Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 05:58:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức Tây Nguyên  (Đọc 16702 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #100 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2019, 10:15:55 am »

Đường 220 chỉ cách thị xã Kon Tum 20 km nên địch quyết tâm đánh phá. Cả vùng đông bắc thị xã Kon Tum chỉ còn trơ trọi một cứ điểm duy nhất là Kon Rốc trên điểm cao 1227 - nơi đồn trú của quân thám báo, biệt động thường xuyên cản phá ta làm con đường này.

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định phải nhổ nốt căn cứ Kon Rốc. Ngày 3 tháng 4 năm 1974, trung đoàn 24 được pháo binh bắn thẳng chi viện sau 2 giờ chiến đấu đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn bảo an 280. Nếu như trước đây, Sư đoàn 10 chỉ có một trung đoàn 66 đánh tốt công sự vững chắc thì nay các trung đoàn 28, 24 đều có thể đánh và đánh tốt hình thức chiến thuật này.

Cho đến thời điểm tháng 1 năm 1974, toàn tỉnh Kon Tum chỉ còn lạì 3 căn cứ địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta là Đắc Pét án ngữ trên đường 14, sát biên giới Việt - Lào; chi khu quận lỵ Măng Đen và quận lỵ Măng Buk. Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chủ trương giao cho Sư đoàn 10 một mặt giữ vững trận địa phòng ngự bắc thì xã Kon Tum (trung đoàn 24 đàm nhiệm), mặt khác dùng 2 trung đoàn 66 và 28 tiêu diệt căn cứ Đắc Pét và căn cứ Măng Đen, sử dụng bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum bao vây bức rút quận lỵ Măng Buk.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 15 tháng 5 năm 1974, trung đoàn 66 được pháo binh và xe tăng chi viện chỉ trong 4 giờ đồng hồ đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn biệt động quân 88 trong căn cứ Đắc Pét. Trong số 403 sĩ quan binh lính địch bị bắt làm tù bỉnh có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn biệt động quân 88 Vũ Ngọc Di. Phối hợp với trung đoàn 66, trung đoàn 3 (Quân khu 5) tiến công giải phóng quận lỵ Đắc Pét. Toàn bộ khu vực Đắc Pét được giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta mở thông đường vận tải chiến lược theo đường 14 (Đông Trường Sơn).

Cùng thời gian này, trên hướng Đắc Lắc, trung đoàn 25 tiến công tiêu diệt căn cứ Ia Súp, giải phóng toàn bộ nhân dân trong khu vực.

Trên hướng bắc Kon Tum, trung đoàn 28 sau gần một ngày chiến đấu đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Măng Đen, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ ban chỉ huy tiểu khu Chương Nghĩa và ban chỉ huy tiểu đoàn bảo an 254 ngụy, diệt 226 tên, bắt 168 tên, trong đó có tên trung tá chỉ huy trưởng và 25 sĩ quan khác, thu toàn bộ vũ khí và quân trang, quân dụng trong căn cứ (có 2 pháo 105 ly).

Phối hợp với trung đoàn 28, bộ đội địa phương tinh Kon Tum bao vây bức rút quận lỵ Măng Buk, giải phóng toàn bộ nhân dân trong vùng.

Đến tháng 10 năm 1974, trên chiến trường Tây Nguyên địch bị dồn gọn lại trong các thị xã và một số vị trí quan trọng trên trục đường giao thông huyết mạch 14, 19, 21. Vùng giải phóng Tây Nguyên được mở rộng và nối liền thành một vùng căn cứ tương đối hoàn chỉnh từ bắc Kon Tum đến nam Đắc Lắc, nối liền đường hành lang chiến lược từ miền Bắc vào tới chiến trường Nam Bộ.

Như vậy, sau gần hai năm chiến đấu đánh địch lấn chiếm và xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện theo phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng quân binh chủng quy mô vừa và lớn (cả về chính trị, tư tưởng, trình độ chiến, kỹ thuật, tổ chức biên chế(1)), ra sức thiết bị chiến trường, xây dựng hậu phương trực tiếp rộng bao la có dung lượng rất lớn, kết hợp với sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc, chiến trường Tây Nguyên đã có bước biến đổi căn bản. Tương quan lực lượng về quân sự, chính trị ta đã hơn hẳn địch. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên đã lập được thế trận tiến công vững chắc, hình thành thế trận bao vây các cơ quan đầu não của địch ở cả ba tỉnh. Quân đoàn 2 ngụy ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, tinh thần và khả năng chiến đấu của chúng sa sút nghiêm trọng, không còn đủ sức làm nòng cốt cho kế hoạch “bình định”, lấn chiếm ở Tây Nguyên.

Thực tiễn đó mở ra cho Tây Nguyên những thuận lợi cơ bản để tạo điều kiện và thời cơ mới thực hiện tốt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đẳng và Quân ủy Trung ương trong năm 1975.

Bài học mà Đảng ủy chúng tôi rút ra trong thời kỳ này tại cuộc họp tháng 1 năm 1974 là phải nắm vững tư tưởng cách mạng bạo lực và tư tưởng chiến lược tiến công, tìm hiểu và đánh giá đúng đắn bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ địch thì mới quán triệt sâu sắc tình hình nhiệm vụ và khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới thì sự lãnh đạo về mặt chính trị tư tưởng phải được coi trọng đúng với vai trò quyết định của nó. Nói một cách khác: Khi cách mạng chuyển giai đoạn, tình hình diễn biến phức tạp thì trong khi thực hiện nhiệm vụ, phải nắm vững những vấn đề nguyên tắc “bất biến”, kiên định mục tiêu lý tưởng; phải bình tĩnh sáng suốt xem xét động thái về phía đối phương, phân tích những thủ đoạn mới trên cơ sở hiểu biết về bản chất và âm mưu cơ bản của họ để có đối sách hợp lý đấu tranh giành thắng lợi. Để làm được việc đó phải tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, củng cố lập trường quan điểm giai cấp; đồng thời kiên quyết đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực ngại khó khăn gian khổ và mơ hồ ảo tưởng về kẻ thù.


(1) Nhờ cách biên chế tổ chức mới, giảm thành phần phục vụ nên năm 1974 so với năm 1973 quân số bổ sung không tăng bao nhiêu nhưng lực lượng chiến đấu tăng 5,48%, riêng bộ binh và đặc công tăng 6,08%.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #101 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:31:27 am »

VII

THỰC HIỆN LỜI THỀ SẮT SON
GIẢI PHÓNG TÂY NGUYÊN

Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong năm 1974, nhưng lực lượng địch trên toàn miền Nam vẫn còn rất đáng kể: hơn một triệu ba trăm ngàn quân, trong đó có 495 ngàn quân chủ lực, 475 ngàn cảnh sát, mật vụ, quân địa phương, 381 ngàn quân phòng vệ dân sự, gồm 13 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn biệt động với hơn 2.000 xe tăng, xe bọc thép, 1.500 khẩu pháo lớn, 6 sư đoàn không quân. Chúng bố trí lực lượng như sau:

Quân khu 1, có 5 sư đoàn chủ lực, 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu), 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, xe bọc thép (419 xe), 1 sư đoàn không quân (96 máy bay).

Quân khu 2 (gồm cả Tây Nguyên), có 2 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn pháo binh (362 khẩu), 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, xe bọc thép (477 xe), 2 sư đoàn không quân (250 máy bay).

Quân khu 3, có 3 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội pháo (376 khẩu), 7 thiết đoàn và 14 chi đội xe tăng, xe bọc thép (655 xe), 2 sư đoàn không quân (250 máy bay).

Quân khu 4, có 3 sư đoàn chủ lực, 12 liên đội bảo an, 15 tiểu đoàn pháo binh (380 khẩu), 5 thiết đoàn và 17 chi đội xe tăng, xe bọc thép (493 xe), 1 sư đoàn không quân (72 máy bay), 580 tàu xuồng các loại.

Trên chiến trường Tây Nguyên, đầu năm 1975 địch có: quân đoàn bộ quân đoàn 2, sư đoàn 23 gồm 3 trung đoàn (44, 45, 53), 7 liên đoàn biệt động quân (21, 22, 23, 24, 25, 4, 6), 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (380 xe), 8 tiểu đoàn, 7 đại đội, 25 trung đội pháo binh (250 khẩu), 1 sư đoàn không quân (không đoàn 702), 150 máy bay (24 máy bay chiến đấu).

Những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Sài Gòn cho rằng đầu năm 1975 ta sẽ mở chiến dịch ở bắc Tây Nguyên, đánh vào thị xã Kon Tum. Vì vậy, địch lấy Kon Tum - Plây Cu làm khu vực phòng ngự chủ yếu. Chúng đã bố trí ở khu này gần như toàn bộ lực lượng chủ lực ở Tây Nguyên, trừ trung đoàn 53 giữ thị xã Buôn Ma Thuột.

Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta (tháng 10 năm 1973) khẳng định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Tháng 10 năm 1974 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền trong thời gian 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Và nhất trí thông qua phương án chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công có ý nghĩa chiến lược trong năm 1975. Kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm là sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng, giành thắng lợi ngày càng lớn, tạo điều kiện để giành thắng lợi hoàn toàn. Kế hoạch gồm hai bước. Bước một, năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp trên toàn miền Nam tạo điều kiện thuận lợi để thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1976. Bước hai, năm 1976 là năm tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Bên cạnh chiến lược cơ bản hai năm, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn dự kiến “Kế hoạch thời cơ”. Tinh thần cơ bản của kế hoạch này là khi thời cơ chiến lược đến sớm thì có thể giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Trước khi vào chiến trường anh Vũ Lăng được lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu gợi ý sơ bộ về nhiệm vụ tác chiến năm 1975. Ý đồ chiến lược của trên và nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên được sáng tỏ dần. Tháng 9 năm 1974, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chính thức giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ở chiến dịch Nam Tây Nguyên. Khu vực tác chiến chủ yếu là Đức Lập. Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận chúng tôi đã nghiên cứu quán triệt phổ biến cho các ngành liên quan chuẩn bị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #102 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:32:01 am »

Cuối tháng 10 năm 1974, anh Nguyễn Quốc Thước, phụ trách Tham mưu trưởng được Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cử ra Hà Nội báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Bộ. Ngày 6 tháng 11, anh Văn Tiến Dũng, ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng giao nhiệm vụ cho Mặt trận Tây Nguyên. Anh Dũng nói:

- Nhiệm vụ lần này của Tây Nguyên được mở rộng phạm vi, quy mô và mục tiêu cụ thể của cuộc tiến công. Đó là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng quân địch, diệt, làm bị thương từ 4 đến 5 vạn tên, trong đó diệt từ 3 đến 4 trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của chúng. Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối liền với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu 5 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa). Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất bằng nam Plây Cu, Cheo Reo và xung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch nống lấn giải tỏa của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược. Tích cực phối hợp với mặt trận đánh phá “bình định” ở đồng bằng. Cụ thể diệt từ 3 đến 4 tiểu khu, chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa, Cheo Reo, Gia Nghĩa là chù yếu). Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 19. Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ một, các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ cơ sở. Xây dựng ba thứ quần, xây dựng vùng giải phóng, đường chiến dịch, đường chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Anh Văn Tiến Dũng nhấn mạnh: Những nhiệm vụ trôn đều có liên quan mật thiết với nhau, nhiệm vụ này làm tiền đề, điều kiện cho nhiệm vụ kia phát triển và ngược lại. Nhưng nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, giải phóng địa bàn là nhiệm vụ quan trọng số một có tính chất quyết định.

Ngày 12 tháng 11, anh Nguyễn Quốc Thước đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh. Đại tướng nói yới anh Quốc Thước:

- Anh Dũng đã dặn rồi, tôi nói thêm, chiến dịch này rất kiên quyết, trường hợp nào cũng phải làm cho được.

Ở Tây Nguyên địa hình tốt, địch phân tán, diệt địch trong công sự vững chắc cũng được, nhưng tốt nhất là diệt viện. Hai giai đoạn của chiến dịch có thể dài nhưng cũng có thể gần nhau. Trên những hướng phối hợp thường có thể thắng lớn. Khi địch điêu lực lượng chi viện hoặc nó rung chuyển thì thời cơ thắng lớn. Các đồng chí cần nắm vững 16 chữ của phương châm: Bất ngờ, kiên quyết, lợi dụng thời cơ phát triển nhanh, phối hợp mạnh, nhịp nhàng.

Tóm lại các đồng chí cần xây dựng kế hoạch cơ bản và kế hoạch phát triển trong thời cơ tốt. Trường hợp này phải vận động nhanh không phải tuần tự. Bố trí lực lượng phải cơ động. Nếu chiến dịch thắng lợi thì ở Tây Nguyên lực lượng địch có thể thay đổi. Nếu địch rút sở chỉ huy thì phải tổ chức đánh cắt giao thông và phá sân bay. Vì vậy, về chiến dịch và chiến thuật cần có kế hoạch tác chiến đánh địch trong công sự và đánh quân viện, đồng thời có kế hoạch phát triển nhanh (nên tổ chức 1 trung đoàn bộ binh cùng pháo binh và xe cơ giới), táo bạo truy kích vì địch lúc rút chạy rất sơ hở, đánh dễ vỡ.

Giữa lúc Tây Nguyên đang khẩn trương chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu ở hướng Gia Nghĩa thì ngày 6 tháng 1 năm 1975, quân và dân Đông Nam Bộ đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Quân chủ lực ngụy ồ ạt phản công hòng “tái chiếm Phước Long”, nhưng tất cả mọi cố gắng của chúng đều bị quân ta đánh bại. Cuối cùng cả Mỹ lẫn ngụy đành nuốt hận chịu mất Phước Long.

Qua sự kiện Phước Long càng khẳng định nhận định của Bộ Chính trị là chính xác: “Quân ngụy đã suy yếu nghiêm trọng không đủ sức phản kích chiếm lại những vùng đã mất và Mỹ đã rút quân ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng đưa quân nhảy vào lại miền Nam, và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn”. Trên cơ sở các nhận định trên, Trung ương đã hạ quyết tâm chiến lược lịch sử: Mở cuộc Tổng tiến công chiến lược trên quy mô toàn miền Nam nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, đập tan toàn bộ ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #103 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:33:03 am »

Về kế hoạch chiến lược, Bộ Chính trị; Quân ủy Trung ương đã chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu và kết luận dứt khoát: Lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt quyết định của chiến dịch Tây Nguyên.

Chiều ngày 21 tháng 1 năm 1975, anh Lê Ngọc Hiền - Tổng tham mưu phó phổ biến chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tham dự hôm đó có anh Vũ Lăng, tôi (Đặng Vũ Hiệp), anh Nguyễn Năng, và các anh phụ trách Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, các phòng tác chiến, trinh sát, v.v... Sau khi phân tích tình hình địch, tình hình ta trên toàn chiến trường miền Nam, những thắng lợi cuối năm 1974, đầu năm 1975 cũng như mục đích chiến dịch Tây Nguyên, anh Lê Ngọc Hiền nói:

- Thường vụ Quân ủy Trung ương giao cho Mặt trận Tây Nguyên trong chiến dịch này phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, từ 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, nhiều liên đoàn, tiểu đoàn bảo an, nhiều đại đội dân vệ, bắt nhiều tù binh. Phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều binh khí kỹ thuật để đánh địch và dự trữ cho ta. Cố gắng đánh quỵ hoặc diệt sư đoàn địch, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy. Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức mở hành lang chiến lược nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, Tây Nguyên với các tỉnh nam Khu 5 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa), tạo thế mới trên chiến trường Tây Nguyên, chia cắt chiến lược địch, phá bình định của địch ở vùng đất bằng Tây Nguyên, hết sức coi trọng công tác phát động quần chúng, chấp hành tốt các chính sách. Rèn luyện nâng cao trình độ bộ đội chủ lực, thực hiện càng đánh càng mạnh, cơ động bộ đội nhanh chóng.

Phạm vi chiến dịch như trên đã nói, gồm 3 tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Trọng điểm là Đắc Lắc, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Hướng phát triển chủ yếu là Phú Yên (theo đường số 7), hướng phối hợp Ịà đường 19 và đường 21. Hướng kiềm chế, nghi binh là Plây Cu và Kon Tum.

Về sử dụng lực lượng, Bộ cho các anh sử dụng hết binh khí kỹ thuật, không hạn chế. Phương châm tư tưởng chỉ đạo là: mạnh bạo, chắc thắng, cơ động linh hoạt, bí mật bất ngờ.

Chú ý hết sức chủ động tạo bất ngờ trong suốt quá trình chiến dịch. Nắm vững tiêu diệt sinh lực địch, bắt tù binh thu vũ khí, càng đánh càng mạnh.

Như vậy do tình hình phát triển rất mau lẹ nên trong vòng 5 tháng Bộ đã 3 lần thay đổi nhiệm vụ đối với Tây Nguyên. Điều đó làm cho chúng tôi gặp không ít khó khăn. Trước đó, chúng tôi đã tổ chức làm nhiều việc như: xây dựng kế hoạch tác chiến, thiết bị chiến trường, thông qua quyết tâm chiến đấu của các đơn vị. Đến nay, chuyển mục tiêu chủ yếu từ Gia Nghĩa về Buôn Ma Thuột có nghĩa là chúng tôi phải lật cánh, gần như làm lại từ đầu; từ xây dựng phương án, kế hoạch chiến đấu đến thiết bị chiến trường, tổ chức mạng lưới bảo đảm hậu cần, với khối lượng công việc rất lớn, mà thời gian còn lại không nhiều. Nhưng khó khăn lớn nhất đối với chúng tôi là tổ chức đột phá vào thị xã Buôn Ma Thuột như thế nào ? Vì đây là trận mở đầu và cũng là trận then chốt quyết định của chiến dịch. Nhưng nhận thức rõ tình hình nhiệm vụ, quyết tâm chiến lược của Đảng, chúng tôi xác định phải khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao. Sau nhiều lần đi trinh sát thực địa và nghiên cứu hình thái bố trí của địch ở Tây Nguyên và khả năng chúng sử dụng lực lượng cơ động từ nơi khác đến trước, trong hoặc sau khi ta đánh Buôn Ma Thuột, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định cách đánh chiến dịch như sau: Nhử địch về Kon Tum, Plây Cu rồi hãm chúng lại đó, tạo sơ hở ở Buôn Ma Thuột để ta tiêu diệt và làm chủ. Tiếp đó sẽ phát triển đánh chiếm Gia Nghĩa, Phú Bổn để mở rộng khu vực, làm bàn đạp phát triển tiến công các hướng khác.

Để thực hiện ý định trên vấn đề có tính chất quyết định là lập thế trận chiến dịch. Thế trận đó phải thể hiện: chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến công đột phá, vừa bí mật vừa nghi binh.

Về phương án đánh thị xã Buôn Ma Thuột, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chúng tôi xác định hai phương án. Phương án một: đánh địch chưa có phòng ngự dự phòng; phương án hai: đánh địch có phòng ngự dự phòng.

Chúng tôi tranh thủ tạo điều kiện để đánh địch theo phương án một; đồng thời sẵn sàng đánh địch ở phương án hai, có nghĩa là sư đoàn 23 ngụy đã về Buôn Ma Thuột phòng ngự dự phòng cuộc tiến công của ta vào thị xã. Sư đoàn này về Buôn Ma Thuột, tức là nó đã về căn cứ, nơi chúng tổ chức phòng ngự vững chắc, kiên cố. Dù tình huống nào cùng phải kiên quyết giành thắng lợi giòn giã trận Buôn Ma Thuột. Chúng tôi xác định mục tiêu chủ yếu trong thị xã là sở chỉ huy sư đoàn 23 và tiểu khu Đắc Lắc, khu liên hợp pháo binh - thiết giáp là mục tiêu quan trọng. Đảng ủy xác định đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột trên ba hướng: hướng bắc là chủ yếu; hướng tây nam và hướng nam là quan trọng. Đội hỉnh tiến công có năm mũi trong đó có một mũi thọc sâu. về thủ đoạn chiến đấu trong phương án một: kết hợp luồn sâu ém sẵn của bộ đội đặc công và bộ binh với đột kích của lực lượng binh chủng hợp thành cơ động từ xa bỏ qua các mục tiêu bên ngoài, áp nhanh vào thị xã, bất ngờ tiến công và đột phá trận địa địch dưới sự chi viện của pháo binh. Nếu xảy ra phương án hai ta sẽ thực hiện: “đánh chắc tiến chắc và đột phá liên tục”. Cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên chúng tôi đã từng đánh thí xã Kon Tum nhưng chưa làm chủ hoàn toàn. Sau khi ta giải phóng Phước Long, Bộ tư lệnh Miền đã cử một đoàn cán bộ đến Tây Nguyên phổ biến kinh nghiệm đánh thị xã, nhưng Phước Long chỉ là một thị xã nhỏ và không phức tạp như thị xã Buôn Ma Thuột. Do vậy, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên giao cho cơ quan tham mưu mặt trận phải nghiên cứu phương án đột phá tiến công thị xã Buôn Ma Thuột một cách kỹ lưỡng chu đáo, thực hiện được yêu cầu đánh chiếm nhanh nhưng ít gây thiệt hại cho thị xã.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #104 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:34:26 am »

Tôi nói thêm một vài nét về thị xã Buôn Ma Thuột. Thị xã này rộng ngót 25 km2 (không tính các căn cứ quân sự ở ngoại vi), là thủ phủ của Tây Nguyên, nơi đặt căn cứ của sư đoàn 23 ngụy. Từ trung tâm thị xã kéo về phía nam, khu vực sở chỉ huy sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc chiếm diện tích hơn 1 km2, được cấu trúc thành từng khu vực khá kiên cố và phức tạp. Phía đông đường 14 là tiểu khu bảo an, tòa hành chính và các trụ sở của cơ quan ngụy quyền tỉnh Đắc Lắc. Án ngữ phía tây bắc thị xã là khu căn cứ của trung đoàn 8 thiết giáp và tiểu đoàn pháo binh 39. Phía tây nam là khu kho quân sự Mai Hắc Đế, Phía đông và đông nam thị xã là căn cứ các trung đoàn 45 và 53. Xen kẽ giữa các khu quân sự là các khu vực dân cư đông đúc, đặc biệt là khu chợ thị xã (Buôn Ma Thuột lúc đó có 160.000 dân).

Địa hình xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột tương đối bằng phẳng, khá thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng binh chủng, ở quanh thị xã là rừng cà phê, dây là điều kiện rất thuận lợi để bộ đội ta có thể áp sát mục tiêu mà vẫn giữ được bí mật.

Thời gian này Bộ tư lệnh, cơ quan tham mưu mặt trận làm việc không kể ngày đêm. Anh Vũ Lăng, anh Nguyễn Năng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước - phụ trách Tham mưu trưởng mặt trận cùng các đồng chí cán bộ tác chiến, chủ nhiệm các binh chủng trinh sát, pháo binh, công binh, xe tăng, thông tin, cao xạ thức thâu đêm để bàn đi tính lại xây dựng phương án tiến công Buôn Ma Thuột. Cuối cùng Đảng ủy Mặt trận hạ quyết tâm:

Tập trung lực lượng đánh ngã nhanh ba mục tiêu chính là: sở chỉ huy sư đoàn 23, tiểu khu bảo an - tòa tỉnh trưởng và khu liên hợp pháo binh - thiết giáp; chủ yếu là sở chỉ huy sư đoàn 23. Ba mục tiêu trên là mục tiêu quan trọng lại cách biệt với khu dân cư, ta tập trung đánh vào đó sẽ đỡ thiệt hại cho nhân dân.

Phương án tác chiến được vạch ra là: Sử dụng bộ đội đặc công đánh chiếm trước kho Mai Hắc Đế, sân bay thị xã và sân bay Hòa Bình để cắt đứt đường không của địch. Lợi dụng tiếng súng, tiếng bộc phá của đặc công, đưa 12 trung đoàn bộ binh, xe tăng, pháo binh, cao xạ và công binh ở cách thị xã từ 10 đến 25 km vượt qua sông Sê-rê-pốc và các hướng khác nhanh chóng lướt qua các mục tiêu vòng ngoài, dùng sức mạnh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh và xe tăng đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã.

Chúng tôi bàn nhiều đến việc nghi binh thu hút và giam chân cho được 8 trung đoàn chủ lực quân ngụy ở lại bắc Tây Nguyên, không cho chúng về Buôn Ma Thuật trước khi ta nổ súng đánh vào thị xã này; đồng thời tổ chức lực lượng chặt đứt ba con đường chiến lược số 14, 19 và 21 để chia cắt đồng hằng với Tây Nguyên, chia cắt bắc Tây Nguyên với nam Tây Nguyên.

Chúng tôi cho rằng thời cơ để thực hiện phương án này lả khi ta cắt đứt được đường số 19 và đường số 14, giam giữ phần lớn chủ lực địch ở lại bắc Tây Nguyên và bí quyết để thực hiện phương án này là tiến hành biện pháp nghi binh khôn khéo.

Lợi dụng sai lầm của địch, ta đã tiến hành một kế hoạch nghi binh rất công phu, thu hút sự đối phó của địch về bắc Tây Nguyên. Tuy nhiên, chúng tôi không đánh giá thấp bộ máy tinh báo đồ sộ của Mỹ - ngụy nên đã tính đến những bất ngờ có thể xảy ra.

Nhằm bảo đảm cho bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ của chiến dịch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mật trận Táy Nguyên một mặt tích cực xây dựng phương án tác chiến, mặt khác tập trung giải quyết nhiều vấn đề về tổ chức biên chế, công tác hậu cần, kỹ thuật vả tiến hành công tác đảng, công tác chính trị một cách tích cực cả phía trước và phía sau, cơ quan và đơn vị, nhằm tạo nên chuyển biến căn bản toàn diện, có khí thế và hành động cách mạng sôi nổi, tự giác, bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Về tổ chức biên chế, ngay từ tháng 4 năm 1974, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mật trận Tây Nguyên chứng tôi đã quyết định xây dựng các lực lượng vũ trang Tây Nguyên theo phương hướng binh đoàn cơ động tác chiến quy mô lớn. Theo hướng đó, về tổ chức có những thay đổi. Mỗi sư đoàn bộ binh có 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh; mỗi tiểu đoàn có 400 người. Lực lượng pháo binh chiến dịch của Mặt trận tổ chức thành 2 trung đoàn pháo mặt đất và 2 trung đoàn pháo phòng không. Thành lập thêm trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273 và trung đoàn thông tin 29.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #105 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:37:46 am »

Công tác xây dựng hậu phương và công tác hậu cần được khẩn trương tiến hành. Bước vào chiến dịch năm 1975, Mặt trận Tây Nguyên đã xây dựng được 3 cơ sở tiếp nhận chi viện ở cánh Bắc, cánh Trung và cánh Nam, có hệ thống kho tàng, bến bãi, đường sá cho xe vận tải(1). Tuyến đường ống dẫn dầu, tuyến đường dây trần và các khu vực dự trữ vật chất chiến lược đã tạo điều kiện cho việc tăng cường sức mạnh chiến đấu của ta. Các khu vực kho đã triển khai hợp lý, bảo đảm có thể tiếp nhận mỗi đêm từ 300 đến 400 xe và từ 1.500 đến 2.000 tấn hàng. Nhờ vậy đã bảo đảm 75% nhu cầu vật chất cho gần một chục vạn quân trước ngày chiến dịch mở (14.000 tấn).

Do bản chất ngoan cố của đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nên cuộc chiến đấu sẽ quyết liệt, phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ rất cao mang tính chất kiên quyết, khẩn trương, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên chủ trương quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ mục tiêu, nhiệm vụ và quan điểm cơ bản của cách mạng miền Nam, bản chất âm mưu và khả năng của địch, nhiệm vụ chiến trường có quyết tâm vượt mọi khó khăn, chiến đấu liên tục, không ngại hy sinh gian khổ, quyết thi đua giành thắng lợi lớn nhất, chông mọi biểu hiện chủ quan, thỏa mãn, dừng lại; nắm vững tư tưởng đánh tiêu diệt, đánh nhanh, diệt gọn, đồng thời coi trọng công tác binh vận, làm tan rã hàng ngũ địch; đề cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các binh chủng, các hướng, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, tạo thuận lợi cho bạn để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ; chấp hành nghiêm kỷ luật chiến trường, tự giác nghiêm minh, thực hiện tốt chính sách vùng mới giải phóng, chính sách tù hàng binh, chính sách chiến lợi phẩm.

Để thực hiện những nội dung trên, chúng tôi tập trung chỉ đạo công tác xây dựng đảng một cách toàn diện. Đại hội đảng bộ các cấp xác định nhiệm vụ chính trị của đơn vị: Sư đoàn ta diệt 2-3 trung đoàn địch, trung đoàn ta diệt chiến đoàn địch trong một thời gian nhất định. Nghị quyết đại hội được tổ chức học tập sâu rộng đến chiến sĩ để tạo nên sự nhất trí cao. Nhưng vấn đề mấu chốt là phát huy sức mạnh của các cấp ủy đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Xây dựng các chi bộ đại đội chiến đấu thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện. Công tác phát triển đảng được tiến hành tích cực, đi vào nền nếp thường xuyên. Nhờ vậy nên mặc dù qua chiến đấu thương vong lớn, đảng viên cử đi học nhiều nhưng vẫn bảo đảm tỷ lệ lãnh đạo trên 40%. Đầu năm 1975, chi bộ có chi ủy chiếm 86,60%, trung đội có tổ đảng chiếm 94,3%, tiểu đội có đảng viên chiếm 85,3%.

Trong công tác cán bộ, trước yêu cầu đánh hiệp đồng binh chủng lớn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ, đồng bộ, hợp lý, có trình độ năng lực đáp ứng(2).

Bước vào chiến dịch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận phát động cao trào thi đua với khẩu hiệu hành động: “Mừng Đảng, mừng Xuân ra quân đại thắng quét sạch quân thù giải phóng nhân dân”.

Thời gian này Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc đã tiến hành nhiều cuộc họp để bàn việc phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của bộ đội chủ lực. Trước hết là quán triệt cho các cấp ủy đảng nắm chắc thời cơ lịch sử, nhiệm vụ của tỉnh Đắc Lắc trước yêu cầu mới, xác định quyết tâm, kế hoạch tiến công và nổi dậy trong toàn tỉnh, đặc biệt là trên địa bàn trọng điểm thị xã Buôn Ma Thuột; đồng thời có kế hoạch cụ thể đối với các hướng phát triển theo dự kiến của trên trục đường 14, 21, Cheo Reo, đường số 7... Chỉ trong một thời gian ngắn toàn tỉnh đã khôi phục được số cơ sở bị đứt liên lạc và phát triển cơ sở mới ở 23 buôn, gồm 6.500 dân, xây dựng 87 cơ sở cốt cán các loại, lập thêm 10 ban cán sự quần chúng và ban vận động khởi nghĩa xã, buôn.

Tháng 2 năm 1975, Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc quyết định tuyển chọn những cán bộ, chiến sĩ trong các ngành ở tỉnh và thị xã để thành lập một đội vận động chính trị gồm 81 đồng chí, có ban chỉ huy chung do anh Ama H’oanh - ủy viên thường vụ tỉnh ủy, Bí thư thị ủy Buôn Ma Thuột trực tiếp lãnh đạo. Nhiệm vụ chính của đội này là lãnh đạo nổi dậy giành chính quyền, làm chủ tiếp sau đòn tiến còng quân sự, theo bốn yêu cầu: ổn định tư tưởng quần chúng, động viên quyết tâm giải phóng trọn vẹn thị xã; giáo dục quần chúng không chạy theo địch mà phải bám lại nhà; tham gia tổ chức cách mạng; xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, huy động một bộ phận thanh niên tham gia chiến đấu, v.v...


(1) Từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 4 năm 1974 Tây Nguyên đã mở 394 km đường chiến dịch.
(2) Từ năm 1973 đến tháng 6 năm 1975, Mặt trận Tây Nguyên đã đưa vào đội ngũ cán bộ 1.081 đổng chí, đề bạt các cấp cho 4.490 đồng chí và bổ nhiệm 3.349 đổng chí. Trong năm 1974 nhiều lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch, về chiến thuật vận động tiến công, đánh công sự vững chắc, đánh thành phố, thị xã được mở cho các đối tượng khác nhau từ trung đội đến sư đoàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #106 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:39:06 am »

Đối với lực lượng vũ trang địa phương, Thường vụ tỉnh ủy Đắc Lắc quyết định sử dụng tiểu đoàn bộ binh 301 (thiếu); tiểu đoàn đặc công 401 và các đơn vị trực thuộc do anh Đỗ Minh Cảnh, tỉnh đội trường và anh M’lô Nguynh - chính trị viên phó tỉnh đội chỉ huy đánh chiếm quận lỵ Đức Xuyên, Lạc Thiện và phát triển theo đường 21B về hướng Phước An. Dùng đại đội 1, tiểu đoàn 301 vào thị xã Buôn Ma Thuột tảo trừ bọn địch sống sót chống lại, tạo thế thuận lợi cho hoạt động của đội vận động chính trị. Sử dụng đại đội bộ binh cùng bộ đội huyện và đội công tác đánh địch, mở dân, giải phóng vùng đông Cheo Reo. Thường vụ tỉnh ủy đã bàn bạc cụ thể các mặt về công tác tiếp quản thị xã Buôn Ma Thuột, quyết định thành lập ủy ban quân quản do anh Y Blốc Êban, phó bí thư tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh làm chủ tịch và anh Lê Chí Quyết, phó bí thư tỉnh ủy làm bí thư đảng ủy quân quản, phó chủ tịch ủy ban và một số ủy viên chỉ đạo các huyện tổ chức các ủy ban quân quản huyện. Anh Huỳnh Văn Cần, bí thư tỉnh ủy Đắc Lắc cho tôi biết đến trước chiến dịch, trong vùng địch kiểm soát ở tỉnh Đắc Lắc đã có 624 cơ sở cốt cán, gồm 160 cơ sở chính trị, binh vận, 144 du kích mật và 228 cơ sở khác. Trong thị xã có 120 gia đình cơ sở cũ, đó là chỗ dựa cho đội chính trị tiến vào thị xã. Chính những cơ sở này đã cung cấp thường xuyên những tin tức mới nhất của địch trong thị xã cho ta. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và ban quân sự thị xă đã chuẩn bị xong kế hoạch và lực lượng của địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực.

Những ngày cuối tháng 1 năm 1975, Bộ tư lệnh Mặt trận làm việc suốt ngày đêm để giao nhiệm vụ cho các đơn vị.

Tối ngày 24 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho trung đoàn 95A.

Ngày 25 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 320, Sư đoàn 316.

Ngày 26 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án một đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 10.

Chiều ngày 27 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án hai đánh thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án đánh quân giải tỏa khi địch có phòng ngự dự phòng.

Sáng ngày 29 tháng 1 năm 1975, anh Nguyễn Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 báo cáo quyết tâm bổ sung.

Ngày 30 tháng 1 năm 1975, Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho các đơn vị: trung đoàn pháo binh 40, trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn phòng không 234, trung đoàn phòng không 593, trung đoàn xe tăng 273, trung đoàn đặc công 198.

Ngày 31 tháng 1 năm 1975, anh Vũ Lăng chỉ thị cho anh Nguyễn Quốc Thước viết lại kế hoạch chiến dịch và quy định thời gian trong 5 ngày phải xong. Anh Vũ Lăng lưu ý anh Nguyễn Quốc Thước một số vấn đề: Ở phần mục đích, phương châm tác chiến cần viết cho chặt chẽ hơn. Phần cách đánh và tổ chức, công tác bảo đảm đường sá cơ động cho pháo binh, xe tăng; công tác bảo đảm kỹ thuật, xăng dầu, đạn dược, ăn uống, v.v... cần phân rõ từng cấp chịu trách nhiệm; công tác bảo đảm cho các mũi, các hướng, hiệp đồng thời gian, đặc biệt đối với đơn vị thọc sâu phải viết ngắn gọn nhưng rõ, để khi thực hiện thuận lợi.

Ngày 1 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho trung đoàn 271.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy chiến địch, ngày 7 tháng 2 năm 1975, anh Hoàng Minh Thảo đến Tây Nguyên theo quyết định của trên.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch mở đầu của cuộc tổng tiến công chiến lược nên Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã cử anh Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trường làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh vào Tây Nguyên tổ chức sở chỉ huy tiền phương của Bộ trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trung tuần tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành trên cơ sở lấy Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tày Nguyên làm nòng cốt. Anh Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch; tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Chính ủy; các anh Vũ Lăng, Phan Hàm, Nguyễn Năng, Nguyễn Lang - Phó tư lệnh; anh Phí Triệu Hàm - Phó chính ủy. Bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch còn có anh Bùi San, đại diện Thường vụ Khu ủy Khu 5 cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của tỉnh ủy Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #107 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:40:40 am »

Chiều ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch báo cáo quyết tâm và kế hoạch tác chiến chiến dịch với anh Văn Tiến Dũng, đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Theo sự thống nhất trong Bộ tư lệnh, anh Vũ Lăng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước báo cáo (anh Hoàng Minh Thảo mới đến Tây Nguyên đang ở giai đoạn nắm tình hình). Đúng giờ làm việc, anh Vũ Lăng lên cơn sốt rét, không thể có mặt. Sau khi nghe anh Nguyễn Quốc Thước trình bày phương án kế hoạch tác chiến chiến dịch, anh Văn Tiến Dũng đặt vấn đề: Vì sao Sư đoàn 10, một đơn vị có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc lại sử dụng để đánh Đức Lập mà không đưa vào tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ngay từ đầu. Tôi và anh Nguyễn Quốc Thước đã trình bày lý do, nhưng xem ra ý kiến chưa đủ sức thuyết phục đối với anh Văn Tiến Dũng. Tranh thủ giờ nghi, tôi đến gặp anh Vũ Lăng. Nhìn anh mặt tái ngắt, môi tím bầm, người run lẩy bẩy và đang sốt ruột chờ tin chúng tôi làm việc với anh Dũng, tôi ái ngại và thương anh quá. Kể lại cho anh nghe tình hình và nóỉ vui: “Có chết thì ngày mai hẵng chết. Còn bây giờ ông phải đến mà “cãi” về chuyện sử dụng Sư đoàn 10 đánh Đức Lập”,

Trước đề nghị của tôi, mặc dù cơn sốt chưa qua, nhưng anh Vũ Lăng đã cố gắng đến họp và báo cáo chi tiết việc sử dụng Sư đoàn 10. Anh Vũ Lăng nói rành rọt ý định của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên trong việc sử dụng sư đoàn này. Chính vì Sư đoàn 10 có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc nên phải sử dụng Sư đoàn 10 (thiếu trung đoàn 24) vào trận Đức Lập. Bởi vì Bộ tư lệnh chiến dịch xác định việc đánh căn cứ Đức Lập phải bảo đảm chắc thắng và chỉ được phép đánh thắng trong thời gian từ một đến hai ngày. Sau đó phải nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn 316 sẵn sàng tham gia trận then chốt, dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố chống cự khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Hơn nữa để thực hiện nhiệm vụ được giao hồi tháng 10 năm 1974 Sư đoàn 10 đã được bố trí tập kết ở hướng Đức Lập. Điều động quân trở lại vừa mất thời gian, vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật.

Sau khi anh Vũ Lăng trình bày, anh Văn Tiến Dũng đã cân nhắc và cuối cùng nhất trí phê chuẩn kế hoạch đó. Anh nhắc nhở chúng tôi thời gian gấp, nhiệm vụ nặng cần tổ chức bảo đảm chu đáo để đưa nhanh Sư đoàn 10 về hướng Buôn Ma Thuột sau khi đã giải phóng xong Đức Lập.

Vì chưa hiểu hết bối cảnh lịch sử, nên hiện nay có người cho rằng lúc đó không cần đánh Đức Lập mà chỉ dùng một lực lượng nhỏ bao vây thì địch cũng sẽ bỏ chạy.

Thời gian chuẩn bị còn lại rất gấp nên mọi công tác phải tiến hành hết sức khẩn trương. Hầu như đêm nào cơ quan chỉ huy chiến dịch cũng phải làm vỉệc đến 2, 3 giờ sáng. Các anh Nguyễn Quốc Thước, Khuất Duy Tiến, Trần Minh Hảo có đêm tranh thủ ngủ ngồi một lát rồi lại thức dậy làm việc. Tuy vất vả, mệt nhọc là thế nhưng nghĩ đến ngày Buôn Ma Thuột được giải phỏng, cả Tây Nguyên không còn bóng quân thù thì ai cũng thấy trong lòng phấn khởi, tăng thêm nghị lực làm việc.

Theo phương án đã được đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lộnh thông qua, các đơn vị tham gia chiến dịch Táy Nguyên được giao nhiệm vụ chính thức như sau:

- Sư đoàn 968 (thiếu) có nhiệm vụ hoạt động nghi binh tích cực giam chân khối chủ lực của quân khu 2 ngụy ở lại Kon Tum, Plây Cu.

- Sư đoàn 320 có nhiệm vụ cắt đường 14 đoạn Cẩm Ga (Thuần Mẫn), sẵn sàng tiêu diệt địch từ Plây Cu đi giải tỏa Buôn Ma Thuột, hoặc địch từ Buôn Ma Thuột đánh lên. Sau khi dứt điểm Cẩm Ga, sư đoàn này phát triển bao vây và tiêu diệt địch, giải phóng thị xã Cheo Reo.

- Trung đoàn 25 cắt đường 21 và chặn đánh địch ở đoạn tây Khánh Dương, tiêu diệt địch ở Buôn Ma Thuột rút chạy, hoặc địch từ đồng bằng Khu 5 lên theo trục đường 21.

- Trung đoàn 95A đánh cắt giao thông và tiêu diệt địch trên đường 19 đoạn tây An Khê phối hợp với Sư đoàn 3 Quân khu 5 đánh trên đoạn đông An Khê.

- Sư đoàn 316, trung đoàn 95B, trung đoàn 24 (Sư đoàn 10), trung đoàn đặc công 198, 2 trung đoàn pháo binh 40 và 675, 3 trung đoàn pháo cao xạ 234 (thiếu), 593 và 232, trung đoàn xe tăng 273, 2 trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn thông tin 29 có nhiệm vụ tiêu diệt địch giải phóng Buôn Ma Thuột.

- Sư đoàn 10 cùng một lúc phải thực hiện 2 nhiệm vụ:

1. Sử dụng sư đoàn thiếu được tăng cường 1 tiểu đoàn cao xạ thuộc trung đoàn 234, 1 cụm pháo binh 122 ly và 155 ly có nhiệm vụ nhanh chóng đánh dứt điểm quận lỵ Đức Lập và quét địch từ Đức Lập đến ngã ba Đắc Song trong thời gian từ 1 đến 2 ngày. Đánh xong Đức Lập, sư đoàn nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng tham gia trận then chốt đánh dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố co cụm chống cự, khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Nếu Sư đoàn 320 gặp khó khăn thì tăng cường lực lượng để giải quyết Cheo Reo.

2. Tổ chức một sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn chỉ huy trung đoàn 24 và trung đoàn 95B tác chiến trên hướng đông bắc và hướng tây Buôn Ma Thuột. Mục tiêu trung đoàn 95B đánh chiếm sân bay thị xã, ngã sáu, tiểu khu Đắc Lắc. Trung đoàn 24 sử dụng 1 tiểu đoàn được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe thiết giáp, 1 đại đội cao xạ hình thành lực lượng thọc sâu của chiến dịch, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23, dùng 1 tiểu đoàn bao vây Chư Nga, 1 tiểu đoàn làm lực lượng dự bị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #108 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:41:25 am »

Thực hiện kế hoạch tác chiến trên, Sư đoàn 968 (do anh Thanh Sơn - Tư lệnh, anh Trần Trác - Chính ủy) từ Hạ Lào hành quân bộ vượt qua vùng rừng núi hiểm trở biên giới Việt - Lào. Ngày 15 tháng 1 năm 1975 đến vị trí tập kết T73 với quân số 5.429 người, gồm 2 trung đoàn (trung đoàn 19: 1.890 người, trung đoàn 29: 1.890 người), mỗi tiểu đoàn quân số lên tới 480 người, bộ đội khỏe mạnh, xe pháo an toàn.

Từ Nghệ An, Sư đoàn 316 (do anh Đàm Văn Ngụy - Sư đoàn trưởng, anh Hà Quốc Toản - Chính ủy) hành quân bằng ô tô vào đến Tây Nguyên ngày 7 tháng 2 năm 1975 với quân số khá cao 8.820 người, có 2.137 đảng viên, trong đó có 73 trên 85 chi bộ đại đội có chi ủy.

Từ đầu tháng 1 năm 1975, Bộ tăng cường liên tiếp cho Tây Nguyên trung đoàn 95B (Sư đoàn 325), tiểu đoàn đặc công 1 của Bộ, trung đoàn cao xạ 232, trung đoàn công binh 575 thuộc Đoàn 559 và 1 tiểu đoán cầu phà, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe, pháo, đội đíều trị 48 và 8,000 quân bổ sung lần lượt đến Đắc Lắc. Ngoài ra còn có các đơn vị phối hợp và phối thuộc ở các hướng. Sư đoàn 3 (Quân khu 5) từ bắc Bình Định hành quân đến đông An Khê (Gia Lai), trung đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn đặc công 14 của Miền đến Gia Nghĩa, tiểu đoàn 21 Sư đoàn 470 (Đoàn 559) đến Bản Đôn.

Đầu tháng 2 năm 1975, Sư đoàn 320 (do anh Kim Tuấn - Sư đoàn trưởng, anh Bùi Huy Bổng - Chính ủy) và các trung đoàn binh chủng kỹ thuật bí mật rời khỏi khu vực đường 19, Đức Cơ, qua 5 ngày hành quân bộ, dưới cái nắng gay gắt của rừng khoọc Gia Lai đã đến vị trí tập kết phía tây Thuần Mẫn an toàn.

Ngày 6 tháng 2 năm 1975, trung đoàn 66, khối hành quân đầu tiên của Sư đoàn 10 (do anh Hồ Đệ - Sư đoàn trưởng, anh Lã Ngọc Châu - Chính ủy) bí mật rời hậu cứ Kleng về tập kết ở phía bắc dãy núi Chư Mon Ray rồi được xe ô tô chở về nam Tây Nguyên, Những ngày tiếp theo các đơn vị còn lại của Sư đoàn 10 cũng bí mật bàn giao tuyến phòng thủ Võ Định cho Sư đoàn 968 rồi bí mật theo đường 1B bằng xe cơ giới hướng về phía nam.

Ba cơ quan của Mặt trận Tây Nguyên cũng được lệnh di chuyển vào khu vực Đắc Đam (Đắc Lắc) phục vụ cho Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị.

Tôi nói thêm, mỗi khi mùa khô đến, những người chí huy quân đội Mỹ - ngụy ở Tây Nguyên thường theo dõi sự di chuyển của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Họ cho rằng hai sư đoàn này có mặt ở đâu, ở đó sẽ đánh lớn. Tương kế tựu kế, ta đã bí mật thế chỗ của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 bằng Sư đoàn 968. Khi hai sư đoàn này chuyển quân đã được lệnh để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến (kể cả nhân viên báo vụ). Các đài vô tuyến của hai sư đoàn này vẫn duy trì phát sóng đúng giờ tung các báo cáo giả lên làn sóng điện để đánh lửa sự theo dõi của địch. Tỉnh báo địch khí theo dõi các tín hiện phát ra, biết rõ cố tật của báo vụ viên từng đơn vị nên họ yên tâm là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn ở vị trí cũ.

Sau này viên tướng Mỹ Sác-lơ Ti-mét - cố vấn của Nguyễn Vân Thiệu đã phải thốt lên: “Bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân lực Việt Nam cộng hòa thuộc quân khu 2 ở Plây Cu và Kon Tum”.

Bị các hoạt động nghi binh chiến dịch của ta làm cho lạc hướng, ngày 18 tháng 2 trong cuộc họp với các tướng lĩnh để kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch phòng thủ quốc gia “Lý Thường Kiệt 1975” và các biện pháp của hội đồng an ninh quốc gia đã quyết định trước đây, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn cho rằng: “Quân khu 2 sẽ là chiến trường trọng điểm, quân khu 1 và quân khu 3 là chiến trường phối hợp. Cần đề phòng cộng sản có thể đánh vào một số thị xã nhỏ, nhất là các thị xã hẻo lánh ở Tây Nguyên như Quảng Đức, Kon Tum”. Sau cuộc họp ở phủ tổng thống về, tướng Phạm Văn Phú - tư lệnh quân khu 2 kiêm tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã triệu tập chỉ huy trưởng đơn vị, tiểu khu trưởng trong quân khu để nhận định tình hình, bàn kế hoạch đối phó. Họ cho rằng hình thức bố trí lực lượng của ta “nhẹ đuôi nặng đầu” (ý nói cảc sư đoàn chủ lực của ta đều tập trung ở hai tỉnh Kon Tum và Plây Cu) nếu đánh lớn ta sẽ lấy Kon Tum, Plây Cu làm “điểm”, chiến sự sẽ diễn ra ác liệt. Nơi diễn ra sôi động thứ hai có thể là Quảng Đức vì hiện ta đã chiếm được Phước Long nên cần đánh Quảng Đức để mở thông đường hành lang vào Nam Bộ, do đó Quảng Đức có thể nổi lên trong tình hình hiện nay. Từ nhận định trên, tướng Phú ra lệnh cho các đơn vị phòng giữ Kon Tum, Plây Cu cần củng cố hệ thống bố phòng, tăng cường sục sạo ra xa để sớm phát hiện ý đồ của ta và tổ chức tiến công từ tuyến ngoài, tiêu hao, làm giảm sức tiến công của ta khi đánh sâu vào khu vực thị xã; tăng cường cho Quảng Đức 1 trung đoàn để tăng thêm khả năng phòng thủ. Và tướng Phú vẫn chủ quan cho rằng Buôn Ma Thuột có thể bị đánh nhưng quy mô không lớn vì chỉ là “diện” nên chưa cần tăng lực lượng. Ngoài ra viên tướng này còn chỉ thị cho các đơn vị dưới quyền chú trọng điều tra sự di chuyển của 2 sư đoàn 10 và 320. Như trên đã nói, 2 sư đoàn chuyển về hướng nào thì nơi đó sẽ nổ ra đánh lớn. Tuy vậy, vẫn tỏ ra âu lo, nên sau cuộc họp Phú đã trao đổi riêng với chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phụ tá hành quân và Lê Khắc Lý - tham mưu trưởng quân đoàn 2 là ông ta rất sợ tình hình có nhiều đột biến ngoài dự tính, trong khi lực lượng quân khu ít và đã phải dàn mỏng, gắn chặt vào từng nơi. Tướng Phú than phiền rằng hôm gặp tổng thống Thiệu xin tăng thêm quân dù là lực lượng đã quen chiến trường để làm quân ứng cứu tại chỗ nhưng không được Thiệu chấp nhận. Cuối cùng tướng Phú chỉ được tăng thêm 2 liên đoàn biệt động...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #109 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2019, 09:42:42 am »

Đêm 18 tháng 2, đại tá Trịnh Tiêu - trưởng phòng tình báo quân khu 2 ngụy nhận được nguồn tin: “Sư đoàn 10 đã hành quân vào phía nam chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 sang tây Ea H’leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn. Một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột”.

Nhận được tin trên, Trịnh Tiêu đã báo cáo Phạm Văn Phú như sau: “Những hoạt động ở Kon Tum và Plây Cu chỉ là hoạt động nghi binh của Việt cộng. Ý định thực sự của họ là sẽ đánh vào Buôn Ma Thuột”. Phát hiện của cơ quan tình báo đã làm cho Phú rất lo lắng, nên đã nghĩ đến việc “có lẽ phải đưa sư đoàn 23 về lại Buôn Ma Thuột”.

Nhưng mặt khác, Phạm Văn Phú lại nhận được thông báo của tình báo Mỹ khẳng định rằng tình hình chưa có gì thay đổi, các đơn vị Việt cộng vẫn ở chỗ cũ... Những tin tức trái ngược nhau làm đau đầu tướng Phú. Tuy vậy, ngày 19 tháng 2 năm 1975, Phú vẫn quyết địch rút bớt trung đoàn 45 từ Plây Cu đưa về tây đường 40 ở khu vực tây Ea H’leo để sục sạo tìm Sư đoàn 320. Nhưng trước đó, Bộ tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho sư đoàn này lui quân về phía tây, chỉ để lại những tổ trinh sát bám địch, tuyệt đối tránh đụng độ với chúng.

Trước tình hình diễn biến phức tạp đó, Bộ tư lệnh chiến dịch 45 nhận định: “Địch có nghi ta chuẩn bị đánh Đức Lập, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột, cắt đường 14 ở Thuần Mẫn, với một số bằng chứng riêng lẻ. Nhưng địch vẫn chưa phát hiện ý định và lực lượng chiến dịch của ta. Những hoạt động trên mang tính chất rời rạc cục bộ. Tuy nhiên, cũng vẫn phải chủ động đề phòng”. Và Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định “kiên trì, khôn khéo giữ bí mật ý định và lực lượng ta ở hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột). Tích cực hoạt động nghi binh trốn hướng Kon Tum và Plây Cu đế thu hút trung đoàn 45 về Plây Cu”.

Thực hiện ý định trên, cơ quan tham mưu chiến dịch đã cho phát đi một bức điện giả để đánh lừa địch, nội dung như sau: “Địch đã bị lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã đưa trung đoàn 45 xuống phía nam”. Bộ tư lệnh quân khu 2 ngụy đã nhận được bức điện trên, cùng lúc với các chỉ huy quân sự các tỉnh ở Tây Nguyên. Sau khi nhận được bức điện của ta đánh đi, Phạm Văn Phú càng hoài nghi về nguồn tin đã nhận được và dứt khoát từ bỏ ý định đưa sư đoàn 23 trở lại Buôn Ma Thuột.

Sau khi các đơn vị bộ binh và binh chủng triển khai ở hướng chính an toàn, ngày 1 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 968 (mang tên Sư đoàn 320) đánh nghi binh tiến công một loạt các vị trí ở ngoại vi thị xã Plây Cu như đồn Tầm, chốt Mỹ và một loạt các cứ điểm trên dãy Chư Kra, Chư Gôi, điểm cao 605, uy hiếp quận lỵ Thanh An và Thanh Bình. Tiếng súng nổ xen lẫn tiếng gầm rú của xe tăng như báo hiệu một cuộc tiến công lớn vào thị xã Plây Cu đã bắt đầu.

Trong khi trung đoàn 45 ngụy đã qua 10 ngày lùng sục ở khu vực Ea H’leo vẫn không phát hiện ra Sư đoàn 320, thì được tin sư đoàn này xuất hiện đang tiến công vào hướng tây Plây Cu. Không giấu nổi bực tức, Phạm Văn Phú ra lệnh đưa ngay trung đoàn 45 về tăng cường sức chống đỡ ở hướng tây Plây Cu. Sáng ngày 3 tháng 3 năm 1975, trung đoàn 45 ngụy từ Ea H’leo vội vã hành quân về lại tây thị xã Plây Cu.

Đôm ngày 3 rạng sáng ngày 4 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cắt đứt đường 19. Từ sáng đến trưa ngày 4 tháng 3, trung đoàn 95A (anh Lê An - trung đoàn trưởng, anh Trần Kiểu - chính ủy) đã tiến ra đường 19 tiêu diệt một loạt các vị trí địch trong đó có căn cứ pháo binh Ia Dun do một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Đến chiều hôm ấy trung đoàn 95A đã làm chủ đoạn. đường dài 20 km từ ngã ba Plây Bôn đến ấp Phú Yên.

Cùng ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy vừa hành quân từ bắc Bình Định vào, gặp rất nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 - đoạn từ đèo Thượng An đến cầu số 13 diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47 ngụy diệt 316 tên, bắt sống 52 tên thu 200 súng và 2 khẩu pháo 105 ly, làm chủ hoàn toàn đoạn đường trên.

Tin đường số 19 bị cắt đứt đã nhanh chóng truyền về Oa-sinh-tơn, đêm 4 tháng 3 hãng thông tấn AP đã loan tin: “Đường số 19, con đường tiếp tế chủ yếu của cao nguyên đã bị cắt đứt. Các trận đánh đã tập trung ở Lệ Trung - đông Plây Cu 16 km và ở Bình Khê - tây Quy Nhơn 40 km. Nhiều vị trí từ Lệ Trung đến Bình Khê bị tiến công và mất liên lạc điện đài. Một căn cứ pháo binh 105 ly ở tây bắc Bình Khê đã bị cộng sản đánh chiếm”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM