoạt động ở nam Bến Cát do đồng chí Nguyễn Văn Sáu làm Trung đội trưởng; Nguyễn Văn Ba (Ba Lò Rèn), làm Trung đội phó. Phân đội II hoạt động ở bắc Bến Cát, do đồng chí Phan Duy Thê làm Trung đội phó. Phân đội III làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Bến Tượng.


Sau trận hành quân lên An Long, phục kích đánh địch vận chuyển trên đường từ Chơn Thành - Nha Bích bị lộ (tháng 1-1946), Trung đội III của đại đội 3 bị hy sinh gần hết. Đại đội 3 còn lại phân đội I và phân đội II. Sau đó đại đội 3 được bổ sung thêm lực lượng của Hớn Quản do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách với quân số 60 người. Ban Chỉ huy Đại đội lúc này gồm: Nguyễn Văn Ngọ (tự Quỳ, đại đội trưởng), Nguyễn Văn Hội (Đại đội phó), Lê Đức Anh (Chính trị viên). Đại đội có 2 trung đội, Trung đội A do Lê Danh Cát làm đại đội trưởng, Trung đội B do Nguyễn Văn cẩm làm đại đội phó. Địa bàn hoạt động của Đại đội 3 từ đây gồm cả chiến trường Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đốp.


Sau khi hình thành tổ chức, ngày 25 tháng 12 năm cuộc mít tinh ra mắt Chi đội 1 được tổ chức long trọng tại chiến khu An Sơn, trong niềm phấn khởi tự hào của đồng bào địa phương và cán bộ, chiến sĩ Chi đội.


Chi đội 1 Giải phóng quân Thủ Dầu Một ra đời ngay khi cuộc kháng chiến vừa nổ ra hơn một tháng là sự kiện quan trọng của nhân dân Thủ Dầu Một. Đây là tồ chức vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng bộ Thủ Dầu Một tổ chức xây dựng sau Cách mạng tháng Tám thành công; là đơn vị được thành lập sớm nhất ở Nam Bộ. Sự thành lập Chi đội có ý nghĩa rất to lớn, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của các đơn vị bộ đội tâp trung. Từ những đơn vị cục bộ phân tán, tiến lên hành lập Chi đội bước đầu được tổ chức chặt chẽ, thống nhất. Chi đội 1 là lượng vũ trang tập trung đầu tiên của Nam Bộ không những đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu tại địa phương mà còn tham gia tích cực vào việc phát triển lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh, của miền Đông Nam Bộ.


Ngay từ khi mới thành lập, Chi đội đã thể hiện được tính tiên phong trong chiến đấu, chủ động đánh địch, đập tan các cuộc hành quân càn quét của địch, bảo vệ nhân dân bảo vệ chính quyền. Hỗ trợ cho các đội tự vệ tác chiến tại chỗ, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:51:20 pm »

3. Hoạt động xây dựng, chiến đấu và công tác của Chi đội 1 (11-1945 - 3-1948)

Chi đội 1 Thủ Dầu Một hình thành khi quân xâm lược cơ bản chiếm đóng được các vùng thị xã, thị trấn, đường giao thông quan trọng và bắt đầu càn quét “bình định” vùng nông thôn, các đồn điền cao su rộng lớn của ta. Đơn vị đứng chân chiến đấu trên một chiến trường rộng trải dài từ Lái Thiêu đến các huyện Châu Thành, Tân Uyên, Bến Cát, Dầu Tiếng, các huyện phía bắc có Hớn Quản, Lộc Ninh với 9.859 ki-lô-mét vuông, địa hình vừa có rừng núi, đồng bằng, thành thị, sông rạch chằng chịt, với nhiều đường giao thông quan trọng gồm cả đường bộ, đường thủy, đường sắt. Đây là những yếu tố khánh quan ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chiến đấu, xây dựng của Chi đội. Tuy nhiên hoạt động của Chi đội 1 cũng có nhiều thuận lợi: cán bộ chiến sĩ am hiểu địa bàn hoạt động, có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ, lại được nhân dân thương yêu, đùm bọc che chở. Điều quan trọng hơn Ban chỉ huy Chi đội là những đồng chí lãnh đạo có kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo các lực lượng vũ trang giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Ngoài ra trên địa bàn đứng chân của đơn vị có các căn cứ vững chắc như chiến khu Thuận An Hoà, chiến khu An Sơn, chiến khu Long Nguyên... được nhân dân trong các căn cứ sẵn sàng ủng hộ kháng chiến.


Sau khi thống nhất lực lượng giải phóng quân, các cơ quan và Ban chỉ huy Chi đội 1 về đóng căn cứ tại xã An Sơn, quận Lái Thiêu để trực tiếp chỉ huy đơn vị, phân công các đại đội khẩn trương xây dựng phương án phòng thủ khu vực mình phụ trách. Tùy theo khả năng và điều kiện, từng đơn vị tham gia, xây dựng phong trào kháng chiến tại địa phương, phối hợp với tự vệ và các đội du kích địa phương bám đất, chiến đấu, giữ dân, bảo vệ chính, quyền.


Tháng 12 năm 1945, đại đội 3 Bến Cát đã tổ chức trận đánh tại cầu xe lửa Ông Khương. Bộ phận trinh sát phân đội 1 đại đội 3 Bến Cát phát hiện có khoảng 200 tên Pháp từ Lai Khê vào Nhíp 27, theo đường xe lửa hành quân xuống chợ Chánh Lưu. Ban chỉ huy phân đội do đồng chí Nguyễn Văn Sáu chỉ huy trưởng, Dương Văn Ba chỉ huy phó quyết định chặn đánh. Lực lượng tham gia trận đánh ngoài phân đội 1 còn một số chiến sĩ của Ủy ban quân sự của đồng chí Bảy Quỳ cùng bộ phận cứu thương của quận.


Trang bị vũ khí của ta chỉ có 4 khẩu súng trường, khẩu súng săn, 5 khẩu súng lục, còn lại là cung ná, tầm vông. Trận địa phục kích được chuẩn bị ở đoạn đường giữa Nhíp 27 và cầu Ông Khương có địa hình thuận lợi, hai bên là bờ dốc cao, lợi thế cho lực lượng của ta tấn công.


Đội hình của địch lọt vào trận địa phục kích, hai chiến sĩ chặn đầu dùng hai khẩu súng săn diệt tên chỉ huy đi đầu làm hiệu lệnh tấn công, tiếp đó các loại súng, cung ná của ta tập trung diệt bộ phận đi đầu gồm 5 tên. Quân địch bị đánh bất ngờ, đội hình rối loạn do tắm trận mưa đá xanh của ta, nhiều chiến sĩ xung phong nhảy xuống đường đánh giáp lá cà với địch. Đồng chí Ba Nha, chiến sĩ cứu thương dũng cảm xung phong, bị trúng đạn vào ngực vẫn cố sức ném đá vào kẻ thù. Kết quả trận đánh này ta diệt được 5 tên, thu 1 súng tôm-xông, 2 súng cạc-bin, 2 súng trường, 1 ống nhòm và 1 bản đồ.


Trận Ông Khương tuy nhỏ, nhưng đã có tiếng vang lớn trong toàn Chi đội và tỉnh Thủ Dầu Một, thắng lợi của trận đánh tạo niềm phấn khởi và tin tưởng trong cán bộ, chiến sĩ đại đội. Hình ảnh chiến sĩ Nha chiến đấu dũng cảm, kiên cường và anh dũng hy sinh (người chiến sĩ đầu tiên của đại đội 3 hy sinh trong kháng chiến chống Pháp) là tấm gương tiêu biểu cho lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một. Cũng thời gian trên, khi quân Pháp từ Buôn Ma Thuột đánh xuống, lực lượng vũ trang ở Hớn Quản - Lộc Ninh, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Đình Kính, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Hợi đã tổ chức cho bộ đội chặn đánh địch trên đường 14, Bù Nho, Tà Bái, Xóc Xiêm, Bù Đốp, Đắc Kia ngăn chặn hiệu quả các cuộc càn quét của địch. Tại Bù Đốp ta đánh một trận giao thông nổi tiếng, diệt được 5 xe GMC và hơn 60 tên địch.


Từ cuối năm 1945, trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một, quân đội Pháp xây dựng ngụy quyền, ngụy quân ở nhiều nơi quan trọng trên quốc lộ 13, các đầu mối giao thông, thị trấn, đồn điền cao su và các làng xã sát với vùng tự do của ta. Chúng xua nguỵ quân đi càn quét khắp nơi nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến và tàn sát đồng bào ta. Đi đến đâu chúng triệt phá, giết sạch, đốt sạch, cướp sạch đến đó. Không thể kể hết tội ác dã man của giặc Pháp, chúng bày ra đủ trò khủng bố rùng rợn nhất: chặt đầu những người theo kháng chiến bêu trên những cọc tre, giết người thả trôi sông, hãm hiếp phụ nữ... gây nhiều khó khăn cho hoạt động kháng chiến của nhân dân ta.


Ngày 24 tháng 1 năm 1946, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn tiến công quận lỵ Tân Uyên, nơi đặt cơ quan Khu bộ Khu 7. Cùng ngày, quân Pháp chiếm được Tân Uyên. Bộ đội Thủ Dầu Một rút về Tân Long, Tân Phước, rừng Cò My, Vĩnh Tân, Vĩnh Lợi. Bộ đội Khu 7 rút vào vùng 5 xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An. Cơ quan Khu bộ về đóng ở Giáp Lạc.


Cùng với việc đánh chiếm thị trấn Tân Uyên, thực dân Pháp mở hàng loạt các cuộc càn quét ở khu vực Lái Thiêu, Châu Thành, Dĩ An... Nhiều làng mạc ở Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát bị đánh phá trơ trụi, xơ xác. Không khí khủng bố, chết chóc tràn ngập khắp xóm làng. Chiến khu An Sơn, nơi đóng quân của Ban chỉ huy Chi đội 1 và đại đội 1 thường xuyên bị đánh phá, thiếu lương thực, vũ khí...


Để tránh tổn thất lực lượng, Ban chỉ huy Chi đội quyết định tách thành hai bộ phận: Một bộ phận gồm Ban Tham mưu, Ban liên lạc do đồng chí Nguyễn Văn Thi trực tiếp chỉ huy ở lại bám đất, bám dân, xây dựng lực lượng. Một bộ phận gồm Ban quân y, Ban chính trị, Ban quân nhu, Ban quân giới tạm thời qua xã Bình Tân, Bình Mỹ thuộc tỉnh Gia Định trú đóng. Chi đội còn chủ trương thành lập các ban công tác phụ trách các địa bàn hoạt động như: Ban Công tác số 4, do đồng chí Nguyễn Văn Thi chỉ huy; Ban công tác số 10 do đồng chí Đinh Quang Kỳ chỉ huy thường tổ chức đột nhập về thị xã trừ gian, diệt tề.


Ở huyện, ngoài đơn vị vũ trang tập trung ta cũng thành lập thêm 2 ban công tác gồm: Ban công tác phá hoại và Ban công tác đặc biệt để thực hiện một số công tác đặc biệt trong các thị xã, thị trấn.


Công tác phong trào ở phía bắc (Lộc Ninh, Bù Đốp), Ban chỉ huy Chi đội đã chỉ dạo sát công tác dân tộc. Chi đội đã tổ chức đưa trung đội A bám trụ tại Hớn Quản (vùng đồng bào thiểu số rất nghèo nhưng lại có tinh thần chống Pháp) để xây dựng phong trào. Thời gian đầu, đồng bào ở đây rất dè dặt, không dám tiếp xúc với cán bộ ta. Nắm được tâm tư của đồng bào, các chiến sĩ Chi đội 1 bám sát địa bàn, hàng ngày tìm cách tiếp cận với đồng bào bằng những việc làm thiết thực của mình, dần dần hiểu ra họ đã tìm mọi cách để giúp đỡ cho kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:53:35 pm »

Đến cuối tháng 2 năm 1946, trên chiến trường miền Nam, thực dân Pháp đã chiếm đóng các thành phố, thị xã, vùng kinh tế cao su và đường giao thông quan trọng. Trong tình thế khó khăn đó, ngày 6 tháng 3 năm 1946 Hồ Chủ tịch ký với Pháp hiệp định Sơ bộ. Đó là sách lược “Hoà để tiến”, tạo điều kiện để quân dân Nam Bộ tổ chức củng cố lực lượng đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 11 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ là phải biết tận dụng điều kiện thuận lợi sau Hiệp định Sơ bộ để tăng cường lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.


Tuy Hiệp định được ký kết, nhưng chỉ sau 10 ngày, ngày 15 tháng 3, Tướng Pháp Ny-Ô, tư lệnh quân Pháp ở Nam Việt Nam tổ chức tiến công càn quét Chiến khu Đ, lực lượng bảo vệ Khu bộ cùng đại đội 3 Chi đội 1 kiên quyết đánh trả, ngăn chặn địch. Nhiều trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra ở Lạc An, Đất Cuốc, Bưng Tre, Suối Voi (Tân Uyên), Bến Súc (khi Khu bộ Khu 7 chuyển về Bến Cát). Nhiều chiến sĩ hy sinh bảo vệ Khu bộ được an toàn. Song song với mở càn lớn vào Chiến khu Đ, một trung đoàn địch ở Dĩ An càn quét vùng Tân Hoá Khánh, An Phú, Thuận Giao, Bình Hoà, Thái Hoà, Chi đội 1 đã tổ chức cho đại đội (Châu Thành) đánh địch ở ấp Hoá Nhựt, sau đó chặn đánh 1 đội đội địch từ bót Phú Hoà tiến sang, diệt 1 xe cam nhông với 30 tên địch, ở phía bắc Bến Cát, địch tiến công Long Nguyên, khai thông đường 13 từ Bến Cát đến Nhà Mát Long Nguyên, Cam Xe, Minh Thạnh. Phân đội 2 và ban công tác phá hoại (thuộc đại đội 3 Bến Cát) cùng nhân dân ra sức đánh địch, nhưng không cản nổi bước chân tàn sát của đoàn quân Lê dương.


Sự tăng cường càn quét, đánh phá của địch đã gây cho ta rất nhiều khó khăn. Hoạt động của chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở bị hạn chế. Cơ sở nhân dân bị thu hẹp, nguồn cung cấp luơng thực, vũ khí từ trên xuông không có, trong khi đó nguồn cung cấp tại địa phương lại cạn. Bộ đội ta sau những trận chống càn liên tiếp bị tiêu hao cả người và vũ khí, đạn dược, căn cứ đóng quân và địa bàn hoạt động của bộ đội bị thu hẹp. Lực lượng tự vệ các xã bị giảm sút nghiêm trọng.


Trước tình hình đó, Chi đội 1 và các đại đội chủ trương quay lại vùng địch mới chiếm. Một bộ phận của đại đội 1 và đậi đội 2 chuyển xuống vùng Đức Hòa, Bến Lức để xây dựng lực lượng. Các đại đội thuộc Chi đội 1 tổ chức vũ trang tuyên truyền diệt tề trừ gian, tô chức lại cơ sở quần chúng và tự vệ. Ngoài ra, Ban chỉ huy Chi đội còn lãnh đạo cho bộ đội kết hợp với Quốc gia tự vệ Cuộc cùng cán bộ địa phương đẩy mạnh công tác liên lạc với gia đình, bà con, bạn bè vận động tổ chức lại các đoàn thể cách mạng, tổ chức trừ gian diệt tề, từng bước xây dựng lại cơ sở chính trị trong quần chúng.


Tại thị xã, các chiến sĩ thuộc đại đội 2 vào nội ô trừng trị tên Bôi chỉ điểm. Ở Lái Thiêu, các chiến sĩ Chi đội 1 đột nhập vào chợ thị trấn xử tên Hương quản Thể và tên Do - thư ký quận Lái Thiêu, nhân viên phòng nhì Pháp.


Việc trừng trị những tên Việt gian nguy hiểm, kết hợp với cải tạo, giáo dục đã có tác dụng phá vỡ và làm tê liệt bộ máy tề nguỵ ở cơ sở. Tề trong thị xã phải làm việc theo mệnh lệnh của ta. Ở Bến Cát, một số tề bỏ việc. Địch không tìm được người làm tề cho quận, xã. Các hoạt động trừ gian phá tề của bộ đội và Quốc gia tự vệ Cuộc đã có tác dụng hạn chế sự đánh phá và chỉ điểm của bọn tay sai đối với phong trào cách mạng ở Thuận An Hòa và vùng căn cứ Tân Long - Vĩnh Lợi. Phát huy thắng lợi, Ban chỉ huy Chi đội 1 chủ trương tổng phá tề trong toàn tỉnh, chỉ trong 1 đêm ta phá được một số ban hội tề ở huyện và xã, thu được 130 súng.


Cùng với những hoạt động về quân sự, ta cũng tăng cường công tác Đảng trong quân đội. Tháng 3 năm đồng chí Nguyễn Đức Thuận - Đặc phái viên Xứ ủy đến Thủ Dầu Một triệu tập hội nghị cán bộ chủ chốt của tỉnh. Hội nghị đã bàn về công tác phát triển Đảng trong quân đội và củng cố lại Tỉnh ủy. Hội nghị đã chỉ định Tỉnh ủy gồm 7 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn Tiết làm Bí thư, đồng chí Văn Công Khai làm Phố bí thư.


Sau Hội nghị, Tỉnh ủy đã chỉ đạo cho Ban chỉ huy Chi đội 1 lựa chọn số cán bộ, chiến sĩ xuất sắc của Chi đội tuyên truyền, giáo dục để kết nạp vào Đảng. Tỉnh ủy đã tiến hành thành lập Chi đội ủy Chi đội 1 gồm 5 đồng chí do dồng chí Nguyễn Văn Thi làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Anh làm Phó bí thư. Chi đội 1 lúc này được Xứ ủy, Khu ủy xác nhận là bộ đội của Đảng.


Việc thành lập Chi đội ủy Chi đội 1 tạo điều kiện cho công tác đảng, công tác chính trị bắt đầu đi vào nền nếp. Từ đó, các hoạt động quân sự ngày càng có hiệu quả, đặc biệt là đánh địch bằng binh vận, ngụy vận.


Tháng 7 năm 1946, đại đội 2 Chi đội 1 phối hợp với lực lượng Quốc gia tự vệ Cuộc huyện Châu Thành tiến công tiêu diệt bót Định Phước xã Tân Định. Trận đánh thắng lợi làm quân địch hoang mang, tạo cơ sở cho công tác ngụy vận ở Châu Thành và Bến Cát phát triển.


Tháng 8 năm 1946, Trung đội 1 thuộc đại đội 3, có cơ sở nội ứng hỗ trợ đã lợi dụng sơ hở của địch thọc sâu vào thị trấn Hớn Quản, tiến đánh dinh quận trưởng, đồn cảnh sát, nhà bưu điện, nhà ga, trụ sở tề xã Tân Lập, ta đốt trụ sở tề, nhà ga, bưu điện, diệt tên Việt gian Tư Quang và 3 tên lính khác, thu 2 súng.


Ngày 7 tháng 9, phân đội 2 thuộc trung đội 3, đại đội 3 đột nhập thị trấn Chơn Thành diệt tên quận trưởng Hớn Quản cừng một số lính. Trang tuần tháng 9, phân đội 1 thuộc trung đội 1 đại đội 2 (Châu Thành) đánh địch càn quét ở xã Tân Hưng, diệt tên sếp bót Bến Sắn, thu 1 súng ngắn. Ngày 28 tháng 9, phân đội 1, trung đội 3, đại đội 3 (Bến Cát) phục kích tại ga Chòi Bầu diệt tiểu đội Lê dương, thu 1 trung liên, 10 súng trường, và nhiều đạn, lựu đạn.


Nhân lúc bọn tề đang hoang mang, cùng với nhân dân địa phương Ban Chỉ huy Chi đội 1 chỉ đạo lực lượng các đơn vị mở đợt tiến công binh vận trong toàn tỉnh. Kết quả trong đợt này, ta đã vận động được hàng chục binh lính ngụy ở bót Phú Hưng (Bến Cát), bót Massari, thành Săng Đá, Liên đội lính partidăng ở nhà máy nước Bưng Cải... mang súng về với kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:55:09 pm »

Từ giữa năm 1946, chiến trường Nam Bộ đang bước vào cuộc kháng chiến với thế ổn định để phát triển thì nảy sinh vấn đề phức tạp cả về chính trị và quân sự: vấn đề Hoà Hảo ở miền Tây và vấn đề Cao Đài ở miền Đông. Đối với Cao Đài miền Đông cũng như với Hoà Hảo miền Tây và với tôn giáo nói chung, chính sách của Đảng và Chính phủ ta là tôn trọng tín ngưỡng, đoàn kết dân tộc, chủ trương dùng biện pháp tuyên truyền, vận động tín đồ, chỉ rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo để thực hiện thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp. Nhiều tín đồ Cao Đài nhận ra âm mưu của địch và một số chức sắc phản động, hiểu được chính sách tôn giáo của cách mạng, nhiệt tình ủng hộ kháng chiến. Tuy nhiên, một số chức sắc phản động đội lốt tôn giáo đã cấu kết với thực dân Pháp tổ chức được lực lượng vũ trang Cao Đài. Dưới chiêu bài “Tạm hoà hoãn với Tây để đánh Tây”, lực lượng này từ hoạt động ngầm thủ tiêu người kháng chiến đến công khai chống phá cách mạng, từ Tây Ninh mở ra diện rộng hướng về ven Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn... Thực dân Pháp tuy không hoàn toàn tin Cao Đài, nhưng triệt để lợi dụng Cao Đài tạo phản, tạo lập những khu vực “an ninh”, lấy Tây Ninh làm căn cứ tạo thế dần giành lại chính quyền, kết hợp với vấn đề Bình Xuyên, với những khu quốc gia giả hiệu ở Gia Định, Bà Rịa... hòng bóp nghẹt mọi hoạt động kháng chiến.


Căn cứ tình hình trên, chủ trương của Khu bộ Khu 7 là: 1. Dẹp cho tan lực lượng và ảnh hưởng phản động nhất ở Tây Ninh và các khu an ninh, khu quốc gia giả hiệu để mở rộng phạm vi kiểm soát của ta. 2. Thanh trừng những phần tử nguy hiểm nhất trong bộ đội để chấn chỉnh và phát triển bộ đội. 3. Kéo những bộ đội còn lừng chừng và dân chúng còn mơ muội khỏi ảnh hưởng phản động và về với ta.


Nắm được ý định của ta, quân phiến loạn kịp thời chuyển hướng về “kế hoạch ba giai đoạn”, cấp tốc kéo quân ra các vị trí tiền đồn của quân Pháp, tìm bắt cán bộ kháng chiến. Trước tình thế mới, Bộ chỉ huy Khu 7 chủ trương một phương án mạnh mẽ mới, ra mệnh lệnh mạnh mẽ hơn về việc “tảo thanh” bọn phản động thâm nhập trong các làng nhiều tín đồ “làm cho dân chúng phân hoá rõ riệt, ai trung thành thì ở lại làng xóm, bọn nào phản động thì phải ra đồn bót”.


Tháng 4 năm 1947, Xứ ủy Nam Bộ chỉ thị cho Khu 7 và các tỉnh: hết sức bình tĩnh, tranh thủ sự ủng hộ và tham gia kháng chiến của các tín đồ Cao Đài, mặt khác kiên quyết trừng trị những tên manh tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, chống lại cuộc kháng chiến. Cùng trong tháng, Tỉnh ủy Gia Định mở Hội nghị tại An Phú Đông, kiểm điểm, rút kinh nghiệm 1 năm xây dựng, củng cố lực lượng trên địa bàn. Riêng vấn đề Cao Đài, hội nghị chủ trương bắt bọn cầm đầu phản động, cử một số cán bộ, chiến sĩ làm công tác Cao Đài vận, giải thích cho đồng bào hiểu rõ chủ trương của ta, đồng thời vạch trần âm mưu của thực dân Pháp và bọn phản động nhằm gây chia rẽ, phá rôi khối đoàn kết dân tộc. Nói chung, ở các tỉnh có Cao Đài, các Tỉnh ủy đều thể hiện quan điểm, chủ trương theo tinh thần trên.


Tuy nhiên, sự chỉ đạo kiên quyết nhưng lại chưa rõ đối tượng, một số cán bộ chỉ huy lại phạm sai lầm. Việc này gây hậu quả nghiêm trọng, trước mắt là ta mất dân, bọn phản động càng có cớ tuyên truyền phản chính sách đoàn kết tôn giáo của Đảng, Chính phủ, Mặt trận. Chúng lôi kéo, tạo được một lực lượng quần chúng, tăng cường bắn giết, cướp bóc... Đã hình thành những “xóm đạo” quanh đồn bót và những vùng trắng như Sa Nhỏ, Đồng Lớn (bắc Hóc Môn), Tân Hiệp, Tân Mỹ, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây... và nhất là Xuân Thới Sơn (nam Hóc Môn).


Đánh giá sai lầm trong tảo thanh Cao Đài, Nghị quyết hội nghị địch nguỵ vận Nam Bộ nêu rõ: “Đó là thời kỳ ta phạm vào tả khuynh rất nặng nề, chỉ biết đôn đốc dùng quân sự để tảo thanh, không biết dùng quân sự để kêu gọi, thuyết phục, vận động... Cùng với sự kích động mê hoặc, lừa mị của kẻ thù, thời gian đó đã gây nên nhiều sự hiểu lầm, thành kiến trong đồng bào Hoà Hảo và nguỵ binh Hoà Hảo cũng như Cao Đài”. Trong lời kêu gọi đồng bào Cao Đài ngày 3 tháng 5 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trừ một bọn rất ít đại gian, đồng bào ai cũng có lòng yêu nước. Tuy có một số đồng bào lầm lạc, qua một thời gian những người ấy dần dần giác ngộ quay về với Tổ quốc”.


Khu ủy, tỉnh ủy các tỉnh có đông giáo dân Cao Đài chỉ đạo đưa cán bộ về địa phương giải thích, vận động đồng bào tín đồ để xây dựng lại lòng tin, các đơn vị vũ trang về xóm ấp xin lỗi, chia buồn với những gia đình có người thân đã mất, sửa sang lại nhà cửa, ruộng vườn cho họ, hướng dẫn họ viết thư hoặc trực tiếp gọi thân nhân còn trong quân ngũ Cao Đài trở về. Phần đông đồng bào nhận ra âm mưu của kẻ thù, thông cảm sự sai lầm nóng vội của ta, từng bước tăng thêm lòng tin đối với kháng chiến, đi theo Cụ Hồ, nhận rõ chân tướng của bọn phản động.


Ở Thủ Dầu Một, một vài địa phương tự động đối phó bằng biện pháp mạnh, song Tỉnh ủy đã chặn đứng kịp thời và chủ trương dùng biện pháp chính trị để giải quyết vấn đề liên quan đến tôn giáo rất nhạy cảm và tế nhị này. Tỉnh ủy đã tổ chức tiếp xúc với các chức sắc Cao Đài, giải thích cặn kẽ âm mưu của địch phá hoại khối đoàn kết dân tộc làm suy yếu lực lượng kháng chiến, khuyên họ nói cho tín đồ biết phải trái, tránh lầm lạc. Đối với các chức sắc, để tránh cho họ khỏi bị giặc Pháp đến mua chuộc và rúng ép làm việc cho chúng, đề nghị đơn vị học tập một thời gian ở Hội đồng Sầm thuộc tỉnh Long An. Gia đình họ và đông đảo tín đồ rất đồng tình trước thái độ chân thành của cán bộ kháng chiến. Số chức sắc đi học một thời gian đều được đưa về gia đình an toàn, một số trở thành cán bộ cách mạng.


Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn lợi dụng lực lượng này, chúng tăng cường trang bị vũ khí cho lực lượng Cao Đài phản động tiến hành càn quét bắn phá khắp nơi. Nhằm ngăn chặn hành động đánh phá của chúng, đồng thời tạo điều kiện đẩy mạnh tác chiến trên các chiến trường, cuối tháng 12 năm 1946 Bộ chỉ huy Quân khu 7 thành lập 4 liên quân nhằm đánh bại lực lượng phản động Cao Đài do quân Pháp tổ chức đang điên cuồng giết hại nhân dân chống lại kháng chiến, hai trung đội thuộc Chi đội 1 tham gia Liên quân B do đồng chí Huỳnh Kim Trương chỉ huy hoạt động ở khu vực Hóc Môn, Trảng Bàng, Đức Hòa. Liên quân B đã cùng với các liên quân hoạt động trên khu vực phụ trách ngăn chặn hành động càn quét và cướp phá của quân đội Cao Đài.


Lúc này, để củng cố cơ quan chỉ huy, Khu 7 điều đồng chí Huỳnh Kim Trương về làm Tham mưu trưởng Quân khu, đồng chí Nguyễn Văn Thi lên làm Chi đội trưởng Chi đội 1, đồng chí Lê Đức Anh làm Chính trị viên chi đội 1 thay đồng chí Vương Anh Tuấn đã hy sinh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 06:56:09 pm »

Cuối năm 1946, với âm mưu tái chiếm toàn bộ Đông Dương, sau khi đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm Nam Bộ, quân Pháp tăng cường gây hấn trên chiến trường Bắc Bộ. Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 12 năm 1946, quân và dân Hà Nội với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng các thành phố nổ súng chiến đấu. Toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và chỉ thị của Trung ương, lực lượng vũ trang Chi đội 1 cùng nhân dân Thủ Dầu Một với quyết tâm hy sinh chiến đấu, phối hợp cùng cả nước kháng chiến.


Tại thị xã Thủ Dầu Một, Đại đội 2, Chi đội 1 phối hợp Quốc Vệ đội tiến công trong thị xã gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể. Ở Lái Thiêu, Trung đội A, Trung đội B (đại đội 1) phối hợp với du kích các xã Thuận Giao, An Phú, Bình Hoà, Tân Thới, An Thạnh, An Sơn, Bình Chuẩn... tăng cường hoạt động phục kích, tập kích, chống càn, trừ gian diệt tề... gây cho địch nhiều thiệt hại, tạo niềm tin, phấn khởi trong nhân dân. Từ địa bàn đứng chân ở ba xã Thuận Giao, An Phú, Bình Hoà, lực lượng Trung đội A, Trung đội B của Đại đội 1 (Chi đội 1) mở rộng hoạt động diệt tề, trừ gian, vũ trang tuyên truyền, cùng cán bộ địa phương xây dựng cơ sở, vận động nhân dân cho con em tham gia lực lượng vũ trang, tham gia kháng chiến; giúp đỡ các xã xây dựng đội du kích chiến đấu bảo vệ xóm làng.


Ở vùng cao su, công nhân mở mặt trận phá hoại kinh tế dịch, đập chén, đổ mủ, đốt nhà máy. Các đồn bót trong các sở cao su Quản Lợi, Xa trạch, Xa Cát, thị trấn Hớn Quản bị quân ta tập kích. Đường 13, 14 bị đào phá. Sông Đồng Nai được đóng cọc ngăn sông chặn tàu. Đặc biệt cuối năm 1946, nhờ công tác địch vận tốt, Chi đội 1 đã tổ chức được cơ sở nội ứng trong bót Cao Đài đóng ở thị xã Thủ Dầu Một. Khi quân Cao Đài hành quân càn quét dừng chân đêm tại làng Bình Hoà (Bình Chuẩn), Đại đội 2 Chi đội 1 tổ chức tập kích, tạo điều kiện cho cơ sở nội ứng đưa 20 anh em Cao Đài trở về với cách mạng.


Chiến tranh mở rộng ra cả nước. Bộ chỉ huy Pháp phải điều bớt lực lượng từ Nam Bộ ra Bắc Bộ. Địch ra sức càn quét “bình định”, vơ vét nhân vật lực cung cấp cho mặt trận chính Bắc Bộ. Để đối phó với âm mưu mới của thực dân Pháp, Chi đội 1 đã cùng quân dân Thủ Dầu Một tổ chức chống càn có hiệu quả:

Ngày 18 tháng 1 năm 1947 quân Pháp mở cuộc tiến công vào Chiến khu Đ. Chúng tổ chức nhiều cánh quân đánh vào Tân Tịch, Bình Chánh, Mỹ Lộc. Bộ đội Chi đội 1 và du kích địa phương chặn đánh cánh quân vào Tân Tịch. Lực lượng của đồng chí Chín Quỳ tiến công một đại đội lính dù, diệt trên 1 tiểu đội, thu vũ khí đạn dược và gần 100 chiếc dù. Ở Bình Chánh, Đại đội 2 - Chi đội 1 cùng du kích chống càn khu vực Phú Chánh, Phú Hữu diệt 1 trung đội, buộc chúng phải quay trở về Phú Hoà.


Cùng thời gian trên địch mở một trận càn lớn vào các xã Bình Chuẩn, Thuận Giao, Phước Lộc do tên thiêu tá Perrot chỉ huy. Đại đội 1 đánh một trận ở bìa rừng Phước Lộc (rừng Cò My) bắn gãy tay tên Perrot, thu được khẩu súng P38 và diệt nhiều tên khác bẻ gãy cuộc càn. Trận chống càn quyết liệt nhất diễn ra tại ấp Phú Hội, xã Vĩnh Phú (Lái Thiêu). Lực lượng địch khoảng 1000 tên, có 20 xe bọc thép yểm trợ quyết bao vây tiêu diệt lực lượng ta ở lõm căn cứ Phú Hội. Một trung đội của Chi đội 1 kết hợp với một Đại đội Chi đội 6 và dội du kích xã đã nổ súng chống địch quyết liệt từ sáng đến trưa diệt được 198 tên. Bị tổn thất nặng, địch tập trung lực lượng thắt chặt vòng vây. Do lực lượng chênh lệch và thiếu đạn, ta mở mặt trận nghi binh rồi bí mật phá vòng vây vượt sông Sài Gòn rút lui về Hóc Môn. Sau một ngày lùng sục không phát hiện được lực lượng tạ, địch phải rút quân.


Tháng 3 năm 1947, Đại đội A phối hợp với lực lượng Chín Quỳ tập kích bất ngờ đồn Đất Cuốc, diệt và bắt sống 1 trung đội lính địch. Địch phải rút hết các đồn còn lại trong chiến khu. Nhân lúc tinh thần địch sa sút, dựa vào cơ sở trong lòng địch, Đại đội 2 cùng du kích xã tập kích diệt bót Thái Hoà thu trên 30 súng.


Ngoài ra, các đơn vị của Chi đội còn lấy đồn địch bằng mưu trí. Dùng hàng binh Pháp, Đức cải trang làm những tên chỉ huy Pháp, các chiến sĩ ta cải trang thành lính ngụy đã hiên ngang vào bót tuớc vũ khí và giải tán bọn lính ngụy chiếm đóng.


Tại Thị xã Thủ Dầu Một, nhờ gây dựng được cơ sở quần chúng ở 2 xã Phú Cường, Chánh Hiệp và trừng trị một số tên tay sai nguy hiểm, Ban công tác Chi đội 1 kết hợp với Quốc vệ đội tổ chức trừng trị một số tên tay sai trong nội ô. Tiểu đội Quốc vệ đội do đồng chí Dương Văn Bé chỉ huy diệt nửa tiểu đội địch trên đường 13 thu 1 đại liên, 5 súng trường. Quốc vệ đội cùng Ban công tác và lực lượng Châu Thành, dưới sự chỉ huy của đồng chí Dương Văn Sơn, hoá trang làm lính địch chiếm bót Giếng Máy, Chánh Hiệp không nổ một phát súng, thu 3 trung liên, 30 súng trường.


Tám tháng sau, ta đánh bót Giếng Máy lần thứ hai. Ê-min Giéc-manh, tù binh Pháp được ta giác ngộ tham gia bộ đội, hoá trang làm viên quan hai chỉ huy 1 trung đội mặc quân phục Pháp dẫn đội trưởng Dương Văn Sơn hoá trang thành chỉ huy Việt Minh bị bắt, hành quân thẳng vào đồn lúc nội ứng ta đứng gác. Giéc-manh hạ lệnh tập hợp toàn đồn, lính đồn vừa tập hợp xong, Dương Văn Sơn khoát tay, dây trói rơi xuống đất, rút súng ngắn chỉ thẳng vào tên đồn trưởng nguỵ bắt đầu hàng. Ta thu toàn bộ vũ khí, đạn dược, phóng thích tù binh tại chỗ.


Tại Châu Thành và Lái Thiêu, Đại đội 1 và Đại đội 2 dùng nội ứng, ta lấy gọn tua Cây Me (Thuận Giao), bót Võ Lầu (Phú Long), bót Tương Bình Hiệp, bót Bình Nhâm. Tác động mạnh nhất là trận Phú Hữu giữa ban ngày, đúng vào lúc nội ứng ta đứng gác, lực lượng Chi đội 1 và du kích Phú Mỹ cải trang làm lính địch, có hàng binh Đức đóng vai chỉ huy đột nhập vào bót diệt 2 sĩ quan Pháp, bắt hàng cả trung đội thu toàn bộ vũ khí, đạn dược.


Ở Bến Cát, khi quân Pháp mở cuộc hành quân đánh vào căn cứ Đại đội 3 ở Bến Tượng, trong khi Đại đội đang hoạt động ở Hớn Quản, ngay sau đó Đại đội 3 lập tức quay về triển khai đánh địch càn quét bảo vệ căn cứ. Trong suốt đợt chống càn, Đại đội 3 bám trận địa đánh địch từ sáng đến chiều bảo vệ tính mạng và tài sản nhân dân. Tiếp đó Đại đội 3 cùng bộ đội Hoàng Thọ dùng chiến thuật “điệu hổ ly sơn” đánh đồn Phó Bình (Kiến An). Ta đốt trụ sở tề Kiến An dụ lính Âu - Phi trong đồn ra tiếp cứu, địch kéo ra một trung đội bị Đại đội 3 phục kích tiêu diệt thu 1 trung liên, 20 súng trường. Hai hôm sau, địch hoảng sợ bỏ bót Phó Bình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 07:00:59 pm »

Cuộc kháng chiến của Đảng bộ, quân dân Thủ Dầu Một từ giữa năm 1947 đã có những thuận lợi và trên đà phát triển. Trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến, chiến khu Đ được xây dựng thành căn cứ lớn của miền Đông Nam Bộ. Các huyện cũng hình thành các căn cứ kháng chiến như Châu Thành có căn cứ Vĩnh Tân, Vĩnh Lợi. Bến Cát có căn cứ tây nam Bến Cát, phía bắc có căn cứ Long Nguyên, Hớn Quản có căn cứ Tân Khai... Sự ra đời của hàng loạt các căn cứ đã tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang của Thủ Dầu Một có chỗ đứng chân hoạt động chiến đấu. Lúc này Sở chỉ huy Chi đội 1, đại đội 1 (phụ trách địa bàn Lái Thiêu) đóng quân tại căn cứ ở Thuận An Hoà. Tại đây, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân xây dựng lán trại, kho tàng, nhà làm việc, nhà nghỉ, trạm xá, công sự chiến đấu và tổ chức canh gác, bố phòng, tăng gia sản xuất để tự cung tự cấp, cung ứng lương thực. Mặc dù vật chất còn nhiều thiếu thốn, nhưng cuộc sống hàng ngày ở trong chiện khu vẫn đầy ắp tiếng cười và tiếng hát. Hàng đêm trong từng xóm ấp, thanh niên nam nữ tập trung sinh hoạt học tập, tổ chức văn nghệ, hát những bài ca kháng chiến. Từ trong căn cứ Thuận An Hoà, tiếng hát của Quốc Hương - cán bộ trung đội phó của Chi đội 1, thiết tha, hùng tráng vang lên với những bài ca cách mạng, ca ngợi tình quân dân kháng chiến đã thu hút đông đảo đồng bào trong vùng căn cứ và vùng địch tạm chiếm. Tiếng hát của Anh có sức kêu gọi, động viên, cổ vũ rất lớn tinh thần yêu nước, yêu quê hương, thắp sáng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ Chi đội 1 trong những lúc khó khăn, gian khổ. Căn cứ Thuận An Hoà cũng là nơi nuôi dưỡng tài năng Nguyễn Ngọc Tấn (sau này là nhà văn Nguyễn Thi), một cán bộ tiểu đội phó trung đội A, đại đội 1 của Chi đội 1. Những ngày sống chiến đấu ở Chi đội tại Thuận An Hoà, Nguyễn Ngọc Tấn say sưa làm bích báo in bằng đất sét. Các bài báo của anh ca ngợi cán bộ, chiến sĩ đại đội 1 đánh giặc lập công và ca ngợi tình cảm quân dân cả nước tại chiến trường Lái Thiêu.


Cuối mùa thu năm 1947, thực dân Pháp tiến công căn cứ Việt Bắc, nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. Nắm được âm mưu địch, ngày 15 tháng 9 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Sửa soạn phá những cuộc tiến công lớn của địch”. Ngày 7 tháng 10, cuộc tiến quân lớn của quân Pháp do tướng Sa-lăng chỉ huy bắt đầu đánh lên Việt Bắc, căn cứ kháng chiến của Chính phủ ta.


Bộ Tư lệnh Khu 7 nhận được lệnh của bộ chỉ huy “Các khu đánh mạnh để phối hợp với Việt Bắc”. Đảng bộ và quân dân Thủ Dầu Một nhận thức đây không chỉ là mệnh lệnh của cấp trên mà còn là tiếng gọi của Tổ quốc trước thử thách.


Chấp hành mệnh lệnh trên, lực lượng vũ trang Chi đội 1 cùng lực lượng vũ trang địa phương đã tổ chức một loạt trận giao thông chiến, “kinh tế chiến” để phối hợp với chiến trường chung.

Công nhân các đồn điền cao su Dầu Tiếng, Phước Hoà mở chiến dịch phá hoại cả chục ngàn ha cao su: vạt vỏ, đổ mủ, đập chén, đốt kho, phá nhà máy. Ban chỉ huy Chi đội 1 tập trung lực lượng toàn Chi đội mở một loạt trận giao thông chiến trên khắp các chiến trường trong tỉnh. Trận đánh giao thông trên đường 14 tại ấp Bưng Còng (Thanh Tuyền) trong tháng 8 diệt đoàn xe địch vận chuyển cao su từ Dầu Tiếng về Sài Gòn. Lần khác ta phục kích đánh đoàn xe trên đường đi Phú Riềng bằng Ba-zô-min do ta chế tạo, trong đó trận đánh ở Bến Ông Khương là trận đạt hiệu quả cao nhất. Ngày 3 tháng 10 năm 1947 nắm chắc 3 đoàn xe lửa có hộ tống chạy từ Sài Gòn qua Thủ Dầu Một lên Lộc Ninh (mỗi đoàn cách nhau 15 phút), lực lượng Chi đội 1 tổ chức trận phục kích ở khu vực Nhíp 27. Để cho đoàn tàu thứ nhất và thứ hai đi qua, các chiến sĩ cho nổ mìn đúng toa thứ 5. Đoàn tàu bị đứt làm đôi. Đầu máy trật đường ray bị hư hại nặng. Từ hai bên, bộ đội ta lập tức ném lựu đạn, xung phong tiêu diệt hoàn toàn đoàn tàu và 2 tiểu đội địch hộ tống, thu 1 trung liên, 15 súng trường và  tiểu liên, 1 thùng lựu đạn, hơn 10.000 viên đạn và toàn bộ hàng hoá trên 8 toa tàu. Bên ta 2 chiến sĩ hy sinh, 3 bị thương. Cùng lúc, một tiểu đoàn địch từ Lai Khê đến tiếp viện, các chiến sĩ vận động đánh vào sườn tiểu đoàn địch diệt thêm 80 tên, buộc chúng phải rút lui, ta thu trên 3 trung liên, 12 tiểu liên, 23 súng trường.


Phối hợp với trận Bến Ông Khương, cùng ngày đại đội 902 (Chi đội 1) cùng du kích Thị xã đánh mìn chặn viện cách chợ Thủ Dầu Một 5 ki-lô-mét, diệt 1 đại đội địch, phá hủy 2 đại bác, 2 thiết giáp, nhiều toa xe và đạn dược trên đoàn xe lửa tiếp viện cho Bến Ông Khương. Trận Bến Ông Khương có tiếng vang lớn ở chiến trường và sang cả nước Pháp.


Mười tám ngày sau, quân Pháp mở rộng cuộc hành quân càn quét trả thù vào căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh, cũng là hậu cứ của đại đội 2 Chi đội, 7 giờ sáng ngày 21 tháng 10 năm 1947, chúng tiến công bao vây căn cứ. Lực lượng Chi đội 1 gồm đại đội 1, đại đội 2 đã kết hợp cùng các đội du kích các xã trên tổ chức chống càn. Các đội du kích của các xã Vĩnh Lợi - Bình Chánh đã tổ chức chiến đấu kềm chế, tiêu hao, quấy rối chặn từng bước tiến quân của địch, tạo điều kiện cho đại đội 1 và đại đội 2 tập trung lực lượng đánh vào 2 cánh quân càn quét của chúng. Kết quả, ta tiêu diệt hơn 2 đại đội địch, làm bị thương gần 70 tên, thu nhiều vũ khí đạn dược.


Phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công đồng loạt của các chi đội Vệ quốc đoàn ở ngoại thành Sài Gòn, ngày 4 tháng 12 năm 1947, đại đội 1 tổ chức phục kích một đoàn xe quân sự của Pháp trên Quôc lộ 13 giữa Phú Văn và Búng. Ta phá hỏng 3 xe thiết giáp bánh cao su, xe vận tải, 1 xe Jeep, loại khỏi vòng chiến đấu 18 tên.


Kỷ niệm tròn một năm toàn quốc kháng chiến, ngày 17 tháng 12 năm 1947, Chi đội 1 và Chi đội 10 phối hợp với lực lượng du kích địa phương tổ chức đánh một đoàn xe địch ở Đồng Xoài trên Quốc lộ 14, kết quả ta tiêu hủy 1 xe chở xăng, 9 xe GMC chở lính, diệt 60 tên, bắt nhiều tên trong đó có 11 lái xe, thu 2 trung liên, 19 tiểu liên và súng trường, 1 máy vô tuyến điện. Trong trận này lần đầu tiên ta sử dụng Ba-zô-min do xưởng quân giới mới sáng chế để diệt xe tăng nhưng do lượng thuốc không đủ nên không đạt hiệu quả.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 07:05:15 pm »

Trong cuộc chiến đấu chia lửa với các chiến sĩ căn cứ địa Việt Bắc, ngoài việc mở các trận đánh giao thông chiến lớn và chống càn thắng lợi, Chi đội 1 đã tổ chức tiêu diệt “chiến khu ma” Bình Quới Tây cuối năm 1947 thắng lợi.


Sau thất bại ở chiến dịch Thu - Đông năm 1947, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược từ đánh nhanh thắng nhanh, sang đánh kéo dài, trong đó Nam Bộ được coi là vùng trọng điểm phải bình định nhanh để biến thành nơi dự trữ chiến lược cho cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương với âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.


Để phục vụ cho mưu đồ trên, thực dân Pháp ra sức tuyên truyền, lừa bịp, thu hút lực lượng trong các nhóm đảng phái phản động, trong các tôn giáo như Thiên chúa, Hoà Hảo, Cao Đài... thành lập “Mặt trận quốc gia Liên hiệp” xây dựng các “khu quốc gia” nhằm tạo thêm lực lượng và cơ sở xã hội, chia rẽ hàng ngũ kháng chiến.


Sau khi Thủ tướng “Nam Kỳ tự trị” Nguyễn Văn Thinh tự sát, Nguyễn Văn Xuân thay thế rồi đến Lê Văn Hoạch - người của giáo phái Cao Đài - Tây Ninh, song Lê Văn Hoạch không đủ uy tín. Từ vấn đề dó, đặt ra cho Hoạch và Bộ tham mưu của Hoạch là phải lôi kéo cho kỳ được các đạo hữu đang tham gia kháng chiến để thành lập “quân đội quốc gia”, xây dựng “chiến khu quốc gia” của chúng. Theo Lê Văn Hoạch, khi chiến khu này hình thành và phát triển, chắc chắn sẽ có sức hút mạnh mẽ, không chỉ riêng các tín đồ Cao Đài mà cả quần chúng còn đang lừng chừng chưa biết ngả về bên nào. Mưu đồ trên của Hoạch được Pháp ủng hộ và tạo điều kiện thực hiện.


Để có một căn cứ khả dĩ xây dựng “chiến khu” đáp ứng được yêu cầu chính trị và quân sự, sau một thời gian nghiên cứu, chúng chọn Bình Quới Tây - là một xã nằm ven đô Sài Gòn - Gia Định, được vòng cung sông Sài Gòn bao quanh và thông nhau bằng một nhánh sông có chiếc cầu sắt bắc qua, nối dài bằng con đường đá đỏ chạy thẳng ra bến đò Bình Quới, phía bên kia thuộc địa phận Thủ Đức. Với địa điểm này có thể thu hút được sự chú ý được các tầng lớp nhân dân ở thành thị và nông thôn, vừa có điều kiện phòng thủ vững chắc vừa cơ động được dễ dàng.


Để xây dựng “chiến khu quốc gia”, chúng điều về đây một đại đội lính Cao Đài Tây Ninh, 5 súng máy, 1 khẩu cối 60 ly, hàng trăm súng trường và tiểu liên loại tốt. Tại cầu sắt, chúng bố trí một tháp canh với một bán đội canh giữ, trang bị 5 súng máy. Ngoài nhiệm vụ phòng thủ, lính gác tháp canh còn canh giữ một ống dẫn nước từ bên ngoài đưa vào khu vực này. Khi nào chúng mở vòi, người Bình Quới mới có thể lấy nước sạch để dùng. Bến đò Bình Quới cũng đặt một chốt gác thường xuyên. Bên trong là khu doanh trại phòng tuyến của lính, một nhà giam và khu gia binh. Xung quanh khu vực này địa hình sình lầy, trống trải, lác đác mấy xóm nhà dân ở ven sông. Để “chiến khu” được hấp dẫn, chúng dự kiến sẽ xây dựng một khu phố có cả chợ và trường học... Biến Bình Quới Tây thành một ốc đảo hết sức an toàn. Ngoài đánh vào nhất thiết phải vượt qua những khoảng sân rộng, hành quân bộ thì chỉ vận động theo một con đường độc đạo có chiếc cầu sắt được canh giữ cẩn mật. Mặt khác, khi quân vào cũng như khi quay ra phải vượt qua hơn chục cây số dày đặc đồn bót.


Sau một thời gian trinh sát, nghiên cứu, cân nhắc kỹ càng. Ban Chỉ huy Chi đội 1 đề ra phương án tiến công “Chiến khu quỏc gia” bằng cách tương kế tựu kế: đưa lực lượng của ta vào hàng ngũ địch làm nội ứng để tiêu diệt căn cứ Bình Quới Tây. Với phương châm “ém lâu, ở lâu chờ thời cơ diệt địch”, từ tháng 3 năm 1947 đến tháng 5 năm 1947, ta đã đưa vào hàng ngũ địch hơn 100 người gồm: tín đồ, bộ đội, biệt động với hơn 20 đảng viên, có cán bộ chỉ huy, trinh sát, giao liên và đầy đủ các bộ phận phục vụ khác, một số cán bộ, du kích thuộc các xã căn cứ Thuận An Hoà và đồng chí Hoàng Của (Ba Của) - Trưởng ban quân báo của Chi đội 1 vào “Ban chỉ huy” giữ chức “Tham mưu trưởng chiến khu quốc gia”, hiệp đồng tác chiến với Chi đội 1 ở bên ngoài cùng đánh tiêu diệt gọn quân địch.


Lực lượng trong “chiến khu quốc gia” quân số có 1 tiểu đoàn, biên chế tổ chức hình thành hai nhóm mang tính địa phương rõ rệt: Nhóm Tây Ninh - giáo phái phản động Cao Đài của Lê Văn Hoạch và nhóm Thủ Dầu Một (du kích của ta). Kế hoạch tác chiến của ta như sau: hiệp đồng giữa lực lượng nội ứng và lực lượng bên ngoài, khi có thời cơ, lực lượng nội ứng bên trong nổ súng diệt địch kết hợp với lực lượng bố trí bên ngoài (1 trung đội của Chi đội 1) bên sông Sài Gòn đối diện Bình Quới Tây sẵn sàng hỗ trợ cho lực luợng nội ứng, đồng thời sẵn sàng đánh quân địch ứng cứu trên đường sông, và bảo vệ quân ta rút về hậu cứ an toàn. Ta tổ chức huy động các thuyền (ghe) của nhân dân ém sẵn bên sông để chuyên chở bộ đội, du kích và vũ khí qua phía bắc sông Sài Gòn về hậu cứ. Đồng thời hiệp đồng với Chi đội 6 để nhận và đưa tù binh, hàng binh về phía sau. Ngày 3 tháng 12 năm 1947, đồng chí Nguyễn Văn Thi nhận được lệnh phải tiêu diệt gấp “chiến khu quôc gia” Bình Quới Tây.


Ngày 6 tháng 12 năm 1947, đồng chí Nguyễn Văn Thi triệu tập một cuộc họp tại một khách sạn ở trung tâm Chợ Lớn gồm đồng chí Hoàng Của “Tham mưu trưởng Bình Quới Tây”, đồng chí Bảy Thanh cán bộ tham mưu, đồng chí Xuân Ty, Mười Tài để phổ biến quyết tâm của Ban chỉ huy Chi đội 1. Cuộc họp đã thống nhất kế hoạch tác chiến.


Theo hợp đồng tác chiến, 16 giờ ngày 10 tháng 12 năm 1947, Ban chỉ huy “chiến khu” tổ chức đá bóng giao hữu giữa hai đội Tây Ninh và Thủ Dầu Một. Một số sĩ quan trong Ban chỉ huy và đông đảo binh sĩ đi xem cổ vũ cho hai đội. Súng đội nào thì giá ở sân đội đó (Đại đội Tây Ninh được trang bị súng nhiều và tốt hơn). Khi hiệp 1 kết thúc, lúc 16 giờ 45 phút, hai bên đổi sân cũng là lực lượng ta đổi chỗ về gần Ban chỉ huy và chỗ giá súng của đội Tây Ninh (bên phía sân đội Thủ Dầu Một). Lúc này, ngay tại Sở chỉ huy, tham mưu trưởng Hoàng Của đang mở tiệc chiêu đãi 5 tên trong Ban tham mưu Bình Quới Tây, có sự tham gia của cán sự tham mưu Bảy Thanh. Khi hiệp 2 của trận đấu bắt đầu, theo kế hoạch, đồng chí Ba Của - tham mưu trưởng “chiến khu quốc gia” và đồng chí Bảy Thanh dùng súng ngắn bắn chết 3 tên trong Ban chỉ huy và 2 sĩ quan tham mưu làm phát lệnh nổ súng tấn công. Các chiến sĩ đại đội Thủ Dầu Một nhanh chóng chạy đến giá súng của đại đội Tây Ninh đoạt lấy súng, bắt số sĩ quan và binh lính của đại đội Tây Ninh.


Trận đánh diễn ra trong 15 phút, ta làm chủ “chiến khu quốc gia”, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược và nhiều quân trang quân dụng. Số tù binh và nhân viên nguỵ quyền địch, ta tuyên truyền đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh, sau đó đưa về vị trí quy định đã hiệp đồng với Chi đội 6 để rút về phía sau.


Theo kế hoạch hiệp đồng, các ghe xuồng ta huy động của nhân dân đã nhanh chóng tập kết đúng thời gian đưa cán bộ và chiến sĩ ta qua sông Sài Gòn, sau đó bộ đội ta cắt đường vượt qua các trạm gác, đồn bót của địch về hậu cứ an toàn.


Trận Bình Quới Tây đã tiêu diệt và làm tan rã 1 tiểu đoàn địch, phá tan “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây, diệt 5 sĩ quan ngụy, thu toàn bộ vũ khí (81 khẩu súng) và nhiều đồ dùng quân sự.

Chiến thắng Bình Quới Tây đã đập tan tổ chức phản động “Mặt trận quốc gia liên hiệp” do Pháp dựng nên là chiến công của quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ban chi huy Chi đội 1. Sự dũng cảm, mưu trí của cán bộ, chiến sĩ Chi đội 1, quân dân du kích Thuận An Hoà cùng các đơn vị hiệp đồng tham gia chiến đấu. Với chiến thắng này ta đã làm thất bại âm mưu thành lập cái gọi là “Nam Kỳ tự trị” do thực dân Pháp lôi kéo bọn phản động trong các tôn giáo làm hậu thuẫn cho chúng. Trận Bình Quới Tây là trận đánh hiệu suất chiến đấu cao, có tiếng vang lớn của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ ở thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Ban chỉ huy Chi đội 1 đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội diệt địch, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của địch để tương kế tựu kế, tổ chức lực lượng lớn cài cắm trong hàng ngũ địch làm nội ứng tiến công ngay từ trong lòng địch, phá tan “chiến khu quốc gia”, tiêu diệt lực lượng đặc biệt của chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch, tay sai thực dân Pháp. Trận đánh thể hiện trình độ tổ chức, công tác chuẩn bị chiến đấu chu đáo, tinh thần dũng cảm, chấp hành kỷ luật nghiêm, bảo đảm bí mật của cán bộ chiến sĩ Chi đội 1 và du kích các xã Thủ Dầu Một. Trận tiêu diệt “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây đã mở ra một cách đánh mới, một phương châm tác chiến mới được hình thành: sử dụng lực lượng quân sự kết hợp chặt chẽ công tác chính trị, binh vận và tiềm năng của nhân dân để giành thắng lợi.


Tại Hội nghị Xứ ủy mở rộng, đồng chí Lê Đức Anh Chính trị viên Chi đội báo cáo chiến thắng “Bình Quới Tây”, cả hội nghị và đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy nhiệt liệt khen ngợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 07:11:11 pm »

Thắng lớn của đợt hoạt động quân sự cuối năm 1947 của lực lượng vũ trang Chi đội 1 đã góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947. Sự phối hợp đó được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội đánh giá là tích cực và có hiệu quả.


Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, lực lượng vũ trang Chi đội 1 còn làm tốt công tác dân vận và vận động thanh niên, sinh viên, trí thức, công nhân ra chiến khu tham gia kháng chiến: nhờ vậy, trong quá trình chiến đấu ở chiến khu Thuận An Hoà, đồng bào An Sơn, Lái Thiêu tuy cuộc sống khó khăn nhưng vẫn thường xuyên quyên góp tiền của, đặc biệt các loại hàng hoá khan hiếm đưa vào chiến khu. Công nhân cao su ở Hớn Quản, Dầu Tiếng bớt một phần gạo để ủng hộ bộ đội. Rất cảm động khi có những chị giả đau xin thuốc ký ninh, bị buộc phải uống tại chỗ, chị em giả bộ uống, sự thật thì chỉ ngậm sau đó ra ngoài nhả ra, đem về phơi khô giữ giúp cho chiến sĩ đại đội 3.


Cùng với hoạt động chiến đấu, công tác Đảng, công tác chính trị cũng được chú trọng. Các đại đội Vệ quốc đoàn, các Ban chính trị của Chi đội đã tích cực phát triển đảng. Nhiều cán bộ trong Chi đội được kết nạp vào Đảng, các đại đội đều thành lập chi bộ. Tháng 12 năm 1947, hệ thống Đảng trong Chi đội đã lớn mạnh với 114 đảng viên tiêu biểu cho hàng ngàn chiến sĩ ưu tú của Chi đội 1.


Công tác củng cố xây dựng đơn vị vững về tổ chức, mạnh về chính trị được tiến hành thường xuyên. Ban chỉ huy Chi đội đã tổ chức cho chỉ huy chiến sĩ các đơn vị học tập để nâng cao trình độ chỉ huy, trình độ kỹ thuật, chiến thuật. Nhờ đó, bộ đội đã tổ chức được những trận đánh hiệp đồng cấp tiểu đoàn, khả năng cơ động và tác chiến tập trung tiến bộ hơn trước.


Tại Hội nghị Xứ ủy tháng 10 năm 1947, Xứ ủy đặt vấn đề mở rộng và đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng lực lượng dân quân rộng rãi trên cơ sớ các đoàn thể của Mặt trận, xây dựng các đội du kích xã, xây dựng xã chiến đấu... Hội nghị quyết định thành lập hệ thống chỉ huy và lãnh đạo dân quân. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy, trực tiếp làm trưởng phòng dân quân du kích trên toàn Nam Bộ.


Thực hiện chủ trương của Xứ ủy và quyết tâm của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, cuối năm 1947, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Ủy ban kháng chiến tỉnh thành lập tỉnh đội bộ, các huyện đội bộ và xã đội bộ dân quân, lập xưởng vũ khí tỉnh và huyện. Tỉnh đội bộ dân quân do đồng chí NguyễnVăn Tiết làm tỉnh đội trưởng, các đồng chí Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Kiệp, đồng chí Trinh làm tỉnh đội phó.


Phong trào xây dựng dân quân du kích trên toàn tỉnh có bước phát triển mới. Đội ngũ dân quân ở các xã được xây dựng, phát triển rộng rãi. Phong trào toàn dân giết giặc được tổ chức và động viên mạnh mẽ. Các đội du kích xã vừa tự tạo vũ khí, vừa lấy súng giặc giết giặc. Có đội ngũ dân quân bổ sung, sức chiến đấu của bộ đội càng mạnh. Các xã đều có ít nhất 1 tiểu đội du kích, xã mạnh có trung đội du kích. Trong thị trấn, thị xã, xí nghiệp, đồn điền cao su đều tổ chức đội du kích mật. Phong trào xây dựng xã chiến đấu được phát động, tạo điều kiện cho du kích và dân quân bám trụ làng xã đánh địch.


Cuối năm 1947, trong tỉnh đã có nhiều đội du kích mạnh như Tân Tịch, Mỹ Lộc, Bình Chánh, Thái Hòa (Tân Uyên); An Thạnh, Tân Quới, Tân Phước Khánh, Bình Hòa (Lái Thiêu); Phú Hòa, Định Hòa, Hòa Lợi, Phú Chánh, Phú Hữu (Châu Thành); Thới Hòa, Chánh Phú Hòa, Long Nguyên, Thanh Tuyền, Tân Khai (Bến Cát - Hớn Quản); Chánh Hiệp, Phú Cường. Cũng trong cuối năm 1947, làng Thanh Tuyền (Bến Cát) tổ chức một tiểu đội du kích nữ gồm 13 chị do Ngô Nguyệt Thu làm tiểu đội trưởng, Liễu Thị Kim Tinh làm tiểu đội phó. Đội đã độc lập chiến đấu và tham gia đánh địch bên cạnh đội du kích nam và bộ đội địa phương tiêu diệt địch, thu được súng góp phần bảo vệ chính quyền và nhân dân địa phuơng, được đồng bào yêu thương, tín nhiệm. Năm 1948, đội nữ du kích Thanh Tuyền được nhận nhiều bằng khen, giấy khen của cấp trên. Ngoài ra nổi bật còn có các dội du kích Hoà Lân, Tân Phước Khánh, Thái Hoà. Phong trào toàn dân kháng chiến của huyện Tân Uyên được Bác Hồ tặng Bằng khen tháng 12 năm 1947.


Trên cơ sở phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích trong tỉnh phát triển cao, Chi đội 1 trở thành một Chi đội mạnh cả về chính trị, tư tưởng, về lực lượng, trang bị, vũ khí cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 phát triển lên 1.200 người, 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên. Trong quá trình chiến đấu, chiến lợi phẩm như súng đạn, quân trang quân dụng Chi đội thu được, ngoài trang bị cho các đơn vị trong Chi đội, Ban chỉ huy Chi đội còn hỗ trợ cho các xã chiến đấu.


Sau một năm cùng cả nước đánh giặc, cuộc kháng chiến trên địa bàn Thủ Dầu Một có những chuyến biến quan trọng. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp bị phá sản. Các lực lượng vũ trang địa phương không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Hệ thống dân quân du kích được xây dựng. Phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng khắp. Các căn cứ kháng chiến được xây dựng tương đối ổn định trở thành hệ thống hậu phương tại chỗ, đáp ứng được nhu cầu cuộc kháng chiến.


Bước sang năm 1948, với thất bại trong chiến dịch Việt Bắc thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược chiến tranh từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”, chuyển trọng tâm “bình định” Nam Bộ. Thực dân Pháp đã tăng thêm viện binh, điều chuyển lực lượng tập trung cho kế hoạch “bình định” ở Nam Bộ nhằm thực hiện mưu đồ “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.


Ở miền Đông Nam Bộ, giặc Pháp tiến hành xây dựng các đồn bót, tháp canh dày đặc trên các trục lộ giao thông với chiến thuật “điểm và đường” hay còn gọi là chiến thuật Đờ La-tua (De Latour). Nhiều hệ thống tháp canh được xây dựng khắp nơi, nhất là các tuyến đường chiến lược các sở cao su và cơ sở kinh tế quan trọng khác. Với số quân lên 25.430 tên (Pháp và Lê dương 5.574 tên, lính ngụy và Cao Đài 19.864 tên), chúng đóng trên 491 cứ điểm chính (không kể đến bót nhỏ)


Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương ra sức xây dựng lực lượng du kích rộng khắp, tăng cường đánh phá giao thông địch, bảo vệ các trục đường giao thông liên lạc tiếp vận của ta, tổ chức xây dựng bộ đội chủ lực Khu làm lực lượng ứng chiến cho các vùng bị uy hiếp, đồng thời khởi động với lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh bẻ gãy các cuộc càn quét và tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vùng kháng chiến.


Trên địa bàn Thủ Dầu Một, địch thực hiện âm mưu mới, mở nhiều cuộc càn quét vừa và nhỏ đánh vào các vùng căn cứ du kích của ta, đánh phá rồi đóng đồn bót bao vây vùng căn cứ, tung biệt kích đột phá bất ngờ gây cho ta rất nhiều tổn thất. Do đó, một số vùng từ cuối năm 1947 trước là vùng căn cứ nay trở thành vùng du kích như các xã phía nam quận Lái Thiêu, một nửa quận Châu Thành (Thủ Dầu Một). Cuộc kháng chiến của nhân dân Thủ Dầu Một càng trở nên khó khăn hơn. Ta cần phải đẩy mạnh các hoạt động quân sự để đẩy lùi các cuộc càn quét của địch, mở rộng vùng căn cứ của ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 07:12:10 pm »

Trên cơ sở chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích phát triển, các cấp uỷ Đảng phát động toàn dân chống càn quét, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, đánh bại các cuộc càn quét của địch, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn lực lượng ta, bảo vệ được căn cứ, hạn chế thiệt hại do địch gây ra.


Ở thị xã Thủ Dầu Một, nguy hiểm nhất là đội biệt kích do tên Ba-rát một sĩ quan Pháp hung ác khét tiếng, tự xưng là “con sư tử của Thủ Dầu Một” cầm đầu. Trên xe đạp, hắn đeo một biển nhỏ ghi “Le lion de Thủ Dầu Một”. Bộ đội nhiều lần phục kích, nhưng chưa diệt được vì nó luôn thay đổi quy luật, khi đi bộ, khi dùng xe jeep, lúc đi xe đạp... Được cơ sở và du kích cung cấp tin tức chắc chắn, đại đội 2, đội võ trang huyện Châu Thành và một tổ Quốc vệ đội bí mật phục kích ở cống Một Đồng (Phú Cường) cách chợ Thủ Dầu Một 2 ki-lô-mét. Ba-rát dẫn trung đội của hắn đi tuần tra rơi đúng vào ổ phục kích, bị ta tiêu diệt trên một tiểu đội, tên Ba-rát bỏ xác tại trận. Tên Gi-ô-văng Xi-li sau đó cũng bị đội biệt động thị xã bắt sống. Từ đó hoạt động biệt kích của địch ở thị xã giảm hẳn.


Ở khu vực Thuận An Hòa có đội biệt kích Bác-nhô. Bác-nhô nhiều lần dẫn biệt kích lùng sục, thọc sâu vào căn cứ rừng Cò My. Đại đội 1 do đồng chí Đinh Văn Cần chỉ huy cùng một tiểu đội quốc vệ đội tập kích đồn Tân Phước Khánh nhưng hắn thoát chết. Được đồng bào báo tin Bác-nhô đang lùng sục ấp Khánh Hội xã Tân Phước, bộ đội ta vận động bao vây chặn đánh diệt một bộ phận đội biệt kích nhưng Bác-nhô một lần nữa chạy thoát. Phải đến trận “Mả bịt bùng”, Bác-nhô mới bị du kích bắn chết. Từ đó đến mấy năm sau không còn biệt kích ở vùng Tân Phước, Tân Hóa và phía bắc rừng Cò My.


Ở thị trấn Bưng Cầu, đại đội 2 cùng du kích xã phục kích bắn bị thương tên quan hai Ê-mê-ni-dông và diệt nhiều tên khác, ở Bến Cát, được đồng bào và du kích Thới Hòa báo tin đồng chí Sáu cùng hai du kích đột nhập vào nhà diệt tên Sau - chỉ huy Com-măng-đô, làm đội này phải tan rã. Cùng với hoạt động diệt ác, Ban chỉ huy Chi đội còn chủ động đẩy mạnh các hoạt động chống càn có hiệu quả.


Ngày 3 tháng 3 năm 1948, một trung đoàn Âu Phi có thân binh Cao Đài đi theo từ Tân Ba, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Bến Cát tiến vào càn quét căn cứ Vĩnh Lợi - Bình Chánh - Thái Hòa - tây nam chiến khu Đ. Đại đội 1, 2 Chi đội 1 phối hợp cùng du kích các xã Thái Hòa, Bình Chánh, Vĩnh Tân, Vĩnh Lợi, Tân Hưng, Tân Hòa Khánh chiến đấu quyết liệt trên các đường chúng tiến vào căn cứ. Khi giặc đi vào sâu bên trong, chúng đã đụng phải trận địa phục kích của Đại đội 2, bị tiêu diệt gần hết. Ở phía Thái Hòa, Bình Chánh quân địch cũng bị đánh thiệt hại nặng. Kết quả chống càn ở Bình Chánh - Vĩnh Lợi, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 tên và phá hủy 1 súng cối 120 ly.


Giữa tháng 3 năm 1948, giặc Pháp mở một cuộc càn lớn vào chiến khu Thuận An Hòa. Bộ đội đại đội 1, Chi đội 1 cùng với du kích các xã Tân Phước Khánh, Thái Hòa, Bình Chuẩn, An Phú, Thuận Giao, Hòa Lân anh dũng chiến đấu. Địch quân đông, trang bị mạnh quyết bao vây để tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Nắm được chỗ yếu của địch, đồng chí Nguyễn Văn Thi - Chi đội trưởng Chi đội lúc này đang ở Phú Hòa đã tổ chức một trận đánh biệt động vào Ban chỉ huy hành quân của địch. Một trung đội ta cải trang làm lính Pháp do một hàng binh Đức đóng lon đại uý chỉ huy. Đúng 12 giờ trưa, trung đội này đàng hoàng đi thẳng vào Ban chỉ huy hành quân địch, bất ngờ nổ súng tiêu diệt hoàn toàn Ban chỉ huy hành quân gồm 1 thiếu tá, 4 đại úy, 10 trung úy. Như rắn mất đầu, bọn còn lại hoảng hốt tháo chạy.


Đây là một cách phá càn độc đáo, một cách đánh rất hiểm nhưng đạt hiệu quả chiến đấu lớn của Chi đội 1. Sau đó, quân Pháp đã dựng ở gần ngã tư đường Thủ Dầu Một - Biên Hòa và Tân Phước - Búng, nơi Sở chỉ huy hành quân địch bị ta tiêu diệt một đài chiến sĩ trận vong ghi rõ tên tuổi, cấp bậc 15 sĩ quan chết trận. Đồng bào gọi nơi này là “mả thằng Tây”.


Hoạt động chống địch có hiệu quả của Chi đội 1 trong những tháng đầu năm 1948 đã góp phần làm thất bại kế hoạch “Bình định” Nam Bộ của thực dân Pháp.

Khi lực lượng đã phát triển, thì quân giới là một trong hai vấn đề bảo đảm đặt ra một cách gay gắt nhất: lương thực và vũ khí. Vào giữa tháng 12 Ban Quân giới Chi đội được thành lập do ông Nguyễn Sanh Nhật làm Trưởng ban; ông Phan Đức Vượng và ông Nguyễn Lập Nguyệt làm Phó ban.


Thành phần của Ban Quân giới gồm cán bộ nhân viên, công nhân kỹ thuật của Đê-pô xe lửa Dĩ An, công nhân kỹ thuật, công nhân cao su, thợ thủ công, thanh niên và học sinh có trình độ văn hóa từ trung học trở lên. Ban Quân giới với nhiệm vụ thu thập, sưu tầm, sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu. Thời gian đầu, Ban quân giới Chi đội có 30 người, đóng ở xã An Sơn (Lái Thiêu) được chia làm nhiều bộ phận: văn phòng, tổ sưu tầm vũ khí, tổ tiếp liệu có nhiệm vụ vận động đồng bào ở các thị trấn ủng hộ tiền, thuốc trị bệnh, hoá chất, nhu yếu phẩm. Nhiệm vụ của Ban Quân giới rất nguy hiểm, đòi hỏi phải dũng cảm nhưng với tinh thần khắc phục khó khăn trong những ngày đầu chống Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 10 Tháng Mười Một, 2019, 07:16:27 pm »

Sau Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9- 1946), quân Pháp bội ước, mở rất nhiều cuộc tấn công vào căn cứ của ta. Ban chỉ huy Chi đội chủ trương cho ban quân giới di chuyển cơ quan và xưởng đến địa điểm khác; đồng thời phải hoàn thành nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu có cung cấp vũ khí cho bộ đội và bảo đảm an toàn cho đơn vị.


Ban quân giới - Binh công xưởng từ chỗ tập trung một địa bàn ở xã An Sơn nay tổ chức thành 2 bộ phận ở hai căn cứ xa nhau:

- Bộ phận thứ nhất bố trí ở rừng Bình Hoà, huyện Lái Thiêu. Tại đây có các đồng chí lãnh đạo Ban quân giới và một bộ phận nhỏ trực tiếp sản xuất do Nguyễn Văn Xây phụ trách. Nhiệm vụ của bộ phận này là sửa chữa vũ khí hư hỏng, “rờ sạc” đạn1 (Rờ sạc - viết theo cách nói, cách dùng từ quen thuộc của cán bộ, chiến sĩ quân giới miền Nam về một việc theo tiếng Pháp (Recharge-nghĩa là sửa chữa đạn), đúc đầu đạn súng trường... Nhờ có sự đóng góp nguyên vật liệu của nhân dân các địa phương Lái Thiêu, thị xã Thủ Dầu Một, Dĩ An, trong thời gian gần 2 năm, bộ phận này đã sản xuất phần vũ khí đáp ứng một phần yêu cầu vũ khí chiến đấu của đại đội ở Lái Thiêu và đại đội 2 ở Châu Thành.

- Bộ phận thứ hai: gồm đại diện lãnh đạo Ban quân giới và bộ phận lớn của xưởng, với hơn 60 công nhân cùng các phương tiện máy móc, vật liệu hành quân về Đồng Tháp Mười xây dựng căn cứ sản xuất vũ khí. Với quyết tâm cao, lực lượng công nhân quân giới Chi đội 1 đã lao động quên mình, chỉ sau một tháng họ đã xây dựng hoàn thành căn cứ sản xuất vũ khí. Nhằm giữ bí mật cho xưởng tránh sự đánh phá của địch, Công binh xưởng Chi đội 1 ở đây bố trí phân tán làm 4 nơi ở cách xa nhau:

+ Cơ sở 1: đóng quân trên kênh Hội Đồng Sầm, Ban giám đốc gồm Phạm Đức Vượng, Nguyễn Văn Nghiệp và năm cán bộ kỹ thuật làm việc. Đây là cơ sở trung tâm, tại đây có Ban hoá chất với 10 công nhân do đồng chí Mai Trường Cửu làm trưởng ban. Tổ thợ gò có 3 công nhân, do đồng chí Bảnh làm tổ trưởng. Sản phẩm của tổ này làm ra là các loại vỏ thuỷ lôi, vỏ Ba-zô-min...

+ Cơ sở 2: đóng quân trên đất Giồng Nhỏ, cách cơ sở trung tâm gần 5 ki-lô-mét. Cơ sở này có Ban sửa chữa với 15 công nhân, do đồng chí Tôn Đức Nhung làm trưởng ban; đồng chí Tô Ngọc Đường làm phó ban. Nhiệm vụ của cơ sở này là sửa chữa các loại súng trường của Pháp, Nhật...

+ Cơ sở 3: đóng quân trên đất gồng Manh Manh, cách cơ sở trung tâm gần 6 ki-lô-mét. Đó là ban đúc - nguội do đồng chí Ngọc làm trưởng ban và 20 cán bộ, công nhân chia ra làm các tổ. Tổ đúc do đồng chí Bạch phụ trách chuyên làm khuôn đúc các loại lựu đạn gài, nén và khuôn mìn. Tổ nguội, do đồng chí Xược làm tổ trưởng với hai máy tiện để làm đầu lựu đạn, den răng và hoàn thành phụ kiện của các sản phẩm đó. Tổ sửa chữa các loại súng có 6 công nhân, do đồng chí Lê Văn Luông phụ trách.

+ Cơ sở 4: ở xa 3 cơ sở trên, đó là Ban Hậu cần của xưởng, bao gồm các tổ: sưu tầm, bảo vệ, quân y do đồng chí Trương Văn Sự, y tá phụ trách.


Trải qua thời gian khoảng 18 tháng (từ tháng 6- 1946 đến tháng 12-1947) Ban quân giới - Binh công xưởng từ Thủ Dầu Một đến vùng Đồng Tháp Mười đã sản xuất hàng ngàn ki-lô-gam các loại vũ khí tự tạo (lựu đạn, mìn, viên đạn rờ sạc, súng hư sửa lại) chuyển về Thủ Dầu Một cùng với vũ khí tự tạo của binh công xưởng trụ lại xã Bình Hoà giao đến các đơn vị bộ đội của Chi đội 1 và lực lượng vũ trang của tỉnh chiến đấu diệt thù.


Ban Quân Y Chi đội do đồng chí Phan Văn Sổ làm trưởng ban. Cuối năm 1946 dưỡng đường đóng ở xã Phú An, Bến Cát có nhiệm vụ cứu chữa thương binh, bệnh binh. Trong những ngày đầu kháng chiến thuốc men rất thiếu thốn, cán bộ và lực lượng quân y vẫn khắc phục khó khăn cứu chữa kịp thời chiến sĩ bị thương, bị bệnh, đã tiến hành nhiều ca phẫu thuật cứu sống nhiều thương binh. Hoạt động quân y không chỉ ở phía sau mà còn bám sát bộ đội ra phía trước; Không chỉ cứu chữa thương binh mà còn cứu giúp dân nơi đóng quân, không ít trường hợp chiến sĩ quân y còn tham gia chiến đấu, tải gạo như: thầy thuốc Phan Văn Có, lúc trạm thiếu lương thực, anh đích thân lấy xe đi tải gạo và bị tai nạn gãy chân. Chị Phạm Thị Ngà hy sinh trong lúc vận chuyển dụng cụ thuốc men khi địch càn quét để lại nhiều tiếc thương cho mọi người.


Qua gần 3 năm hoạt động và chiến đấu, tiếp nối nhiệm vụ của lực lượng vũ trang địa phương, Chi đội 1 đã cùng quân và dân Thủ Dầu Một đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh và bình định Nam Bộ” của thực dân Pháp, góp phần tạo thế tạo lực, hình thành chiến trường du kích cầm chân, tiêu hao địch.


Trong quá trình hình thành và phát triển, Chi đội 1 đã thể hiện được tính tiên phong trong mọi tình huống và tinh thần chiến đấu dũng cảm được thể hiện trên các mặt: về chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quân sự bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ quan cách mạng. Chi đội 1 đã tổ chức thành nhiều đại đội chiến đấu khắp địa bàn tỉnh, liên tục đánh địch càn quét, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền, góp phần bảo vệ căn cứ đầu não Khu 7. Về xây dựng lực lượng, Chi đội luôn tự nâng cao chất lượng chính trị, xây dựng tổ chức Đảng từ chi đội, chi bộ, tổ đảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chi đội đã đóng góp một bộ phận cán bộ, chiến sĩ cho việc xây dựng lực lượng và phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn hoạt động. Việc góp sức vô hiệu hóa, tước khí giới phân hóa và làm tan rã các lực lượng cơ hội như Đệ tam, Đệ tứ Sư đoàn cũng là một đóng góp đáng kể của Chi đội vào quá trình thống nhất lực lượng vũ trang ở miền Đông những năm đầu kháng chiến. Về kỹ thuật, chiến thuật, Chi đội đã hình thành sở trường vận động phục kích đánh địch càn quét và nâng cao một bước về tác chiến hợp đồng qua hoạt động liên quân và hoạt động chống càn.


Sự ra đời và hoạt động của Chi đội 1 đã đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của lịch sử. Với bản chất là lực lượng do Đảng xây dựng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu và luôn được nhân dân đùm bọc, che chở. Trong quá trình chiến đấu xây dựng, Chi đội luôn phát huy tinh thần tự lực tự cường và gắn bó mật thiết với nhân dân. Những chiến công trong hoạt động quân sự của Chi đội từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 3 năm 1948 góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, hun đúc nên truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam, như lời Bác Hồ dạy: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cùng đánh thắng”.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM