Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:14:41 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: MacArthur, Hirohito - Cuộc đọ sức tay đôi giữa Mỹ và Nhật  (Đọc 10963 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:00:57 am »


        MacArthur không làm gì trái pháp luật nhưng sợ dư luận sẽ nhạo báng ông. Tệ hơn, người mẹ già của ông sẽ biết về mối quan hệ này. ông đã phải trả cho Isabel 15.000 đôla để cô giữ yên lặng. Ông cũng rút đơn kiện phỉ báng đối với Pearson. Cô đã cưới bạn trai và chuyển đến Hollywood. Ickes và Pearson tin rằng, MacArthur sẽ thuê người giết cô. Thực tế, vì giấc mộng trở thành ngôi sao điện ảnh thất bại và nghèo túng nên cô đã tự tử vào năm 1960 khi mới chỉ 47 tuổi.

        Roosevelt giữ thái độ trung lập với MacArthur mặc dù đáng lẽ ông có thể chớp lấy cơ hội để sa thải MacArthur khi nhiệm kỳ Tham mưu trưởng 4 năm đã hết. Tuy nhiên, ông vẫn để MacArthur phục vụ một năm nữa vì những lý do còn chưa rõ, có lẽ ông muốn làm lu mờ tiếng tăm của MacArthur trong phe hữu, hoặc muốn bổ nhiệm một người của mình kế nhiệm MacArthur.

        Tham mưu trưởng lại cãi nhau với Quốc hội khi Đức và Nhật Bản đang hiện đại hóa vũ khí. Tĩnh thế nguy hiểm của lực lượng quân đội Mỹ đã quá rõ ràng. MacArthur muốn có khoản ngân sách 361 triệu đô la và tăng quân số lên mức 40 ngàn người nhưng Cục Ngân sách đã giảm xuống còn 331 triệu đôla. Trước sự ngạc nhiên của ông, chính phủ đồng ý cấp ngân sách cho Bộ Quốc phòng đến 363 triệu đôla và đủ 40 ngàn quân nhân.

        “Cuối cùng đã có bước ngoặt!” ông thốt lên vui sướng. Ông đã có bài diễn văn từ biệt những cựu chiến binh Sư đoàn Cầu vồng mến yêu của mình:

        Họ đã chết mà không kêu ca, đòi hỏi với niềm tin trong tim rằng họ sẽ tiếp tục chiến thắng... Họ đã vượt qua màn sương mù che mắt chúng ta ở đầy và trà thành một phần của vẻ đẹp tinh thần của người lính vô danh. Trong những ngôi đền im lặng, tinh thần dũng cảm họ yên nghỉ, chờ đợi tòa án Thiên đàng ban phán quyết cuối cùng trong Ngày phán quyết. Chỉ những người xứng đáng sống thì không sợ chết.

        Roosevelt cho ông một món quà tuyệt vời để ông về hưu sớm (ông chỉ mới 54 tuổi và là một vị tướng tương đối trẻ, có khả năng gây nguy hiểm trong quân đội). MacArthur được giao chức vụ Toàn quyền Philippines. Manuel Quezon - ông bạn cũ người Philippines cũng vừa được bầu làm tổng thống Philippines. Chức vụ này đưa MacArthur vào một cái lồng vàng và ngăn cản ông can thiệp phiền hà vào chuyện chính trị.

        MacArthur cũng được đề nghị vào hai chức vụ khác: Điều hành quân đội Trung Hoa đang dưới quyền nhà độc tài Tưởng Giới Thạch và điều hành quân đội Philippines mà người Mỹ vẫn đang lãnh đạo dưới quyền của Quezon. Với lời đề nghị thứ nhất, ông thấy không thể thực hiện nhiệm vụ đưa các lực lượng quân đội của các chúa đất về làm việc dưới quyền của Tưởng Giới Thạch - người nổi tiếng có tính cách thất thường. Đề nghị thứ hai hứa hẹn một công việc ổn định cho đến lúc về hưu ở đất nước Phillippines mến yêu.

        Ông chấp nhận lời đề nghị thứ hai nhưng nói với Roosevelt rằng, ông không thể từ chức với tư cách là một quân nhân. Roosevelt đã nổi điên. MacArthur - vị tướng nổi tiếng nhất trong quân đội vẫn còn phục vụ quân ngũ và vẫn là một mục tiêu tấn công của các đối thủ chính trị.

        Tổng thống nói lời tạm biệt rất trang trọng nhưng không dùng từ ngữ nào thể hiện điều đó: “Douglas, nếu chiến tranh đột ngột xảy ra, đừng đợi lệnh để quay về nhà. Hãy lên ngay chuyến đi đầu tiên. Tôi muốn anh lãnh đạo quân đội!”.

        Tổng thống đã có một hành động nhỏ nhen độc ác ở thời điểm MacArthur rời Washington bằng tàu hỏa để đến San Francisco lên đường bằng tàu thủy, đó là bãi bỏ chức vụ Tham mưu trưởng hai tháng trước khi ông hứa và đưa người ông đề cử - tướng Malin Craig. MacArthur bị tước quyền danh dự được tiễn đưa đến Philippines với tư cách là Tham mưu trưởng và là một tướng 4 sao. Theo Eisenhower, khi nghe tin này, MacArthur đã lên án dữ dội đối với chính trị, thái độ cư xử tồi, đánh giá kém, không giữ lời hứa, kiêu ngạo, vô cảm.

        Khi đến Manila, MacArthur có nhiều thời gian để hồi tưởng về những khúc quanh của số phận. Ông đã say mê một tròng những nghề nghiệp danh giá nhất trong lịch sử và trở thành một vị Tham mưu trưởng ở độ tuổi 50. Còn bây giờ, ông đã về hưu sớm ở độ tuổi 55, khi đang ở đỉnh cao quyền lực với sự thông minh và tràn đầy khí lực để làm lính đánh thuê cho chính phủ nước ngoài (ông được hứa sẽ được trả khoản tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ 250.000 đôla, so với mức lương thực tế là 15.000 đôla cộng với 15.000 đôla tiền chi tiêu mỗi năm, thì đây là mức tăng nhảy vọt khi ông đang nhận mức lương 7.500 đôla mỗi năm và đó là một số tiền lớn vào thời điểm đó. Khoản tiền này sẽ mang lại cho ông một tương lai giàu có chứ không phải như cuộc sống không dư dả của MacArthur trước đây).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:01:40 am »


        Hơn nữa, trong khi đang thích thú với cảm giác được những người dưới quyền tôn trọng và tin rằng mình sẽ cứu được quân đội Mỹ thoát khỏi món nợ trong những năm Đại suy thoái, giờ đây danh tiếng nghề nghiệp của MacArthur đã suy sụp. Ông bị các đối thủ phỉ báng trước người dân Mỹ rằng: ông là “Người đàn ông trên lưng ngựa trắng” với thanh kiếm nhuốm máu đã trấn áp những cựư chiến binh nghèo khổ. Ông đã lãnh đạo quân đội trong những năm tồi tệ nhất của quân đội Mỹ với khoản ngân sách eo hẹp cho đến bước ngoặt năm 1936. Dường như ông không đủ dũng cảm để chống lại Roosevelt và những người bạn của mình nên phải từ chức. Ông biết dư luận xem mình là một trong những Tham mưu trưởng trẻ nhất quân đội Mỹ, nhưng cũng là một Tham mưu trưởng tồi nhất.

        Cho đến đoạn cuối sự nghiệp, MacArthur dường như là một nhân vật có hai mặt rõ rệt: Một mặt là người có tố chất lãnh đạo và trí tuệ, mặt khác, cũng là người có tầm nhìn hẹp. Một người lính có thừa dũng cảm và tài năng, nhưng cũng không làm được gì.

        Sự khoa trương, thế hiện vị thế trong chiến trận, sự lãnh đạo quân đội của ông trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất đã tạo ra hình ảnh người lính quả cảm lôi cuốn, nhưng không cho thấy được chiều sâu thực sự của con người ông. Những cải cách của MacArthur ở Học viện Quân sự West Point được phần lớn những người lính trẻ hơn thời đó ưa thích. Khả năng quan hệ công chúng tài ba cũng khiến MacArthur trở thành một nhân vật bắt kịp thời đại, nhưng lại cho thấy tính thiển cận trong tư cách của ông.

        Chức vụ Tham mưu trưởng gây tranh cãi đã đưa ông vào tình thế bị nhiều người ghét bỏ. Thái độ chống cộng vào thời điểm Đại suy thoái cho thấy ông là một người mới tập tễnh bước vào con đường chính trị. Đồng thời, hình ảnh của ông xấu đi vì cách giải quyết thô bạo, vô cảm đối với những cựu chiến binh đang khiếu nại hợp pháp và cả những người Mỹ theo chủ nghĩa tự do cũng như những người đang chịu tác động ghê gớm của thời kỳ suy thoái.

        Nỗ lực cứu vớt ngân sách quốc phòng của ông trong điều kiện bất lợi của thời kỳ nước Mỹ Đại suy thoái là đáng khâm phục và ông đáng được tin cậy vì nhận thức được các đám mây giông bão quốc tế lấp ló phía chân trời. Khi đến Philippines để nắm chức Toàn quyền, vị quân nhân kỷ luật và cố hơi hướng cực hữu đang ở giai đoạn cuối sự nghiệp này mang theo một cảm giác lố bịch.

        Đây là lúc sự nghiệp của ông đi xuống, mặc dù dưới hình thức an ủi đặc biệt là một nhà tổ chức lực lượng quân đội non trẻ ở một nước Mỹ bảo hộ. Vượt quá thành công của cha mình, ông là một trong những vị tướng trẻ nhất trong lịch sử quân đội Mỹ.

        Có lẽ, chỉ có khả năng tiên đoán của ông về cuộc chiến tranh sắp diễn ra là điều khiến ông thích thú. Vì thế mà ông đã dấn mình vào chiến tuyến của bất cứ cuộc chiến tranh nào có thể xảy ra với Nhật Bản - nơi mà vào đầu năm đó, trong một cuộc chuyển giao quyền lực đầy định mệnh, quân đội đã siết chặt ngai vàng của Hoàng đế Hirohito. Chín tháng sau khi MacArthur đến Manila, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc.

        Các vấn đề cá nhân vẫn đang còn là nỗi đau lớn nhất khi MacArthur vượt hành trình dài băng qua Thái Bình Dương. Người mẹ 84 tuổi vốn trải qua nhiều lần đau ốm nay lại bị ốm nặng và gãy tay. Bà giam mình trong căn buồng trên tàu và được Mary - người chị dâu góa chồng của MacArthur tận tình chăm sóc. MacArthur phải đối mặt với sự cô đơn cùng với sự lãng quên nghề nghiệp. Tuy nhiên trong chuyến đi đó, ông đã được giới thiệu làm quen với một người phụ nữ 35 tuổi chưa từng lập gia đình - Jean Faircloth - quê ở bang Tennessee.

        Jean Faircloth không có những nét quyến rũ ấn tượng. Cô nhỏ con, cao chỉ gần 1,6 mét, gầy guộc và miệng cười quá rộng trông như một người không bình thường. Gò má cao và xương xẩu khiến vẻ mặt cô không có hồn. Tuy nhiên, cô sống động và vui vẻ. Ngay từ đầu, cô đã tỏ ra cực kỳ hòa hợp với MacArthur. Jean Faircloth là người thông minh nhạy bén và sẵn sàng thích nghi với mọi ý nghĩ nảy ra tức thời của ông, diều mà hai người phụ nữ trước không có được. Khác hẳn với tính cách độc lập và cố chấp của Louise, cô sẵn sàng hiến dâng cho MacArthur. Khác với Isabel, cô chín chắn và thông minh, chứ không phải là một đối tượng hấp dẫn về thể xác. Cô quyến rũ, tình cảm, không hề tỏ ra lấn lướt MacArthur. Cô luôn hành động như một người phụ tá quân đội của ông.

        Bản thân cô cũng thích thú cuộc đời quân ngũ và MacArthur - một cựu Tham mưu trưởng đã khiến Jean

        Faircloth có cảm giác kính nể ngay từ ban đầu. Cô cũng có một khoản tài sản độc lập đáng kể từ số tiền thừa kế 200.000 đôla từ cha, một doanh nghiệp giàu có ở Tennessee. Jean Faircloth cũng có quan điểm chính trị bảo thủ như MacArthur.

        Có lẽ MacArthur đang cảm nhận được và sợ nỗi cô đơn ở phía trước, nên đã gặp cô thường xuyên, cùng ăn sáng trong suốt cuộc hành trình trước khi quay trở lại căn buồng người mẹ đau bệnh và ở đó cho đến hết ngày. Một tháng sau khi đến Manila, bà Pinky chết vì bị tụ huyết não. MacArthur chìm trong đau đớn và chán chường cả năm trời.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:02:42 am »


        Bây giờ, ông cần có mối quan hệ với một người đứng đắn, và người đó đang đợi ông ở một khách sạn tại Manila. Jean Faircloth là một phụ nữ có vẻ đẹp của người đàn bà tự tin, thông minh và ngưỡng mộ MacArthur. Cô tạo cho ông cảm giác được sự quan tâm, tận tình của một người con gái hoặc một người mẹ. Trong tiệc cưới ở New York vào tháng 4 năm 1937, MacArthur tuyên bố: Hôn nhân lận này sẽ kéo dài mãi mãi.

        Ông đã nói đúng. 10 tháng sau, một đứa con ra đời và được đặt tên là Arthur.

        Hai vợ chồng xây dựng tổ ấm tại tầng trên cùng của khách sạn Manila, một tòa nhà bằng gỗ tráng lệ nhìn ra Vịnh Manila.

        Cuối cùng, MacArthur cũng đã tìm thấy niềm hạnh phúc vợ chồng và Jean vui thích hòa nhập với tập quán của Manila chứ không giống như Louise. Cô cũng có khả năng chịu đựng các thói quen tâm lý của MacArthur. Ông thích thú với tư cách làm cha và nuông chiều đứa trẻ quá sức.

        Ông thả mình trong lối sống xa hoa, thích uống rượu, hút thuốc bằng những cái ống điếu được trang trí tinh tế cũng như nhiều loại tẩu bao gồm tẩu làm bằng cùi ngô nổi tiếng của mình và một điếu xì gà vào buổi tối. Đại úy hải quân Sidney Huff mô tả một hình ảnh sống động về ông:

        Đại tướng đốt một điếu thuốc, đặt xuống bàn và bắt đầu đi lui đi tới trong căn phòng. Ồng thọc tay vào túi khi bước đi, quai hàm nhô ra và bắt đầu nói với giọng rền vang. Thỉnh thoảng, ông dừng lại bèn cạnh cái bàn rộng làm bằng gỗ dái ngựa và đẩy điếu thuốc gọn gàng bèn mé cái gạt tàn, đưa mắt nhìn qua tôi. ‘‘Ông sẽ theo tôi chứ Sid?”. Ông hỏi rồi lại sải bước đi lại trong căn phòng. Có khi ông dừng lại bèn cái bàn, sắp lại hàng chục cây bút chì vẫn đang nằm gọn gàng hoặc quay ngược chúng lại và đẩy mủi bút cẩn thận vào hàng ngay ngắn. Nhưng rồi ông lại bước đi và nói to những suy nghĩ của mình.

        MacArthur nhiệt tình, tận tâm trong một nhóm ít người nhưng lại tách rời và không xã giao với người ngoài. Người Philippines tôn trọng ông, nhưng cộng đồng người Mỹ ở đây khó chịu với MacArthur vì tính không thích đàn đúm và không niềm nở với họ. Ông tỏ ra hống hách và phù phiếm. Với thời tiết oi bức của Philippines, ông thay đồ ba lần mỗi ngày để luôn trong trạng thái tươm tất. Tuy nhiên, ông cũng thể hiện tài năng quan hệ công chúng hơn bất kỳ quân nhân nào vào thời điểm đó.

        MacArthur tỏ ra tốt với bất kỳ ai có ích đối với ông, đó là những đại úy hải quân gần gũi hoặc là các nhà báo. Đối với những người khác, ông tỏ ra ghẻ lạnh mà ông tin đó là tố chất phù hợp với một người lãnh đạo tự nhiên và có trí tuệ như ông.

        Tuy nhiên, vị cựu Tham mưu trưởng gây tranh cãi vẫn chưa hết vận xui. Vì yêu thích các hòn đảo và thích thú với viễn cảnh trở thành người giàu có, MacArthur đã đặt ra cho bản thân một nhiệm vụ bất khả thi. Philippines không có khả năng phòng vệ. Khi đến Philippines, MacArthur đã nói dối Quezon về các ưu điểm của Kế hoạch Cam cũ rích. Kế hoạch này mở đường rút lui bán đảo Bataan trong trường hợp có một cuộc xâm lược có sức mạnh áp đảo với hy vọng quân tiếp viện từ Mỹ sẽ qua hỗ trợ trong vòng 6 tháng.

        Tôi hoàn toàn không đồng ỷ với Kế hoạch Cam khi lên nắm chức Tham mưu trưởng, nhưng ngay lập tức nhận ra rằng, chỉ phí thời gian thuyết phục người khác theo quan điểm của mình. Vì vậy, tôi đã đi đường tắt bằng cách tìm gặp riêng Tổng thống và nói, nếu lệnh huy động quân đội là cần thiết trong nhiệm kỳ của tôi thì bước đầu tiên là gửi hai sư đoàn từ bờ biển Đại Tây Dương qua tăng viện cho Philippines... đồng thời, tôi định bảo vệ từng tấc đất đang nắm giữ và sẽ bảo vệ thành công. Nhưng vấn đề ở đây là Kế hoạch Cam hoàn toàn là một bản tài liệu vô dụng... Người nắm quyền chỉ huy vào thời điểm này sẽ là người quyết định được các vấn đề quan trọng của chiến dịch quân sự. Nếu anh ta là một người vĩ đại, sẽ không chú ỷ đến các kế hoạch rập khuôn mà có thể bị xếp vào ngăn kéo phủ bụi ở Bộ Chiến tranh.

        Về điểm này, MacArthur đang ngớ ngẩn. Toàn bộ quân đội Mỹ chỉ có ba sư đoàn, cho nên sẽ không có chuyện tiếp viện. Tuy nhiên, kế hoạch thứ hai của ông lại có tính thực tế. Cùng với Eisenhower, ông bắt đầu thực hiện kế hoạch này. Hai người có trí tuệ thông minh nhất trong quân đội Mỹ có lẽ đã di đến quyết định thành lập một lực lượng quân đội chính quy gồm 920 sĩ quan và 100 ngàn tân binh cùng một lực lượng dân quân khoảng 40 ngàn người được huấn luyện mỗi năm, Ý tưởng này nhằm thành lập đội quân dự bị khổng lồ. Nếu các hòn đảo bị xâm lược, lực lượng này sẽ trở thành lực lượng du kích có thể quấy nhiễu kẻ thù chiếm đóng, đuổi họ ra khỏi đất nước.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:03:37 am »


        Vấn đề là lấy tiền từ đâu? Kế hoạch này tốn 80 triệu đôla, một khoản tiền vô cùng lớn đối với đất nước Philippines nghèo túng, trong khi đó Mỹ không sẵn lòng bỏ ra chi phí này. Một năm sau, chi phí đã tăng lèn 105 triệu đôla. Một khó khăn nữa là chưa có tổ chức nào để sẵn sàng bắt đầu công việc huấn luyện dân quân cho đến năm 1937. Khó khăn cuối cùng là người Philippines nói đến 8 ngôn ngữ khác nhau với 87 thổ ngữ. Những ý tưởng của MacArthur và Eisenhower không sai, nhưng dơn giản là không có khả năng thực hiện.

        Họ chỉ sai lầm ở chỗ cho rằng, quần đảo Philippines có thể được bảo vệ từ trên biển với 50 tàu ngư lôi và một nhúm máy bay cũ kỹ. Họ nhận định sai lầm không chỉ là vì không có thêm sự lựa chọn nào hơn mà còn vì đánh giá quá thấp người Nhật. Cả MacArthur và Eisenhower đều còn nhớ bài học về trận Gallipoli trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, và họ biết là các chiến dịch quân sự trên bộ và trên biển không thể tổ chức thành công.

        Họ tin rằng không thể đánh bại chiến tranh du kích. Theo các sách giáo khoa quân sự, cần phải có 100 ngàn tân binh để đánh bại 20 ngàn du kích nổi loạn, và họ xem lực lượng quân đội Nhật Bản như một trò đùa. Họ không tin là Nhật Bản sẽ phát động chiến tranh. MacArthur tuyên bố vào mùa hè năm 1937: “Tôi không đồng ý với những ai dự đoán rằng chiến tranh sắp xảy ra. Tình trạng sẵn sàng chiến đấu của tất cả các quốc gia là yếu tố vững chắc nhất để phòng ngừa chiến tranh”. Đây là lần MacArthur dự đoán dở nhất.

        Ông ta chỉ đúng khi coi Philippines có vị trí quan trọng về chiến lược. Quan điểm này của ông bị Washington bài bác khi MacArthur ngày càng trở nên gắn bó ở Philippines. Vì cha ông từng phục vụ ở đây và ông đang có chuyến công cán lần thứ tư tới nơi này, nên ông có thể bị công kích chỉ vì bảo vệ các hòn đảo này. Tuy nhiên, ông lập luận:

        Những gì tôi đang làm không chỉ đơn giản là bảo đảm an ninh cho các hòn đảo Philippines. Chúng ta đang thực sự củng cố cánh trải quá yếu kém trong hệ thống phòng thủ Thải Bình Dương của mình. Chúng ta chưa bao giờ củng cố căn cứ hải quân Mỹ ở đây và thực sự hải quân chưa thể tập trung tại nơi này. Tất cả những điều này phải thay đổi ngay. Phòng tuyến Thái Bình Dương pliởi mở rộng từ Alaska cho đến Philippines. Điều này đòi hỏi phải có một căn cứ hải quân ở Alaska. Khi việc này được thực hiện, tuyến phòng thủ Alaska - Philippines sẽ nằm trải ngang qua mọi tuyến giao thương ở Thái Bình Dương và giúp chúng ta kiểm soát những vấn đề ở khu vực Thải Bình Dương. Theo tôi, chiến tuyến cũ Alaska, Hawaii và Panama có khiếm khuyết chết người... Nó dựng nên các khu vực chiến sự tiềm tàng ở bờ biển của chúng ta và phá hủy tiềm năng sức mạnh của hạm đội.

        Bộ Tổng tham mưu Mỹ không đồng ý. Họ không xem Philippines có tính chất đặc biệt quan trọng. Nó quá xa bờ biển nước Mỹ so với Nhật Bản. Họ luôn cho rằng, quần đảo này không có khả năng phòng thủ vì có đến hơn 7 ngàn hòn đảo và có bờ biển dài hơn cả bờ biển nước Mỹ. Chỉ riêng Luzon đã có 400km bờ biển có thể đổ bộ.

        Tuy nhiên, họ cũng đã bỏ qua điểm quan trọng: Các hòn đảo của Philippines là một con ngựa thành Troa tiềm tàng trong bối cảnh Nhật Bản có thể thống trị Thái Bình Dương. Người Nhật buộc phải chiếm giữ Philippines để bảo đảm thắng lợi ở châu Á vì các quần đảo này đứng giữa những tuyến thông tin liên lạc với phía nam. Các quần đảo này cũng có thể là nơi máy bay Mỹ xuất kích để tấn công vào Nhật. Nếu Philippines rơi vào tay kẻ thù, Nhật Bản sẽ không thể phòng thủ được, về điểm này, MacArthur hoàn toàn đúng, nhưng tranh cãi về diều này vẫn kéo dài gần cả thập kỷ.

        MacArthur đơn dộc trong việc thành lập quân đội du kích trước những khó khăn do thiếu nguồn tài chính từ Washington. Ông đã tìm chỗ dựa ở ông chủ Manuel Quezon - cha đỡ đầu của bé Arthur. Ông nhận chức vụ đặc biệt thống chế từ Quezon mà chưa có quân nhân Mỹ nào từng nắm giữ trước đây (thực tế Quezon chỉ mới đề xuất). Ông mặc quần đồng phục màu đen tự thiết kế, áo trắng với dải viền vàng gắn nhiều huy chương và chiếc mũ lưỡi trai có viền vàng xung quanh hình ảnh con đại bàng. Những hình ảnh này làm nhiều người Mỹ cười nhạo MacArthur. Thậm chí, một số người nghĩ ông bị khùng. Tuy nhiên, nó lại làm cho Quezon có ấn tượng về ông.

        Tổng thống Philippines Quezon cùng với MacArthur trở về thăm Mỹ vào tháng Giêng năm 1937. Trên đường về, họ đã dừng lại ở Tokyo. Hoàng đế Hirohito đã tiếp đón Quezon với sự tham dự của MacArthur. Cuộc gặp này giống như một nghi thức ngoại giao nhưng ít được biết đến. Đây là lần đầu tiên MacArthur và Hirohito gặp gỡ nhau.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:04:49 am »

       
        Vị Hoàng đế 37 tuổi đang ở đỉnh cao quyền lực tối thượng, mặc dù phe quân đội đang nắm giữ quyền lực thực sự trong gần một năm nay. Vào thời điểm đó, Hirohito là một biểu tượng của sự kính trọng, bí hiểm, kỷ luật, với một chút vẻ trịch thượng qua tác phong nhã nhặn, hoàn hảo của ông. Chắc chắn Hoàng đế Nhật Bản coi thường Quezon vì trong mắt ông, Quezon chỉ là người đàn ông đam mê cờ bạc và sắc dục.

        MacArthur cao to, trịnh trọng, mộc mạc có thể gây nhiều ấn tượng tốt hơn, nhưng ông đã gần 60 tuổi và đã qua thời kỳ đỉnh cao của mình, không thể là một mối đe dọa đối với Nhật Bản vô địch. Trong con mắt của MacArthur, vị Hoàng đế chỉ đơn giản là một đối tượng gây tò mò, không hơn không kém. Ông xem vị Hoàng đế tối thượng này là một vị vua theo chế độ quân chủ lập hiến và Nhật Bản chỉ là một con hổ giấy về quân sự. Tuy nhiên, ông biết Nhật Bản là nước duy nhất có thể áp đặt đe dọa đối với Philippines. Sau này, ông đã viết về chuyến thăm như sau:

       Bị bao bọc trong các mảnh đất của 4 hòn đảo lớn, Nhật Bản không có khả năng nuôi số dân đang tăng trưởng nhanh. Mặc dù có một lực lượng lao động hùng hậu nhưng Nhật Bản lại thiếu nguyên liệu thô cần thiết để tăng sản lượng, năng suất. Họ thiếu đường cho nên phải chiếm Đài Loan. Họ thiếu sắt nên chiếm giữ Mãn Châu. Họ thiếu than atraxlt và gỗ nẽn xâm lược Trung Quốc. Họ chiếm giữ Triều Tiền nhằm bảo đảm an ninh. Nếu không có những sản phẩm từ các nước này, nền công nghiệp của Nhật Bản sẽ bị kìm hãm, và hàng triệu người lao động bị mất việc. Đến lúc đó, khủng hoảng kinh tể có thể xảy ra và dễ dàng dẫn đến một cuộc cách mạng.

        Họ vẫn thiếu niken và các khoáng sản của Malaysia, dầu và cao su của Đông Ấn Độ thuộc Hà Lan, thiếu gạo và bông từ Miến Điện và Thái Lan. Người ta dễ dàng đoán được ý định của Nhật Bản. Nhật Bản sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu cần thiết để thiết lập một nền kinh tế toàn cầu hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của họ. Philippines chẳng có thứ tài nguyên nào khiến họ thèm muốn ngoại trừ vị trí chiến lược quan trọng. Điều mà Quezon hy vọng là đất nước của ông sẽ tránh được sự tấn công của người Nhật. Ông được tiếp đón nồng hậu ở Tokyo nhưng mối quan hệ bằng hữu với tôi được thay bằng thải độ thù địch kín đáo.


        Hai người tiếp tục đến Los Angeles. Ngay lập tức, Quezon tận hưởng vui chơi ở New York và phớt lờ vị Tổng thống Mỹ đang giận dữ. Khi MacArthur yêu cầu phải có lời mời chính thức đối với ông và ông chủ gặp Tổng thống Roosevelt. Nhưng cuộc gặp chỉ diễn ra năm phút. Tại đó, Quezon yêu cầu trao cho Philippines nền độc lập hoàn toàn vào năm 1938. Tổng thống Mỹ nổi nóng và từ chối. Ông cho rằng, các trò hề của MacArthur ở Philippines không những buồn cười mà còn nguy hiểm và gây kích động cho người Nhật.

        Ông ra lệnh MacArthur phải từ bỏ chức chỉ huy ở Philippines và quay trở về Mỹ. MacArthur nhận được lệnh này khi trở về Manila. Ông cảm thấy sốc:

        Bức thư của ông làm tôi quá sửng sốt. Việc tôi nhận lời làm thống chế chỉ làm mình vui trong chốc lát. Xét chức vụ và vị trí của tôi, việc này chỉ đáng bị ở mức kỷ luật... Tên tuổi và danh tiếng sự nghiệp của tôi bị đe dọa chỉ vì việc này. Gần 40 năm trung thành và phục vụ tận tụy trong quân đội cũng đáng cho tôi được hưởng sự đối xử công bang và sự cân nhắc hợp lý mà quân đội chúng ta đã tuân thủ khắt khe xưa nay, ngay cả đối với tân binh.

        Ông nộp đơn xin ra khỏi quân đội vào ngày 31-12. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục phục vụ Quezon với tư cách cá nhân. Cuối cùng, Tổng thống đã để cho MacArthur từ chức và vô hiệu hóa ảnh hưởng của ông trong quân đội. Ông có thể không thừa nhận bất cứ hành động nào của MacArthur ở Philippines.

        Tuy nhiên, vào lúc MacArthur nhận được lệnh của Roosevelt, tình thế chiến lược ở vùng Viễn Đông đã xấu đi rất nhiều. Nhật Bản đã xâm lược Trung Quốc, MacArthur tin Nhật Bản còn có ý định tấn công quần đảo Philippines.

        Cuộc tấn công có hai liên can lớn khác. Quezon đang lo sợ theo dõi tình hình khi lực lượng quân đội hùng mạnh của Trung Quốc đã sụp đổ trước sức mạnh tấn công của Nhật Bản. Ông nhận thấy một sự thật ác nghiệt: Quân dự bị Philippines không phải là đối thủ của Nhật Bản vì họ không được huấn luyện tốt và trả lương thấp. Nước Mỹ không sẵn lòng chi tiền cho nền quốc phòng Philippines và đã thực sự từ bỏ các hòn đảo này. Cuối cùng, nếu muốn độc lập, Quezon chỉ có thể trông chờ vào sức mạnh phòng vệ của chính Philippines. Ông quyết định: Philippines không nên chống cự và trông cậy vào MacArthur - một người đã không còn đại diện cho nước Mỹ.

        Quezon đến Tokyo một lần nữa và đề nghị Nhật Bản cho quần đảo Philippines một vị trí trung lập. Ông phản đối chiến lược dân quân du kích của MacArthur, cho rằng điều đó chỉ chuốc lấy sự thù hận của người Nhật. Có một lần, ông từ chối gặp MacArthur. Khi được thông báo điều này, MacArthur đã nói với thư ký của Tổng thống Philippines rằng: “Một ngày nào đó, ông chủ của ông sẽ muốn gặp tôi nhiều hơn là tôi muốn gặp ông ấy”.

        Eisenhower có thể nhận biết tình thế suy tàn đang bủa vây thủ trưởng của mình. Dù luôn là một người lạc quan, ông cũng không có ý định ở lại với người bạn đang ở trên con thuyền sắp chìm. Sự nghiệp của ông sẽ bị ảnh hưởng tệ hại nếu ông ở lại với vị tướng già với chất hào hiệp viển vông, không còn phục vụ cho quân đội Mỹ và đang ở một đất nước có thể thua trận bất cứ khi nào trước Nhật Bản. Cuối năm 1939, ông rời bỏ MacArthur. Ông đã quyết định việc này từ lâu. Điều này thể hiện trong một lời nhận xét không che giấu về MacArthur:

        Không có “Con người vĩ đại” nào vì chúng ta hiểu rằng, thành ngữ đó chỉ có ý nghĩa khi chúng ta còn là những đứa trẻ. Một con người có đầu óc nắm bắt các sự kiện chính xác và nhanh nhạy, đưa ra quyết định hoàn hảo chỉ là một điều bịa đặt của trí tưởng tượng.

        MacArthur đã giận dữ trước hành động phản bội này trong suốt cuộc đời còn lại. Ông mô tả Eisenhower là “Người thư ký giỏi nhất của tôi”. Cả hai vẫn là những người bạn trên phương diện nghề nghiệp và thường xuyên trao đổi thư từ. Khi MacArthur không còn được xem là người trong quân đội ở Washington nữa, nhiều sĩ quan Mỹ đang có cơ hội được biệt phái sang tiếp quản quân đội Philippines thay thế ông, nhưng tài năng của bọn họ quá tầm thường. MacArthur vẫn chỉ huy quân đội Philippines trong nhiều năm xáo trộn sau đó.

        MacArthur dùng những người khác làm cánh tay mặt thay thế Eisenhower. Đó là trung tá Richard Sutherland - một người Mỹ có dòng dõi quý tộc nhưng cộc cằn và cứng rắn; Sidney Huff - cựu trung úy hải quân đã được thăng chức lên trung tá; đại tá Charles Willoughby - người Mỹ gốc Đức với cái tên trước đây là Karl Weidenbach -  ông nói giọng Đức đặc sệt và là người ngưỡng mộ chế độ độc tài. Những người này là các ủy viên ban chấp hành có ích, rất hiệu quả khi thực hiện lệnh của người chủ nhưng trí tuệ của họ không thể sánh bằng MacArthur. Mặc dù đã về hưu nhưng MacArthur vẫn tin rằng ông luôn đúng và hơn nữa, ông là đứa con của định mệnh. Ông từng nói với phóng viên trẻ Theodore White của tạp chí Time rằng: “Vận mệnh đã đưa chúng tôi đến đây, White ạ, đó là vận mệnh! Chúa đã đưa tôi đến đây!”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:08:24 am »


Chương 21

ĐẢO CORREGIDOR VÀ BATAAN

        Khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu vào tháng 9 năm 1939, MacArthur và Washington lẽ ra phải cảm nhận được mối nguy hiểm đang cận kề. Tuy nhiên, khi MacArthur liên tục yêu cầu Washington hỗ trợ quân sự, ông đã bị từ chối thẳng thừng. Một phần vì MacArthur không còn là tướng của quân đội, một phần là vì người Mỹ thấy rõ rằng Philippines không thể bảo vệ được, đồng thời muốn tập trung cho cuộc chiến tranh ở châu Âu.

        Thêm một năm rưỡi trôi qua. Vào tháng 5 năm 1941, MacArthur viết thư cho Geonga c. Marshall - Tham mưu trưởng mới, nói rằng ông sẽ quay về nước nếu không ai chịu giúp đỡ ông.

        Gqorge c. Marshall không khác gì những đối thủ trước đây của MacArthur từ những ngày bè phái Chaumont và Fort Leavenworth tụ tập quanh Tướng Pershing vào thời điểm Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất.

        Trước nguy cơ phải đối đầu với Nhật Bản, quân đội rõ ràng không thể bỏ qua tài năng lãnh đạo quân đội của MacArthur. Một tháng sau đó, Marshall trả lời:

        Với năng lực nổi bật và những kinh nghiệm quý giá ở Philippines, ông là sự lựa chọn hợp lý cho quân đội ở vùng Viễn Đông khi tình hình đang có xu hướng dẫn đến một cuộc khủng hoảng. Bộ trưởng đã hoãn việc giới thiệu bổ nhiệm MacArtliur vì ông nhận thấy chưa đến lúc cẩn thiết. Tuy nhiên, ông ấy ủy quyển cho tôi nói với MacArthur rằng, vào một thời điểm thích hợp, ông ấy sẽ đề xuất với Tổng thống bổ nhiệm ông. Tôi có cảm giác là Tổng thống sẽ chấp thuận đề xuất này.

        Một tháng sau đó, MacArthur đã được bổ nhiệm. MacArthur được trở lại với chức vụ trung tướng quân đội Mỹ. Cũng trong tháng đó, Nhật Bản đã đánh chiếm một phần bán đảo Đông Dương sau khi gây áp lực buộc chính quyền Vichy ở Pháp cho phép họ dẫn quân vào. Bây giờ, họ đe dọa tất cả bán đảo Đông Dương. Phản ứng của Roosevelt sau khi giao cho MacArthur phụ trách nền quốc phòng thống nhất của Philippines là: đóng băng tất cả tài sản Nhật Bản ở Mỹ và tuyên bố cấm vận đối với các mặt hàng xuất khẩu dầu hỏa, sắt và cao su vào Nhật Bản. Anh và Hà Lan cũng cấm vận đối với Nhật Bản. Người Nhật ngạc nhiên trước sự phản ứng mạnh mẽ của Mỹ. Nhật Bản chỉ còn hai lựa chọn là chấp nhận rút lui nhục nhã hoặc xâm chiếm Malaysia và Đông Ấn Độ thuộc Hà Lan để chiếm các nguồn tài nguyên này.

        Philippines đang sẵn sàng. Khi nghe tin được bổ nhiệm, MacArthur nói với Tham mưu trưởng rằng: “Tôi cảm thấy mình giống một con chó già mặc bộ quân phục mới”. Sutherland nói với ông: “Ông biết đó, bây giờ người ta lại trao thêm một nhiệm vụ bất khả thi!”.

        Tuy nhiên, Quezon rất vui mừng trước tin MacArthur được bổ nhiệm và cho rằng, Philippines cuối cùng đã có được sự ủng hộ tích cực của Mỹ. MacArthur tiên đoán Nhật Bản sẽ xâm lược vào tháng 4 năm 1942 - sau mùa mưa. Ông có 9 tháng để chuẩn bị. Tuy nhiên, quân tiếp viện của Mỹ đến quá chậm. Chỉ có 6 ngàn binh lính mới đến trong tháng 12 so với con số hứa hẹn 50 ngàn binh lính cùng với một ít đạn súng cối vô dụng và một vài xe tăng. Còn máy bay hỗ trợ như đã hứa hẹn thì không hề được đưa đến.

        Tuy nhiên, MacArthur đang tràn đầy lạc quan sau nhiều năm bị Washigton bỏ rơi, tin tưởng đến mùa xuân mọi sự chuẩn bị sẽ êm xuôi. Kế hoạch của ông táo bạo như thường lệ. Ông không hề đếm xỉa đến Kế hoạch Cam cũ rích đề xuất đường rút lui về đảo Bataan. Ông đề xuất tấn công khi kẻ thù đổ bộ xuống các bờ biển. Kho chứa hàng tiếp tế cho quân đội phải đặt ở trung tâm đồng bằng Luzon, bên ngoài Manila. Nhiều người Nhật nhập cư (thực chất là lính Nhật Bản đến do thám mảnh đất này) đã rời khỏi đây khi chiến tranh đến gần. Trong khi đó, các đoàn tàu hùng hậu của Nhật Bản vượt qua các hòn đảo và bắt đầu dàn chiến trận.

        MacArthur thận trọng cho di chuyển 35 máy bay B- 17s đang ở căn cứ không quân Clark, cách Manila 110km về phía bắc xuống căn cứ không quân Del Monte trên đảo Mindanao - nơi năm ngoài tầm oanh tạc của máy bay Nhật. Tuy nhiên, tư lệnh không quân Lewis Brereton hiểu rằng, các phi công của ông không thích sự di chuyển này vì ở đó không có nơi nghỉ ngơi. Ông đã phớt lờ mệnh lệnh cho đến khi Sutherland giận dữ mắng ông vào ngày 4-12. Brereton chỉ đưa 16 máy bay xuống phía nam.

        4 giờ sáng ngày 8-12 (tức ngày 9-12 ở Hawaii), MacArthur bị đánh thức với tin Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Ông nhận được tin Trân Châu Cảng bị “thiệt hại lớn” và việc Nhật Bản xâm chiếm Philippines trong “tương lai gần” là một khả năng rất lớn. MacArthur đọc Kinh Thánh một lúc vì quá sốc. Cũng giống như những tư lệnh quân đội khác, ông tin Hawaii không thể đánh chiếm được. Người Nhật không thể liều mạng tấn công ở đây và không thể vượt qua Thái Bình Dương mà không bị phát hiện.

        Khi các sĩ quan đang tụ tập chết lặng trong văn phòng MacArthur, Brereton cho biết ông có ý định tấn công Đài Loan bằng không quân. MacArthur chưa đến nhưng Sutherland bảo vị tư lệnh không quân hãy chờ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 16 Tháng Mười, 2019, 07:09:11 am »


        Brereton là người nhút nhát nên không thực sự cố gắng thuyết phục MacArthur. “Nhiệm vụ của chúng ta là phòng thủ nhưng phải tuân theo mệnh lệnh”, MacArthur nói với ông. Trong khi đó, tin tức báo về cho biết không quân Nhật đã tấn công tàu biển và 2 tàu tuần tra ở Davao. Máy bay chiến đấu của Nhật Bản cũng bắn phá đài truyền thanh ở phía bắc Luzon. Tuy nhiên, đến 10 giờ sáng - ba tiếng sau -MacArthur mới biết tin về các vụ tấn công này.

        Brereton đã cho máy bay B-17s cất cánh để phòng ngừa một cuộc tấn công lúc bình minh, nhưng giờ đây máy bay đã hết nhiên liệu và phải hạ cánh. Điều khó hiểu là tại sao Nhật Bản lại chưa tấn công. Cuối cùng, vào lúc 10 giờ sáng MacArthur đã ra lệnh không quân tấn công đảo Đài Loan.

        Trong khi các máy bay B-17s đang tiếp nhiên liệu, Brereton cũng đã ra lệnh tất cả các máy bay chiến đấu P-40 phải hạ cánh tiếp nhiên liệu ở sân bay Iba trong khi đáng ra nên thận trọng để một nửa số máy bay hoạt động trên bầu trời và số còn lại tiếp nhiên liệu hoặc hạ cánh ở miền nam, để tránh tầm bắn của Nhật. Tại sao MacArthur lại trì hoãn khá lâu trước khi ra lệnh tấn công? về sau, ông giải thích:

        Khi biết tin tức này, tôi vẫn có cảm tưởng là Nhật Bản đã bị đẩy lùi ở Trân Châu Cảng. Vậy nên tôi suy tính đưa một máy bay do thám lên phía bắc cùng với các máy bay ném bom có yểm trợ để nắm chắc tình hình và khai thác bất kỳ sơ hở nào ở mặt trận phía kẻ thù.

        Cũng có thể ông nghĩ Nhật Bản sẽ ban cho Philippines quy chế trung lập cho nên sẽ không tấn công Philippines. Mệnh lệnh ông ban ra đã rõ ràng: Không được phát động tấn công chống Nhật Bản từ Philippines. Nhưng điều không ai ngờ được là những mệnh lệnh này đã được soạn ra trước khi vụ Trân Châu Cảng nổ ra. Ông không cho rằng Nhật Bản và Mỹ đang đối đầu với nhau. Cũng có thể vào sáng hôm đó Quezon gọi điện yêu cầu ông không được tấn công. Tuy nhiên, bây giờ ông là một tướng của Mỹ chứ không phải là “con chó” phục vụ cho Quezon nữa. Sau đó, MacArthur cho rằng, ông chưa bao giờ có ý nghĩ tấn công đảo Đài Loan:

        Vào buổi sáng ngày 8-12 trước vụ tấn công căn cứ không quản Clark Field xảy ra, Tướng Brereton đề nghị Tướng Sutherland đột kích vào Đài Loan. Tôi không hề biết về cuộc nói chuyện giữa hai người và Brereton chưa bao giờ đề nghị hoặc gợi ý tấn công Đài Loan với tôi. Lần đầu tiền biết về chuyện này là khi tôi đọc bản tin trên một tờ báo một tháng sau đó. Nếu có đề nghị như vậy cho một vị Tham mưu trưởng, thì đó là một đề nghị quá lờ mờ và hời hợt. Nếu ông đề nghị nghiêm tức, phải gặp trực tiếp tôi. Ông ta chưa bao giờ trao đổi vấn đề này với tôi cả trước và sau khi xảy ra vụ tấn công căn cứ không quân Clark. Tập trung hỏa lực không quân tấn công đảo Đài Loan là điều không thể và là hành động tự sát, vì chúng ta chỉ có lực lượng máy bay ném bom quá mỏng, không có máy bay chiến đấu yểm trợ, khoảng cách giữa Philippines và Đài Loan không phải là gần. Trái lại, máy bay ném bom của quân địch từ Đài Loan có được sự yểm trợ từ các tàu sân bay của họ, hoàn toàn khác với tình thế của chúng ta.

        Tấn công Đài Loan không phải là một quyết định dễ dàng. Máy bay Nhật đông hơn rất nhiều so với máy bay Mỹ trong trường hợp tấn công vào Đài Loan. Chắc chắn MacArthur phải ngần ngừ suy tính rất lâu.

        Việc Nhật Bản không tấn công vào bình minh hóa ra là do sương mù bao phủ các căn cứ không quân ở đảo Đài Loan. Tuy nhiên MacArthur không biết điều này.

        Đánh giá sai lầm đã dẫn đến thảm kịch. Khi sương mù tan và máy bay Nhật cất cánh, họ kịp thời phát hiện các máy bay B-17 và P-40 đang nằm theo hàng. Khoảng 110 máy bay Nhật đã đến sân bay Iba và đánh phá 16 chiếc P-40 đang nằm trơ trọi. Ngay sau 12 giờ, 82 máy bay khác của Nhật Bản bay về phía căn cứ không quân Clark khi các phi công của Mỹ đang nghỉ trưa. Một phát thanh viên đài truyền thanh đưa các tin tức chưa kiểm chứng về việc máy bay Nhật Bản tấn công căn cứ không quân Clark làm các phi công cười ồ. Đột nhiên trên bầu trời xanh, máy bay Nhật xuất hiện giống như một cơn sấm sét. Hầu như toàn bộ phi đội B-17s đã bị bắn cháy ngay trên mặt đất. Chỉ có 2 chiếc may mắn cất cánh thoát ra Vịnh Manila. Đó là một đòn đánh choáng váng loại bỏ khả năng hoạt động của các căn cứ không quân ở phía bắc của đảo.

        Ngay sau đó, Brereton ra lệnh tất cả máy bay còn lại phải bay sang Australia và Java. Các máy bay chiến đấu còn lại đã chiến đấu chống lại lực lượng không quân hùng hậu, vượt trội của Nhật Bản. Không còn không quân bảo vệ, Phillippines như con vịt đang ngồi để không quân Nhật mặc sức tấn công. Ba ngày sau, căn cứ hải quân khổng lồ của Mỹ ở Cavite cũng nổ tung. Vào ngày 16-12, đến lượt các bến tàu Manila cùng chung số phận.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2019, 06:29:12 am »


        Trong khi tin tức cho biết 2 chiếc tàu lớn nhất của quân Đồng minh ở phía tây Thái Bình Dương là tàu chiến Prince of Wales và tàu tuần dương Repulse của Anh đã bị không quân Nhật đánh đắm. Các tàu chiến quy ước không thể hoạt động nếu không có không quân bảo vệ. Tư lệnh hải quân Mỹ ở Philippines Tom Hart đã quyết định rút hết các lực lượng hải quân còn lại rời khỏi Philippines. MacArthur cảm thấy nhục nhã. Kế hoạch phòng thủ Philippines trước đây đã vô dụng vì sau khi thảm họa xảy ra ở Trân Châu Cảng, hải quân thấy rằng, không thể duy trì tuyến đường tiếp tế cho Philippines. Vậy nên quân đội ở Philippines đã cạn kiệt hàng tiếp tế.

        MacArthur nổi khùng cho rằng, hải quân phải gửi các tàu sân bay còn hoạt động ở Trân Châu Cảng đến trợ giúp Philippines. Trong bức điện tín, ông hối thúc phải tấn công trực tiếp vào Nhật Bản:

        Sức mạnh của đại bộ phận không quân và hải quăn của đối phương đang tham gia ở các mặt trận từ Singapore cho đến Philippines và phía đông cho nên Nhật Bản đã để lộ sơ hở ở chính nước họ. Thông tin chính xác ở đây cho thấy nỗi lo sợ của Nhật Bản lúc này là sự xâm nhập của Liên Xô. Cơ hội tốt nhất đã xuất hiện. Tấn công ngay lập tức Nhật Bản từ phía bắc không chỉ gây thiệt hại nặng cho Nhật Bản mà còn giúp giảm áp lực mà Nhật Bản đang dồn vào các mục tiêu ở phía nam. Tấn công không quân vào các mục tiêu ở Nhật Bản không chỉ giúp tập trung sức mạnh không quân đang bị phân tán rộng mà còn có thể phá hủy các tuyến cung cấp dầu của Nhật Bản. Đây là cơ hội vàng để thực hiện một đòn đánh thông minh vì đối phương đang dính vào các chiến dịch không quân ban đầu trải rộng.

        Đây là chiến thuật thông minh, nhưng hải quân đã làm ngơ. Sau cú sốc Trân Châu Cảng, Washington không dám mạo hiểm sử dụng các tàu sân bay quý giá và quyết định bỏ mặc Philippines. Sau khi bị phá hủy một phần lực lượng không quân, MacArthur đã bị cho về hưu chứ không còn là vị tướng oai nghiêm nữa.

        Trong khi chờ đợi Nhật Bản đổ bộ xâm lược Philippines, MacArthur đã khảo sát tất cả lực lượng đổ nát còn lại. Các hệ thống phòng không đã bị phá hủy. Các hòn đảo bị phong tỏa đường biển và hải quân đã bỏ chạy. Ông đã phải bỏ ra hơn 6 năm để xây dựng lực lượng phòng thủ Philippines, nhưng lực lượng dân quân vẫn chưa được huấn luyện đầy đủ. Bây giờ lực lượng này đã mất hết tinh thần.

        Ông không tránh khỏi trách nhiệm đã để xảy ra các thảm họa ở các căn cứ không quân Iba và Clark, khả năng kém cỏi của Brereton và vận xui cũng là những yếu tô góp phần gây ra các thảm họa này. Nguyên nhân chính là từ các nhà hoạch định quân sự của Mỹ, vì họ đã tiếp viện quá ít và quá chậm mặc dù MacArthur đã nhiều lần khẩn nài.

        Thất bại của Philippines đang hình thành một Trân Châu Cảng hoặc một Singapore thứ hai. MacArthur đã 61 tuổi và chứng kiến thất bại lớn nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

        Ngay lập tức, MacArthur đánh giá mối nguy hiểm đang đe dọa các lực lượng của ông. Nếu Nhật Bản đổ bộ ở Luzon thì lực lượng quân đội 70 ngàn người của ông - quân số vượt trội nhưng khó có thể ngăn chặn cuộc đố bộ này. Nhật Bản có xe tăng và máy bay. Bây giờ MacArthur không còn máy bay lẫn tàu chiến có thể ngăn chặn cuộc đổ bộ. Ông không có gì hơn ngoài những tân binh. Hai tuần sau vụ Trân Châu Cảng, Philippines chờ đợi bị “thi hành án” trong khi Nhật Bản thực hiện một số vụ đổ bộ nghi binh. MacArthur cho rằng Nhật Bản thực hiện các cuộc đổ bộ này nhằm chia cắt lực lượng của ông. Xui xẻo hơn, 12 tàu ngầm còn lại trên các đảo không làm ảnh hưởng gì tới các tàu chiến Nhật Bản ở vịnh Manila, vì các thủy lôi và ngư lôi không nổ.

        Vào ngày 22-12, 80 tàu Nhật Bản chở 20 ngàn lính đổ bộ xuống bãi biển ở Vịnh Lingayen - phía bắc Manila. Hai ngày sau đó, thêm 7 ngàn quân Nhật đổ bộ ở Vịnh Lamon. Quân Nhật định sử dụng chiến thuật gọng kìm để bóp chặt Manila.

        Giờ đây, thời gian chờ đợi đã hết và MacArthur phải đưa ra quyết định sáng suốt nhất. Từ lâu ông đã nhận thấy rằng, đưa những dân quân chưa có kinh nghiệm vào một trận chiến mở ở đồng bằng Luzon là hành động điên rồ. Quân của ông sẽ bị xe tăng và máy bay Nhật nghiền nát. Phía Nhật Bản nghĩ là MacArthur sẽ đào chiến hào để bảo vệ Manila. Tuy nhiên, MacArthur đã không làm như vậy vì thấy biện pháp này cũng vô ích.

        Ông ra lệnh cho hai cánh quân ở phía bắc và phía nam Luzon phải rút lui về bán đảo Bataan để cầm cự cho đến khi quân tiếp viện đến. Kế hoạch Cam cũ rích và không được đánh giá cao đã được áp dụng. Vào khoảng 2 giờ chiều của ngày ll Giáng sinh, MacArthur ra lệnh cho Quezon phải rút đi ngay lập tức về pháo dài Corregidor, một hòn đảo nằm cách mũi bán đảo Bataan khoảng 3 cây số.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2019, 06:29:56 am »


        Ông và gia đình đã lặng lẽ tổ chức đón lễ Giáng sinh sớm cho bé Arthur. Sau đó, họ đã thực hiện hành trình kéo dài 5 tiếng băng qua gần 50 cây số trên Vịnh Manila. Khi đi trên biển lặng, họ có thể nhìn thấy khói của hàng trăm ngọn lửa đang thiêu rụi các kho đạn được và đồ tiếp tế. Kho chứa dầu lớn ở Cavite cũng đang cháy phừng phực, bốc lên những ngọn khói dày đặc. Họ đã chủ động thiêu hủy chúng để tránh rơi vào tay quân Nhật.

        Đó là một mùa lễ Giáng sinh khác thường. Khi đến Corregidor, MacArthur đã đặt bản doanh ở Topside, căn nhà dành cho sĩ quan nằm trên ngọn đồi Malinta.

        Từ đó, ông đã chỉ đạo qua điện thoại một trong những cuộc rút lui tuyệt diệu nhất trong lịch sử từ trước đến nay. Khó khăn lớn nhất là các lực lượng của ông đã được chia thành hai cánh quân. Nếu cánh quân phía bắc rút lui quá nhanh, quân Nhật đang tiến vào có thể chặn và cắt đứt cánh quân phía nam, không cho cánh quân này đến được Bataan. MacArthur đã chỉ đạo Tướng Jonathan Wainwright vị chỉ huy cánh quân phía bắc xây dựng một phòng tuyến, đợi quân Nhật đến đông rồi tấn công chúng. Sau đó, cánh quân phía bắc rút lui 16km và xây dựng một phòng tuyến khác. Bằng cách này, họ có thể làm chậm bước tiến quân của Nhật Bản mà không tốn nhiều thương vong. Trên đường rút lui, khoảng 180 chiếc cầu đã bị cho nổ phá hủy.

        Tướng Masaharu Homma, tư lệnh quân đội Nhật Bản đã tiến quân vào như MacArthur dự tính nhưng bị các phòng tuyến chặn của cánh quân phía bắc chặn lại. Chỉ chờ có vậy, cánh quân nhỏ hơn ở phía nam đã tranh thủ rút về Bataan.

        Ngay cả người hay chỉ trích gay gắt MacArthur - Tướng Jack Pershing cũng phải khâm phục ông và gọi đây là một kiệt tác: một trong những cuộc di chuyển quân vĩ đại nhất trong lịch sử quân sự của mọi thời đại.

        Hai cánh quân bao gồm cánh quân phía bắc 28 ngàn người và cánh quân phía nam 15 ngàn người, cách xa nhau hơn 250km đã gặp nhau tại cầu Calumpit. Họ đã mất hai ngày để vượt sông sau đó cho nổ cây cầu này. Sau đó, họ tiếp tục băng qua một con sông khác ở Layao và cũng đã cho nổ cây cầu nơi đây vào ngày 6-1-1942. Lúc này, 80 ngàn quân đã rút về an toàn ở bán đảo Bataan, bao gồm 5 ngàn quân Mỹ và 65 ngàn quân Philippines. Ngoài ra, còn có 26 ngàn người dân chạy nạn. Manila trở thành một thành phố bỏ ngỏ.

        Người Nhật quá sửng sốt. Họ tưởng phải chiến đấu để chiếm Manila. Bộ tham mưu Nhật Bản ở Tokyo đã cho rằng “Các tư lệnh quân đội Nhật Bản đã không thể điều chỉnh để thích nghi tình thế mới”. Đây là cuộc rút quân chiến lược vĩ đại của MacArthur. Nhiều người nằm trong cuộc rút quân xuất sắc này không nhận biết được rằng, đáng ra họ đã phải bỏ mạng nếu như chờ quân Nhật đến để chiến đấu.

        Mặc dù vậy, MacArthur có thể bị chỉ trích thậm tệ về việc: Hai tuần lễ trước khi quân Nhật đổ bộ, thay vì cho chuyển hàng hóa và lương thực dự trữ về bán đảo Bataan, ông đã mặc kệ để theo đuổi chiến lược của mình. Khi đó ông vẫn còn có không quân trong tay và sẵn sàng tấn công quân Nhật khi họ đổ bộ. Do đó buộc phải rút lui, ông đã không thể mang theo hết được hàng hóa và lương thực dự trữ. Giờ đây, người cư trú trên bán đảo Bataan quá đông đúc nhưng lương thực thiếu hụt trầm trọng, chỉ đáp ứng được một nửa.

        Ba ngày sau đó, Nhật Bản thực hiện vụ không kích đầu tiên xuống Topside gần 4 tiếng đồng hồ. MacArthur đội chiếc mũ quân sự vải mềm bình tĩnh quan sát tình hình cho đến khi một anh lính liên lạc cầm mũ sắt chụp lên đầu ông và kéo MacArthur nằm xuống bên cạnh một hàng rào. Một mảnh bom xé nát bàn tay của người lính và một mảnh khác làm mẻ chiếc mũ sắt.

        Khi căn nhà của ông bị phá hủy, MacArthur buộc phải ẩn nấp dưới đường hầm sâu ở Malina do chính mình xây dựng. Mỗi lúc có máy bay không kích, đường hầm này trở nên quá đông đúc, mất vệ sinh và rất bất tiện. MacArthur kiên quyết dành phần lớn thời gian ở trong một căn nhà bên ngoài đường hầm.

        Người thích nghi với hoàn cảnh mới giỏi nhất lại là bé Arthur, 3 tuổi. Những người lính trêu đùa gọi cậu bé là “Trung sĩ”. Cậu bé cứ vui vẻ đi lên đi xuống hầm và hát bài “Khúc quân hành của nền Cộng hòa” hoặc ré vang: “Máy bay ném bom, máy bay ném bom!”.

        Trong khi đó, trận chiến thực sự diễn ra ở mặt trận phòng thủ của Bataan. Quân Nhật đã đánh sứt mẻ lực lượng quân Philippines và quân Mỹ.

        Đó là một cuộc chiến ác liệt, nhưng những người phòng thủ vẫn cầm cự được. Lực lượng đồng minh được phân tán ra ở bán đảo thành Quân đoàn số 1 dưới quyền chỉ huy của Wainwright và Quân đoàn số hai dưới quyền chỉ huy của Tướng George Parker. Có một khoảng trống giữa các sườn núi chính của Bataan mà Wainwright nghĩ là đối phương không thể xuyên qua được. Tuy nhiên, 500 quân Nhật đã vượt qua và Tham mưu trưỏng Sutherland đã sai lầm khi ra lệnh cho Wainwright rút lui bỏ lại pháo binh phía sau. Quân Nhật đã đổ bộ đằng sau lưng cả hai cánh quân. Wainwright đã thực hiện các cuộc tấn công vào hai vị trí đổ bộ của quân Nhật.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2019, 06:40:03 am »


        Trong suốt những ngày nằm trong vòng vây, MacArthur vẫn chứng tỏ sự dũng cảm khác thường. Trợ lý Huff của ông đã viết về chuyện này:

        Mọi người cố gắng thuyết phục tướng MacArthur tránh xa lối vào cửa hầm hoặc ít nhất phải mang mũ sắt khi mảy bay không kích. Ông ấy chẳng thèm quan tâm đến lời khuyên của chúng tôi. Chúng tôi dựng các cột điện lớn và cột lại với nhau bằng dây cáp dọc theo lối vào hầm để ngăn ngừa quân Nhật lao mảy bay tự sát đàm xuống lối vào. Chúng tôi cũng dựng các bức tường ở một góc cửa hầm để ngăn ngừa bom lọt vào trong hầm làm kích nổ kho đạn và nổ tung toàn bộ hầm. Tuy nhiên, MacArthur vẫn bước ra bên ngoài quan sát với vẻ đôi lúc tức giận, đôi lúc khinh bỉ những chiếc mảy bay quân địch dang bay trên đầu.

        Ông cũng làm quân lính rất khó chịu với những tuyên bố nghe rất kêu. Ông vẫn tiếp tục điệp khúc chiến thắng sai lầm:

        Tướng MacArthur nhận được những báo cáo liên tục từ nhiều nguồn tin đáng tin cậy cho biết trung tướng Masaharu Нотта, tư lệnh quân đội Nhật Bản ở Philippines đã rạch bụng tự sát theo nghi thức Harakiri. Theo tin tức đưa về, tang lễ của vị tướng quá cố sẽ tổ chức vào ngày 26-2 ở Manila. Một chi tiết buồn cười và thú vị là sự kiện tự tử và tổ chức tang lễ đều diễn ra ở cùng một địa điểm tại khách sạn Manila - nơi tướng Mac Arthur từng ở trước khi sơ tán khỏi Manila. Quân và đồ tiếp tế từ Mỹ đang trên đường đến. Hàng ngàn binh lính và hàng trăm máy bay được gửi sang. Thời gian chính xác lực lượng tiếp viện đến chưa xác định được, vì họ phải chiến đấu trên đường đi để vượt qua các chiến tuyến của Nhật Bản. Điểu cấp bách là quân đội của chúng ta phải cầm cự cho đến khi quân tiếp viện đến nơi.

        MacArthur lo lắng Homma đã xáo tung căn hộ của ông ở khách sạn. Điều gây tranh cãi nhất là ông từ chối đến thăm Bataan nhiều lần. Vào ngày 10-1, bất kỳ ai hỏi ông về quân tiếp viện, ông đều trả lời: “Quân tiếp viện chắc chắn đang đến. Chúng ta phải cầm cự cho đến lúc đó”.

        MacArthur không quay trở về Bataan chắc chắn không phải vì thiếu cam đảm, mà vì không thể chịu nổi khi phải nói với quân lính đang âu lo rằng, ông đã sai lầm. Quân tiếp viện vẫn chưa lên đường. MacArthur không nói dối về việc tiếp viện mà chính là đối thủ của ông, Tổng thống Franklin Roosevelt.

        Khả năng nói dối của Roosevelt lần này quá xuất sắc. Tham mưu trưởng - Tướng George Marshall bảo đảm với MacArthur vào tháng Giêng rằng:

        “(Roosevelt và Churchill) đang muốn triển khai sức mạnh nhanh chóng ở Viễn Đông để phá vỡ ưu thế của quân địch ở Philippines... Hy vọng lớn nhất của chúng ta là việc triển khai không lực vượt trội ở Malaysia Barrier sẽ cắt đứt hệ thống liến lạc của quân Nhật ở phía nam Borneo và cho phép mở một cuộc tấn công vào phía nam Philippines. Các máy bay ném bom 4 động cơ trước đày bị kìm hãm do thời tiết xấu đang lên đường. Hôm nay, một nhóm mảy bay ném bom khác sẽ xuất phát từ Hawaii để tổ chức tấn công ở các chiến trường mới trên đảo. Hai nhóm mảy bay ném bom hạng trung tầm xa và hạng nặng sẽ xuất phát vào tuần sau. Các máy bay cường kích cũng đang đến trên những tàu sân bay mà chúng ta có thể sử dụng. Không quân tiếp viện của ta và của Anh sẽ giúp chúng ta sớm nắm ưu thế ở vùng tây nam Thái Bình Dương. Chúng ta phải tập trung sức mạnh để tạo ra sức tác động quyết định đối với hải quân Nhật và buộc họ phải rút lui về hướng bắc... Mỗi chiến thắng là mỗi bước đi quan trọng giúp tập trung sức mạnh áp đảo cần thiết để đạt mục đích của chúng ta. Hơn nữa, các cuộc hội nghị hiện tại ở Washington... được khuyến khích tăng tốc giành thắng lợi cuối cùng.

        Thực tế, một số tàu tìm cách vượt qua sự phong tỏa của quân Nhật để đưa hàng hóa tiếp tế đến Bataan. Có ba chiếc tàu vượt qua được nhưng cũng chỉ tiến được vào phía nam Philippines. Không một tàu và máy bay của Mỹ nào có thể đến được Bataan. Chỉ có một ít tàu ngầm vượt qua mặc dù các tàu chiến của Mỹ lúc nào cũng có thể vượt qua được vòng phong tỏa Đại Tây Dương của Hitler.

        Washington cho rằng, bỏ rơi Bataan là đúng và chấp nhận sự thất bại. Tuy nhiên, hải quân Mỹ quá thận trọng nên chưa bao giờ thử vượt qua vòng phong tỏa của Nhật Bàn.

        Nếu đồ tiếp tế đến được đảo Bataan, quân của MacArthur có thể cầm cự lâu dài. Họ chưa bao giờ bị đánh bại trong chiến tranh. Quyết định của Mỹ bỏ rơi 80 ngàn quân là một sai lầm nghiêm trọng. Bộ Chiến tranh chắc chắn đã không quyết định đúng dù dựa trên các cơ sở quân sự. Sau khi nhận ra đã bị bỏ rơi, Quezon điên tiết nói về Roosevelt: “Hãy đến nghe tên vô lại này đi! Đồ khốn kiếp! Nước Mỹ đau đớn quằn quại trước số phận của người anh em xa ở châu Âu nhưng đứa con gái của nước Mỹ là Philippines lại bị hãm hiếp ngay ở phòng phía sau!”.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM