Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:16:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: MacArthur, Hirohito - Cuộc đọ sức tay đôi giữa Mỹ và Nhật  (Đọc 10966 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2019, 11:20:31 am »


        Vì thế, ở vào tuổi 25, Douglas MacArthur lần đầu tiên chạm mặt với điều được xem là vận mệnh của ông. Chuyến đi là một cơ hội lớn cho chàng trai trẻ khi chỉ mới bắt đầu sự nghiệp quân sự của mình để gặp gỡ những vị vua lớn nhất trong vùng. Ấn tượng của ông khi đặt chân đến vịnh Edo là 10 ngàn ngôi nhà gỗ nằm dọc hai bên bờ sông và núi Fuji như hình cái nón khổng lồ. Tuy nhiên, chuyến đi đã khơi dậy một cảm xúc thật lãng mạn trong lòng chàng trai trẻ:

        Chúng tôi đi ngang đường đến Afghanistan, gặp “Vua của Kliyber”, ngài BincLon Blood; chúng tôi đi theo đường Grant Trunk ở Kipling’s Kim. Qua hành trình này, chúng tối đã nhìn thấy điểm mạnh và yếu của hệ thống thuộc địa, luật và mệnh lệnh được thực thi như thế nào, tuy nhiên hệ thống này đã thất bại trong việc phát triển cộng đồng kèm theo đó là những thứ thiết yếu về giáo dục và kinh tế chính trị. Chúng tôi đã sát cánh với hàng triệu người bị thiệt thòi về quyền lợi sống, họ khống biết gì về sự khác nhau giữa thế giới tự do và thế giới nô lệ. Điều duy nhất mà họ mong muốn chính là có được một ít thức ăn để no bụng, một cái áo lành lặn hơn để che tấm thân và một mái nhà chắc chắn hơn.

        Đến Nhật Bản, ông “gặp tất cả những nhà chỉ huy đại tài người Nhật: Oyama, Kuroki, Nogi và Đô đốc Heihachiro Togo. Họ đều là những người ít nói và xa cách một tinh thần thép và mục tiêu kiên định. Đó là lần đầu tiên tôi chạm trán với những chiến binh Nhật Bản dũng cảm và gan dạ. Sự tôn thờ sùng kính đối với Nhật Hoàng làm tôi có ấn tượng sâu sắc”.

        Chàng trai trẻ chính thức được diện kiến vị thần sống, Hoàng đế Nhật Bản, Mutsuhito, ông nội của Hirohito. Ông cũng gặp hai nhà chỉ huy tài ba trong cuộc chiến Nga - Nhật, hai người đàn ông đặc biệt, Tướng Maresuke Nogi và Đô đốc Heihachiro Togo, sau này là những người phò tá Hirohito. MacArthur đã không gặp hoàng tử nhỏ.

        Như vậy, viên trung úy đứng đầu lớp tại West Point, con trai một trong những chỉ huy lỗi lạc nhất của quân đội Mỹ giờ đây được ưu ái ra nước ngoài trên những chiếc tàu chiến của Mỹ, đi thăm các quốc gia chính thể chuyên chế và lãnh đạo là các Hoàng đế phương Đông. Trở về Mỹ, tầm hiểu biết của ông được mở rộng rất nhiều, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá cho Tổng thống.

        Chàng trai trẻ MacArthur đã rất ấn tượng về vị Tổng thống quyền lực nhất này:

        Với một mức độ chưa từng xảy ra, bất chấp đảng, ông có được sự ủng hộ của quần chúng. Sự cường tráng, lòng dũng cảm, tràn trề sinh lực, sự thân mật của ông với mọi loại người, kể cả hành động và cách phát biểu của ông đều rất thuyết phục.

        Ông rất quan tâm đến quan điểm của tôi về vùng Viễn Đông và thường nói chuyện với tôi. Một lần, tôi đã hỏi ông rằng: ông cho là quần chúng yêu mến mình vì điều gì. Ông trả lời: “Hãy tìm hiểu những gì nằm sâu trong tim và trong đầu họ. Anh phải biết lắng nghe quần chúng”. Khi tôi cảm thấy tức giận về sự phê bình hoàn toàn không có căn cứ của ông, ông đã nói: “Tôi thích mọi người nói tốt về tôi, tuy nhiên tôi sẽ thích hơn nếu họ nói xấu, còn hơn là không nói ra tất cả”.

        Một nhân vật khác, người cũng gây sự chú ý cho tôi chính là chủ tịch Hạ viện, Joe Canon. Tôi có thể ngồi và quan sát ông bằng đôi mắt ngưỡng mộ khi ông đe dọa và chi phối các nhà đứng đầu lập pháp. Tuy nhiên, ông cũng là người tử tế, khi tôi nài nỉ sự cân nhắc nhiều hơn đối với những bộ lạc da đỏ. Một tối, tôi đang thi hành nhiệm vụ đặc biệt tại Nhà Trắng trong suốt bữa tối mà Tổng thống dành cho chủ tịch Hạ viện. Trình tự là tập trung khách ở Phòng Đỏ, sau đó đưa họ đến gặp Tổng thống ở Phòng Xanh. Tôi đã đưa Tổng thống đến пơi quen thuộc của ông, sau đó mới chuẩn bị đón khách. Chủ tịch Hạ viện bị vây quanh bởi một nhóm người và ông đang nói hùng hồn. Tôi biết Tổng thống đang đợi và ba lần cố gắng len vào mà không thành công. Cuối cùng, trong sự tuyệt vọng, tôi đã đẩy mạnh hai ngài đại sứ và một thượng nghị sĩ, rồi chạm khuỷu tay ngài chủ tịch Hạ viện và nói: “Thưa ngài, bẫy giờ Tổng thống sẽ tiếp ngài”. Ông nhìn tôi trừng trùng từ trên xuống dưới, sau đó thổi khói từ điếu xì gà đen to tướng luôn ở trên miệng và quát vào mặt tôi: “Ồng ta chết đi”. Trong sự vui sướng của mọi người ngoại trừ tôi, ông tiếp tục bài diễn thuyết của mình.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:48:02 pm »


Chương 10

NHỮNG ĐAU KHỔ KHÔNG NGUÔI

        Viên đại úy trẻ cư xử giống như thái tử ở một số vương triều. Kiêu ngạo, ông đã bỏ bê việc học tại trường Kỹ thuật quân sự ở Washington. Sĩ quan giám sát ông nhận xét:

        Tôi xin lỗi khi báo cảo rằng trong suốt thời gian này, đại úy MacArthur dường như không còn hứng thú với việc học tại trường và các bài tập nói chung không bằng những sĩ quan sinh viên khác và không đạt mức tối thiểu để có thể chấp nhận được. Thật ra, qua thời gian đại úy MacArthur còn ở dưới sự giám sát của tôi, nhìn chung, anh ít có lòng hăng say và công việc gần như kém hơn so với thành tích ở West Point.

        Là bạn của một trong bốn tổng thống vĩ đại nhất thế kỷ 20, sánh vai cùng những người đàn ông quyền lực nhất nước Mỹ, ông còn đối thoại với các vị Hoàng đế và vua chúa, cũng như đã tốt nghiệp vào loại giỏi nhất ở West Point sau Tướng Lee. Ông được đề cử một chức vụ nhỏ ở Milwaukee nơi ông cảm tưởng như sự nghiệp của mình đang xuống dốc thảm hại. Ông đã lơ là nhiệm vụ để dành thời gian cho cha mẹ. Cha ông cảm thấy không thật sự thoải mái khi bị về hưu sớm và gia đình không mấy vui vẻ. Đối với MacArthur, ông muốn sớm tìm kiếm một sự thay đổi. Sĩ quan chỉ huy nhận xét rằng ông đã không thực hiện nhiệm vụ với thái độ hài lồng.

        Với một sự nghiệp quân đội không mấy khả quan, mẹ ông đã tìm cho ông một công việc thông thường. Nhưng cuối cùng ông vẫn quyết tâm với ước mơ của mình: được đề bạt làm người chỉ huy đơn vị nhỏ nhất ở Fort Leavenworth, Kansas, cùng đơn vị mà cha ông đã lãnh đạo vào năm 1885. Đây cũng là nơi mà 23 năm trước Douglas bắt đầu di học. Suy cho cùng đây hoàn toàn là sự xuống dốc đối với ông khi nhận nhiệm vụ ở một nơi xa xôi hẻo lánh và gần như bị những người khác từ chối.

        Ở vào tuổi 28, ông không còn là một gương mặt trẻ hứa hẹn nhất trong đội ngũ quân đội Mỹ. Dưới con mắt của những sĩ quan trẻ, ông là một người thích ăn diện, hợm hĩnh. Đại úy Robert Eichelberger nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy ông, “Đứng khá xa mọi người và trông thật ngạo mạn”. Trung úy George Marshall không thể chịu dựng nổi ông, đó là nguyên nhân của sự thù hằn không bao giờ chấm dứt và Marshall đã có những tác động tai hại đến sự nghiệp của MacArthur.

        Bộ trưởng Chiến tranh William Howard Taft đã vượt qua kẻ thù cũ, Arthur MacArthur, để giữ chức vụ Tham mưu trưởng. Năm 1909, người lính dũng cảm, tài năng nhưng nóng tính và kiên quyết này đã xin về hưu. Ông đã gây ra sự náo động bằng cách công bô rộng rãi rằng chiến tranh với Đức là không thể tránh khỏi và rằng lực lượng vũ trang Mỹ không nên chấp nhận tân binh Đức. Ông còn tuyên bố trước răng, “Người Mỹ không thể giữ được lãnh hải nếu không nhanh chóng tấn công vì Nhật Bản đang tổ chức để chống lại chúng ta”. Tổng thống Roosevelt đã khiển trách ông.

        Ông cũng cay đắng nói với vợ rằng mình không muốn những nghi thức trọng thể của quân đội khi chết và không muốn được mai táng tại nghĩa trang quốc gia Arlington. Thật khó phán đoán xem nhà chỉ huy thông minh, tài năng này có bị gạt bỏ vì những lý do chính trị hoặc ông đã có hơi điên rồ, mất trí hay không. Một sự nghiệp quân sự xuất sắc đã kết thúc trong sự thất vọng và khó chịu, điều này đã ảnh hưởng đến đứa con trai dễ bị tổn thương của ông. Cả cha mẹ và bản thân Douglas đều đang đối mặt với sự thất bại đầu tiên trong sự nghiệp.

        Kết quả là sự chia ly đã xảy ra giữa họ và chuyến trở về miền Tây yêu dấu trong thời thơ ấu của Douglas như một cách khiến ông nguôi ngoai phần nào. Từ một kẻ huênh hoang, ông đã trở thành một anh chàng cao bồi miền Tây, với tài cưỡi ngựa, một người chỉ huy và bạn tốt của những sĩ quan khác, ông đã thay đổi, trở thành người chơi pôlô cừ khôi, rất giỏi chơi bài xì phé và là người quản lý tinh ranh của đội bóng chày Fort Leavenworth, gian lận bằng cách mua hai cầu thủ chuyên nghiệp người Texas với giá 20 đôla để giao đấu với Câu lạc bộ thành phố Kansas. Ồng còn là một sĩ quan giỏi thực hiện công việc hậu cần và kỹ thuật đồng thời viết nhật ký chiến trường. Trên hết, ông còn rất tuyệt vời trong việc khai thác các điểm mạnh của binh lính dưới quyền.

        Quả là thời gian dài đối với viên đại úy không còn trẻ, hơn 4 năm, gợi lại những năm tháng ở vùng hoang vu của cha ông. Nó chỉ chấm dứt khi ông thực hiện chuyến đi ngắn đến vùng kênh đào Panama và sau đó là chuyên thăm ngôi nhà thời thơ ấu của mình ở San Antonio, Texas.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:49:54 pm »


        Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, ông nhận được tin mẹ bị bệnh nặng. Sau đó thì điều bất hạnh đã xảy ra. MacArthur kể lại câu chuyện cuộc gặp mặt hàng năm lần thứ năm mươi của trung đoàn cũ Wisconsin thứ 24, trung đoàn mà cha ông từng chỉ huy leo lên đỉnh Missionary khi ở tuổi 17. Hôm đó, ngày 9-5-1912 thật oi bức và ngột ngạt, và Arthur MacArthur bị bệnh:

        Có khoảng chín mươi người đến dự, họ ngồi quanh chiếc hàn trong Hội trường lớn kể những câu chuyện chiến tranh củ và hát những bài hát ngày xưa. Sau đó, vị chủ tọa đã ghé thăm cha tôi. vẫn thẳng thắn và oai vệ, ông nhắc lại những ngày đã qua, một lần nữa họ thay đổi trận địa ở Murfreesboro, băng qua nhánh sông Cây Đào ở Atlanta, tiến đến gần trận tuyến bị chọc thủng ở Franklin. “Một trung đoàn bất khuất”, ông tiếp tục, và sau đó ông nói một cách ngập ngừng, gương mặt trở nèn tái mét, cuối cùng ông nằm xuống. William J.Cronyn, sĩ quan quân y của trung đoàn, chạy đến bèn ông.

        “Các bạn, vị Tướng của chúng ta đang hấp hối”, ông nói ngắn gọn.

        Trong giữa căn phòng, đức cha Paul B. Jenkins bắt đầu lặp lại lời cầu nguyện của Chúa. Sau đó, chín mươi binh lính, những người từng theo ông leo lên đỉnh Missionary và xuyên qua làn lửa của mười hai chiến trường, sát cánh cùng vị chỉ huy cũ, đã bước vào. Khi lời cầu nguyện kết thúc, ông đã chết. Viên sĩ quan phụ tá, đại úy Edwin Parsons, lấy lá cờ quấn quanh vị Tướng. Đại úy Parsons đứng im lặng trong chốc lát, nhìn trân trân vị chỉ huy đã chết, sau đó ngã nhào về phía trước và chỉ hai tuần sau, ông cũng qua đời.

        Cả thế giới của tôi đã thay đổi trong đèm hôm đó. Không bao giờ tôi có thể hàn lại vết thương trong tim.


        Douglas đã không thổi phồng quá mức: Sự nghiệp của cha ông là diều duy nhất có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời ông, còn mạnh hơn cả sự tác động của mẹ. Mặc dù Douglas đã cho thấy giá trị của ông ở Fort Leavenworth, nhưng vẫn không thể sống theo những mong muốn của cha. Tình hình của mẹ ông ngày càng trở nên xấu hơn và bà đã đến sống với ông tại Fort. Bệnh tình của mẹ đã khiến ông trở nên mất tập trung hơn.

        Ông được cứu nguy bởi sự thất bại trong bầu cử của kẻ thù Taft, và bất ngờ ông được triệu về thủ đô, được đề bạt làm thành viên của ban tham mưu dưới Tướng Leonard Wood. Khi ông rời Fort Leavenworth, thượng sĩ Corbett đã nói một câu mà có lẽ quý hơn bất kỳ thứ gì khác, “Này chàng trai, hãy là một nhà quân sự có tài”. Ban tham mưu được xem là đầu não của quân đội và Wood chính là Bộ trưởng Chiến tranh dưới thời Tổng thống Mỹ mới, Woodrow Wilson thuộc đảng Dân chủ, người đã được bầu khi Teddy Roosevelt đang thất vọng về tính xoàng xĩnh của người kế nhiệm ông. Kẻ thù cũ của nhà MacArthur, William Howard Taft lại một lần nữa chạy đua cho chức tổng thống, vì thế việc bỏ phiếu của đảng Cộng hòa bị tách làm hai. Giờ đây, Taft đã thất bại, MacArthur đang có một cơ hội khác.

        Washington đã tạo điều kiện phù hợp hơn để Douglas có thể chăm sóc mẹ. Tuy nhiên, trong vòng vài tháng, ông nhận được lệnh từ Tướng Wood làm báo cáo về cuộc khủng hoảng bất ngờ: Người Mỹ đã chiếm thành phố Veracruz ở Mexico vào tháng 4 - 1914 để chống lại việc thâu tóm quyền lực của Tướng Victoriano Huerta, người đã thực hiện cuộc tàn sát chống lại người Mỹ ở phía nam của biên giới... Dường như cuộc chiến tranh với Mexico đã được phát động. Những hướng dẫn bí mật của MacArthur để thăm dò và thu được “tất cả các thông tin có ích cho các hoạt động”, gồm cả cuộc tấn công chính của Mỹ vào Mexico. Rõ ràng dây là một nhiệm vụ được đặt ra để kiểm tra chàng sĩ quan trẻ.

        Trở lại ban tham mưu, ông lại tìm thấy chính mình qua những mệnh lệnh của vị lãnh đạo trẻ tuổi, thông minh và nghiêm chỉnh, phụ tá Bộ trưởng hải quân, Franklin D. Roosevelt, nhằm chuẩn bị kế hoạch động viên trong trường hợp Mỹ bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh đã bùng nổ ở châu Âu. MacArthur được cấp trên khen ngợi như là “Một sĩ quan có tâm hồn cao thượng, tận tâm, có năng lực, là sự lựa chọn hoàn hảo cho những nhiệm vụ yêu cầu tài ngoại giao và cực kỳ thông minh”.

        Ông rất hợp với vị Bộ trưởng Chiến tranh mới, Newton D. Baker, người khen MacArthur có một “Đầu óc nhạy bén và tự do”. Baker giao cho ông “Nhiệm vụ kiểm duyệt báo chí”, sĩ quan quan hệ quần chúng, và ông đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Kinh nghiệm này là một trong những lợi thế lớn nhất của MacArthur trong cuộc sống sau này: Khả năng quan hệ quần chúng. Trước đa số những người cùng thời, ông đã hiểu được tầm quan trọng của hình ảnh, của việc lôi kéo tin tức, và hạn chế những sai lầm trước công chúng. Luôn tạo dáng và chỉn chu khi lên báo, ông thấy đó như một phương tiện để bảo đảm hình ảnh của mình theo hướng có lợi cho cuộc bầu cử. Kể cả sau này ông bị cho rằng chỉ đơn thuần là một người đàn ông PR tài năng. Tuy nhiên, hơn nhiều nhà lãnh đạo quân sự vào thời đó, ông đã nhận ra rằng quan hệ quần chúng là cần thiết để đề cao và phô trương những thành tích của mình trước công chúng. Nó cũng hợp với bản tính kiêu ngạo của ông.

        Vào ngày 6-4-1917, Mỹ tuyên bố tham gia chiến tranh tại Đức, 2 năm sau khi những chiếc tàu buôn của họ bị đánh chìm; chiếc Lusitania là chiếc cuối cùng. MacArthur tham gia một phần trong việc giới thiệu kế hoạch và sau đó được hỏi quan điếm của ông về việc đội quân quốc gia Mỹ có nên tham chiến hay không. Ông đã có cuộc họp kéo dài gần một giờ với Bộ trưởng Chiến tranh Baker và Tổng thống Wilson. Tướng William A. Mann được bổ nhiệm làm chỉ huy sư đoàn và MacArthur được thăng chức đại tá. Ông quyết định tham gia vào bộ binh. Trước khi rời Washington, MacArthur nhận được tin Tướng Frederick Funston, tổng chỉ huy quân đội Mỹ tại Veracruz và được chỉ định làm lãnh đạo lực lượng viễn chinh Mỹ tại Pháp, đã chết, ông phải báo lại tin này cho Bộ trưởng Chiến tranh.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:50:57 pm »

   
Chương 11

SƯ ĐOÀN RAINBOW

        Ngày 19-10-1917, ông cho tàu đi ngang qua U-boat, tiến vào Đại Tây Dương với 27 ngàn quân của sư đoàn Rainbow trong nhiệm vụ đầu tiên.

        Cuộc sống trên tàu thật mới lạ và rất dễ làm nản lòng những người chưa quen. Không gian chật hẹp, tù túng và mỗi người chỉ được phép lên boong tàu 45 phút mỗi ngày. Đai cứu đắm bị mòn. Tàu rất tối vào ban đêm, không ai được đốt lửa. Đó là một cảm giác rất thật khi dò dẫm quanh boong tàu trong bóng tối.

        Sau 10 ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi chỉ được ở 4 ngày tại nơi đến, St. Nazaire. Sau đó, tất cả sĩ quan lại tiếp tục công việc của mình. Không khí giống như mùa đông và biển lạnh ngắt. Chúng tôi lại di chuyển vào trong lòng biển. Tất cả các tàu đang đi ngoằn ngoèo, một hải lý mất một giờ. Thuyền trưởng Hasbrouk không bao giờ rời khỏi đài chỉ huy. Ba ngày đã được đánh dấu, những ngày dài dường như một tuần. Chúng tôi có hơn 24 giờ để an toàn khi vô tuyến điện thông bảo rằng, chúng tôi sẽ bị tấn công bởi những chiếc tàu ngầm của kè thù.

        Khi màn đêm buông xuống, tôi lên đài chỉ huy, tuy nhiên không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì cả. Chúng tôi chỉ có thể nghe thấy giọng của hoa tièu trưởng: “Bảnh lái trái, bánh lái phải”. Thật ảm đạm, tuy nhiên tôi đã cảm thấy một ánh sáng rực rỡ trong tim khi biết rằng chiếc Chattanooga, được chỉ huy bởi anh trai tôi, thuyền trưởng Arthur MacArthur, đã ra khỏi đó trong một đoàn hộ tống đang quan sát chúng tôi. Cuối cùng, cảm ơn Chúa, tôi đã nhìn thấy những tia nắng của hòn đảo Belle. Chúng tôi đỗ tại St. Nazaire: một ý nghĩ lờ mờ đầu tiên của chúng tôi về nước Pháp.

        Bằng cách xoay chuyển 45 độ tài tình, chiếc Covington đã tránh khỏi những chiếc tàu ngầm, tuy nhiên khi chạy ra, họ đã làm đắm tàu.


        Họ bị mắc cạn cách St. Nazaire 65km, nhưng nhanh chóng được đưa vào bờ sau đấy trong cơn mưa lạnh, ở độ tuổi 37, sau những vinh quang trong sự nghiệp và sự xuống dốc, số phận đã cho MacArthur một cơ hội thứ hai. Mann, một sĩ quan cấp cao ở sở chỉ huy hiện đang đảm nhận vai trò quan trọng cảm thấy khó ở và nhanh chóng xin từ chức. Người kế nhiệm được nhắm đến là MacArthur. Ông nhất định không vấp ngã lần nữa. Ông có một lợi thế lớn so với người sĩ quan đồng nghiệp: Được thừa hưởng sự gan dạ khác thường từ cha.

        Tuy nhiên, đó là vài tháng trong tâm trạng thất vọng, huấn luyện binh lính đằng sau phòng tuyến trong cái lạnh thấu xương của mùa đông nước Pháp với quần áo và chăn màn không đủ ấm. Phòng tuyến này gần với sở chỉ huy Mỹ ở Chaumont. Ngay lập tức, ông đã nổi tiếng về sự tỉ mỉ và sâu sắc. Trợ lý sau này của ông đã viết:

        Vào buổi sáng, ông làm việc rất sớm. Một mình, ông viết lại các ghi chú trên mảnh giấy và sau đó cùng gặp gỡ ban chỉ huy để bàn luận. Ông hỏi ý kiến chúng tôi, và hầu hết tất cả đều tán thành với ông. Lúc nào cũng vậy, kế hoạch mà ông đưa ra luôn bao gồm điều kiện tốt nhất và những tình huống xấu nhất. Ông rất kỹ trong việc tổ chức và tài giỏi trong việc hoạch định kế hoạch.

        Ông va chạm với viên sĩ quan thông minh nhất làm việc cho Pershing, đối thủ cũ của ông tại Fort Leavenworth, George Marshall.

        Quan tâm đến quan hệ quần chúng, ông đã đưa kinh nghiệm của mình vào thực tế khi được phép đi cùng binh lính trong cuộc giao chiến đầu tiên bên cạnh người Pháp, một cuộc tấn công ban đêm vào phòng tuyến của Đức trong tháng 2 năm 1918. Đó là một trận nhỏ rất phổ biến ở mặt trận Tây Âu, trườn lên phía trước từ những chiến hào lạnh, ngang qua vùng đất không người, tiếng nổ của lựu đạn ném bằng tay là hiệu lệnh tấn công, một cuộc tấn công nhanh vào các chiến hào của địch kết thúc bằng một quả lựu đạn tay được ném vào tiền đồn cuối cùng của người Đức. Đến sáng, ông đã bắt được 600 tù binh, bao gồm cả đại tá người Đức, MacArthur đã được binh sĩ Pháp đón tiếp bằng rượu apxin và cognac. Ông được trao tặng huân chương chiến công Pháp và Sao bạc của Mỹ.

        Ngoại trừ tính can đảm thì việc dẫn đầu những đội quân của ông là khác thường đối với một sĩ quan cấp cao như vậy, và khiến những đồng nghiệp sĩ quan chỉ huy chuyên ngồi bàn giấy của ông rất bực bội. Quần áo khác lạ của ông cũng là điều đáng chú ý nhất về cuộc đột kích: ông mặc một chiếc áo len cổ lọ, quần ống túm và ủng kỵ binh. Trên đầu là chiếc mũ “Trứng” nổi tiếng thay cho mũ sắt, miệng ngậm chiếc tẩu xinh xắn. Trong tay ông, thay vì súng lại là roi da. Bộ trang phục còn có chiếc khăn dài hơn một thước, một món quà từ mẹ ông. Khi ông quay trở lại, với sự ngụy trang cổ lỗ trên mặt và một cái lỗ dưới mông của chiếc quần ống túm bị cào rách do dây thép gai, trông còn lạ thường hơn. Ngay lập tức, ông được báo chí phong tước hiệp sĩ “Beau Brummel của lực lượng viễn chinh Mỹ”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:53:24 pm »


        Tất nhiên, sự lựa chọn quần áo như một lời tuyên bố. Băng cách không đội mũ sắt hay mặt nạ phòng độc và kể cả không mang súng, MacArthur muốn cho thấy rằng ông đã chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với những rủi ro lớn hơn, rằng với họ, nguy hiểm cũng không phải là diều kinh hoàng. Ông cũng muốn thể hiện rằng ông là một kỵ binh lãng mạn trong thời đại của chiến tranh hiện đại và thực tế hơn, ông muốn binh lính có thể nhận ra mình từ xa đúng như vai trò của ông là người chỉ huy.

        Đối với đa số sĩ quan trong ban chỉ huy, những người chưa bao giờ đi cùng đội quân của họ ra mặt trận, ông chỉ là một người phô trương, và là một người tạo ra gương xấu bằng cách coi thường các quy định như không đội mũ sắt và mặt nạ phòng dộc. Hơn nữa, những vị chỉ huy cấp trên không nên tự đặt họ vào nguy hiểm. Chắc chắn đây là một yếu tố khác biệt trong cách ăn mặc của MacArthur. Ông thích cho mọi người thấy rằng mình đã cân nhắc kỹ về diều đó; và ông theo kiểu cấp tướng của thế kỷ 18. Tuy nhiên báo chí rất thích thú, họ đặt cho ông biệt danh: “Công tước chiến đấu” và “D’Artagnan”.

        Sau kinh nghiệm đầu tiên nơi mặt trận, ông đã đủ tự tin để chỉ huy sư đoàn Rainbow vào trận chiến trong đêm ngày 9-3. Khi người Đức bắt đầu bằng 40 khẩu đại pháo, ông đã trèo lên thang leo tường pháo đài.

        Đạn nổ bùng ra giống như lò luyện kim nóng hừng hực. Trong chốc lát, tôi cảm thấy bọn chúng không đuổi theo mình nữa. Tuy nhiên tôi đã sai lầm khi nghĩ như vậy. Chúng dang ở quanh tôi và cả phía trước nữa, một loạt tiếng gầm của binh lính. Chúng tôi đã tiếp cận vị trí quân thù.

        MacArthur được trao huân chương cống hiến xuất sắc. Mười ngày sau ông gặp nạn: bị trúng khí độc nặng đến nỗi thị lực bị đe dọa.

        Sau đó, trong cùng tháng, khi ông dần hồi phục, người Đức đã mở cuộc tổng tấn công để đánh chiếm Paris. Sư đoàn Rainbow vội vã đi gấp để giúp người Pháp bảo vệ thành phố. Trong 82 ngày, MacArthur viết “Sư đoàn gần như chìm vào trận chiến liên tục”. Trở lại sở chỉ huy, ban sĩ quan của Pershing nói xấu ông, cuối cùng tổng tư lệnh đã ghé chỗ ông và mắng mỏ một cách công khai những binh lính dưới quyền ông là “Đám tiện dân ô trọc”. Tuy nhiên tại Washington, Newton Baker Bộ trưởng Chiến tranh, là người ủng hộ đã đọc được những kỳ công của MacArthur trên báo và dưới áp lực từ bà Pinky dáng kính, đã công nhận vị đại tá một cách đầy thuyết phục bằng cách thăng cấp cho ông lên thiếu tướng.

        Lúc này, cuộc tấn công của người Đức đã đạt đến đỉnh điểm, sư đoàn Rainbow đã di chuyển sang phía Tây để kết hợp cùng quân đội thứ tư của Pháp bảo vệ con đường đến Chalons. Ngay lập tức, MacArthur bị ấn tượng bởi vị chỉ huy người Pháp, Tướng Henri Gouraud. Ông đã trình bày một mưu kế mới để đánh bại người Đức: Ông sẽ bỏ trống những hầm hào phía trước, sau đó lên đường cùng một nhóm “Các đội cảm tử quân” để làm dấu hiệu kháng cự và cảnh báo sự tiến lên của quân Đức. Sau đó, các tay súng Pháp sẽ bắn từ phía sau, nhắm chính xác vào quân Đức khi họ tiến lên chiếm các hào hầm của Pháp ở phía trước. Vào ngày 15-7, người Đức đã tấn công: Khi họ chiếm các hầm hào, khoảng một ngàn tay súng đã bắn vào họ. Quân Đức buộc phải rút lui và cuộc tấn công lớn cuối cùng của chúng đã thất bại.

        MacArthur lại được trao một huân chương Sao Bạc khác. Tuy nhiên tâm trạng của ông lại khó tả:

        Vài đêm sau đó, nhóm chúng tôi đã nâng cốc chúc mừng chiến thắng ở Chalons. Chúng tôi uống rượu và hát bài “Mademoiselle of Armentieres”. Nhưng tôi cảm thấy thiếu một thứ gi đó. Có thể là do nhìn thấy những thân thể đau quằn quại hay mùi hôi thối của xác chết vẫn còn trong mũi tôi.

        Người Đức đã phải rút lui cùng với sự truy đuổi của quân Đồng minh. Họ bố trí quân ở chỗ dốc và trong các khu rừng, dàn trải súng máy và súng cối sau những bức tường đá.

        MacArthur tả lại quang cảnh chết chóc:

        Không khí chết chóc bao trùm khắp mọi nơi. ít nhất gần hai ngàn xác chết nằm ngổn ngang. Tối nhận ra huy hiệu của 6 sư đoàn hùng mạnh nhất của Đức. Mùi hôi thối bốc lèn ngột ngạt. Không còn một cái cây nào cả. Tiếng than van và kêu la của những người bị thương vang vọng khắp mọi nơi. Tiếng súng bắn tỉa nghe vo vo như đàn ong dữ vỡ tổ. Tôi nhẩm đếm thấy có khoảng một trăm khẩu súng mọi kích cỡ bị gãy và nhiều súng mảy bị bỏ rơi.

        Bỗng một tia sáng lóe lèn rồi vụt tắt. Phía trước chúng tôi là ba tên người Đức đang đứng: tên đại úy đang chỉ trỏ bằng cánh tay băng bó, tèn trung úy nằm vắt qua khẩu súng máy và tên hạ sĩ ngực đeo băng đạn. Ném quả lựu đạn lên trước, không có gì. Đến quả thứ hai cũng vậy. Chúng tôi đã đợi, đợi cho đến khi không thể chờ được nữa. Họ vẫn không di chuyển. Họ không bao giờ di chuyển. Họ đã chết, tất cả đều chết. Chúng tôi để họ ở đó chỉ vì họ là những người đàn ông dũng cảm đã chết trong khi thực hiện nhiệm vụ cho tổ quốc của mình.


        Ông lại được trao tặng huân chương Sao Bạc thứ tư. Sư đoàn Rainbow tiếp tục tiến lên phía trước, bắt 10 ngàn tù binh. MacArthur, người giờ đây đã nhận được Sao Bạc thứ năm, thấy răng thị trấn của Metz không được bảo vệ. Nhờ điều này, ông tin rằng mình có thể cắt ngang đường tiến công của Hindenburg và đánh thẳng vào nước Đức. Ông được lệnh không được hành động. Đấy là lần đầu tiên và chưa phải là lần cuối cùng ông bực tức về việc những người lãnh dạo ở sở chỉ huy rất xa trận địa lại được quyền ra quyết định.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:54:45 pm »


        Tạm thời ẩn náu trong một lâu đài gần đó, ông phát hiện nhiều lương thực bị bỏ lại sau khi quân Đức rút lui. Một quả đạn cắm xuyên qua sân cạnh nơi ông ăn trưa, ỏng nói, “Nước Đức không thể chế tạo quả đạn có thể giết chết MacArthur. Mọi người hãy ngồi xuống đây cùng tôi”. Ông bảo những viên sĩ quan đang nằm dài trên sàn.

        Sự tiến công của người Mỹ đã bị chặn đứng bởi lửa từ đỉnh những ngọn đồi Coté de Chatillon. Viên sĩ quan chỉ huy của ông đến: “Hãy chiếm Chatillon cho tôi, hoặc danh sách của 5 ngàn tên tử trận”.. MacArthur nói: “Được thôi, thưa Ngài, chúng tôi sẽ chiếm lấy nó”. Ông đã tiến lên phía trước dưới làn lửa hừng hực. Đoàn quân gồm 1.450 quân và 25 sĩ quan nhưng chỉ còn 300 quân và 10 sĩ quan sống sót khi ngọn đồi được đánh chiếm. Bản thân MacArthur lại bị trúng khí độc trong khi tấn công. Baker đặt cho ông cái tên “Vị tướng tiền tuyến vĩ đại nhất” và đề cử MacArthur nhận huân chương danh dự, thay vì Huân chương Chiến công xuất sắc lần thứ hai.

        Quân đội được lệnh tiến đến Sedan. Chính vì mệnh lệnh khó hiểu từ sở chỉ huy do Colonel Marshall ra lệnh nên một quân đoàn Mỹ đã va chạm với một đội quân khác, suýt nữa thì hai bên đã đánh nhau. Sau bữa ăn ngon miệng trong một quán trọ. “Ông chủ quán ăn không có gì ngoài khoai tây nhưng đó là một bữa yến tiệc mà ông bày ra trước mắt tôi. Mọi người được phục vụ năm món khác nhau: xúp khoai tây, khoai tây hầm, khoai tây nấu kem, salad khoai tây và kết thúc băng món paté khoai tây. Có lẽ tôi đã không ăn trong 36 giờ, nhưng bữa ăn đó là bữa ngon nhất mà mình được thưởng thức”. Nghe đoàn quân đến gần vị trí của mình, MacArthur rời khỏi giường, mặc bộ trang phục thường mặc, và ông gần như bị bắt làm tù binh bởi những người lính do đại úy Black chỉ huy. Tuy nhiên người này đã nhận ra chiến sĩ nổi tiếng nhất của nước Mỹ.

        Gauraud gọi ông là “Sĩ quan tài giỏi nhất mà tôi từng biết”. Tướng Menoher, sĩ quan chỉ huy của ông, nói:

        MacArtliur là một chiến binh dũng cảm nhất trong quân đội này. Tôi e sợ rằng chúng ta sẽ mất ông. Với chiếc mũ và cái roi da, mỗi khi xung trận, MacArthur đều tiến lên phía trước. Ông là nguồn cảm hứng lớn nhất cho binh sĩ của mình, những người luôn tận tụy và hết lòng vì ông.

        Từ việc đề bạt của Menoher, MacArthur được bổ nhiệm làm chỉ huy của 26 ngàn quân khi ông 38 tuổi với cấp bậc thiếu tướng. Tuy nhiên, với tuyên bố đình chiến vào ngày 11-11, mọi sự đề bạt đều bị hoãn lại.

        Sư đoàn Rainbow được lệnh tiến công vào Đức với vai trò của lực lượng chiếm giữ. Tại Rhineland, ông đã chiếm được tòa lâu đài tại Sinzig, cách Bonn 40km về phía nam. Do kiệt sức và hậu quả của khí độc từ trận chiến trước nên ông bị ốm cùng với nhiễm trùng họng và sau đó lại bị bệnh bạch hầu. Nhưng MacArthur cũng đã vượt qua được bệnh tật.

        Tại đó, ông đã tổ chức buổi họp trong bộ trang phục là chiếc áo len màu nâu sờn rách và chiếc quần đùi. Một họa sĩ được gọi đến và vẽ chân dung ông dưới ánh sáng của ngọn nến.

        Chàng trai MacArtliur giống như người hùng điển hình trong truyện anh hùng hiệp sĩ lịch sử. Ông có thể dễ dàng bước ra khỏi những trang sách của quyển “Tù binh của Zenda” hay “Rupert của Hentzau”. Trông ông như người dưới 30 tuổi... Ông gầy, làn da sáng, ngón tay khít và dài, luôn chỉnh tề... Ông là chàng trai thông minh, một người nói giỏi và biết lắng nghe, đã lãnh đạo sư đoàn 42 chiến thắng. Ông rất nhanh nhạy trong động tác lẫn đầu óc.

        Hoàng tử xứ Wales đã ghé thăm và dự đoán rằng quân Đức sẽ tấn công lại. MacArthur cũng có cùng ý kiến. Khi Hiệp ước Versailles được ký kết, ông nói, “Đây là hiệp ước của chiến tranh không dứt chứ không phải của sự hòa bình vĩnh cửu”. Không đầy 3 năm sau, Hoàng gia Anh với vai trò chủ nhà đã đón tiếp Hirohito trong chuyến viếng thăm chính thức của ông đến Anh quốc.

        Vào tháng 3, MacArthur được trao tặng DSM trước toàn thể sư đoàn Rainbow và những tháng sau đó, ông đi tàu đến New York.

        Chúng tôi đã có chuyến du ngoạn tuyệt vời đến Leviathan. Tôi đã ở trong một căn hộ trị giá 5.000 đôla gồm 4 phòng ngủ và 3 phòng tắm. Nó khiến tôi thay đổi phòng vào mỗi tối.

        Chúng tôi đến New York vào ngày 25, tuy nhiên chỗ nào đón tiếp như họ đã nói? Ở đâu có đám đông tụ họp reo hò khi chúng tôi xuất hiện? Không, không có gì giống như thế. Một thằng nhóc hỏi chúng tôi là ai và khi chúng tôi nói là sư đoàn 42 nổi tiếng, nó lại hỏi chúng tôi đến Pháp chưa?

        Trong sự im lặng, chúng tôi đi bộ xuống bến tàu. Không có sự chào đón nào dành cho những người lính chiến đấu; không ai muốn xem chúng tôi duyệt binh; không ai muốn nghe kể về chiến tranh. Và những kẻ trục lợi! Ôi Chúa! Những kẻ trục lợi! Một cuộc sống đắt đỏ! Paris chắc chắn là nơi xa hoa nhất. Tôi củng thấy rằng quần ảo có giả rất cao, rất cao. Nhưng trông chúng thật đẹp.


        Một buổi dạ tiệc được tổ chức với niềm vinh dự của MacArthur tại Waldorf Astoria.

        Tôi mặc bộ quân phục. Tôi đang nhảy và chủ khách sạn bước đến bèn tôi. Ông ta nói ở đây không cho phép mặc như thế này lên sàn nhảy. Tôi nói: “Ông biết tôi là ai không?” Ong ta trả lời: “Biết chứ, thưa ngài”. Vậy là tôi phải dẫn bạn nhảy đi và chúng tôi rời khỏi sàn. Tôi không bao giờ đặt chân đến nơi đó một lần nữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:56:10 pm »


Chương 12

NGƯỜI QUẢN LÝ ĐA TÌNH

        Không như nhiều sĩ quan đồng nghiệp, phần lớn là những người ít được biết đến, những thành công trên chiến trường của MacArthur đã tạo nhiều thuận lợi cho ông. Tham mưu trưởng mới của quân đội, tướng Peyton c. Mack, giao cho ông một công việc có thanh thế. Đó là quản lý trường West Point với yêu cầu đem lại sức sống mới cho Học viện. Với thái độ ngạc nhiên và vui mừng, MacArthur đã chấp nhận và chính thức nhận nhiệm vụ mới vào tháng 7 năm 1919. Ông và mẹ đã chuyển đến ở trong ngôi biệt thự dành cho người quản lý. Đã 20 năm kể từ lần đầu tiên ông bước chân vào học viện này. Một anh hùng chiến tranh bằng xương bằng thịt, trông ông trẻ hơn nhiều so với tuổi 39.

        Tính cách khác thường của MacArthur đã sớm gây ấn tượng trong cái học viện ngột ngạt này: Ồng rất tự nhiên, thân mật, không câu nệ đối với các nghi thức cũng như những quy định nhỏ nhặt và có một trí thông minh tuyệt vời. Người phụ tá của ông, Thiếu tá William Ganoe, phác họa lại chân dung của MacArthur:

        Tính cách gây ấn tượng nhất chính là sự tự tin kiến định và sự tự chủ đáng ngạc nhiên của ông. Tôi đã gặp những người đàn ông quả yên lặng hoặc dửng dưng như thể họ không hề có cảm xúc. Tuy nhiên, MacArthur không như vậy. Giọng nói, cải nhìn hay đi đứng đều chứa đựng sự mãnh liệt... Dáng đi và thái độ rất thảnh thơi nhưng không hề có sự lơ đễnh. Ông có tố chất của một nhà chỉ huy thiên tài, một nhà chỉ huy khiến bạn ngưỡng mộ từ xa. Với sự động viên của mình, ông khiến mọi người làm việc chăm chỉ hơn trước đây chỉ vi lòng trung thành, sự ngưỡng mộ và sự tôn kính dành cho ông.

        Sự tuân lệnh là điều mà người lãnh đạo có thể chỉ huy được, tuy nhiên lòng trung thành là một điều gì đó rất mơ hồ mà rất khó có được. Tuy nhiên, theo bản năng, MacArthur biết làm thế nào để có được nó. Trong ông có một sự trái ngược. Ông lãnh đạo mà không ra lệnh. Tồn tại trong ông là cả người quý tộc lẫn kẻ bình dàn.


        MacArthur rất thẳng thắn trước yêu cầu cải tổ và cũng nhìn xa trông rộng đối với những việc mà ông đề nghị: “Kỷ luật không còn yêu cầu những biện pháp khắc nghiệt. Nhìn chung, mọi người chỉ cần được biết phải làm gì, hơn là bị ép buộc bởi nỗi sợ về hậu quả của sự thất bại... Sự ứng biến sẽ là khẩu lệnh. Những điều kiện bị thay đổi như vậy sẽ đòi hỏi một sự biến đổi giúp sĩ quan có được những đức tính chủ yếu của quân đội như ngày xưa, ngoài ra con có sự cảm thông chân thành với đồng đội, sự hiểu biết về thế giới và các nhiệm vụ của đất nước, cũng như một sự tổng quát hóa về quan niệm. Tóm lại, tất cả đều nhằm thay đổi tâm lý của anh ta khi ra lệnh”.

        MacArthur đề nghị một loạt các thay đổi cơ bản: Nhiều môn học hơn trong chương trình giảng dạy, nhiều liên hệ với thế giới bên ngoài hơn, bãi bỏ các lề thói phức tạp trong các kỳ cắm trại hè, đưa vào các trò chơi bắt buộc đối với mọi học viên. “Từ việc xung đột, các học viên sẽ hiểu nhau nhiều hơn và đấy chính là những hạt giống cho các mối quan hệ khác và một ngày nào đó, họ sẽ cùng nhau chiến thắng”. Ông đã ghi những dòng chữ này ở cổng.

        Tướng Pershing, viên chỉ huy đáng kính của ông và đa số những sĩ quan cấp cao đều không thể chịu nổi MacArthur. Họ xác định phải tống cổ ông ra trước khi ông phá hủy học viện thân yêu của họ. Trong báo cáo chính thức của mình, Pershing đánh giá MacArthur chỉ đạt mức “trên trung bình” về tính hiệu quả trong quân đội, xếp thứ 38 trong 46 thiếu tướng. “Anh ta tự đánh giá mình quá cao”, ông này nhận xét một cách chủ quan về MacArthur.

        Vào năm 1917, chỉ huy lực lượng viễn chinh Mỹ ở châu Âu được tiếp đãi bởi cặp vợ chồng giàu có người Mỹ tại Paris: Walter Brooks, một tỉ phú Baltimore, vợ ông là bà Louise. Brooks, bất chấp sự giàu có, là một người đàn ông vênh vang và nhỏ bé, còn người vợ là con gái một nhà tài phiệt, Oliver E. Cromwell, và bố dượng của bà, Edward Stotesbury là một đối tác của J.P.Morgan với gia sản ước tính khoảng 150 triệu đôla, một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ.

        Louise là tất cả đối với chồng. Bà rất đẹp khi còn là con gái, rất gợi tình với hai má phúng phình, nụ cười lẳng lơ và đôi mắt long lanh, quyến rũ. Bà toát ra vẻ mời mọc. Hơn thế nữa, bà rất thích tình dục và không quan tâm đến việc người khác nghĩ gì.

        Khi gặp Pershing, họ đã trở thành người yêu của nhau. Sau một năm hẹn hò mà Brooks không hề hay biết, Pershing đã bị bắt gặp khi đi cùng một cô gái Rumania 20 tuổi, băng 1/3 tuổi của ông. Bà đã chuyển sự chú ý sang một Đô đốc trẻ người Anh, David Beatty và đã gây ra sự đổ vỡ trong hôn nhân của ông này, sau đó là một thượng nghị sĩ Mỹ.

        Trong một lần gia đình Brook trở về New York, bà gặp gỡ Pershing lần nữa, lần này trong vai trò chủ nhà khi ông tìm kiếm sự bổ nhiệm làm chủ tịch đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, bà có quan hệ bất chính với đại tá John Quekemeyer, cấp dưới của Pershing, người mà ông xem như con trai. Khi biết, Pershing cũng ủng hộ mối quan hệ bất chính này.

        Hoàn toàn là sự tình cờ, bà tham dự vào cuộc hội họp xã hội ở West Point vào tháng 9 năm 1921 và tại đây đã xảy ra mối quan hệ với MacArthur. Thật khó mà tưởng tượng được rằng quý bà Louise giàu có, phù phiếm lại say đắm viên tướng trẻ đẹp trai. Đối với MacArthur, chỉ một lần gặp gỡ mà ông không chỉ xem bà như bạn đồng sàng mà còn là một người có khả năng trở thành vợ. Trong một thời gian dài, MacArthur bị thuyết phục bởi lời khuyên của mẹ rằng ông nên tập trung vào sự nghiệp, điều này sẽ bị ảnh hưởng nếu ông kết hôn. Không có bằng chứng nào cho rằng ông đã có mối quan hệ bất chính với người đàn bà này trong cuộc sống riêng tư của mình. Tuy nhiên, không có gì nghiêm trọng xảy ra.

        Pershing không kiềm chế được cơn giận dữ khi MacArthur cướp Louise từ Quekemeyer. ông đã trả thù bằng cách cắt ngắn thời hạn của MacArthur ở West Point xuống một năm và gửi ông đi nhận nhiệm vụ ở Philippines. Scandal rò rỉ trên mặt báo. Pershing bình luận rằng: tất cả đều là chuyện tầm phào. Nếu cưới tất cả những người phụ nữ mà chuyện ngồi lê đôi mách đã gán ghép cho, tôi sẽ là chàng trai Brigham chuyên nghiệp.

        Tháng 6, MacArthur chính thức rời khỏi West Point, tháng 9 ông đến Manila. MacArthur đảm nhiệm chức vụ chỉ huy sư đoàn quân đội Manila.

        Cuộc vận động chính trị nhỏ tại quê nhà đã cho thấy một sự tụt dốc mới trong sự nghiệp của vị tướng trẻ tuổi này như đã từng xảy ra với cha ông. MacArthur giống như người bị đi đày biệt xứ, và nơi ông đến chính là Philippines, một thuộc địa của Mỹ tại vùng nhiệt đới. Với năng lực và sự cường tráng của mình, ông tự hào sẽ thực hiện tốt hơn những gì trước đây cha ông đã làm tại nơi này.

        Tuy nhiên, bản thân ông tin vào khả năng Philippines trở thành chiến trường trong cuộc chiến tranh tương lai với Nhật Bản. Mệnh lệnh quân đội tối cao đã điều ông đến Bataan với ý định thảo luận tìm cách phòng thủ thích hợp trước sự xâm lược quá mạnh của Nhật Bản trong khi lực lượng bảo vệ Philippines còn mỏng manh cho đến lực lượng trợ cấp được thành lập.

        Viễn cảnh đã được đoán trước vào mùa thu năm 1922. Đối với phía bắc Nhật Bản là một nền dân chủ thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Нага và quyền lực theo hiến pháp của hoàng tử trẻ nhiếp chính. Hirohito, cùng với cô dâu trẻ xinh đẹp vừa bước vào kỷ nguyên mới đầy hi vọng sau sự thống trị không mấy tin tưởng của người cha.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:57:09 pm »


Chương 13

SA ĐỌA VÀ NGÔNG CUỒNG

        Triều đại của hoàng tử trẻ bắt đầu bằng tuổi trẻ, niềm hy vọng và sự lạc quan rằng những hoạt động ngầm đen tối của chính trị không còn đường để bào chữa. Ngày 12-4- 1922, người bạn của Hirohito, hoàng tử xứ Wales, đã đến Nhật Bản trong chuyến viếng thăm chính thức. Ông đã được chàng trai từng gặp tại Cung điện Buckingham đón tiếp rất nồng hậu. Edward được dẫn đến Hakone, Kyoto, Nara và Nagashima.

        Vào thời gian này, dường như chỉ có mỗi viễn cảnh rằng đây sẽ là một triều đại thịnh vượng và khả năng ổn định chính trị, xã hội. Nền tảng công nghiệp của Nhật Bản đã lớn hơn nhiều so với trước đây. Nghệ thuật và xã hội đang trải qua sự thay đổi chưa từng xảy ra. Quyền bầu cử được thực thi. Trên bình diện quốc tế, Nhật Bản dường như có ý định theo đuổi mục tiêu của họ thông qua các biện pháp hòa bình. Hoàng tử Edward đang thăm Nhật Bản, cũng thấy răng người Nhật thể hiện sự tôn kính và lễ phép, ông không hề nhìn thấy ở họ sự đe dọa và nguy hiểm.

        Vẻ bề ngoài của chủ nghĩa lập hiến Nhật Bản mềm yếu, giống như những ngôi nhà gỗ mỏng manh mà người Nhật bản địa đang sống. Khi thời tiết và diều kiện khí hậu tốt, không có gì xảy ra; nhưng khi có những trận cuồng phong, nó sẽ tan tành, giống như các chế độ không có cơ sở vững chắc như Weimar của Đức và Cộng hòa thứ ba ở Pháp.

        Trách nhiệm thực sự nằm ở những người đang vun vén cho đặc quyền riêng của bản thân, đã tạo ra một chế độ không dựa trên quần chúng hay có sự hỗ trợ của tầng lớp trung lưu; thật ra, bản thân zaibatsu, những người trực tiếp gây ra sự bành trướng của chủ nghĩa độc đoán quý tộc vào đời sống công nghiệp và kinh tế, đã làm suy yếu các khả năng để tạo ra một tầng lớp trung lưu có vai trò như bức tường thành vững chắc của bất kỳ xã hội dân chủ nào. Gần như không một quốc gia công nghiệp nào mà quyền lực chính trị và kinh tế chỉ tập trung trong tay một số ít người.

        Như một điềm gở, triều đại của Hirohito bị cảnh báo băng một trận động đất khủng khiếp vào ngày 1-9-1923. Tại Yokohama và Tokyo, cùng với sự tàn phá là những đám cháy dữ dội. Yokohama bị phá hủy hoàn toàn, phân nửa Tokyo bị san bằng. Khoảng 100 ngàn người chết. Truyền thuyết cho rằng con cá trê khổng lồ nằm bên dưới Nhật Bản đã nâng lưng lên một cách giận dữ và gây ra trận động đất.

        Ảnh hưởng của trận động đất phần nào được khuây khỏa bởi một sự kiện của quốc gia: Đám cưới của Hirohito, sau nhiều lần bị hoãn, đầu tiên là sự phản đối của Yamagata, sau đó là trận động đất. Vào ngày 26-1-1924, tại cung điện hoàng gia ở Tokyo, 6 năm sau lễ đính hôn, Hirohito 22 tuổi và cô dâu 19 tuổi đã tổ chức lễ thành hôn, nhưng đến tháng 5, buổi lễ ăn mừng trước toàn dân mới diễn ra để tránh những mất mát đau thương mà trận động đất mang lại. Vào tháng 8, cặp đôi hoàng gia đã di hưởng trăng mật trong một tháng và sau đó, họ dời đến ở tại cung Akasaka, nơi cha của Hirohito từng sống.

        Nàng Nagako giản dị và chàng Hirohito hay xấu hổ sống bên nhau rất hạnh phúc: Nàng chơi đàn piano và hát, cả hai cùng nghe nhạc. Khu vườn với bốn mùa ở phía nam của cung, cây cỏ nở hoa quanh năm, trở thành nơi đi dạo được hai người yêu thích. Hirohito cho xây một phòng thí nghiệm nhỏ trên khu đất của cung, cùng với chuồng để nuôi thú vật và đất để trồng cây. Ông thật sự rất hạnh phúc. Vào ngày 6-12-1925, một bé gái đã cất tiếng khóc chào đời.

        Chỉ 10 ngày sau khi công chúa Teru Shigeko ra đời, Nhật Hoàng Yoshihito bị đột quỵ. Ông không thể đi lại hay nói chuyện một cách bình thường. Một năm sau đó, vào ngày 25-12-1926, ông chết vì bị viêm phổi khi đang ở tuổi 47 trong một đêm mưa dông dữ dội. Cùng đêm đó, Hirohito đã được trao thanh gươm và ngọc ấn (hai trong ba vật tượng trưng cho ngai vàng tương truyền do Nữ thần Mặt trời Amaterasu truyền lại) trong khi một nghi lễ khác được tổ chức tại đền thờ hoàng gia trước khi chiếc gương linh thiêng được trao.

        Tháng 11 năm 1928, lễ lên ngôi của Nhật Hoàng mới đã được tổ chức. Buổi lễ kéo dài cả ngày với sự tham dự của 4 ngàn khách mời. Người dân Nhật Bản bày tỏ sự ưng thuận đối với sư kiện này, bất chấp những khó khăn về kinh tế.

        Dường như mọi người đặc biệt có thiện cảm đối với sự giản dị của cặp đôi hoàng gia. Hirohito đã cho mọi người thấy rằng ông và vợ là một cặp đôi chung thủy, không phải trên danh nghĩa: Nhật Hoàng sẽ không có các thê thiếp như cha và ông nội đã làm trước đây. Thời điểm lên ngôi, ông đang ở tuổi 27, trước đó, mặc dù ông được bí mật chia sẻ những quyết định lớn của đất nước, nhưng sẽ rất vô lý khi cho rằng ông có ảnh hưởng nhiều đến những quyết định đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:57:27 pm »


        Trong cùng năm, một sự kiện diễn ra đã đưa vị trí của ông vào một viễn cảnh mới. Đó là sự bộc lộ một tài năng hoàng gia hết lòng vì dân ngay trong buổi duyệt binh ngày lễ lên ngôi 1-12-1928 khi hơn 70 ngàn sinh viên và thanh niên tập trung trước những bức tường đồ sộ của hoàng cung, bên kia hào. Trong cái se lạnh của đêm tháng 12, khi trời mưa, lều hoàng gia bất ngờ bị tháo dỡ. Mọi người được thông báo rằng Nhật Hoàng sẽ xuất hiện mà không cần sự bảo vệ nào “Để đồng cảm với những thanh niên ở đây”. Ngay lập tức, sinh viên bắt đầu cởi bỏ áo mưa để đáp lại hành động của Nhật Hoàng.

        Khi Hirohito đến vào lúc 2 giờ sáng, ông mặc chiếc áo choàng không tay của quân đội. Nhìn thấy những người thanh niên không mặc áo khoác, ngay lập tức ông cởi bỏ chiếc áo của mình và toàn bộ cận thần có mặt đều buộc phải làm theo. Trong gần một tiếng rưỡi đồng hồ, Nhật Hoàng đã đứng đấy, vẫy chào hàng ngàn thanh niên đang duyệt binh mà không có áo khoác.

        Những sự kiện cuối những năm 1920 và 1930 trông giống như bi kịch của Shakespear. Chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản đã bám rễ một cách chắc chắn trong tư tưởng của những người đầu sỏ chính trị thời Meiji. Tuy nhiên, có nhiều bất hòa lớn trong chính sách làm thế nào để tiến hành nhanh và xa.

        Có một sự dồng lòng trong các nhóm thống trị của Nhật Bản: quan lại, lực lượng quân đội và những nhà tài phiệt. Tất cả đều mong muốn bành trướng xa hơn, tuy nhiên vẫn chưa có một ý tưởng rõ ràng nào được xem là cách tốt nhất để hoàn thành điều đó: Chẳng hạn như hải quân và nhiều nhà kinh doanh mong muốn mở rộng về phía nam, lực lượng quân đội lại muốn xâm lược sâu vào Trung Quốc. Trong giai đoạn ngắn của chính phủ nghị viện Nhật Bản, toàn bộ cử tri tầng lớp trung lưu ít có khả năng bị lôi kéo vào chiến tranh. Việc kinh doanh thì thận trọng. Môi trường thế giới không ổn định. Các đồng minh của Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất dần trở nên đáng ngờ, và người Anh, người Mỹ vẫn giữ sự vượt trội về hải quân ở châu Á.

        Về mặt chính trị, những người ôn hòa dưới tác động của những nhà tài phiệt đã đứng đầu chính phủ. Sau vụ ám sát Нага vào tháng 11 năm 1921, bốn chính phủ tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi hai đảng lớn dẹp những người được chỉ định của bên quan lại thời Meiji trong cuộc tổng tuyển cử vào năm 1924. Đó là đảng Kenseikai của Takaaki Kato và đảng Seiyukai của Нага. Thật ra, mỗi đảng đều bị thống trị bởi zaibatsu: Mitsubishi và Mitsui. Trong cán cân quyền lực tại Nhật Bản, phải nói rằng quyền lực thực sự lần đầu tiên được chuyển cho giới kinh doanh lớn kết hợp cùng tác động nhỏ thuộc về ý kiến quần chúng.

        Giới quan lại trong thế phòng thủ, mặc dù vẫn còn bám chặt vào các bộ và đặc biệt là gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, người đứng đầu của họ, vị genrô còn lại, Hoàng thần Saionji lại đứng về phía cải cách. Dưới ông, các tầng lớp quan lại sôi sục vì bị mất quyền lực. Họ cũng phẫn nộ trước việc xã hội Nhật Bản được đại diện bởi lực lượng đổi mới và “phóng túng”. Quyền lực thứ ba, lực lượng vũ trang, đang trong thời kỳ trung lập, tuy nhiên cũng ẩn chứa một số phần tử phản động trong xã hội Nhật Bản.

        Kato và người kế vị của ông đứng dầu đảng Kenseikai, Rejiro Wakatsuki, quyết tâm theo đuổi mục tiêu nâng tầm ảnh hưởng lớn hơn ra bên ngoài Nhật Bản bằng các biện pháp hòa bình. Kijuro Shidehara, Ngoại trưởng, đã xua tan mọi nghi ngờ bằng Hai mươi mốt điều khoản tại Trung Quốc. Chính sách mới theo chủ nghĩa không can thiệp của Nhật Bản được trợ giúp bởi kinh nghiệm xương máu của cuộc viễn chinh đến Nga trong suốt cuộc nội chiến tại đây vào năm 1918. Trong vai trò đồng minh với Mỹ, lực lượng 70 ngàn quân đã cố gắng bảo vệ lợi ích quốc gia hơn là chống lại lực lượng Xô Viết. Người Nhật đã nhận biết cách tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của chính phủ và người dân đồng thời phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chính điều này đã tăng cường vị trí cạnh tranh của Nhật Bản trong tương lai với các thế lực phương Tây tại Trung Quốc.

        Gặp phải sự chống trả của người Nga, quân đội Mỹ đã rút lui vào năm 1920. Đơn dộc và phải đối mặt với số lượng thương vong quá lớn, người Nhật đã rút khỏi sông Amur vào năm 1922 và Bắc Sakhalin vào năm 1925. Thất bại của quân đội đã góp phần vào sự yếu thế của quân đội Nhật Bản vào thời đó. Bộ trưởng Chiến tranh, Tướng Kazushige Ugaki, được bổ nhiệm vào năm 1924.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2019, 04:33:34 am »


        Trong lúc đó tại Trung Quốc, cuộc xâm lược trước đây của Nhật Bản đã gặp nhiều sự chống trả. Bên cạnh đó, mục tiêu thương mại cũng vấp phải sự xung đột với Mỹ. Người Anh từ chối hồi phục lại liên minh Anh - Nhật tại Trung Quốc, nơi Nhật Bản sẽ còn ít cơ hội để khôi phục ngành công nghiệp nếu không thể kiểm soát nguồn tài nguyên thiên nhiên tại đây, và điều này cũng gây nguy hiểm cho các mục tiêu thương mại của Anh tại nước này. Các sứ thần quốc tế của Nhật Bản nói một cách chua chát về “Âm mưu đàn áp những chủng tộc không phải người Anglo-Saxon, nhất là những chủng tộc da màu, bởi hai quốc gia nói tiếng Anh: Anh quốc và Mỹ”.

        Vào những năm 1920, Nhật Bản đã được cảnh báo bởi sự suy giảm đột ngột về quyền lực. Tổng thống Woodrow Wilson đã làm người Nhật tức điên lên tại Hiệp ước Versailles năm 1919, bằng cách xóa bỏ điều khoản xác nhận sự bình đẳng của dân tộc Nhật Bản đối với các thế lực châu Âu và Mỹ. Hội nghị Washington năm 1922 đã thiết lập sự cân bằng hải quân theo tỉ lệ 5/5/3 giữa Mỹ, Anh và Nhật Bản. Tồi tệ hơn, hiệp định cấm thành lập lực lượng hải quân Anh và Mỹ trên vùng biển từ bắc Singapore đến tây Hawaii. Điều này đã tạo thuận lợi cho Nhật Bản dự định tấn công các nước láng giềng châu Á cũng như Philippines, nơi Mỹ đang chiếm đóng. Hội nghị Hải quân London vào năm 1930 đã thực sự giảm bớt sức mạnh của hải quân Anh ở vùng Viễn Đông. Vi vậy, Nhật Bản mất đi đồng minh có giá trị nhất là Anh, và cảm thấy bị cô lập, không an toàn cũng như trở nên không thân thiện với cả Anh lẫn Mỹ.

        Nhật Bản đã không dám thách thức những kẻ thù như vậy. Ngoại trưởng Shidehara, đã tuyên bố hùng hồn về việc mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản mà không dùng đến quân đội. “Nhật Bản, rất gần Trung Quốc, có lợi thế về chi phí vận chuyển đồng thời có khả năng canh tranh lớn nhất nhờ vào nhân công. Vì thế, ưu tiên hàng đầu đối với Nhật Bản là phải duy trì thị trường lớn ở Trung Quốc”. Iwane Matsù, thành viên trong ban chỉ huy quân đội Nhật Bản, lại muốn áp dụng chính sách “Thay thế xâm lược kinh tế bằng xâm lược quân sự, ảnh hưởng tài chính bằng chỉ huy quân đội và hoàn thành mục tiêu chung dưới khẩu hiệu cùng thịnh vượng và cùng tồn tại”. Khó có thể xem đó là ngôn ngữ của ngoại giao hòa bình, tuy nhiên nó đã đánh dấu sự thận trọng hơn của người Nhật so với trước đây.

        Nền dân chủ nghị viện của Tokyo và sự kềm hãm do nước ngoài đã chứa những nguyên nhân cho sự hủy diệt của nó. Sự phát triển của chủ nghĩa cực đoan cánh tả đã có nguồn gốc lâu đời, kết hợp cùng sự tồn tại của tầng lớp samurai, những người đứng sau cuộc khôi phục của Nhật Hoàng vào năm 1868, và sau đó bị tước đoạt bổng lộc. Vùng đất sản sinh chính là thành phố của Fukuoka, điểm gần nhất để Nhật Bản tiếp cận châu Á, điểm bắt đầu cho sự xâm lược Triều Tiên bởi Nữ hoàng Jingu, cũng như những cuộc tấn công được lãnh đạo bởi Hideyoshi vào năm 1592, và căn cứ hoạt động chính trong suốt chiến tranh Nga - Nhật. Samurai Fukuoka đã rời thành quách của họ để mở cuộc tấn công vào thành phố của các chính khách thời Minh Tri Iwakura mới diễn ra năm 1874.

        Trong năm 1881, phần lớn xã hội bí mật samurai đã kết hợp lại để tạo ra Genyosha, tận tâm sùng bái Nhật Hoàng, để đẩy mạnh các lợi ích của quốc gia, và cho các quyền của nhân dân. Sau thất bại của Saigo vào năm 1877, Genyosha không tin rằng cuộc nổi loạn có vũ trang là một sự chọn lựa: Mục tiêu của xã hội là kết thân những người theo chủ nghĩa dân tộc, đặc biệt trong giới quan lại và quân đội để xúc tiến các mục đích của nó. Một số lượng lớn những người này và Genyosha đang thúc đẩy các lợi ích kinh tế của các thành viên, tìm kiếm những người trung gian cho quân đội và những người lãnh đạo dân thường.

        Mitsuru Toyama là thủ lĩnh nổi tiếng của Genyosha. Được sinh ra trong một gia đình samurai bị bần cùng hóa, ông trải qua thời trai trẻ trong những ngôi nhà uống trà và nhà thổ. Ngay từ đầu, ông đã thành lập cho mình một quyền tự trị và miễn theo luật rằng ông được phép bảo trợ, không chỉ những người ủng hộ khủng bố tại quê nhà mà còn những nhà cách mạng cánh tả ở nước ngoài. Hai tư tưởng kiên định của ông là chống lại các lợi ích của phương Tây và căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Vào năm 1892, ông đã đạt được thỏa thuận với chính phủ, theo đó, được bảo đảm rằng chính phủ sẽ theo đuổi chính sách ngoại giao mạnh tay và tăng chi viện cho quân đội để đổi lại sự hỗ trợ của Genyosha. Những phương cách mạnh tay của Toyama, với sự hỗ trợ của soshi (những tên côn đồ) từ các khu vực lân cận, đã làm tỉnh Fukuoka khiếp SỢ; cuộc bầu cử đẫm máu nhất trong lịch sử Nhật Bản làm nhiều người bị giết và hàng trăm người bị thương.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM