Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:54:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đời tình ái và binh nghiệp của thống tướng Mac Arthur  (Đọc 6599 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 02 Tháng Mười, 2019, 04:06:20 pm »

    
        - Tên sách : Đời tình ái và binh nghiệp của thống tướng Mac Arthur

        - Tác giả : Bernard Michal với sự cộng tác của : ERICDE Goutel Jean Renald và Brigitte Friang

        - Bản Việt ngữ : Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên với sự cộng tác của Hồ Tâm Huân

        - Nhà xuất bản Sông Kiên

        - Năm xuất bản : 1974

        - Số hóa : Giangtvx

« Sửa lần cuối: 17 Tháng Sáu, 2020, 11:09:39 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2019, 05:47:48 pm »


MỞ ĐẦU

        Trong suốt cuộc đời ông, Douglas Mac Arthur là một con người ngoại hạng. Cao ngạo, ưa tranh biện, bị ghét bỏ hay trái lại, được xiểm nịnh, nhưng luôn luôn là người thích sự phô trương và sự trình diễn.

        Вinh nghiệp của ông là cả một tấm gương. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống quân sự, một gia đình trong đó người ta không thể làm gì khác hơn là nhà binh, Mac Arthur tốt nghiệp thủ khoa tại West Point với một tổng số điểm 100 trên 100. Ông sẽ là vị thiếu tướng trẻ nhất trong quân đội Mỹ, lúc 38 tuổi, trước khi trở thành Thống chế... của quân đội Phi luật tân.

        Trong thời Đệ nhị Thế chiến, sau cuộc bại trận và sự rời bỏ Phi luật tân ra đi của ông, những lời nói sau cùng của ông trở nên là những lời lịch sử : «Tôi sẽ trở lại.» Và quả nhiên ông đã trở lại và kết thúc cuộc chiến trong tư cách Tư lệnh tối cao Quân lực Đồng minh tại Thái Bình Dương. Chính ông là người đã nhận cuộc đầu hàng của Nhật, ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên thiết giáp hạm Missouri.

        Vào thời kỳ này, lúc đó, một giai đoạn mới lại bắt đau trong cuộc đời binh nghiệp lâu dài và đầy vinh quang của Mac Arthur. Làm Cao-ủy Toàn-quyền tại Đông kinh, ông cai trị xứ Nhật một mình. Nhưng chẳng bao lâu sau, vào tháng 6 năm 1950, ông trở lại vai trò lãnh tụ chiến tranh : tại Cao ly, đối diện với các quân đội Cộng sản. Những sáng kiến của ông, mà một số người xét đoán ít nhất cũng là nguy hiểm và không hợp thời, hiển nhiên là sẽ đặt thế giới bên bờ vực thẳm thế chiến thứ ba. Lần này là một cuộc chiến tranh nguyên tử !

        Sau cùng, MacArthur bị Tổng thống Truman bãi chức và, cùng lúc mất cả chức Nhiếp chánh tại Nhật lẫn Tổng tư lệnh Quân lực tại Cao ly. Khi trở về nước, cả Mỹ quốc hoan hỉ tiếp đón ông như một vị anh hùng. Song le, những sự chỉ trích ông cũng rất nhiều và ít ra cũng rất là chua cay. Người hùng chiến thắng tại Thái Bình Dương chết trong quên lãng năm 1964.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2019, 05:48:31 pm »


TỪ MIỀN VIỄN TÂY ĐẾN THẾ CHIẾN

        Douglas Mac Arthur sinh ngày 26 tháng 1 năm 1880 tại Little Rock, trong tiểu bang Arkansas. Thân phụ ông là sĩ quan.

        Dòng họ Mac Arthur phát nguyên từ Tô Cách Lan. Họ thuộc thị tộc Campbell và, như ông Tướng từng nói một cách khiêm nhường, «những truyền thống của gia đình trùng hợp với những truyện truyền kỳ oanh liệt của vua Arthur và của các Hiệp sĩ Bàn tròn...» Một câu tục ngữ cổ xưa, vẫn lan truyền ở Tô Cách Lan, khẳng quyết :

        « Không có gì kỳ cựu hơn — nếu không phải là núi non — dòng họ Mac Arthur và Quỷ vương ».

        Kỳ hiệu bằng vải ca-rô màu lục, đen và vàng : «Màu lục tượng trưng cho những cây thông sáng ngời. Màu đen cho những kẻm núi ghê rợn. Màu vàng cho những cây kim tước vui tươi. Đấy : Kỳ hiệu của dòng họ Mac Arthur !»

        Huy hiệu của dòng họ là cây sim rừng. Tiếng thét lâm chiến của họ là «Nghe ! Hãy nghe ! »

        Và MacArthur trích dẫn trong Hồi ký của ông: «Tiếng kèn bị của người Tô Cách Lan vang lên bên bờ hồ Loch Au, một giọng nổi trên Cruschau kêu gọi âm vang từ dưới kia lên đến trên này : Hỡi Mac Arthur, trong bụi sim hãy nhảy chồm tới, hỡi những người kiêu hùng, hãy nai nịt, cầm lấy binh khí và Nghe ! Hãy nghe !... »

        Sau đó ông giải thích :

        «Trong những năm dài phục vụ, cũng như những người ở Loch Au, tôi đã thường phải nghe theo lời hô hào cầm binh khí...»

        Con người sẽ đánh bại nước Nhật tự cao tự đại của các võ sĩ đạo sống một thời ấu thơ được dỗ dành bằng những công nghiệp vĩ đại của Geronimo. Nhưng vào thời đó, vị lãnh tụ da đỏ trứ danh không phải là biểu tượng của một nền văn minh bị áp chế đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa tư bản, mà là một thực tại hiển nhiên, một nhân vật đáng sợ sẵn sàng lột da đầu người Mỹ da trắng nào dẫn xác đến. Đối với ông, những người viễn tây, chính là đời sống. Cũng như những chiếc xe mui vải chạy lộc cộc trên những con đường mòn dịu vợi, cũng như mùi da va mùi phân ngựa, cũng như những tân binh và những dây choàng móc giữ vào quần của họ, cũng như tiếng kèn đồng chát chúa vang lên mỗi buổi sớm mai. Những người bạn đâu tiên của ông là các trung sĩ già tái đăng bên cạnh họ là những gã bé con kéo lê chân bước theo, những binh sĩ khoác lác hay cầu nhàu, những người mà Đại úy MacArthur, ông cha, biết dùng một giọng nói nữa dịu dàng, nữa hách dịch :

        «Chú có thể phản đối, nhưng chú vẫn phải đi...» Bởi với Douglas và anh cả của ông, Arthur, đó là một thời kỳ tuyệt vời. Trong ba năm liền họ sống tại Fort Selden. Tại đó, đại đội «K» có hai sĩ quan và 45 binh sĩ và hạ sĩ quan. Chỗ đóng quan được giới hạn bởi các trại binh. Hai cậu bé học cưỡi ngựa và bắn súng trường, trước khi biết đọc và viết. Chính bà mẹ là người đã dạy cho hai anh em những bài học thô sơ vỡ lòng. Bà cũng khắc ghi vào đầu óc họ ý nghĩa sâu xa của nghĩa vụ :

        «Phải làm điều phải, dầu cho chúng ta phải trả giá đắt. Tổ quốc phải đứng đầu trước tất thảy mọi sự ràng buộc và nghĩa vụ khác. Co hai điều mà chung ta không bao giờ nên làm : nói láo và mách lẻo...» Cuộc sống lúc đó rất phấn khích và hấp dẫn. Cũng như những cuốn sách trong thư viện của vị Đại úy gợi ra những giờ phút lịch sử vĩ đại của Hoa Kỳ và của gia đình MacArthur. Hai cậu bé đều biết rõ về tổ tiên vốn đã từng là «vua» nước Ý, rồi bi ám sát chết. Về người đã từng đi theo vua Jacques Ier. Về những vị từng tham dự các đoàn quân Thập tự viễn chinh, đã từng chiến đấu chống người Anh, từng sống lưu vong tại Úc... Trong huyết quản của hai anh em, nó trộn lẫn dòng máu Tô Cách Lan, Pháp, Ái Nhĩ Lan...Anh.

        «Chúng tôi không thiếu trò giải trí. Có những cuộc viẽng thăm của các sĩ quan và các đoàn tuần tiễu từ Fort Stanton đến từ phía đông trong nhiệm vụ canh giữ trước khu vực dành riêng cho ngươi da đó tại Mescalero. Chúng tôi cưỡi lừa đi theo toán tạp dịch lấy nước, ngày nào cũng đến sông Rio Grande, cách đồn binh nhiều dặm đường. Và đêm nào chúng tôi cũng dự lễ chào cờ, thẳng người cứng nhắc trong thể đứng nghiêm, trong lúc tiếng kèn đồng vang lên».
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2019, 05:49:29 pm »

 
*

*      *

        Họ mài mòn đùng quần trên ghế các nhà trường do quân đội xây dựng. Sau đó gia đình MacArthur dời đến Sam Houston, thuộc Texas, và các cậu bé tiếp tục việc học ở đấy một cách nghiêm chỉnh hơn;

        «Tôi vui sướng nhiều ở miền Texas, Douglas kể lại. Tại đấy tôi thích học toán, ngôn ngữ Hy Lap và La Tinh và, trong tiểu bang mênh mông khoáng đãng và có đôi chút hung bạo này, tôi có thể chơi các trò thể thao dữ dội mà đối với các thanh niên trưởng thành luôn luôn là một sự hấp dẫn lớn lao...»

        Người đầu tiên trong họ MacArthur đến Hoa kỳ là Arthur, ông nội của ông Tướng. Ông đến cùng với bà mẹ là Sarah Mac Arthur - MacArthur, vào khoảng năm 1825. Họ định cư trong tiểu bang Massachusetts, tại Ghicoppee Fall, gần Springfield. Arthur, ông nội sinh năm 1815 tai Glasgow. Theo học ở Uxbridge, tại học viện Wesleyan Academy, rồi tại đại học Amherst, tiểu bang Nouvetle - Angleterre. Sau đó ông theo học luật tại Nữu ước, tình nguyên đầu quân, chiến đấu chống người da đỏ và đen năm 35 tuổi, di cư đến vùng Grands Lacs. Ông trở thành biện lý của thành phố Milwaukee. Ông lập gia đình lần đầu nhưng chỉ kéo dài được một thời gian ngắn. Trong cuộc hôn nhân thứ hai, ông cưới cô Aurelia Belcher, bà nầy sinh với ông hai người con trai, Arthur và Frank. Aurelia thuộc về một gia đình kỳ cựu gồm những luật gia, chiến binh và y sĩ. Bà lại có liên hệ thân thuộc với dòng họ Churchill và dòng họ Roosevelt. Do đó cậu bé Douglas sẽ là anh em họ xa với «con sư tử già» Anh quốc và với Tổng Thống Roosevelt. Năm 1885 Arthur ông được bầu làm Phó Thống đốc tiểu bang Wisconsin. Ông Thống Đốc, một người tên Barstow bị kết án có hành vi gian trá và phải từ chức. MacArthur trở thành Thống Đốc. Trong một thời gian không lâu: Năm ngày. Ông từ chối thảo luận tính cách hợp pháp của cuộc bầu cử cá nhân ông và từ chối dựa vào vệ binh để được ngồi nguyên vị:

        «Trong cái thế giới này, ông giải thích, chỉ có hai cách để cai trị, bằng sức mạnh mà không cần luật pháp, và bằng luật pháp mà không cần sức manh». Ông chọn cách thứ hai và đến phiên ông lại từ chức. Tiếp theo đó ông trở thành chánh án quận tại Milwaukee, và giữ chức vụ này trong mười ba năm. Ông giao thiệp liên kết với Lincoln và sau đó với Tướng Grant, và được ông này gọi về Hoa Thịnh Đốn làm chánh án dự khuyết quận Columbia. Ông cáo hưu lúc 73 tuổi và dành thì giờ để viết nhiều loại sách khác nhau. Một trong các tác phẩm ấy là một bảng biện mình cho nữ hoàng Tô Cách Lan, Marie Stuart, một cuốn khác cổ nhan đề là The Biography of the English Language. Ông mất năm 1896, lúc 81 tuổi tại Atlantic City...

        Trong suốt đời ông, MacArthur vẫn giữ niềm tôn sùng thân phụ. Khi là sinh viên sĩ quan tại Trường Võ bị West Point, một hôm ông nói :

        «Tôi hy vọng trở thành một con người vĩ đạ như thân phụ tôi ! »

        Năm mươi năm sau, sau vụ Cao Ly, lúc ông được mời ra làm nhân chứng trước Thượng Viện, ông đã gợi ra kỷ niệm của vị thân sinh này với rất nhiều nhiệt tình. Và một thượng nghị sĩ bình luận lời ông bằng cách nói:

        «Thật cha nào, con nấy...

        — Xin cám ơn ông, ông tướng đáp, không có một lời khen tặng nào của ông có thể làm cho tồi vui thích hơn...»

        Binh nghiệp của hai người giống nhau đến mức có nhiều điểm trùng hợp nhau nhất là cả hai đều đã nắm vai trò chỉ huy trong một thời gian rất lâu tại Viễn Đông.

        Quả thật Arthur Mac Arthur không phải là một ngươi thường. Khi cuộc nội chiến Nam Bắc phân tranh (1860-1865) bùng nổ ông mới có mười sáu tuổi. Vào thời đó chàng thanh niên đã biểu lộ ngưỡng mộ vô bờ đối với Abraham Lincoln, và ông xin thân phụ, ông chánh án, cho phép tình nguyện đầu quân. Thỉnh nguyện bị từ chối :

        «Con ráng chờ thêm một năm nữa. Ba sẽ gởi con vào một quân trường ; sau đó, xin Chúa che chở cho con...»

        Ngày 4 tháng 8 năm 1862 — một năm sau cuộc nói chuyện trên — nhờ sự giao thiệp của thân phụ, Arthur đươc bổ nhiệm làm Chuẩn úy tại trung đoàn 24 của Tiểu bang Wisconsin. Đây chỉ là một cậu bé con, vai so, má hồng... Và khi ông ra những mệnh lệnh đầu tiên, giọng của ông vỡ toang, nó có những âm thanh ồ ồ của một thanh niên vừa trổ mã. Binh sĩ phá ra cười rũ rượi. Ông Đại tá nổi sùng và cầu nhàu :

        «Tôi cần một ông Chuẩn úy chứ không phải là một anh bé con hỉ mũi chưa sạch...»

        Ông ta yêu cầu trả ông về nhà. Chàng thanh niên Mac Arthur phản đối :

        «Tôi là một quân nhân, tôi sẽ chứng tỏ điều này trên chiến trường... Tôi biết bổn phận của tôi...»

        Ông Đại tá đành để cho bị thuyết phục.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2019, 11:12:58 pm »


*

*       *

        Trận đánh đầu tiên xảy ra tại Chaplin Hill, trong tiểu bang Kentucky, tháng 10 năm 1862. Ông Chuẩn úy «bé con» đã chiến đấu anh dũng và không những chỉ được bằng cấp Bại úy mà còn được sự khen thưởng và lòng quý chuộng của chính Tướng Philip Sheridan

        Cuối mùa thu là thời gian huấn luyện và một lần nữa, vào tháng giêng, Arthur Mac Arthur lại có măt ở tiền tuyến, lần này thì tại tiểu bang Tennessee,

        Trận chiến cực kỳ đẫm máu và hỗn độn. Bắc quân phải di chuyển xoay chung quanh chính vị trí của mình để khỏi bị bao vây. Cuối ngày, sau một cuộc chém giết ghê rợn, đoàn quân lại có mặt gần như tại cùng các cứ điểm của buổi sáng :

        «Hoan hô, Arthur, Tướng Sheridan khen lớn, chú không để mất một tấc đất nào cả.»

        Ông bị bệnh thương hàn. Vừa khỏi bệnh, ông liền trở lại để tham dự trận đánh nổi tiếng tại Missionnary Ridge. Ở đấy cũng vậy, cảnh hỗn độn nhất đã xảy ra trên chiến trường. Đột nhiên hiệu kỳ của trung đoàn 24 Wisconsin được mang tiến về phía trước. Hai hạ sĩ và ông Đại úy trẻ tiến theo. Viên trung sĩ mang cờ bị bắn ha. Một hạ sĩ lên thay và cũng bị giết chết. MacArthur chiếm lấy cây cờ và thét lên bằng giọng yếu ớt của ông :

        «Tiến lên, Wisconsin !...»

        Ông bị Nam quân vây bọc tứ phía. Một Đại tá xả cho ông một lát gươm, nhưng một viên đạn bắn trung lưỡi gươm đẩy nó dạt ra. Chàng thiếu, niên dù bị thương ở vai, vẫn tiếp tục tiễn tới. Tướng Grant đang theo dõi trận đánh chẳng hiểu gì cả :

        «Chuyện gì xảy ra cho họ vậy, ai bảo họ tiến cách đó ? Bảo họ trở về vị trí ngay...

        — Không có gì có thể chặn họ lại được đâu một sĩ quan kiểu cách tuyên bố...

        — Hy vọng rằng chuyện đó không chuyển thành thảm họa, Grant bẻ lại.»

        Arthur biết cách khích động binh sĩ. Họ chiến thắng sự sợ hãi bằng cuộc chiến đấu cao cả. Cậu bé ngã gục, kiệt sức, sau khi cầm cây cờ,

        Sau đó, Tướng Sheridan đến thăm ông trong bệnh xá :

        «Hãy săn sóc ông ta cần thận, ông gởi gắm vị y sĩ, ông ta vừa được danh dự bội tinh đấy...»

        Chiếc huy chương chỉ được trao gắn cho ông... 27 năm sau, ngày 30 tháng 6 năm 1890, Trong khi chờ đợi, ông Đại úy nhỏ bé trở thành Đại tá chỉ huy trung đoàn của mình. Các sĩ quan dưới quyền đều tuân lệnh ông, nhưng ông trẻ đến nỗi các viên chức dân sự đặc trách cuộc bầu cử trong quân đội nhân dịp cuộc tái cử của Lincoln, đã từ chối không cho ông bỏ phiếu... Điều này cũng không ngăn được ông tham dự các trận đánh mới. Một lần nữa, ông thoát chết. Viên đạn lẽ ra đã giết chết ông lại bị chặn đứng bởi một cuốn thánh kinh mà ông luôn luôn bỏ trong túi áo. Trong dịp này, ông được tuyên dương như sau :

        «Trong suốt dòng lịch sử, hiếm khi ta có thể nói một đơn vị nào đó đã cứu thoát cả một quân đội. Tuy vậy đó là trường hợp đã xảy ra tại Franklin, khi trung đoàn 24 Wisconsin, dầu không được mệnh lệnh nào của thượng cấp, đã cấp thời hành động để đẩy lui quân địch và lập lại phòng tuyến của ta. Trung đoàn đã được điều khiển một cách sáng chói bởi Đại tá trẻ tuổi Arthur MacArthur.»

        Khi lành bệnh, chàng thanh niên kết thúc chiến tranh tại tiểu bang Tân Orléans. Khi hòa bình đã được vãn hồi, trung đoàn diễn hành trên các đường phố tại Milwaukee và được giải tán. Viên Đại tá trẻ nhất quân đội Mỹ trở về đời sống dân sự.

        Trong vòng một năm, chàng thanh niên, vừa mới thành niên, theo học luật và sử. Rồi ông trở lại với tình mê say ban đầu và được ủy nhiệm làm thiếu úy trong một đơn vị thuộc quân đội chính qui, đại đội 17. Cùng ngày hôm đó, ông được thăng cấp trung úy và bốn tháng sau thăng cấp đại úy thuộc đại đội 28. Lúc đó, binh nghiệp sấm sét của ông bị ngưng lại một lúc, một thời kỳ ngưng trệ những hai mươi ba năm. Ông trải qua bảy năm để săn đuổi người da đỏ. Ông trở thành một nhân vật của Miền Tây.

        Trong khi sống qua suốt mùa đông 1874-1875 tại tiểu ban Tân-Orleans, nhân một hôm lễ Mardi Gros, ông giúp một cô gái miền Virginie, 22 tuổi rất xinh đẹp, Магу Pinkey Hardy. Ông yêu nàng. Hôn lễ được cử hành vài tháng sau, ngày 19 tháng 5 năm 1875 tại Norfolk. Ái nữ của một y sĩ, bà MacArthur có bảy anh chị em. Bà thuộc về một gia đình kỳ cựu tại miền Nam. Vài bạn hữu сủа bà không chấp nhận cuộc hôn nhân với một sĩ quan bắc quân này.

        Từ đó là bắt đầu đời sống doanh trai. Nhất là các doanh trai tại Miền Tây. Năm 1876 bà sanh cậu con đầu lòng, Arthur, rồi một cậu thứ hai, Malcolm nhưng lại bị chết sớm và sau cùng Douglas, năm 1880. MacArthur có về Hoa Thinh Đốn làm việc môt thời gian, rồi trở lại Texas.

        Năm 1898, Đại tá MacArthur định cư gia đình tại Milwaukee, và xuống tàu đi Phi luật tân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2019, 11:14:00 pm »


*

*       *

        Trong cùng năm 1898 ấy, Douglas MacArthur thi đậu số 1 vào khóa sĩ quan West Point. Ông đã theo học tại Viện quân sự Texas để chuẩn bị thi vào West Point và trong kỳ thi nhập học ông được chấm đậu với số điểm phi thường là 931/з trên 100.

        Thật ra, nếu không bao giờ ông nhắm làm một nghề nào khác hơn là theo đuổi binh nghiệp thì chàng thanh niên tuổi trẻ, thời đó, lại thích đầu quân hơn, để tham dự cuộc chiến tranh vừa mới bắt đầu tai Cu ba, nhưng ý muốn này đã bị thân phụ chính thức chống lại.

        Trong thời kỳ này, thời kỳ thân phụ thì ở Phi luật tân và anh cả, vừa tốt nghiệp trường Annapolis và đang bắt đầu học nghề thủy thủ, chàng sinh viên sĩ quan trẻ tuồi sống dưới ảnh hưởng gần như là độc nhất của bà mẹ. Mẹ ông lại rất yêu quí các con và nuôi dưỡng những tham vọng lớn lao nơi các con cái, đặc biệt là nơi Douglas. Chính bà đã khắc ghi vào tâm não ông rằng ông được thiên ân kêu gọi đề đảm trách những vận mệnh cao cả. Bà Mary MacArthur có một nhân cách rất mạnh mẽ. Là một thiếu phụ xinh đẹp, thanh lịch, nhưng đồng thời bà cũng rất cứng đầu và chuyên đoán. Bà thay đổi quan điểm một cách khó khăn, tỏ ra rất trung thành với bằng hữu nhưng lại nuôi dưỡng những niềm thù hận chắc nịch và khó thể quên.

        Chỉ đến tháng 6 năm 1899, sau vài tháng trở ngại vì một cơn bệnh nhẹ, Douglas MacArthur mới bước qua cổng trường võ bị West Point. Ông có một nhân dáng đầy kiêu hãnh với khổ người dong dỏng cao, nước da sẫm, tóc đen, cái nhìn như xoáy vào người khác, khi ông khoát bộ đồng phục sinh viên sĩ quan. Nhân cách của ông hết sức minh bạch, trí thông minh của ông, khuynh hướng lãnh đạo của ông làm cho bạn bè ông ngưỡng mộ và sợ hãi. Một người bạn quả quyết :

        «Đâу chính là sự ngạo mạn được nhân cách hóa...» Những người khác nói về ông:

        «Can đảm như một con mãnh sư, tinh ranh như quỷ, một bộ óc như là một miếng bọt biển.»

        Nghĩa là một đầu óc tiêu hóa được tất cả, ngay lập tức, và có khả năng xử dung ngay tức khắc những kiến thức mới vừa thâu thập được của mình.

        Sự kiện được là con trai của một danh tướng cũng đã đóng góp thêm cho uy tín của con người trẻ tuổi. Một điểm khác phân biệt ông với các bạn ông là người sinh viên sĩ quan đầu tiên có bà mẹ đến ở gần bên. Thật vậy, bà Mary không còn lý do gì để ở lại Milwaukee nữa, chồng bà thì ở Manille, con cả thì đang tạo các chiến oông đầu tiên trên chiến hạm, đo đó bà đã quyết định đến ở tại khách sạn Craney Hotel» ngay tại West Point. Người ta nói rằng bà đã có quyết định này khi được biết rằng bà mẹ của một sinh viên sĩ quan khác, Ulysse Grant, cháu nội của Đại Tướng Grant sẽ đến ở tại West Point. Hình như điều này không đúng và người ta đã nói quá đáng về sự tranh chấp để chiếm chỗ danh dự giữa hai thanh niên Grant và MacArthur. Trong thực tế, đối thủ của ông đúng hơn là một sinh viên tên Fiskes nào đó, và Grant chỉ sẽ có một binh nghiệp khiêm nhường trong quân đội. Vinh dự chính yếu của ông ta là đã được chọn làm kiều mẫu cho một bức tượng biểu trưng cho quân trường.

*

*       *

        «Những năm trải qua tại West Point là những năm sung sướng. Tôi học hành rất cực nhọc nhưng cũng vui chơi hết mình, về sau ông Tướng kể lại. Tôi tự do buông thả cho ý thích về toán học, cho các môn thể thao và...các cô gái xinh đẹp !»

        Là một sinh viên sáng chói, ông rất tự tin. Ông dẫn đầu khóa trong suốt bốn năm của khóa học và tốt nghiệp «thủ khoa» của khóa, ông được sổ điểm trung bình cao nhất — 98,14 — mà chưa một sinh viên sĩ quan nào đạt được, trong suốt một trăm năm lịch sử quân trường. Điểm xấu nhất của ông là 90,4 về môn hội hoạ.

        «Trong quân đội không có sĩ quan nào kỷ luật hơn tôi» khoảng năm mươi năm sau MaoArthur tuyên bố.

        Thật vậy tại West Point hình như ông chỉ bị chỉnh về kỷ luật có bốn mươi hai lần trong suốt bốn năm. Vả chăng đó là những trường hợp vì lỗi nhẹ như chậm trễ, tóc quá dài, «kéo lê kiếm trên lối đi, để đùa bỡn», «đã đánh tay thái quá trong khi diễn hành»,v.v..

        Rất hiếm khi ông «trèo tường ra ngoài», và nếu có thì thông thường là đề ra thăm mẹ. Vả chấng có một lần ông suýt bị bắt gặp và phải chui qua hầm than của khách sạn Craney để thoát thân. Chính ông vào thời đó cũng tự chứng tỏ là đã thành công không ít trong tình trường Nhưng người bạn đồng phòng của ông quả quyết rằng ông chẳng bao giờ nhận hay viết một lá thư tình nào, lẫn đề cập đến chuyện trai gái. Vậy thì chàng đẹp trai Douglas rất kín đáo. Trong những dạ hội tổ chức tại West Point, ông tỏ ra là một người nhảy giỏi. Và chỉ thế thôi, ông là một người có khoa ăn nói, nói được tất cả mọi vấn đề và với tất cả mọi người, và chứng tỏ có một óc phê bình thực tế.

        Ông chơi mọi trò thể thao và môn nào cũng xuẩt sắc. Tuy vậy tại West Point ông chọn lựa để chuyên tập môn đá cầu.

        Ngày 11 tháng 6 năm 1903, ông nhận được văn bằng tốt nghiệp Thiếu úy công binh. Ngày lễ mãn khóa, trong bài nói chuyện với các sinh viên sĩ quan của khóa học, ông Tổng Trưởng chiến tranh tuyên bố với họ ;

        « Hay tiến tới, cho một quân đội xứng đáng với các truyền thống quốc gia. Chính các anh là những người dẫn đạo quân đội trong cuộc chiến tranh sắp đến. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ xảy ra. Không thể nào tránh được. Hãy chuẩn bị xứ sở cho cuộc chiến tranh này... »
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 05 Tháng Mười, 2019, 11:14:58 pm »


*

*       *

        Trong khi con trai được nhận vào trường West Point và theo đuổi công việc học hành sáng chói tại đấy, thì Tướng Arthur MacArthur ở tại Phi luật tân. Năm 1898, tiếp theo nhiều biến cố xảy ra giữa người Cuba và những người Tây ban nha cai trị họ, những biến cố có ảnh hưởng đến một số kiều dân Mỹ, Hoa Kỳ toan tính, bằng đường lối ngoại giao trước, đạt cho bằng được nếu không phải là nền độc lập hoàn toàn cho hòn đảo này thì ít ra cũng rа một sự nới rộng chế độ giám hộ của Tây ban nha. Khi Tổng Thống, Mckinley đã sắp đạt đến một kết quả tích cực thì chiếc thiết giáp hạm Maine lại bị nổ trong vinh La Havane. Lập tức công luận, lúc đó rất sôi động, lên án người Tây ban nha đã chủ mưu trong vụ phá hoại này. Không có gì chứng tỏ lời buộc tôi này là đúng cả. Rất có thể đó là một tai nạn thật sự. Dầu sao Hoa Kỳ cũng đã tuyên chiến với Tây ban nha. Ngay tại Cuba, cùng lúc quân Mỹ mở màn trận chiến trên biển và trên Hạm đội tiêu diệt hạm đội Tây ban nha. Một đoàn quân viễn chinh chiếm đảo và cũng nhân dip này chiếm luôn đảo kế cận Porto Rico. Cuộc chinh phục được thực hiện ngay như «một cuộc cắm trại» vĩ đại hay một cuộc du ngoan dưới ánh trăng. Theodore Roosevelt lúc đó là Tổng trưởng Hải quân cũng có tham dự cuộc viễn chinh nầy, ông dẫn đầu một đoàn ky binh, đơn vị Rough Riders.

        Trong cùng thời gian đó, một hạm đội Mỹ do đô đốc Dewey chỉ huy rời Hồng Kông tiến về Phi luật tân. Hạm đội Mỹ tiêu diệt hạm đội của Đô đốc Montojo. Lúc đó Dewey yêu cầu một lực lượng yểm trợ trên bộ để chiếm quần đảo. Tướng Otis đươc gởi đến, và phụ tá của ông là tướng Arthur MacArthur.

        Một hiệp ước hòa bình được ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1898 tại Ba Lê. Tây ban nha từ bỏ chủ quyền trên đảo Cuba và Porto Rico và nhượng lại quyền trên quần đảo Phi luật Tân với giá 20 triệu Mỹ kim. Quân Mỹ rút khỏi Cuba nam 1902, vấn đề sáp nhập đảo nầy không được đặt ra, do đó Cuba được độc lập nam 1909. Porto Rico liên kết với Hoa Kỳ nhưng với một qui chế tự do. Dân Porto Rico trở thành công dân Hoa Kỳ nằm 1916.

        Tình trạng xảy ra khác hẳn tại Phi luật tân. Qnân đội của Tướng Otis — một con người rụt rè và xung đột thường xuyên với người phụ tá — chiếm Manille. Được thoát khỏi tay người Tây ban nha, dân Phi luật tân và lãnh tụ quân nổi loạn Emilio Aguinaldo rất muốn thấy «những người giải phóng» cho họ ra đi.

        Tổng Thống Mckinley không chịu. Được công luận hậu thuẫn, ông muốn thoát ra khỏi chủ trương cô lập hóa rất quen thuộc của Monroe và áp dụng một chính sách bành trướng về phía Nam Mỹ cũng như về phía Thái Bình Dương. Năm 1898) ông được quốc hội chấp thuận cho điều mà năm năm trước bị từ chối : Sự sáp nhập quần đảo Hạ-uy-di. Ông quyết định duy trì hiện diện của quân đội Mỹ tai Phi luật tân.

        «Tương lai của Phi luật tân nằm trong tay Hoa Kỳ», ông tuyên bố, hiệp ước Ba Lê giao cho chúng ta dân chúng Phi luật tân được giải phóng và tự do để hướng dẫn họ và để giúp họ hưởng thụ ảnh hưởng của tự do, những tình cảm quảng đại, tình yêu sự tiến bộ, không phải của các ông chủ Mỹ mà của những nhà giải phóng Hoa Kỳ...

        «Không có một sự ham muốn đế quốc nào được che đậy để ảnh hưởng đến tinh thần người Mỹ. Lòng ham muốn đó trái ngược với tình cảm, tư tưởng, với mục tiêu của người Mỹ. Những nguyên tắc quảng đại của ta sẽ được tôn trọng. Những người tự do có thể chinh phục nhưng là để cứu vớt...»
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2019, 07:07:52 pm »


*

*      *

        Đối với Aguinaldo và các bạn hữu ông ta, rõ rệt là cả một sự thất vọng lớn lao. Họ cầm lại vũ khí. Cuộc tranh đấu kéo dài ba năm và đòi hỏi Hoa kỳ phải gởi đến một đoàn quân viễn chinh đến 70.000 người. Chính Arthur MacArthur, sau khi thoát khỏi sự giám hộ của Otis, là người điều khiển cuộc chiến. Các trận đánh rất gay go và ác liệt. Sau cùng Aguinaldo bị bắt tại Ludon và được đưa đến tổng hành dinh quân Mỹ đặt tại Điện Malacanan. Thoạt tiên quân du kích không tin lãnh tụ của họ bị bắt. Họ nghĩ rằng người Mỹ đã cố ý tung ra tin giả để gây ra một thứ «tác động tâm lý» nào đó. Tướng Mascarđơ của quân nổi loạn lúc đó yêu cầu viên Thiếu tá trẻ Manuel Quezon ra hàng quân Mỹ để phối kiểm lại coi có phải là Aguinaldo đã bị bắt cầm tù thật hay không.

        Quezon thi hành sứ mạng. Ông nạp mình cho trung úy Miller tại Mariveles. Ông trung úy này đối xử với ông rất tử tế. Vẫn để cho ông mang súng lục và dao gâm. Để tỏ lòng biết ơn, Quezon biếu ông trung úy cây dao găm tại chỗ. Ba mươi lăm năm sau đích thân Miller đã hoàn lại cây dao này cho ông lúc đó đã trở thành Tổng Thống Cộng Hòa Phi luật tân.

        Tù nhân được đưa đến Manille :

        «Tôi được đưa vào Điện Malaranan, ông kề lại, tư dinh đầy huyền hoặc của các Toàn Quyền Tây ban nha mà tôi chưa bao giờ được thấy, và được dẫn đến văn phòng của Tướng MacArthur... ông này đứng trong phòng, vóc dáng khổng lồ trấn áp tôi và không nói một lời nào, chỉ cho tôi một gian phòng ăn thông về phía bên kia với văn phòng của ông. Run rẩy vì xúc động tôi chầm chậm tiến vào đấy, còn muốn hy vọng rằng tôi sẽ không gặp người tôi định tìm trong đó. Ngoài cửa phòng có hai lính canh tay mang găng, lưỡi lê cắm đầu súng. Tôi nhìn thấy, một mình trong phòng, là tù nhân chiến tranh, con người tượng trưng cho tổ quốc. Ông ta nói với tôi là đã tuyên thệ phục tòng và do đó không thể khuyên chúng tôi tiếp tục công cuộc kháng chiến.

        Cuộc chiến du kích chấm dứt.

        Trong thời gian đó, Tổng Thống Mckinley, không muốn để cho một nhà quân sự cai trị quần đảo, nên đã bổ nhiệm một toàn quyền dân sự, thẩm phán William Howard Taft.

        Ông này đến Manille, trong óc đầy ảo tưởng. Đấy là một con người khổng lồ tóc hoe vàng, trong thâm sâu, là một người khá can đảm đã hăng say chấp nhận hoàn tất công cuộc bình định và muốn chiếm được tình thân hữu của «những người anh em nhỏ bé sắc da nâu». Ông rất ngạc nhiên trước sự tiếp đón lạnh nhạt mà quân đội và các sĩ quan dành cho ông, Chẳng có ai đến đón ông ở bến tàu. MacArthur tỏ ra lịch thĩệp nhưng xa cách. Vào thời kỳ nầy, chúng ta đang ở vào năm 1.900, Aguinaldo chưa bị bắt và ông tướng đã làm cho ông Toàn quyền hiểu rằng ông ta chỉ là một người phá đám. Ông dành cho ông ta những căn nhà chật chội và yêu cầu ông ta để ông yên.

        Taft không hiểu. Ông nhấn mạnh với MacArthur đến thiện chí của ông và đoán xác rằng dầu trong trường hợp nào đi nữa ông ta cũng là tổng tư lệnh.

        Ông tướng đáp :

        « Điều đó sẽ rất hoàn toàn nếu cho đến nay tôi không hành xử những quyền hạn rộng hơn nhiều...*

        Thật vậy kể từ khi tướng Otis ra đi, ông là vị chủ tể độc nhất cả về dân sự lẫn quân sự của dân Phi luật tân. Trong khi thi hành nhiệm vụ, ông chứng tỏ có một khuynh hướng tự do nào đó và một ý thức thật sự về chính trị.

        Taft than phiền với Hoa thinh đốn. ông ta còn mô tả cả với ông Tổng trưởng chiến tranh một bức chân dung của Tướng MacArthur mà về sau có thể áp dụng cho người con trai của ông :

        «Một con người rất lịch thiệp và nhã nhặn, thiếu một đôi chút hài hước và hay có khuynh hướng ngã theo những sự tổng quát hóa sâu xa về tâm lý của con người. Tính hay ngờ vực một cách lễ phép và hoàn toàn không chú ý gì đến quan điểm của một người vốn chỉ là một viên chức dân sự vừa mới đặt chân lên bờ. Tin tưởng mãnh liệt là phải duy trì các biện pháp quân sự trong guồng máy chính quyền và trong mọi sự vụ liên quan đến quần đảo».

        Tuy nhiên, tòa Bạch ốс vẫn nhiệt liệt hậu thuần Taft. Môt khi các cuộc hành quân chấm dứt, nghĩa là ít lâu sau khi bắt được Aguinaldo, ông Tướng được gọi về Mỹ. Một buổi lễ lớn được tổ chức tại Vương Cung Thánh đường Manille, ngày 4 tháng 7 năm 1901

        tiễn đưa ông. Taft có đến tham dự. Người ta đã ngỡ rằng hai người đã giải hòa với nhau. Thật ra không phải thế. Và vài năm sau, khi trở thành Tổng Trưởng Chiến tranh, Taft đã từ chối bổ nhiệm MacArthur làm Tổng Tham Mưu Trưởng, một chức vụ đúng ra phải là của ông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2019, 07:09:00 pm »


*

*      *

        Từ khi trở về Mỹ, MacArthur nắm quyền tư lệnh khu vực bờ biển Thái Bình Dương; bản doanh của ông đặt tại Cựu Kim Sơn. Ông đã chứng tỏ hết sức nhiệt thành trong nhiệm vụ mới này.

        Năm 1903 ông tiếp đón con trai đến thăm, khi đến lượt người con được bổ nhiệm đến Phi luật tân. Trong thời gian đến thăm cha, chàng thanh niên được nổi tiếng nhờ đã bắt giữ một tên cướp ngay giữa đường phố.

        Sau đó Douglas đi Manille và đến nơi sau một cuộc hành trình lâu ba mươi tám ngày. Ông bị xứ sở và dân chúng địa phương quyến rũ ngay tức khắc. Suốt đời, ông trở thành «kẻ yêu đảo», ông ở lại đó một năm và hành nghề sĩ quan công binh, ông bắc cầu, xây cất hải cảng, đập ngăn nước, đường sá, công sự kiên cố. Ông cũng tổ chức một sở cứu hỏa.

        Một biến cố đánh dấu thời kỳ này. Trong khi bận rộn đắp một con đê và bến tàu trên đảo Guimaris, trên cửa vịnh Iloilo, ông cùng vài binh sĩ vào rừng chặt cây. Toán quân bị hai tên cướp tấn công. Ông thiếu úy với phản ứng sấm sét, rút súng lục và hạ cả hai theo kiểu thuần túy miền Viễn Tây. Nhưng một trong hai tên cướp cũng có thì giờ nổ súng vào ông. Viên đạn xuyên qua nón và cắt ngang một cành cây nhỏ phía sau. Ông không bi thương, nhưng quả thật đã gặp rất nhiều may mắn. Điều này khiến cho viên trung sĩ già đi theo phải nói :

        «Xin Thiếu úy cho phép tôi nói rằng phần còn lại của cuộc đời ông là thời gian dư thừa...»

        Douglas mặt tái ngắt, hai chân hơi run. gật đầu chấp nhận.

        Sau đó ông được giao cho nhiệm vụ đào tạo vài kỹ sư được chọn lựa trong số các sĩ quan hiến binh bản xứ. Lực lượng này do Đai úy J.G. Harbord chỉ huy. Một đêm, ông này mời ông đến ăn cơm tối. Trong số thực khách có Manuel Quezon, người mà ông thiếu úy kết tình thân hữu ngay lập tức.

*

*      *

        Năm 1904 được thăng cấp Trung úy, Douglas MacArthur trở về Hoa Kỳ vài tháng. Đến tháng 10 năm đó ông nhận được lệnh đến gấp thân phụ tại Đông Kinh và cũng tham dự một sứ mạng quan sát tại Mãn châu. Chiến tranh giữa Nhật và Nga vừa bùng nổ. Quân Nga đóng tại Mãn Châu và cố ở lại đó. Chính quyền Nhật phản đối và đến phiên họ đưa quân tiến vào Mãn Châu, dựa vào một hậu thuẫn ngoại giao mơ hồ của Anh. Tại Trung Hoa, là cả một tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ. Các cường quốc Âu châu như Pháp, Đức thì không can thiệp. Cuộc xung đột chuyển hướng tai biến về phía Nga. Họ mất Port-Arthur, bị đánh bại tại Moukden, hạm đội bị tiêu diệt. Một hiệp ước hòa bình được ký kết tại Portsmouth, tiếp theo một nỗ lực trung gian hòa giải của Theodore Roosevelt.

        Trong nhiều tháng trời Douglas được ngồi ở các chỗ thuận tiện nhất để quan sát quân đội Nhật và để nghiên cứu các phương pháp của họ. Ông rất lấy làm cảm khích :

        «Tôi đã có cơ hội gặp tất cả các đại lãnh tụ quân sự của Nhật : Ovama, Kuroki, Nogi và vi đô đốc trứ danh Togo, ông kể lai. Đấy là những con ngươi nghiêm khắc, trầm mặc, xa cách, mà ta có thể đoán là có ý chí và tinh thần sắt thép. Tôi cũng có thể biết được sự can đảm và lòng tận tụy đến cuồng nhiệt của người binh sĩ Nhật đối với Thiên hoàng của họ.

        Tôi cũng học hỏi để hiểu biết các đức tính của dân tộc Nhật nhỏ bé, sự kiên nhẫn, ý thích làm việc và sự phục tòng dưới một giới quí phái kiêu căng, khắc nghiệt và tham lam. Tất cả những điều đó về sau rất có ích cho tôi...»

        Những phúc trình của Tướng MacArthur rất được nhiều người đọc tại Hoa thịnh đốn, nơi mà ai cũng bắt đầu hiểu mới nguy cơ đe đọa hòa bình do bởi một chiến thắng của Nhật trước một quốc gia tây phương, nơi mà người ta cũng lo ngại sự bành trương kinh tế của Nhật, nơi mà, sau cùng người ta lo âu trước làn sóng di cư của công nhân Nhật vào Californie.

        Vào thời đó tất cả gia đình MacArthur đều ở Viễn Dống. Douglas và thân phụ thì ở Đông Kinh và Mãn Châu, người con cả, Arthur, Sĩ quan hải quân thì ở tại Manilla ông ta mới vừa lập gia đình vớí ái nữ Đô Đốс Mccalla và vừa có một con trai.

        Sứ mạng của họ tại Mãn Châu và Nhật Bản coi như là một thành công, hai cha con MacArthur Ịại nhận được một sứ mạng mới. Họ thực hiện một vòng quan sát tại Xiêm La, Java, tại Mã Lai và Ấn Độ. Sau cuộc hành trình này họ thảo một phúc trình quan trọng mà kết luận là: chìa khỏa của tất cả mọi vấn đề sẽ được đặt ra trong thế kỷ XX hiện nằm tại Á châu và số phận của thế giới lệ thuộc vào sự nâng cao mức sống của những tập thể quân chúng lớn lao người Châu Á
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Mười, 2019, 11:22:26 am »

 
*

*       *

        Năm 1906 gia đình MacArthur lại trở về Mỹ. Chính trong thời kỳ này Arthur được bổ nhiệm cấp Trung Tướng với điều kiện là cấp bậc sẽ bị hủy bỏ — về sau lại được phục hồi — khi ông hồi hưu. Lúc đó ông là sĩ quan thâm niên nhất trong cấp bậc cao nhất của quân đội Mỹ và có thể hy vọng được ghế Tổng Tham Mưu trưởng một cách chính đáng. Sở dĩ người ta nghĩ như vậy là vì đã không chú ý đến mối hiềm thù của Taft đổi với ông, thật thế sau khi trở thành Tổng trưởng Chiến tranh, Taft đã chống lại sự bổ nhiệm này. Bấy giờ, ông Tương ở Milwaukee, và được đặt dưới quyền của Tổng Thống Roosevelt. Tổng Thống tỏ ra rất thân ái với ông — mặc dầu không phải lúc nào cũng đồng ý với ông — và giải thích với ông rằng sự truy đoạt chức vụ của ông là do nơi một công cuộc cải tổ quân đội hơn là do lòng thù oán của ông Tổng trưởng Chiến tranh.

        Roosevelt dùng con trai vị lão tướng làm tùy viên sau khi Douglas trải qua một giai đoạn tu nghiệp ngắn tại trường công binh ở Hoa thịnh đốn.

        Sau đó Douglas trải qua thời gian chỉ huy của ông trong chức vụ đại đội trưởng một đại đội công binh tai Panama. Ông rất được thuộc cấp ngưỡng mộ và khi ông rời họ, trung sĩ Cobette, một chiến binh kỳ cựu đã tỏ lòng tôn kính một cách lạ lùng đối với ông. Quay về phía các binh sĩ dàn hàng đứng nghiêm, ông ta nói :

        «Này các cậu bé, hãy nhìn kỹ, đây chính là một quân nhân đích thực, sắp rời chúng ta...»

*

*       *

        Lão tướng MacArthur vĩnh viễn về hưu năm 1909. Ngày 5 tháng 9 năm 1912, ông chủ tọa một buổi hội của các cựu chiến sĩ trung đoàn 24 Wisconsin. Đấy là lễ kỷ niệm lần thứ 50 của Trung đoàn này. Họ gồm có 90 lính già tề tựu chung quanh vị cựu Đại Tá của mình. Họ luôn miệng kể lai các chiến công. Và rồi đến lúc ông tướng đứng lên để nói lời chức tụng :

        «Chính trong trận chiến tại Peach Tree Creak... Lòng can đảm bất khuất của các anh...»

        Giọng của ông lạc đi, ông đưa tay lên ngực, thì thầm :

        «Tôi mệt quá không tiếp tục được nữa...»

        Ông ngã sụm xuống. Tắt thở.

        Tang lễ của ông được tổ chức tại Milwaukee, Theo ý muốn của ông, vị lão tướng được chôn cất như một thường dân :

        «Suốt đời tôi mang quân phục khá đủ rồi, ông đã từng nói với vợ, hãy để tôi yên nghỉ như một công dân Mỹ bình dị. »

*

*       *

        Sau cái chết của thân phụ, Douglas được bô nhiệm chỉ huy cơ quan công binh tại Hoa thịnh đốn. Mẹ ông đến ở với ông trong thủ đô Liên bang. Sau đó ông được gọi đến phục vụ tại Bộ Tổng Tham Mưu, dưới quyền Tướng Leonard Wood.

        Mùa xuân năm 1914, Tướng này phái ông đến quan sát tại Vera Cruz. Mọi chuyện đang xảy ra bê bối tại Mễ tây cơ. Chế độ của Tướng Huerta, người đã lật đổ chính quyền dân chủ của Madero, đã có cung cách độc tài và không được Hoa Kỳ thừa nhận. Vả chăng Huerta đã bắt cầm tù và đưa ra xử tội các công dân Mỹ. Wilson, tân Tổng Thống Mỹ tức giận phái hạm đội đến phong tỏa hải cảng Vera Cruz. Thủy quân lục chiến đổ bộ cùng tướng Funston. Khi đến nơi, MacArthur nhận thấy tình trạng thiếu thốn phương tiện chuyển vận có thể làm tê liệt cuộc viễn chinh. Không có súc vật kéo xe và nếu có đường xe lửa thì các toa xe lại bị nằm một chỗ, không làm sao để có được một đầu máy xe lửa cả. Nhờ một người Mễ tây cơ say rượu, viên sĩ quan trẻ tuổi biết được rằng các đầu may xe lửa giấu xa tại một nơi phía sau phòng tuyến địch. Ngược lại với ý kiến của Bộ Tư lệnh Mỹ và nhờ sự đồng lõa của một nhà ngoại giao Đức trẻ tuổi Fritz Von Papen, tiếp theo nhiều cuộc mạo hiềm đầy huyền hoặc, sau cả một vòng đi ngựa và đi thuyền, sau khi hạ bốn địch quân và suýt chút nữa bị giết chết, ông thu hồi lại được ba đầu máy xe lửa.

        Tướng Wood đề nghị cho ông huy chương danh dự. Đề nghi bị từ chối vì chiến tranh không được tuyên.

        Được thăng cấp thiếu tá, Douglas trở về Hoa thịnh đốn. Một năm trôi qua. Năm 1916, Tổng trưởng Chiến tranh Garrissou từ chức tiếp theo sau một cuộc bất đồng ý kiến với Tổng thống Wilson. Người thay thế là N.D.Baker, «một người nhỏ con, với tấm lòng quảng đại mênh mang». Baker rất quý chuộng MacArthur, tương đối ông ít hiểu biết về các vấn đề quân sự và nhất là rất ghét tiếp xúc với báo chí. Do đó ông sáng tạo ra cho viên Thiếu tá trẻ tuổi một chức vụ mà cho đến lúc ấy chưa từng có, đó là chức vụ trưởng phòng thông tin.

        Chính như thế Douglas trở thành sĩ quan báo chí đầu tiên của Lịch sử Mỹ quốc và chắc chắn cũng là của cả lịch sử thế giới :

        «Tôi có nhiệm vụ giải thích chính sách của chúng tôi và triệt tiêu các ảo tưởng của những người khăng khăng quan niệm rằng chúng tôi ở ngoài tầm mọi nguy cơ đe doa...»

        Ông cũng tỏ ra là một luật sư đầy nhiệt tình của lực lượng vệ binh mà ông muốn thấy được xử dụng trong khi chiến tranh sắp xảy ra :

        «Cũng như phụ thân tôi, tôi tin nơi người công dân — chiến sĩ...»

        Nhưng đấy không phải là quan điểm của bộ tham mưu. Một hôm, một Tướng lãnh nói với McArthur. «Nếu anh quyết chí tạo dựng binh nghiệp, tốt hơn là anh đừng nên truyền bá loại ý tưởng đó...»
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM