Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:48:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đời tình ái và binh nghiệp của thống tướng Mac Arthur  (Đọc 6609 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #10 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2019, 11:23:29 am »


*

*       *

        Từ lâu Tổng Thống Wilson tin là. có thể giữ cho Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc chiến tranh đã bùng nổ tại Âu châu năm 1914. Ông tuyên cáo ý muốn giữ trung lập. Vào thời đó công luận ngả theo ông. Trong số những người di cư có dân Ái Nhĩ Lan thù ghét Anh quốc, nhiều người Đức ủng hộ xứ sở nguồn gốc của họ. Toàn thể dân Mỹ cho rằng không cần dính dáng đến công chuyện của Âu châu. Thật ra Mỹ quốc cũng không phải ít bị ràng buộc bởi hàng ngàn dây liên hệ với Anh quốc và trung lập là một vị thế rất khó duy trì.

        Đồng minh lại tuyên cáo phong tỏa đường biển, điều này làm trở ngại cho hoạt động thương mại của Hoa Kỳ. Sự phiền hà này được bù trừ mau lẹ nhờ vô số cơ hội buôn bán cho Mỹ quốc khi mà Âu châu đang làm cảnh chiến tranh. Hoa kỳ trở thành nhà cung cấp vĩ đai cho Đồng minh và, từ là con nợ Hoa Kỳ trở thành chủ nợ của Pháp và Anh quốc. Một kỷ nguyên thính vượng vĩ đại mở màn. Cũng phải thừa nhận rằng qua trung gian một số quốc gia trung lập người Hoa kỳ tiếp tục buôn bán với Đức và Áo - Hung. Hoạt động của tàu ngầm Đức làm rối loạn thế qnân bình này. Chúng tấn công mà không phân biệt tàu của Đồng minh và của các xứ trung lập. Vào tháng 5 nàm 1915, vụ phóng thủy lôi vào chiếc Lusitania —  1200 nạn nhân trong đó có 124 người Mỹ — đã gây ra những xáo động trong công luận và một sự phẫn nộ toàn diện. Chủ nghĩa hòa bình của Wilson bi đánh tan từng mảnh bởi Roosevelt và cũng bởi Tướng Wood, người đã bắt đầu huấn luyện người tình nguyện đầu quân. Trong số những người này có các thành phần của tiểu hạm đội trứ danh «Lafayette».

        Tuy vậy Wilson giữ vững lập trường và được tái cử năm 1916 như là một nhà bênh vực hòa hình. Bất chấp áp lực ngoai giao của Hoa Kỳ, tàu ngầm Đức tiếp tục làm cho các đai dương dậy sóng. Trong tháng giêng năm 1917, bá tước Bernstoff, Đại sứ Đức tại Hoa thinh đốn thông báo cho chính phủ Mỹ rõ Đức sẽ tung ra một chiến dịch tàu ngầm vĩ đai bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng hai. Lúc đó, người Đức cảm thấy rất mạnh. Họ tin là nắm chắc chiến thắng. Trận đánh Verdun đã làm quân Đồng minh kiệt quệ. Nếu nhờ hoạt động của tiềm thủy đỉnh mà Guillaume II làm cho Anh và Pháp quốc bị đói, thì thành công kể như là đã được bảo đảm. Wilson thì còn tin có thể có «một nền hòa bình không có chiến thắng, một nền hòa bình giữa các phe đồng đẳng, không có sát nhập lãnh thổ lẫn tiền bồi thường chiến tranh».

        Nhưng công luận ngày càng thiên về phía Đồng minh và ngay cả chính Tổng Thống cũng bắt đầu do dự. Ông cho phép võ trang các thương thuyền. Ngày mùng 1 tháng ba qua trung gian cơ quan tình báo сủа Anh, ông được biết người Đức đã đề nghị một liên minh với Mễ tây cơ, một liên minh chống Hoa Kỳ. Đổi lại sự hồ trợ, người Mễ tây cơ, sau khi chiến cuộc kết thúc, sẽ được các tiểu bang Texas và Tân-Mexique.

        Chính quyền Bá linh đã đi quá xa. Sự tự ý khiêu khích này đã làm đổ nhào niềm tin của Wilson. Hoa Kỳ đứng về phía Đồng minh tuyên chiến ngày 6 tháng 4 năm 1917.

*

*       *

        Thật đúng lúc, bởi vì quân Đồng minh đang mòn hơi. Lập tức guồng máy khổng lồ của Hoa Kỳ biến thành nền kinh tế chiến tranh. Một hạm đội vĩ đại được thành lập, biện pháp động viên được quyết định, nhiều trung tâm huấn luyện được tổ chức. Hỏa xa được đặt dưới quyền kiềm soát của chính quyền. Bernard Baruch cầm đầu cơ quan War Industries Board và tạo dựng một nền kỷ nghệ chiến tranh. Ngày 4 tháng 7 năm 1917, những binh sĩ Hoa Kỳ đầu tiên diễn hành tại Ba lê. Cuối năm đó, tổng số quân Mỹ lên đến 200.000, một năm sau lên hai triệu. Những đoàn quân mới mẽ ấy đến đúng lúc. Tuy vậy mãi đến mùa xuân 1918, Lực lượng Viễn chinh Hoa Kỳ American Expeditionary Force (AEF) đặt dưới quyền tư lệnh của Tướng Pershing mới thật sự hành động. Thật vậy khi vừa đến Pháp quân Mỹ đã trải qua một thời kỳ huấn luyện thứ hai. Ngày 21 tháng 3, Hindenburg và Ludendorff tung ra cuộc tấn công vĩ đại và trực tiếp đe dọa Ba lê. Foch liền được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân Đồng Minh. Pershing tự đặt mình dưới quyền ông. Quân Mỹ xung trận trong vùng Château - Thierry. Chính đấy là nơi đã diễn ra các trận đánh danh tiếng làm cho thủy quân lục chiến Mỹ vang danh.

        Trong mùa hè, các sư đoàn của Mỹ được tập họp trong khu vực Saint - Mihiel và chiếm được khu vực danh tiếng nầy.

        Sau đó là trận sông Meuse - Argoune, với hơn một triệu quân Mỹ tham dự. Họ chiến đấu xuất sắc và bẻ gãy được nỗ lực chống cự của Đức. Tổn thất rất nặng nề nhưng cuộc tiến quân vẫn mạnh mẽ không có gì cản trở được. Đến đầu tháng 11, quân Mỹ đã có măt tai ngưỡng cửa Sedan.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #11 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 07:59:41 pm »


*

*       *

        Ngay từ đầu cuộc chiến, Thiếu tá MacArthur đã cảm thấy kiến bò trong chân. Tại văn phòng Tổng trưởng Chiến tranh, ông chu toàn một nhiệm vụ nặng nề, nhưng ông mơ màng chuyện khác. Ông trở lại ý tưởng thành lập một sư đoàn với các thành phần vệ binh. Ông thuyểt phục được ông Tổng trưởng Chiến tranh Newton Baker, ông này liền trình bày với Tổng thống Wilson, Tổng thống đòi gặp MacArthur và đến lượt ông đề cho sự hùng biện và niềm tin tưởng mãnh liệt của ông Thiếu tá thuyết phục.

        Chỉ còn lại vẫn đề tìm một cái tên cho Sư đoàn thứ 42 nãy của quân đội Hoa Kỳ. Nó sẽ là Sư đoàn «Mống trời». Tư lệnh là lão tướng Mann. Tham mưu trưởng được chỉ định là Douglas MacArthur, lúc đó nhân nhiệm vụ mới, đã được thăng cấp Đại tá.

        Nếu tin vào lời người sĩ quan trẻ thì ảnh hưởng của ông đối với Wilson là có thật. Chính ông đã kể lại rằng một hôm, được tháp tùng Baker đến gặp Tổng Thống, cuộc thảo luận đưa đến vấn đề kế nhiệm Tướng Funston, người lẽ ra phải nắm quyền Tư lệnh Đoàn quân Viễn chinh Mỹ AEF nhưng lại bị từ trần đột ngột. Chính MacArthur lúc đó đã gợi ý trong việc chọn lựa Tướng Pershing.

        Sư đoàn «Mống trời» gồm 27.000 người từ 26 tiểu bang hợp lại, được huấn luyện tại trung tâm Al- bert-Mill, gần Garden City, Long Island. Bộ binh thì từ New York, từ Ohio hay từ Alabama đến, kỵ binh thì từ Virginie hay từ Louisiane, pháo thủ thì từ Illinois... Gồm có những người Ái Nhĩ Lan, người Đức, người Ý... Có người là tín đồ Công giáo, người thì theo đạo Tin lành. Tẩt cả những điều đó không phải là đã không gây ra những vụ đánh lộn dữ dội giữa nhiều đơn vị khác nhau. Nhiều sĩ quan cũng xuất thân từ vệ binh như binh sĩ và điều đó cũng đã góp phần tạo cho Sư đoàn một tinh thần đặc biệt.

        Công cuộc huấn luyện, rất được đẩy mạnh và rất hoàn hảo, kéo dài cho đến tháng 10. Lúc đó, Sư đoàn xuống tàu qua Âu Châu và đến Saint - Nazaire suông sẻ. Sau đó lại một thời gian huấn luyện mới được đánh dấu bằng những khó khăn với bộ tham mưu vốn muốn «đỡ nhẹ» các sĩ quan ưu tú và phân tán mỏng sư đoàn. Sau một thời gian đồn trú ngắn tại Vaucouleurs. Sư đoàn được phái đến Haute - Marne, rồi đến vùng Lune - ville - Baccarat.

        Đại Tá MacArthur tự tạo ra một huyền thoại. Ngày 26 tháng giêng 1918, ông được Tướng Bazelaire (một vài trung đoàn được huấn luyện chiến đấu cạnh quân Pháp) chấp thuận cho tham dự một vụ đột kích. Một trận đụng độ gay go nhưng kết thúc thắng lợi. Đoàn tuần tiễu trở về với nhiều tù binh. MacArthur được gắn anh dũng bội tinh và huy chương Silver Star.

        Ông cũng tự tạo nên khuôn mặt của một nhân vật. Chính trong thời kỳ này ông đã khai mào cho chiếc nón kết trứ danh làm ông nổi tiếng cũng như chiếc nón bê-rê của Montgomery1, chiếc nón sắt của Patton và quả lựu đạn của Ridgway. Chiếc nón kết về sau, tại Cao ly, chỉ bớt hoe vàng một chút mà thôi. Quân phục của ông được cắt khéo léo, giày ống bóng loáng. Ông không mang vũ khí, chỉ một chiếc roi ngựa. Ông cũng mở đầu, dầu không được dự liệu trong qui tắc, kiểu áo len choàng đầu, cổ rất cao và thường lại có chưng thêm một chiếc khăn quàng ka ki dài. Ông bị yếu nơi cổ họng nên ông quyết che chở nó một cách hữu hiệu. Sự thanh lịch, sự can đảm của ông khiến ông được mệnh danh là «d’Artagnan Hoa kỳ» hoăc là «Brummel của AEF».

        Một hôm trong khi ngồi ăn sáng với các bạn trong sân một nông trại, một quả lựu đạn nổ cách ông vài thước. Một sĩ quan trẻ chạy trốn, những người khác chay đi ẩn nấp, phần ông thì ngồi lại, không có gì lay chuyển được và tuyên bố :

        «Cả nước Đức không thể nào chế tạo nổi một quả lựu đạn để giết được MacArthur, thế thì, thưa quí ông, xin mời quí ông ngồi xuống...»

        MacArthur được gắn nhiều huy chương như cả một bộ sưu tập, anh dũng bội tinh, anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, DSC (Distinguished Seruicc Cross), Silver Star... ông bị thương hai lần, bị hơi độc hai lần... Ông không chịu mang mặt nạ phòng hơi ngạt... Sự bất cẩn này khiển ông phải bị mù mắt cả chục ngày.

        Ông đòi hỏi rất nhiều ở thuộc cấp.

        «Cái tên con nhà điếm ấy bộ tưởng chúng ta có mười hai chân chắc», một hôm, một viên trung sĩ già đã lầm bầm như thế.

        Ông cũng đòi hỏi rất nhiều nơi chính bản thân. Vai trò của ông là chủ yếu. Tướng Mann được Tướng Menoher thay thế và chính ông này đã để cho viên tham mưu trưởng của mình có toàn quyền. Douglas lợi dụng ngay. Nhưng ông cũng biết làm cho binh sĩ thuộc quyền thương mến. Ông biết cách nói với họ, để thì giờ nghe họ, ông tranh đấu để họ có đủ y phục và lương thực, luôn luôn chững chạc, đường như chẳng bao giờ ông biết mệt mỏi. Ông không uống rượu mạnh — chỉ uống chút ít rượu chát — không bao giờ hát chung những bài ca vui, ông rất thường viết thư cho mẹ.

------------------
        1. Đọc : «Cuộc đời và binh nghiệp của Thống Chế Anh quốc Montgomery » — Sông Kiên xuất bản.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #12 vào lúc: 09 Tháng Mười, 2019, 08:00:09 pm »


        Sư đoàn «Mống trời» nổi danh nhân cuộc vượt sông Ourq và khi đụng với các đạo quân tinh nhuệ của Đức, đã đẩy lui địch 15 cây số. Lúc cuộc tổng tấn công năm 1918 mở màn, sư đoàn được đặt dưới quyền Tướng Gouraud, người được MacArthur rất ngưỡng mộ.

        «Những chiến công сủа ông tại Algérĩe xứng đáng để mệnh danh ông là con «mãnh sư Phi Châu» và trận chiến của ông tại Gallipoli là gần như một trường hợp điền hình của quân sự. Tuy nhiên tôi không ngờ được trình diện trước một nhân vật anh hùng. Với một cánh tay bị cưa cụt và một chân què, hàm râu rậm của ông lấp loáng dưới ánh mặt trời, chiếc nón kê-pi sụp xuống mang tai, giọng nói âm vang và cách nói chuyện sáng chói, ông áp đặt một nhân cách gây xúc động. Người ta đã nói rằng ông là hóa nhân của nhân dáng anh hùng và lịch sử của Henri De Navarre. Và ông giữ đúng tất cả những điều đã hứa. Tôi đã gặp tất cả các lãnh tụ quân sự hiện đại của Pháp, rất nhiều người trong số đó quả là nhân vật lớn, nhưng chính ônơ mới là con người vĩ đại. Pétain và Foch là hai trong số các nhân vật ưu tú của mọi thời đại, nhưng Pétain luôn luôn ước đoán quá đáng tiềm lực của địch và vì lẽ đó thường do dự không khai thác triệt để chiến thắng của ông, và Foch thì quá cứng rắn một khi kế hoạch đã được vạch ra. Từ sự kiệu này, ông để lỡ nhiều cơ hội. Nhưng đổi với Gouraud, người ta không thể trách cứ ông điều gì...»

        Ông Tướng cụt tay đường như đã gây nhiều ấn tượng nơi MacArthur còn hơn cả «ông chủ» của ông, tướng Pershing, nữa. Chắc chắn là ông thường «ăn nói thẳng thừng» với ông này hơn là với Gouraud. Tuy vậy có lần ông phải trở lại vị trí của mình. Một hôm ông đã phản đổi kịch liệt — và có lý — vì nhiều nguyên nhân : người ta muốn phân tán sư đoàn «Mống trời», quân nhu phát áo quần rách rưới, binh sĩ không nhận được các bưu phẩm do gia đình gởi cho, ông tư lệnh đành trả lời :

        «Này chú, tôi không ưa thái độ của chú...»

        Nhưng điều này không ngăn Pershing đích thân gắn huy chương cho ông.

        Douglas không bao giờ bỏ rơi sư đoàn của ông. Nếu có lúc ông rời bộ tham mưu của sư đoàn, ấy là để chỉ huy một trong các lữ đoàn, lữ đoàn 84 với cấp bậc tướng lãnh. Ông chiến đấu tai Chateau Thierry, ông chiến đấu tại La Fère, ông chiến đấu tai Saint -  Mihiel. Trong túi quần, khi chiến trận sôi động nhất ông thích mân mê một hộp thuốc bằng vàng do các bạn tặng, trên nắp có khắc câu : «Tặng con người can đảm nhất trong số những người can đảm»...

        Chính vì lý do là bị bộ tham mưu và đích thân Foch chính thức chống đối mà Tướng Mar Arthur và bạn thân của ông, thiếu tá George Patton lỡ mất cơ hội chiếm thành phố Metz. Đối với ông, không hành động cũng tựa như cột chặt con ngựa của một kỵ binh vào cọc ngay bên cạnh một cánh đồng cỏ non. Ông cho rằng người ta đã phạm lầm lẫn lớn ở đấy và lẽ ra có thể tránh được, bằng cách chiếm ngay Metz, biết bao nhiều là tổn thất nhân mạng... Nhưng chắc chắn người ta ưa dành vinh dự là những người đầu tiên tiến vào thủ phủ vùng Lorraine cho người Pháp hơn là người Mỹ. Hai mươi lăm năm sau Leclerc rơi đúng vào tình trạng tương tự trước Strask bourg. Bộ tư lệnh tối cao lúc đó là Hoa kỳ. Leclerc không hề do dự. Quả thật De Gaulle đã che chở ông ta...

        Người Đức đã hiểu ra nguy cơ đe dọa. Họ tăng viện quân trú phòng tại Metz. Ông Tân thiếu tướng MacArthur nuốt giận mà chịu. Ông tham dự vào cuộc tấn công Meuse - Argonne và xung phong vào ngọn đồi Châtillon. Hai sư đoàn đã thất bại trước cứ điểm nầy khi Tướng Sumerall nói với MaeArthur :

        «Hãy cho tôi Châtillon hay là một danh sách 5.000 người chết ...»

        MacArthur đáp lại .

        «OK ! nếu tôi không lấy được Châtillon, tên tôi sẽ đứng đầu danh sách».

        Chính ông đã kể lại trận đánh :

        «Khi thực hiện một cuộc thám sát mới, tôi bị thương, nhưng không đến nỗi phải nằm một chỗ. Tôi hiểu rằng như thường lệ, chính trung tâm điểm của cuộc phòng thủ Đức mới là điểm bất khả chiếm hữu và trước điểm đó, hai sư đoàn đầu tiên đã bị tàn sát. Tôi liền quyết định tung những người trồng bông vải tại Alabama của tôi vào cánh trái và các nông dân của tiểu bang Iowa vào cánh phải. Tôi cũng muốn được che chở bởi hỏa lực của tất cả đại bác và liên thanh của sư đoàn.

         «Chúng tôi tiến tới bằng cách bò sát trong sương mù buổi sáng. Thỉnh thoảng chúng tôi lập thành tiểu đội hoặc ngay cả từng trung đội để mau lẹ bao vây và tiêu diệt một pháo đài nhỏ. Mỗi lần như vậy phải trả giá đắt. Đạn gieo rắc chết chóc không ngớt rít lên veo véo và soi sáng hàng ngũ chúng tôi, nhưng ngay đêm đó cao điểm 288 lọt vào tay những anh chàng сủа tiểu bang Iowa. Tiếp tục, họ bao vây và lấy được nông trại Thuillières, tại cao điểm 205. Những quân phòng thủ cuối cùng сủа Châtillon vẫn còn ở trước mặt chúng tôi, nhưng bên cánh phải, một lát sau, hai tiểu đoàn siết chặt gọng kềm. Châtillon đã lọt vào tay chúng tôi, nhưng tổn thất lên nặng.»

        McArthur được thăng cấp Trung tướng.

        Sau đó quân Mỹ thọc sâu vào Sedan. Chắc phải là do một sự trùng hợp bất lợi của các cơ hội và do một sự lầm lẫn nào đó trong sự lãnh đao các cuộc hành quân — những lầm lẫn mà MacArthur gán cho là những xét đoán sai lầm nơi kẻ thù kỳ cựu của ông, Đại tá George Marshall, trưởng phòng 3 của đệ I lộ quân — để binh sĩ của sư đoàn «Mống trời» không được là những người đầu tiên tiến vào thành Phố

        Vinh dự này được dành cho quân Pháp.

        Ngày 11 tháng 11, cuộc đình chiến được ký kết.

        MacArthur tạo ra nhiều ganh tị trong quân đội. Người ta chỉ trích bộ quân phục bay bướm của ông, khuynh hướng ưa phô diễn của ông, sự từ chối không chịu mang một vũ khí nào khác hơn là chiếc roi ngựa của ông, sự từ chối đội nón sắt hay mang mặt nạ phòng hơi độc của ông, thói quen nắm quyền chỉ huy ngay tại tuyến đầu của ông. Mặc dầu thâm tâm rất yêu quí ông, nhưng lúc ấy Tướng Pershing cũng tuyên bố :

        «Nên chấm dứt với những trò ngu ngốc của ông ta. MacArthur là con người lãnh đạo binh sĩ vĩ đại nhất mà chúng ta có được...»

        Tiếp theo đó là một cơn bệnh ngặt nghèo — cổ họng bị nhiễm độc — và sáu tháng chiêm đóng tại Đức quốc. Sự bổ nhiệm lên cấp trung Tướng không được Hoa thịnh đốn chuẩn nhận, nhưng Douglas vẫn được giữ cấp bậc thiếu tướng. Ông là vị tướng lãnh trẻ tuổi nhất, ông vừa mới ba mươi tám tuổi.

        Ông trở về Hca kỳ trên chiến hạm Leviathan.

        Một nhiệm sở mới đang chờ đợi ông thiếu tướng trẻ. Ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng trường võ bị West Point.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2019, 04:40:50 am »

         
WEST POINT VÀ PHI LUẬT TÂN

        Khi đến West Point, MacArthur thấy một quân trường hoàn toàn rối loạn. Do chiến tranh, học trình giảm xuống từ bốn năm còn lại một năm.

        «Lúc giao sứ mạng cho tôi, ông nói. Tướng Peyton March, tham mưu trưởng, nói với vẻ hung bạo : «West Point thoái bộ những bốn mươi năm » ông nói với tôi. Tinh thần tập thể đầy kiêu hãnh của chính quân trường cũng gần như đã biến mất. Phải làm sống lại moi ngànht nghiên cứu thiết lập lại toàn thể chương trình giảng dạy...»

        Không khí xung quanh không có vẻ gì được như vậy cả. Một số người còn nghĩ đến ngay cả việc giải tán luôn quân trường, Những người khác chỉ nghĩ đến việc cắt xén chi tiêu của quân trường.

        MarArthur đến Hoa thịnh đốn, thảo luận với các dân biểu, nghị sĩ, biện hộ cho lý lẽ của ông. Ông giải thích rằng đồng tiền bảo hiểm hàng năm và bằng một phương cách tương đối khiêm nhường còn hơn là chịu đe dọa bởi một tai biến lúc nào cũng có thể xảy ra. Ông thảo một phúc trình dài và gặp hàng ngàn khó khăn.

        Tuy vậy West Point vẫn còn lại nhiều nền móng vững chắc : các kiến trúc doanh trại, trang cụ, các truyền thống và các cán bộ.

        «Với tất cả những thứ đó, ông Tướng giải thích, phải xây dựng lại một West Point mới, một West Point duy trì được những truyền thống tốt đẹp nhất, nhưng có thể đào tạo một sinh viên sĩ quan cởi mở hơn nhiều đối với các tư tưởng dân chủ và với một kiến thức và thế giới không thể nào có được dưới chế độ cũ gần như là chế độ tu viện của quân trường trước đây».

        Dưới quyền ông, West Point không còn là một trường trung học lớn nữa và sinh viên sĩ quan phải xúc tiếp với quân sĩ trong những thời kỳ thực tập được tổ chức trong mùa hè. ông cũng dành mọt chỗ quan trọng cho công cuộc huấn luyện thể dục và thể thao.

        Trong số sinh viên của ông có Leminter Max- Well Taylor, Vandenberg...

        Năm 1922, MacArthur rời West Point, ông được bồ nhiệm đến Phi luật tân.

*

*     *

        Trong thời gian chỉ huy trường Võ bị West Pointy ông Tướng lập gia đình. Vào lúc 42 tuổi, ông cưới một thiếu phụ ly dị chồng giàu có, mới 26 tuổi, Henrietta Louise Cromwell Brooks. Ông gặp bà trong một dạ vũ tai West Point năm 1920. Người thiếu phụ trẻ là con gái của Edward Cromwell (sau đó ông đổi tên là Stotesbury) và đã từng sống rất lâu tại Ba lê. Bà đã lập gia đình 6 năm với Walter Brooks, một nhân vật giàu có tại Baltimore và có hai con. Tại Ba lê bà và người em, Jimmy — về sau cưới Doris Duke — là khách thường xuyên của Tướng Pershing. Henrietta còn trở thành cả tình nhân của ông Tướng nữa và vẫn còn như thế khi «ông chủ» của đoàn quân viễn chinh Mỹ trở về Hoa kỳ. Khi bà báo tin lấy Mac Arthur cho Pershing rõ, vị lão tương trả lời bà :

        «Em yêu, hãy từ bỏ dự tính này, hoặc em sẽ lại phải đến Phi luật tân ở đấy...»

        Vậy thì sự bổ nhiệm Douglas đến Manille là một cuộc lưu đày hơn là một sự thăng chức.

        Hôn lễ cử hành tại Palm Beach. Henrietta đeo một xâu chuồi hột xoàn và một chiếc áo màu trái mơ. Ông thì mặc quân phục đại lễ với tất cả huy chương trên ngực.

*

*     *

        Tại Manille nếu bà MacArthur trẻ trung không lấy gì làm vui thú lắm thì phần ông Tướng lại hoàn toàn vui sướng, ông gặp lại người ban cũ, Manuel Quezon. Thoạt tiên ông chỉ huy một lữ đoàn thám sát Phi, rồi bắt đầu xây dựng hệ thống bố phòng kiên cố tại Bataan và tại Corrègidor.

        Vợ ông lo lắng cho binh nghiệp của chồng. Trong một lần về thăm xứ sở tại Hoa thịnh đốn, bà gặp một bạn cũ của Douglas thuộc sư đoàn «Mống trời» xưa, nay đã trở thành một nhà lập pháp có ảnh hưởng lớn, Manning Marcus.

        «Douglas là thiếu tướng từ sáu năm nay rồi, bà giải thích; quá lâu, phải gắn cho ông ấy một sao nữa...»

        Marcus hứa sẽ làm những gì có thể. Ông gặp Tổng trưởng Chiến tranh Weeks, và được trả lời :

        «MacArthur còn nhiều thì giờ, ông ta còn trẻ quá...»

        Khi những lời này đến tai ông tướng, ông nỗi trận lôi đình :

        «Quá trẻ, trong lúc mà Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo bộ lạc lúc mười ba tuổi, và chỉ huy đạo quân lớn nhất thế giới lúc bốn mươi tám tuổi, trong lúc mà Nã phá luân chỉ huy quân đội Ý lúc hai mươi tám tuổi và Mustapha Kemal lãnh đạo quân đội xứ ông lúc ba mươi tám tuổi...»

        Nhờ sự can thiệp của người em vợ với một nghị sĩ quan trọng, Douglas đã được gắn ngôi sau thứ hai ấy.

        Thời gian phục vụ ở Manille chấm dứt. Gia đình MacArthur dọn về ở tai Baltimore. Rồi là đời sống đều đều của trại binh, bị ngắt quãng bởi hai biến cố : vụ án Mitchell và chủ tich ủy ban Thế vận.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #14 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2019, 04:45:48 am »

        
*

*     *

        Thiếu tướng Billy Mitchell là một trong những «tay cự phách» сủа không quân Mỹ. Ông đưa ra nhiều lý thuyết tân kỳ vào thời đó và trở thành một bậc sư của cuộc chiến tranh trên không. Để chứng minh tính cách chân xác của lý thuyết do ông đưa ra, ông tổ chức các cuộc thực tập trong đó nhiều chiến hạm cũ của hải quân bị đánh chìm. Tất cả chuyện đó đã diễn ra mà không phải là không gặp những sự đụng chạm với thượng cấp nhất là sau vụ tổn thất chiếc khí cầu máy Shenandoah. Mitchell quy lỗi, bêu riếu «sự bất tài, sự chểnh mảng trong tôi, sự phản bội gần như quá tệ lậu của tổ chức quốc phòng...»

        Ông bị đưa ra tòa. Trong số các hội thẩm, có Tướng MacArthur. Song le, đó lại là một người bạn nối khố của Mitchell, và vẫn còn giao du thân mật với ông ta, Mitchell lại mới vừa gặp ông tại Manille. Sự chọn lựa viên cựu tham mưu trưởng sư đoàn «Mống trời» làm hội thẩm, do đó, không mấy thích đáng.

        Đấy là một trong các mệnh lệnh khó chịu nhất mà tôi phải tuân hành, về sau ông Tướng kể lại. Tôi đồng ý với Mitchell về sự cần thiết phải phát triền ồ ạt binh chúng không quân. Chính tôi cũng đã từng công khai tuyên bố rằng «cả trên bộ lẫn trên biển, quân lực ta sẽ không thể an toàn hành động được nếu không có sự hỗ trợ của không lực». Mặt khác, tôi luôn luôn nghĩ rằng một sĩ quan cao cấp không nên bị khóa miệng nếu ông ta bất đồng ý kiến với thượng cấp hay với lý thuyết từng được chấp nhận rộng rãi, Tôi luôn luôn cho rằng quyền lợi của Quốc gia phải được đặt lên hàng đầu và khi một sĩ quan cao cấp vì bị khích động bởi những nguyên nhân thuần túy ái quốc, mà binh nghiệp bị đe dọa vì biểu thị sự chống đối này, thì ông ta cũng không nên bị bịt miêng một cách độc đoán».

        Trong suốt bảy tuần lễ xử án, MacArthur câm lặng, khó hiểu. Tuy vậy, mọi người đều hướng cái nhìn về phía ông. Vẻ mặt ông như tạc bằng đá. Ông không nói một lời nào.

        Mitchell bị kết án tạm bãi chức năm năm. Sau đó ông từ chức, đoạn, sau khi chết, ông sẽ được Franklin Roosevelt phục hồi.

        Trong một thời gian rất lâu — và cho mãi đến nay — người ta vẫn tự hỏi về ý nghĩa lá phiếu của MacArthur. Chính ông cũng không bao giờ tiết lộ, nhưng phải xem đấy chỉ là sự tôn trọng một toà án mà ông là một phần tử.

        Rất có thể là Douglas đã bỏ phiếu tha bổng.

        Một ký giả đã lục soát cả chiếc giỏ đựng giấy vụng sau phiên xử và khám phá được một lá phiếu bị xé rách mang nét chữ của ông Tướng, viết các chữ : Not guilty (không có tội)...

        Một vài người đã tranh biện rất lâu về sự kiện này.

        Hai mươi năm sau, MacArthur tâm sự với thượng nghị sĩ Alexander Willey của tiểu bang Wisconsin :

        «Vai trò của tôi đã được biết rõ hoàn toàn. Mitchell biết rất rõ điều đó. Không bao giờ ông ấy ngừng tỏ lòng biết ơn tôi. Tôi vẫn luôn luôn là một trong những người bạn thân nhất và trung thành nhất của ông ấy. Gia đình chúng tôi quen nhau từ rất nhiều năm và vẫn luôn luôn liên kết chặt chẽ với nhau...»

        Phần Mitchell, sau vụ án, đã tuyên bố với sử gia George Kenney :

        «MacArthur à ? Một người rất tốt bụng và một người bạn tuyệt vời. Một ngày nào đó người ta sẽ biết ông ấy đã trung thành với tôi như thế nào hồi năm 1925...»

        Tuy nhiên, nhiều năm sau, Mitchell lại lên án một cách gián tiếp là MacArthur đã góp phần bẻ gãy binh nghiệp của ông ta.

        Trong tập hồi ký của ông, ông Tướng chỉ bình luận như sau :

        «Tôi đã làm những gì có thể làm được cho ông ấy và tôi đã vận động để tránh cho ông khỏi bị ngưng chức vĩnh viễn. Hiển nhiên là ông ta sai lầm khi thốt rа những lời chửi bới, nhưng cũng hiển nhiên là chủ trương của ông rất chính xác, không thể bài bác được...»
        
*

*     *

        Năm 1927 tiếp theo cái chết của William Prout, Tướng MacArthur được giao cho nhiệm vụ tổ chức Thế vận hội.

        «Chúng ta không có nhiều may mắn lắm...»

        Tuy vậy ông được coi như có đủ tư cách chu toàn nhiệm vụ này. Chính ông là người đã đưa thể thao vào bộ môn quân sự khi ông chỉ huy trường võ bị West Point và giờ đây các phương pháp của ông được noi theo ở mọi cấp.

        Ông kể lại :

        «Tôi hết sức cương quyểt thu đoạt thắng lợi tại Amsterdam. Tôi đặt các lực sĩ dưới một chế độ huấn luyện gắt gao. Các lực sĩ là những người rất nóng nảy và nhạy cảm, tôi phải xử dụng sự tức giận, dỗ dành và năn nỉ. Tôi nói với họ rằng chúng ta là một quốc gia lớn nhất thế giới, rằng chúng ta không thể đi năm ngàn cây số để chấp nhận một sự thất bại mà vẫn cười cợt được. Rằng chúng ta có mặt ở đó để đoạt thắng lợi và thắng lợi hoàn toàn. Rốt cuộc chung tôi dẫn dầu, Đức quốc theo sát...»

        Vả chăng đoàn đại biểu Mỹ được tiếp đón rất nồng hậu tại Hòa Lan. MarArthur rất lấy làm hoan hỉ. Nữ hoàng Wilhelmiue mở dạ tiệc khoản đãi ông. Bà đã lưu ý trang trí bàn tiệc với những đóa hoa hồng MacArthur, được gọi như thế để tôn vinh thân phu ông. Ông đã thảo luận với bà về các vấn đề thuộc Viễn Đông.

        Ngày về thắng lợi của chúng tôi đã khiến chung tôi được tiếp đón một cách cuồng nhiệt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #15 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2019, 12:06:07 pm »


       
*

*     *

        Cuộc sống tiếp tục, đều đều buồn tẻ, tại Bantimore. MacArthur công khai bày tỏ những sự thật không được ai ưa. Ông tự biến thành nhà tiên tri của điều bất hạnh, ông phản đối một chính sách đơn phương giải giới trong khi hiểm họa cộng sản xuất hiện tại Âu châu, trong khi Nga Sô, theo ông, dường như trở nên mối đe dọa lớn lao, còn các quốc gia Trung Âu thì đang hoàn toàn tan rã...

        Khi lại được phái qua Manille, ông không phàn nàn gì. Trái lại, vợ ông thì có vẻ không thích mấy»

        Những tiếng xì xầm khó chịu về cặp vợ chồng này đã lan tràn tại Phi luật tân. Tình thế không thể kéo dài thêm. Năm 1928, hai ông bà đưa nhau đến Reno để ly dị.

        Sau đó bà Henrietta trẻ đẹp tái giá với tài tử Lionel Atwill, rồi lại thành hôn một lần thứ tư nữa với Đại tá Heiberg.

        Tuy vậy bà vẫn còn là một người bạn của ông tướng và luôn luôn từ chối nói với báo chí về thời kỳ bà sống với ông :

        «Đỏ là một nhân vật quá quan trọng khiến tôi không thể nói công khai những chuyện ấy...»

        Ông tướng trải qua hai năm dễ chịu tại Phi luật tân. Ông cảm thấy thoải mái tại đó đến nỗi đã từ chối chức vụ tư lệnh ngành công binh mà người ta dành cho ông năm 1929 :

        «Tôi không còn là một kỹ sư nữa, tôi đã trở thành một bộ binh...» ông tuyên bố.

        Năm 1930, cả một sự ngạc nhiên đối với ông, ông cho là như vậy, ông được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng, thay thế tướng Summerall.

        «Tôi ngần ngại, mặc dầu chức vụ ấy sẽ đi liền với bốn ngôi sao. Tôi quá rõ những gì sẽ là trách nhiệm khủng khiếp của tôi, ông viết, nhưng do lời khuyên của mẹ tôi, rốt cuộc tôi đã chấp nhận. Ngày 21 tháng 11 tôi tuyên thệ nhậm chức Tổng tham mưu trưởng. Tôi đã nhận mệnh lệnh từ ba mươi năm nay. Giờ đây đến lượt tôi ra lệnh...»

        Trong thực tế vụ thăng chức này không quá bất ngờ như ông tưởng. MacArthur phân lớn là nhờ ảnh hưởng của người cha vợ cũ, Edward T. Stotesburỵ, người đảm trách vận động tuyển cử của Tổng Thống Hoover vừa mới kế vị Coolidge. Tuy vậy nội vụ cũng không phải dễ dàn xếp. Ai cũng biết rành rành rằng Tướng Pershing ủng hộ sự bổ nhiệm Fox Conner hơn. Không ai quên những sự bất bình của vị cựu Tổng tư lệnh AEF đối với MacArthur.

        Ông Tổng trưởng Chiến tranh, Patrick J. Hurley, bênh vực sự đề cử MacArthur. Ông ta không do dự gì trong việc chọc tức Pershing, người mà ông từng phục vụ dưới quyền tại Pháp, một vố. ông thuyết phục được Hoover. Khi trở về, Pershing phản đối dữ dội và cố gắng làm cho Hoover đổi lại quyết định. Nhưng, đột nhiên, ông thay đổi ý kiến. Vỗ vào vai Hurley, ông tuyên bố ;

        «Suy cho cùng đấy là một trong những cậu «đệ tử» của tôi... Hãy để cho ông ta làm những trò bậy hạ của ông ta...»

        Bốn năm sau, vị lão tướng khẳng quyết:

        «Tôi luôn luôn ủng hộ sự đề cử MacArthur. Ông ta có khả năng lấy những quyết định cần thiết để cải tổ và làm cho quân đội ta hữu hiệu. Đó là một con người tiến bộ mà không cục bộ. ông ta rất can đảm trước uy quyền và các quan niệm của ông rất tuyệt vời. Công nghiệp của ông ta rất được đề cao và ông biết chinh phục sư kính nể của quân đội và của xứ sở...»
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #16 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2019, 07:22:07 am »


       
*

*     *

        Ngay từ khi được bổ nhiệm, Douglas MacArthur đến ở tại Fort Myers với mẫu thân, ông bắt tay ngay vào việc. Cải tổ lại một quân đội lúc mà không một ai còn muốn nghĩ đến chiến tranh nữa, là một công việc không dễ dàng gì. Ông bị tấn công từ mọi phía, và đã nhận thức được một sự cay đắng thật sự, nhưng không hề chán nản. Ông có dưới quyền những thành phần tốt, ông có nhiều ý tưởng và đạt được ít nhiều thành công:

        «Chúng tôi đã hoàn tất, ông giải thích, một kế hoạch động viên kỹ nghệ và một kế hoạch tổng động viên bao gồm mọi công dân, một kế hoạch mà nay vẫn còn áp dụng. Chúng tôi làm lại kế hoạch phòng thủ Hoa Kỳ, «kế hoach Bốn Đạo quân» mà những đường nét chính yếu vẫn còn tồn tại. Tinh thần của quân đội đã thay đổi. Quân đội thức tỉnh khỏi tinh thần uề oải của mình. Chúng tôi vận động đánh bại được một đạo luật nhằm giảm thiểu ồ ạt tập thể sĩ quan...»

        Năm 1932 đã có một thời kỳ bi thảm, có lẽ bi thảm nhất trong cuộc đời binh nghiệp của MacArthur. Đó là vụ được gọi là vụ the Bonus March.

        Vào thời đó, xứ sở lâm vào tình trang khủng hoảng toàn diện. Số người thất nghiệp lên đến nhiều triệu người. Trong tháng 5, hàng ngàn cựu chiến sĩ với vợ con đi theo đã đến cắm trại tại Anacostia Flats, gần điện Capitole. Họ yêu sách điều chỉnh bonus (trợ cấp) của họ. Phong trào đã được một người tên là Walter Waters đứng ra điều hướng. Ban đầu công chuyện xảy ra không có gì tệ hại. Quân đội cho dựng lều vải và đặt các nhà bếp lưu động, MacArthur phân phát vài đô la cho các cựu chiến sĩ sư đoàn «Mống trời». Một vài dân biểu phản đối. Các nhà bểp lưu động bị rút lại. Đám đông gia tăng thêm, trở thành náo động. Những «người diễn hành» tỏ ra không phải là không nhạy cảm trước hoạt động tuyên truyền của công sản.

        Thống đốc Nữu Ước, Franklin D. Roosevelt đề nghị thành phố ông chịu phí tổn đề hồi hương họ. Hoover chấp thuận các lệ phí để họ có thể trở về nhà. Nhưng những người gan lì nhất vẫn ở tại chỗ. Các cuộc biểu tình nối tiếp nhau trước tòa Bạch ốc và điện Capitole. Những cán bộ dẫn đạo cộng sản ngày càng tỏ ra ít hoạt động.

        Cảnh sát bất lực. Người ta đề cập đến sự can thiệp của quân đội. MacArthur hai lần từ chối. Nhưng tình thế không thể kéo dài mãi. Ngày 28 tháng 7, năm ngàn người biểu tình tràn ngập lực lượng giữ trật tự. Hoover yêu cầu MacArthur giải tán họ. Ông này đòi phải có một lệnh viết.

        Ông thi hành mệnh lệnh này. Theo cách của ông. Thay vì phái một thuộc viên đến «quét sạch» Anacostia Flats, đích thân ông đến đó. Để làm công việc này ông mặc bộ quân phục đẹp nhất, mang tất cả huy chương, đeo kiếm bên hông. Đi theo ông có Tướng Miles, thiếu tá Eisenhower và thiểu tá Patton. Quân sĩ tái lập trật tự một cách hung bạo, tung lựu đạn cay, đồng thời cũng đánh đập bằng kiếm và báng súng. Còn có cả chiến xa chạy vòng quanh khu đất. Sự biểu dương lực lượng này quá đáng với hành động phải làm. Người ta tự hỏi động lực nào đã thúc đẩy MacArthur làm như vậy. Rõ rằng là ông chỉ thi hành các thượng lệnh và thi hành một cách bực bội. Nhưng cũng rất chắc chắn rằng ông muốn gánh hoàn toàn trách nhiệm của hành động, muốn phô trương sức mạnh của ông để khỏi phải xử dụng quá nhiều sức mạnh. Về một phương diện nào đó có lẽ ông muốn hạn chế những thiệt hại.

        Chính từ lúc đó ông từ bỏ không mang lớp huy chương của ông trên ngực áo nữa.

        Chỉ trong vài giờ đồng hồ, ông trở thành con người bị ghét nhất Mỹ quốc. Các cuộc tấn công của báo chí thật dữ dội, hung bạo, bất công... Không phải là ông không biết xúc động. Và đã có lúc ông nghĩ đến việc kiện hai ký giả Drew Pearson và Robert Allen. Ông đòi 1.750 000 Mỹ kim bồi thường thiệt hại. Thế rồi ông hiểu ngay tính cách lố bịch của tình thế. Ông từ bỏ ý điịnh. Nhưng sự thù hận của ông thì vẫn còn đó. Hai mươi năm sau có người thật thà hỏi ông rằng ông có chú ý đến một bài báo của Pearson không, ông khô khan đáp : «Tôi chẳng có đọc cái gì do cái ông này viết cả...»
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #17 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2019, 07:22:24 am »


       
*

*     *

        Trong thời kỳ làm Tổng tham mưu trưởng, MacArthur viếng Âu châu hai lần. Một lần vào tháng 9 năm 1931, ông đến Pháp tham dự cuộc thao diễn lớn lao tại Champagne và gặp André Maginot và các Tướng lãnh Gamelin và Weygand.

        Năm sau ông trở lại Pháp và rất thích thú trước các nỗ lực — rất khiêm nhường — nhằm cơ giới hóa quân đội. Ông cũng tìm hiểu các sách viết tại Đức về vấn đề này và về vấn đề vận dụng không quân. Khi trở về nước ông tuyên bố :

        «Trận chiến sắp đến là một trận chiến tranh cơ động. Chính ngay cả Chúa cũng không thể cứu vớt kẻ nào không hành động mau lẹ. Dân tộc nào không làm chủ không trung sẽ bị đe dọa bởi nguy cơ chết người, bộ binh và hải quân cần sự che chở của không quân».

        Ngay từ lúc đó, ông gia tăng nỗ lực để tổ chức một quân đội vững chắc. Công việc thật khó khăn. Đôi khi Tổng Thống, các Tổng trưởng đồng ý. Nhưng không phải luôn luôn như vậy. Quốc Hội lại hiếm khi đồng ý hơn nữa.

        «Tôi tranh đấu, van xin, cằn nhằn, la hét. Gần như tôi đã phải liếm gót giày vài chính trị gia đề kiếm kinh phí cho nỗ lực cơ động hóa quân đội và gia tăng không lực.»

        Đối với Hoover, nỗ lực nầy đã không gặp dễ dàng rồi. Khi Roosevelt bước vào tòa Bạch ốc , cuộc vận động lại còn phức tạp hơn. Chính sách của Tân Tổng Thống, chính sách Neow Deal, là một chính sách kinh tế chỉ huy và kế hoạch hóa. Nó dựa vào sự mất giá của đồng đô la nên phải gây ra một phong trào phát triền và sự nâng cao mãi lực. Vấn đề số một là chiến đấu chống thất nghiệp, tổ chức kiểm soát tài chánh và tạo ra những tài nguyên mới. Nhưng đồng thời cũng phải tiết kiệm. Quốc phòng bị rớt xuống hàng thứ yếu. Ngân sách của bộ bị cắt giảm một cách mờ ám. Tổng trưởng Chiến tranh Dern không bênh vực hữu hiệu cho ngân sách. MacArthur đích thân bào chữa cho quân đội. Ông trình bày với Tổng Thống Roosevelt những nguy cơ đe dọa hòa bình thế giới do sự bành trướng của Nhật và sự tái sanh của chủ nghĩa quân phiệt Đức. Ông say sưa đến nỗi để cho lời nói vượt quá ý tưởng. Ông buông lời thô bạo : «Khi chúng ta thảm bại trong trận chiến tranh sắp đến và một thanh niên Mỹ, nằm ngửa trong bùn với chiếc lưỡi lê địch chĩa ngay nơi bụng và một gót giày địch chặn nơi cổ, thốt ra lời nguyền rủa cuối cùng, thì đó sẽ là để nguyền rủa Roosevelt chớ không phải MacArthur này...»

        Roosevelt tức giận đến xanh mặt :

        «Ông không có quyền ăn nói như vạy...»

        Ông Tướng hiểu rằng mình đã đi quá trớn. Ông xin lỗi và xin từ chức.

        Tổng thống tự chủ lại trước, ông biết MacArthur từ rất lâu. Ông rất quí chuộng ông Tướng : «Đừng cư xử một cách u mê như vậy, Douglas, ông nói. Ông sẽ thảo luận những chuyện này một cách bình tĩnh với ông Tổng trưởng Tài chánh...»

        Sau cuộc hội kiến nầy khi bước ra, ông Tổng tham mưu trương đã bị xúc động, rối loạn đến nỗi, ông kể lại ;

        «Tôi nôn mữa thốc tháo ngay trên hàng cột trước mặt tiền tòa Bạch ốс...»

        Tiếp theo đó tương quan giữa hai người vẫn tốt đẹp. Đến mức độ Tổng Thống hỏi cả ý kiến MacArthur về những vấn đề chẳng có liên hệ gì đến công việc Quốc phòng ;

«Douglas, đối với tôi, ông là biểu tượng của lương trì một người Mỹ trung bình...»

        Đoạn, một sự kiện đặc biệt, ông yêu cầu ông Tướng nắm giữ chức Tổng Tham mưu trường thêm một năm lâu hơn thời hạn bình thường. Ông hiểu rõ là hòa bình thế giới bị đe dọa và không bao giờ ngần ngại trước một vài sự hy sinh. Đến nỗi năm 1935 MacArthur có thể nói :

        Kể từ năm 1922, đây là lần đầu tiên, lục quân bước vào một tài khóa mới với viễn ảnh hữu lý là sẽ được phát triển cho đến mức trở thành một dụng cụ Quốc phòng mà hiệu năng tương xứng với các nhu cầu sống còn của xứ sở...»
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #18 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2019, 07:22:43 am »


       
*

*     *

        Môt Tổng tham mưu trưởng tốt, chắc chắn MacArthur là như thế rồi. Ông đã chứng tỏ không phải là một con người mộng tưởng, và đã tận tâm chu toàn công việc của mình. Ông đã hiểu vai trò mà thiết giáp sẽ có thể đóng, song le không phải vì vậy mà ông tiến tới chỗ chấp nhận việc tạo dựng các đại đơn vị thiết kỵ hoạt động độc lập như đã được Đại tá Chaffee của Hoa Kỳ và Đại tá Charles de Gaulle của Pháp thời đó cổ xuy. Ông cũng không muốn để cho không quân có toàn quyền thật sự, mà thích giữ không lực trong lòng lục quân hơn.

        Một cách mâu thuẫn, ông chống lại sự sáng lập một Tổng Bộ Quốc phòng, bao gồm các Bộ Lục quân, Hải quân và Không quân.

        Đôi khi ông tỏ ra quá tỉ mỉ, kiềm soát rất ngặt nghèo các đợt thăng cấp sĩ quan và biết cách lánh xa những kẻ ông không ưa. Chính như thế mà ông đã phái «kẻ thù trong thâm tâm» Marshall của ông đến chỉ huy vệ binh tại tiểu bang Illinois, ở Chicago.

        Tuy vậy ông buồn chán. Ông đã năm mươi lăm tuổi, cơ thể đầy sinh lực và hiểu rõ rằng chẳng bao lâu nữa ông sẽ phải rời bỏ chức vụ. Ông không thích về hưu chơi đồ cổ chút nào. Ông thường nhắc lại các kỷ niệm vinh quang. Ông thích gợi chúng ra trước các Cựu đồng đội thuộc sư đoàn «Mống trời» Những người này đã họp nhau lại tại Hoa thịnh đốn năm 1935 và ông đã đọc trước họ một bài diễn văn bay bướm :

        «Đã cách đây mười bảy năm rồi... Những ngày ấy đã mất rồi và cả màu sắc, cả âm thanh. Như ngọn lửa leo lét rung rinh, họ đã đến với những mọng mơ của dĩ vãng. Kỷ niệm của họ là một khu vườn trong đó muôn hoa đẹp lạ lùng giao nhau, với màu sắc bất tận, được tưới bằng nước mắt và ngây ngất dưới sự vuốt ve của những nụ cười xưa cũ. Không còn tiếng hát nào của vương quốc của sự lãng quên ấy vút lên cao để rồi rơi hẳn xuống nữa. Vành tai âu lo chờ đợi vô hiệu tiếng vang dội đầy say đắm của những hòa khúc du dương đã mất... Những bóng ma diễn qua trước những cặp mắt khép hở của chúng ta, y phục màu vàng, màu xanh da trời hay màu feldgrau. Những giọng nói này chìm ngập trong tiếng vang động của chiến trận, không còn ai nghe chúng nữa. Tiếng thì thầm mỏng manh của những lời bị lãng quên không còn lướt trên không trung. Tuồi trẻ... sức mạnh... hy vọng... trận chiến... vinh quang... thất vọng... gió thổi mạnh... hỏa châu xé rách bóng tối thăm thẳm... di chuyển... sống... chói lọi... bóng tối... tiếng kèn đồng báo thức yếu ớt... tiếng trống tống tử xa xa... tiếng nổ chát chúa của đại bác... tiếng liên thanh nổ dòn... thập tự trắng ngút ngàn trên mộ chí... Và, giờ đây, chúng ta đây, tập họp tại nơi này đề tôn thờ kỷ niệm dĩ vãng...»

        MacArthur không phải là người tự để cho bị ru ngủ lâu dài trong niềm hồi tưởng quá khứ đây lãng mạn này. Ông cảm thấy tràn đầy sinh lực phục vụ. Ông cũng cảm thấy ngày càng khó chịu tại Hoa thịnh đốn. Người ta tiếp tục chỉ trích ông. Kỷ niệm của vụ Bonus March chưa xóa nhòa được.

        Một lần nữa giải pháp được đưa đến từ Phi luật tân.

        Manuel Quezon trở thành Tổng thống của nền Cộng hòa trẻ trung. Nước này sẽ được độc lập vào năm 1946... Và hiển nhiên là Hoa Kỳ sẽ không để cho xứ nầy rơi ngay vào vòng ảnh hưởng của một quốc gia khác. Nước Nhật chẳng hạn, một xứ vừa lao vào vòng chiến với Trung Hoa và không hề che giấu dự tính bành trướng của mình. Do đó ngươi Phi luật tân phải có khả năng để tự vệ.

        — Liệu có thể được không ? Quezon hỏi người ban vong niên...

        — Được, MacArthur trả lời và nói tiếp ngay : được, nếu chịu chi khá tiền : 5 triệu mỹ kim mỗi năm chẳng hạn...»

        Ông viết tiếp ;

        «Và lúc đó chẳng ai tấn công ông nữa vì như thế sẽ làm họ phải trả giá đắt hơn là những lợi lộc rút ra được, ông thấy đó, Manuel thân mến, tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được cho xứ sở của tôi. Nếu vạn nhất có một cuộc chiến tranh sắp xảy ra, tôi chưa biết xứ sở và dân tộc tôi sẽ giao cho tôi vai trò gì... Phi luật tân là tổ quốc thứ hai của tôi... Và tôi muốn giúp ông. Nhưng sẽ không có điều gì nghiêm chỉnh được hoàn tất mà không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Nếu không phải là quá chậm thì ta có thừa thì giờ tổ chức hệ thống quốc phòng của ông. Nếu ông Tổng trưởng Chiến tranh và Tổng Thống muốn thì tôi sẵn sàng qua bên ấy giúp ông...»

        Quezon chụp lấy cơ hội. Roosevelt chấp thuận.

        Trước khi quyết định, theo thói quen, MacArthur hỏi ý kiến mẹ, lúc đó bà đã 82 tuổi. Bà rất lấy làm hoan hỉ. Bà chỉ đặt một điều kiện :

        «Đưa mẹ đi theo với con... Mẹ có cảm giác mọi chuyện sẽ suông sẻ và con sẽ nắm giữ một vai trò quan trọng...»

        Được ve vuốt tự ái, ông Tướng bằng lòng.

        Khi rời Hoa Kỳ vào mùa thu năm 1935, ông còn mang bốn ngôi sao của chức vụ Tổng Tham mưu trưởng. Trong số các công sự viên đi theo ông, có thiếu tá Dwight D.Eisenhower.

        Trên tàu, MacArthur thảo chương trình phòng thủ Phi luật tân, bản văn trở thành đạo luật số một của quốc gia nhỏ bé ấy. Ông ý thức những gì là khó khăn trong việc tạo lập một cái gì vững chắc tại một xứ nghèo và không được kỹ nghệ hóa, nhưng ông rất vui sướng vì cuộc tiẽp đón đành cho ông. Một cuộc tiếp tân diễn ra tai Manila Gridiron Club. Hai binb sĩ dáng điệu kém hùng dũng bồng hai khẩu súng cũ kỹ đứng dàn chào :

        «Tôi ủy thác quân đội Phi luật tân vào tay ông, Quezon nói một cách hoa mỹ.

        — Xin cám ơn, nhưng để bắt đầu mà chỉ có hai binh sĩ thì hơi ít...»

        Ông bắt tay vào việc ngay.

        Về chỗ ở, ông Tướng chọn Manila Hotel, ông ở với mẹ tại đấy. Bà mẹ lâm bệnh. Thuốc men được cho người về mua tại Hoa Kỳ đến quá trễ. Bà mất ngày 3 tháng 12 nam 1935. Đối với ông Tướng, đây là một vố nặng. Ông luôn luôn liên kết với mẹ, bà là người bạn đồng hành quí nhất của ông và vị cố vấn khôn ngoan nhất của ông. Nay chỉ còn một mình ông đại diện cho gia đình : thân phụ ông mất năm 1912, anh ông năm 1923, mẹ ông năm 1935... ông chỉ còn lại một người cháu, ông đã nghĩ đến việc tục huyền nhưng điều này ông không tâm sự với mẹ sợ làm cho bà phải bận tâm trong những giờ phút sau cùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #19 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2019, 07:23:04 am »


       
*

*     *

        «Ngày 30 tháng 4 năm 1937, MacArthur kể lại, lúc ấy ông đã 57 tuổi, tôi cưới Marie Faircloth tại tòa thị chính Nữu Ướ'c. Có lẽ đây là hành động thông minh nhất đời tôi. Từ ngày ấy, Jean vĩnh viễn là ngươi bạn chắc thực nhất, người vợ dịu dàng nhất, và người đồng chí trung thành nhất. Trong suốt những năm ấy, làm sao nàng có thể chịu đựng nổi tính gàn của tôi và tính buồn vui bất chợt của tôi được, thật tôi không làm sao hiểu nổi... Con trai chúng tôi, Arthur ra đời ngày 21 tháng 2 năm 1938 và từ đó không bao giờ tôi còn cảm thấy đơn độc nữa...»

        Đó là một lời ca ngợi đẹp đẽ nhất mà một trong những người kiêu căng nhất thế giới dành cho một người đàn bà biết tìm hiểu ông và yêu thương ông.

        Neu Douglas sinh ra để làm một lãnh tụ quân sự vĩ đại thì, theo lời một trong những người viết về tiểu sử ông, đường như Jean cũng được sinh ra để làm vợ một ông Tướng. Ngay từ tuổi ấu thơ, tại Murfreesboro, Tennessee, bà đã tỏ ra có ý thích chắc nịch về bộ quân phục và nhạc quân hành. Khi trở thành thiếu nữ, hội viên nhiều hiệp hội khác nhau, trong do có hiệp hội quí phái nhất Mỹ quốc, hội các Ái nữ Cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, bà từng đảm trách công cuộc tổ chức ngày lễ Độc lập 4 tháng 7.

        Chính trên chiến hạm SS President Hoover là nơi Douglas MacArthur gặp Jean lần đầu tiên. Bà rất đẹp? ba mươi tám tuổi và sau một lần tình yêu đổ vỡ, bà qua Thượng Hải, nơi gia đình đang ở. Phần ông thì đến nhậm chức tại Manille. Ông được giới thiệu với bà nhân một buổi tiệc trà. Họ chuyện trò với nhau trong bữa ăn tối — cả hai đều được hạm trưởng mời ngồi cùng bàn — Và, đêm đó, khi trở về phòng, Jean thấy một bó hoa thật đẹp...

        Họ ý thức mau lẹ tình yêu dành cho nhau Jean thu ngắn thời gian ở lại Thượng Hải và một buổi sáng đẹp trời, lấy máy bay đi Manille.

        Người thiếu phụ sinh năm 1898 tại Nashville. Thời thơ ấu bà có đôi phần giao động giữa một bà mẹ chướng kỳ và một ông cha phóng đảng ít nhiều, đến ly dị nhau khi bà còn rất nhỏ. Do đó phần lớn bà đã trưởng thành tại Murfreesboro nhờ sự giáo dục của ông ngoại, đại úy Richard Beard. Một chi tiết thú vị, ông ngoại bà, cũng như Arthur MacArthur, thân phụ ông Tướng, đã từng chiến đấu tại Missionary Ridges và tại Stones River, trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc phân tranh... nhưng ông ta lại thuộc phe miền Nam.

        Edward, thân phụ Jean gốc người Gia nã đại. Sau một thời gian lập nghiệp khá phiêu lưu, ông tu tỉnh và trở thành chủ ngân hàng giàu có. Mẹ bà, được mệnh danh là «MissSallie» trong thành phố nhỏ bé của họ, là một người quảng đại và xung động. Bà tái giá với Frederick Smith và có nhiều con cái. Mùa hè, bà biến ngôi nhà của gia đình trong vùng núi lân cận Murfreesboro, thành khách sạn. Trong một thời gian ngắn, bà hoạt động kịch trường và đóng kịch tại Nữu Ước. Chẳng bao lâu sau, bà trở về nhà và bắt đầu lập đoàn kịch riêng tai Murfreesboro. Trong thời gian này Frederick Smith tỏ ra là một triết gia và chu du khắp nơi vừa viết bài cho nhiều tờ báo.

        Bà mẹ khá độc đáo ấy cũng là một người đàu bà xuất chúng. Bà tốt bụng và phóng khoáng và nhất là có nhiều bạn thân trong giới da màu. Ba biết trừ tận gốc thiên kiến kỳ thị chủng tộc trong trí óc có con gái, điều này vào thời đó tại miền Nam là cả một thành tích. Và về sau Jean đã nói rằng một trong những điểm quyễn rủ bà nhiều nhất nơi MacArthut chính là tình thân thiện của ông đối với dân da màu, Người ta có thể trách ông tướng nhiều điều, nhưng chắc chắn không phải là vì ông có đầu óc kỳ thị chủng tộc bất cứ vào một lúc nào đó trong cuộc đời binh nghiệp của ông.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM