Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:32:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức Tây Nguyên  (Đọc 16431 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:12:39 pm »

Tôi còn nhớ ngày 7 tháng 12 năm 1965, cơ quan chính trị mặt trận tổ chức gặp mặt một số dũng sĩ diệt Mỹ của trung đoàn 66 trong trận Ia Đrăng, đó là: Tô Văn Đan, chiến sĩ đại đội 3 tiểu đoàn 7; Hứa Văn Kính, chiến sĩ tiểu đội 6 trung đội 2 đại đội 2 tiểu đoàn 7; Lê Khắc Nga, tiểu đội trưởng đại đội 6 tiểu đoàn 8; Phạm Văn Phán, đại đội 7 tiểu đoàn 8, v.v... Khi anh em này đến cơ quan chính trị mặt trận trời đã về chiều. Chúng tôi cho anh em nghỉ ngơi, tắm giặt, sáng hôm sau làm việc. Chiều hôm đó anh Chu Huy Mân và tôi mời cơm số anh em này. Bữa cơm khá thịnh soạn, có thịt gà và cơm gạo nương (đồng bào vừa tặng). Tôi quan sát anh em ăn ngon lành, mọi người cười nói vui vẻ...

Sáng hôm sau, đồng chí trợ lý thi đua chạy đến vừa thở vừa báo cáo với tôi là có một “dũng sĩ” đã đào ngũ.

Tôi hỏi lại:

- Tên cậu ta là gì ?

Đồng chí trợ lý thi đua:

- Báo cáo thủ trưởng, đồng chí ấy tên là N.T.C., người đã diệt 12 tên Mỹ bằng lưỡi lê và súng AK trong trận ngày 14 tháng 11.

- Đồng chí có biết cậu ta đi vào quãng thời gian nào không - Tôi hỏi.

- Báo cáo thủ trưởng, chắc là vào khoảng từ 10 giờ 30 phút đêm trở đi. Vì lúc 10 giờ tôi còn đi một lượt xem anh em ngủ nghỉ ra sao, vẫn thấy đủ cả, mọi người đang nói cười khúc khích. Thế mà sáng ra anh em gọi nhau dậy, tăng võng của C vẫn còn nguyên, tưởng cậu ta đi vệ sinh, nhưng khi kiểm tra ba lô, súng đạn không thấy, anh em đều cho rằng cậu ấy đã “nghi binh” họ để đào ngũ rồi...

Ngay sau đó tôi báo cáo anh Chu Huy Mân về trường hợp của C. Nghe xong anh nói:

- Cậu ta còn trẻ, nông nổi, tâm lý chưa ổn định. Chắc cậu ta hồi tưởng cảnh ác liệt nên hoang mang. Anh cho một cán bộ và một vệ binh theo đường giao liên ra Bắc tìm bằng được cậu ta về. Chắc cậu ấy chưa đi xa đâu. Nhớ dặn anh em tuyệt dối không được mắng mỏ dọa nạt, phải ân cần động viên cậu ấy...

Ít ngày sau anh em đã gặp C bên bờ nam sông Bạc và đã động viên cậu ấy trở lại đơn vị. Trước tình hình trên, Đảng ủy Mặt trận chủ trương tiến hành củng cố bộ đội toàn diện. Trước hết tập trung củng cố ý chí chiến đấu, phẩm chất khí tiết, xây dựng quyết tâm đánh Mỹ đến cùng.

Thực hiện chủ trương trên, từ ngày 25 tháng 12 năm 1965 đến ngày 5 tháng 1 năm 1966, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức lớp chỉnh huấn chính trị đầu tiên cho 166 cán bộ trung cao cấp trong toàn mặt trận, trong đó có 13 cán bộ trung đoàn, 29 cán bộ tiểu đoàn, 124 cán bộ thuộc các cơ quan trung đoàn và mặt trận.

Nội dung của đợt chỉnh huấn chính trị lần này chúng tôi tập trung quán triệt tình hình cách mạng miền Nam nói chung và tình hình chiến trường Tây Nguyên nói riêng với chủ đề: Nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, nỗ lực hoàn thành quyết tâm chiến lược của Đảng. Nội dung thứ hai, học tập truyền thống và bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Qua đó mỗi người tự liên hệ kiểm điểm Trong quá trình học tập cán bộ còn được nghe bài viết của đồng chí Trường Sơn (bút danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh) nghe bác sĩ phòng dịch nói về cách phòng và chống bệnh sốt rét cuối cùng là bồi dưỡng để tổ chức học tập cho cán bộ sơ cấp và chiến sĩ ở đơn vị cơ sở.

Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận xác định mục tiêu của đợt sinh hoạt chính trị này như sau: Một là, xây dựng ý chí chiến đấu và phẩm chất khí tiết cách mạng trong sáng, chống tư tưởng sợ hy sinh ác liệt, ngại chiến tranh lâu dài, gian khổ. Hai là, xây dựng tính tổ chức, kỷ luật cao trong chấp hành mệnh lệnh chiến đấu và chấp hành chính sách thương binh tử sĩ, tôn trọng tài sản của nhân dân, chống tự do vô kỷ luật. Ba là, xây dựng quan điểm cần, kiệm, tự lực cánh sinh và quan điểm quần chúng, chống tham ô, lãng phí, tác phong quan liêu, gia trưởng, qua loa, tắc trách, ảnh hưởng xấu đến nhiệm vụ, đến quan hệ cán binh, quan hệ quân dân. Bốn là, xây dựng tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa, lạc quan vui tươi lành mạnh trước mọi khó khăn gian khổ, chống tư tưởng bi quan, sinh hoạt lỏng lẻo, sống gấp, thói quân phiệt bạc bẽo với chiến sĩ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:04 pm »

Chúng tôi chủ trương phát động tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ nói hết tâm tư vướng mắc của mình, qua đó trao đổi cùng nhau giải quyết. Đối với cán bộ trung cao cấp phải đề cao tự phê bình và phê bình, mỗi người phải làm bản kiểm điểm nêu rõ ưu điểm và những quan điểm nhận thức sai, những hành động trái với truyền thống và bản chất cách mạng của quân đội ta. Đối với chiến sĩ, cán bọ không phê bình mà phát động tự phê bình là chính, kết hợp phê bình lẫn nhau và cùng nhau đưa ra phương hướng phấn đấu rèn luyện, đặc biệt chú trọng nêu gương chiến đấu dũng cảm, vượt qua khó khăn trong xây dựng và huấn luyện. Sau đó phát động căm thù giặc Mỹ xâm lược đã gây tội ác dối với nhân dân hai miền Nam -Bắc, đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên và đối với cán bộ chiến sĩ ta.

Đây là đợt học tập tập trung lớn đầu tiên đối với cán bộ trung cao cấp toàn mặt trận. Một cuộc sinh hoạt chính trị nghiêm túc và sâu sắc, một cuộc đấu tranh không khoan nhượng trên lĩnh vực chính trị tư tưởng, giữa một bên là tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm đánh Mỹ đến cùng với một bên là tư tưởng ngại gian khổ hy sinh, dao động giảm sút ý chí chiến đấu. Những cuộc trao đổi, thảo luận, cả những cuộc tranh luận gay gắt trong cán bộ lãnh đạo chỉ huy các đơn vị để phân biệt đúng sai đã có tác dụng thiết thực, làm chuyển biến nhận thức theo chiều hướng tích cực; từ đó dần dần thống nhất được nhận thức về mối quan hệ giữa đánh lâu dài và tranh thủ thời cơ, thống nhất được nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ) là nhiệm vụ trung tâm thường xuyên của lực lượng vũ trang trên chiến trường. Càng về cuối đợt học tập, tinh thần phấn khởi, lạc quan càng được nâng lên.

Hôm kết thúc lớp học, thay mặt cơ quan chính trị mặt trận tôi phổ biến một số nộí dung chủ yếu về công tác đảng, công tác chính trị trong thời gian trước mắt. Tôi nói:

- Vấn đề thứ nhất, về công tác đảng: Yêu cầu đặt ra đối với các đảng bộ và chi bộ là phải thực hiện nghiêm túc đã họp thì bàn kỹ, nói hết khó khăn vướng mắc, bàn cho hết lý lẽ, bàn rồi nghị quyết cho thiết thực rõ ràng, cụ thể và khi đã có nghị quyết phải làm đến nơi đến chốn. Không được bàn ra, thụt lùi, không cho phép ai được phủ định nghị quyết. Các đảng bộ và chi bộ cần tổ chức tốt cho cán bộ chủ trì và cấp ủy tự phê bình một cách nghiêm khắc trước tổ chức đảng của mình. Cán bộ trung đoàn tự phê bình trước cán bộ tiểu đoàn, cán bộ tiểu đoàn tự phê bình trước cán bộ đại đội. Cán bộ đại đội tự phê bình trước chiến sĩ.

Vấn đề thứ hai, về công tác cán bộ: Yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, cả cán bộ của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và cán bộ người dân tộc. Nhưng tình hình thực tế lúc này chưa đáp ứng yêu cầu đó. Cán bộ trung đội, đại đội tuổi đời từ 35 đến 40 chiếm 52% cán bộ tiểu đoàn tuổi đời từ 38 - 40 chiếm 58% cán bộ người dân tộc ít người mới chiếm 3%. Trước hạn chế đó, Đảng ủy Mặt trận chù trương: Tích cực đào tạo bồi dưỡng và mạnh dạn cất nhắc xây dựng một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, mạnh mẽ về chất lượng, dồi dào về thể lực, đủ sức đáp ứng yêu cầu xây dựng và tác chiến quy mô ngày càng lớn trước mắt và lâu dài, đồng thời chuẩn bị cán bộ bổ sung cho trên khi cần thiết. Các đơn vị cần tích cực khai thác nguồn cán bộ bổ sung từ dưới lên, mạnh dạn đưa cán bộ trẻ có triển vọng lên cương vị lãnh đạo chỉ huy, đồng thời chú trọng sử dụng cán bộ lâu năm có kinh nghiệm, có thành tích tạo điều kiện cho các đồng chí đó cống hiến nhiều nhất, tốt nhất cho quân đội, cho cách mạng. Các đơn vị phải lấy việc tự lực giải quyết cán bộ tại đơn vị mình là chính, không chờ đợi ỷ lại bổ sung của trên, phải tận dụng hết khả năng cán bộ sẵn có.

Các cấp ủy đảng phải nắm vững đường lối giai cấp trong công tác cán bộ, vận dụng đúng tiêu chuẩn đức tài trong khi bổ nhiệm, đề bạt và đào tạo. Hết sức coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, trước nhất là ý chí chiến đấu, quan điểm lập trường và tình cảm cách mạng, đồng thời coi trọng bồi dưỡng năng lực toàn diện. Phương châm bồi dưỡng lấy học tập tại chức là chủ yếu, học ở trường là quan trọng. Phải lấy việc rèn luyện qua thực tế chiến đấu, công tác, lấy việc rút kinh nghiệm kịp thời làm biện pháp chính. Kết hợp với việc tập huấn, chỉnh huấn, bồi dưỡng ngắn hạn, lấy các sinh hoạt đảng, sinh hoạt đoàn, qua tự phê bình và phê bình mà rèn luyện cán bộ. Sắp tới Mặt trận sẽ tổ chức trường quân chính, các đơn vị chọn và cử số dũng sĩ diệt Mỹ và những anh em chiến sĩ, cán bộ tiểu đội chiến đấu tốt về trường đào tạo cán bộ trung đội, đại đội.

Vấn đề thứ ba, về xây dựng đơn vị: Muốn tăng cường công tác xây dựng đơn vị cơ sở (tôi muốn nói đơn vi cơ sở là đại đội) điều quan trọng đầu tiên là phải xem xét đánh giá thật đúng đắn tình hình mọi mặt ở đại đội. Vậy đánh giá như thế nào cho đúng? Trước hết lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải có phương pháp xem xét đúng, nắm chắc các quan điểm quần chúng, quan điểm phát triển, phải có tác phong sâu sát, nhưng như thế chưa đủ mà còn phải biết hướng cách xem xét vào hoạt động thực tiễn ở đại đội, nhất là chiến đấu ác liệt để kiểm tra xem xét đại đội ấy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:23 pm »

Nhiệm vụ chủ yếu của đại đội là chiến đấu, tất thảy mọi công tác đại đội làm trong xây dựng đều nhằm chiến đấu thắng lợi. Chỉ có trải qua chiến đấu mới có cơ sở chắc chắn để đánh giá đúng đắn chất lượng một đại đội.

Tình hình đơn vị hiện nay, như các đồng chí đã tự kiểm điểm, lỗi không phải ở chiến sĩ, mà chủ yếu do trách nhiệm chính trị của cán bộ các cấp buông lơi vai trò lãnh đạo chỉ huy của mình. Trong khó khăn thiếu thốn không gương mẫu, thiếu sự đồng cam cộng khổ và tình thương yêu chiến sĩ dẫn đến uy tín bị giảm. Nếu cán bộ các cấp chúng ta khắc phục những khuyết điểm trên, thành thực tự phê bình trước cấp dưới và chiến sĩ, chúng ta nhất định sẽ lấy lại sự tin yêu của cấp dưới và chiến sĩ.

Trước mắt, đề nghị các đồng chí sau hội nghị này về bắt tay ngay vào tổ chức sinh hoạt chính trị ở đơn vị mình, thực hiện phương châm học đến đâu chuyển biến ngay đến đó. Phát động phong trào nuôi quân phòng bệnh, giáo dục cán bộ, chiến sĩ tinh thần yêu thương, đùm bọc chăm sóc nhau, xây dựng lán trại, công trình vệ sinh làm cho đơn vị thực sự trở thành gia đình lớn. Mỗi trung đoàn nên tập trung làm thí điểm một đại đội điển hình về mọi mặt, sau đó tổ chức các đơn vị bạn tham quan học tập, từ đó mà nhân lên thành nhiều đại đội mạnh. Theo chúng tôi, các trung đoàn và các tiểu đoàn trực thuộc cần xây dựng cho mình một căn cứ hậu phương ổn định, thiết lập kho tàng, bệnh xá, khu tăng gia sản  xuất và cơ sở an dưỡng cho cán bộ. Đây chính là hậu phương trực tiếp của các đơn vị. Chúng tôi đề nghị cơ quan tham mưu mặt trận cần khoanh khu vực xây dựng hậu cứ cho các đơn vị...

Có một chi tiết tôi không thể nào quên, đó là vào lúc kết thúc chỉnh huấn chính trị, anh Chu Huy Mân, tay cầm một tập giấy khá dày giơ lên, rồi nói:

- Đây là những bản kiểm điểm của các đồng chí, tôi đọc và thấy các đồng chí đã tự phê bình một cách nghiêm khắc trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng và mỗi người đều có phương hướng phấn đấu cụ thể, thiết thực nên không cần phải giữ lại nó nữa. Tôi tuyên bố đốt tất cả những bản kiểm điểm này.

Nói rồi anh tự tay châm lửa đốt. Đợi cho tờ giấy cuối cùng cháy thành tro, anh Chu Huy Mân mời chính ủy ba trung đoàn 66, 33 320 lên rồi trao cho mỗi đồng chí một sợi dây thừng để trói tù binh Mỹ, trong tiếng vỗ tay vang dậy cả một cánh rừng.

Với tất cả sự thanh thản đó, toàn mặt trận bước vào trận chiến đấu mới.

Ngay sau khi kết thúc đợt chỉnh huấn chính trị ở Bộ tư lệnh Mặt trận, lãnh đạo chỉ huy các đơn vị ra về bắt tay ngay vào củng cố xây dựng đơn vị. Cơ quan chính trị mặt trận chúng tôi cử nhiều cán bộ đi cùng để giúp các đơn vị tiến hành cuộc chỉnh huấn chính trị ở đơn vị cơ sở. Với nhuệ khí mới và quyết tâm mới, các đơn vị tổ chức chặt chẽ, kết hợp học đến đâu chuyển biến ngay đến đó. Cán bộ từng cấp thực hành tự phê bình trước cấp dưới và chiến sĩ một cách chân thành, thẳng thắn. Mặt khác, hầu hết cán bộ từ trung đội đến trung đoàn theo cương vị chức trách của mình đã tự đấu tranh để vượt lên chính mình giữ vững phẩm chất khí tiết, đói no thiếu thốn cùng nhau chia sẻ. Tính đến cuối tháng 1 năm 1966, 100% các đơn vị trong toàn mặt trận có lán trại, sàn nằm và chỗ ở phong quang. Chúng tôi đến đơn vị nào cũng thấy khẩu hiệu hành động như: “Sạch doanh trại, gọn chỗ nằm, quang chỗ ở”.

Tuy tiêu chuẩn ăn của bộ đội không tăng nhưng các đơn vị bảo đảm ăn đều, sạch và nóng. Các đơn vị ở phía sau tổ chức bộ đội tập thể dục tạo không khí vui vẻ, phấn khởi cho bộ đội. Phong trào vệ sinh phòng bệnh, trật tự nội vụ gọn gàng trở thành tự giác của mỗi người. Cán bộ đã làm gương tốt cho chiến sĩ noi theo, dần dần đưa bộ đội trở lại tham gia học tập chính trị, huấn luyện quân sự và sẵn sàng chiến đấu tốt hơn. Các đơn vị đều tổ chức cho bộ đội làm hầm trú ẩn, hầm cho vũ khí trang bị và công sự chiến đấu tại chỗ. Đơn vị nào cũng lập đài quan sát phát hiện địch từ xa và có bộ phận canh gác, cảnh giới. Những đơn vị làm nhiệm vụ trực chiến súng đạn luôn bên người và được lau chùi sạch sẽ, gọn gàng, khi có lệnh là đi được ngay.

Sau đợt chỉnh huấn chính trị, sâu rộng trong toàn mặt trận, tình hình chung ở các đơn vị đã có sự chuyển biến cơ bản trên các mặt, nhất là về chính trị, tư tưởng. Tuyệt đại bộ phận cán bộ và chiến sĩ nhận rõ nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam là để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:13:56 pm »

*
*   *

Đi đôi với công tác chính trị tư tưởng, một vấn đề rất quan trọng được đặt ra ở thời điểm này là phải khẩn trương nâng cao chất lượng và sức chiến đấu cho bộ đội theo kịp sự phát triển của chiến tranh, không ngừng bổ sung những điểm mới vào nội dung chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu cho bô đội.

Các đơn vị chủ lực của ta được huấn luyện và xây dựng từ ngoài Bắc đưa vào chiến trường. Do vậy, đại bộ phận cán bộ cơ sở được huấn luyện qua các trường nên trình độ kỹ thuật chiến thuật cơ bản tốt. Trước khi vào chiến trường các đơn vị đều được huấn luyện bổ sung các chiến thuật phục kích, công kiên, tập kích theo những kinh nghiệm tác chiến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong “chiến tranh đặc biệt” đối tượng tác chiến là quân ngụy, những kinh nghiệm và những chiến thuật trên đã phát huy tác dụng tốt. Ví như trận công kiên đồn Đắc Xút của trung đoàn 101 trận đánh phục kích trên đường 21 của trung đoàn 320 đều đạt hiệu suất cao.

Nhưng bước vào đánh Mỹ, đối tượng tác chiến thay đổi, hỏa lực phi pháo của địch mạnh hơn nhiều, sự cơ động bằng trực thăng của quân Mỹ xuất hiện đã làm thay đổi cơ bản về thủ đoạn chiến thuật cũng như thủ đoạn chiến dịch. Trận Plây Me ta đánh thắng Mỹ chủ yếu là ta thắng về tinh thần dám đánh và quyết thắng nhưng về cách đánh Mỹ, về chiến thuật và chiến dịch ta còn rất nhiều bỡ ngỡ.

Để nâng cao hiệu suất tiêu diệt địch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đã đặt vấn đề phải huấn luyện cho cán bộ cả về nghệ thuật chiến dịch lẫn chiến thuật.

Về nghệ thuật chiến dịch, Bộ tư lệnh Mặt trận cho rằng trong thời kỳ quân Mỹ mới lên Tây Nguyên tiến hành phản công chiến lược, chúng lấy “tìm diệt” làm mục đích chính. Khi hành quân, ỷ vào quân đông, hỏa lực mạnh, nên quân Mỹ dùng hành động phản kích làm thủ đoạn cơ bản về chiến dịch.

Để đánh bại địch về chiến dịch, Bộ tư lệnh Mặt trận xác định hình thức nghệ thuật của ta là nghệ thuật chiến dịch vận động tấn công với tư tưởng đánh tiêu diệt, theo hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn. cần nói thêm là tư tưởng này được quán triệt suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu của khối chu lực Tây Nguyên.

Đầu năm 1966, Bộ tư lệnh Mặt trận mở lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch tiến công cho cán bộ trung đoàn và sư đoàn nhằm làm cho cán bộ chỉ huy biết tổ chức thế trận có chiều sâu (thế trận hình bậc thang, để chống chiến thuật “nhảy cóc” của Mỹ) dùng mưu kế lừa địch, đánh trận then chốt quyết định để kết thúc chiến dịch.

Về chiến thuật, thực tiễn chiến đấu với quân Mỹ cho thấy trong hành quân chúng thường xuất hiện hai phương pháp: hành quân bộ và đổ bộ bằng trực thăng.

Đặc điểm hành quân bộ của quân Mỹ ở Tây Nguyên khác với quân đội Pháp. Quân Mỹ ít đi theo trục đường mà thường cắt rừng theo góc phương vị để đến nơi đã định. Khi đổ bộ bằng máy bay trực thăng, lúc đầu chúng lợi dụng những bãi trống, nhưng bị quân ta phục kích đánh, nên sau đó quân Mỹ dùng bom phát quang dọn bãi rồi đổ quân. Đội hình hành quân hoặc trú quân của Mỷ phổ biến là từng đại đội. Mỗi đại đội là một mũi hành quân đồng thời cũng là một điểm đóng quân.

Từ thủ đoạn chiến thuật của quân Mỹ như vậy, muốn diệt chúng ta phải nghiên cứu và phát triển hình thức chiến thuật cho phù hợp với đối tượng mới. Tôi còn nhớ ngày ấy Tư lệnh và cơ quan tham mưu mặt trận đã dành nhiều đêm soạn thảo tài liệu huấn luyện cán bộ chiến sĩ tập trung vào mấy chiến thuật: chiến thuật vận động tiến công, chiến thuật chốt kết hợp vận động nhằm tiêu diệt quân địch đang hành quân; chiến thuật tập kích nhằm tiêu diệt quân địch trú quân hoặc co cụm; chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không nhằm tiêu diệt quân địch đổ bộ trực thăng. Cơ quan chính trị chúng tôi cũng khẩn trương chuẩn bị tài liệu công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện bộ đội.

Như trên đã nói, chỗ mạnh về quân số và vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự của quân Mỹ đã làm tăng thêm tính chất ác liệt trong chiến đấu, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý bộ đội, ảnh hưởng đến tổ chức và phương pháp tác chiến chiến dịch lẫn chiến thuật của ta. Từ thực tế đó đặt ra cho công tác đảng, công tác chính trị trong huấn luyện chiến đấu những câu hỏi đại thể: Làm thế nào để phát huy cao độ yếu tố chính trị tinh thần của ta, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng quân Mỹ. Địch nham hiểm xảo quyệt, lại có nhiều phương tiện trinh sát, truyền tin kỹ thuật hiện đại nên ta phải làm thế nào giữ được bí mật bất ngờ chống phá có hiệu quả mọi thù đoạn chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý tác động, xâm nhập vào bộ đội ta. Quân Mỹ có hỏa lực phi pháo mạnh (kế cà máy bay chiến lược B52), ta phải làm thế nào để han chế tác dụng đánh phá của địch, giảm thấp thương vong của ta ? Đánh lớn, đánh liên tục dài ngày khó tránh khỏi thương vong nên việc chấn chỉnh củng cố tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng đòi hỏi phải giải quyết thường xuyên, kịp thời, vì vậy phải làm thế nào để đáp ứng yêu cầu đó, v.v...

Những vấn đề trên đã được phát động để mọi cán bộ chiến sĩ tìm lời giải đáp ngay trong quá trình huấn luyện; đặc biệt xây dựng phẩm chất chính trị, tinh thần cho bộ đội là công việc thường xuyên, hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của tổ chức Đảng, của công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị. Nhờ làm tốt công tác này ta đã góp phần tạo nên bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong cuộc chiến đấu Xuân Hè 1966.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:14:41 pm »

*
*   *

Từ sau Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta tháng 5 năm 1965, tình hình miền Nam biến chuyển rất nhanh. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ sụp đổ, nhưng Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn ngoan cố ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam nước ta. Tính đến tháng 12 năm 1965, lực lượng quân Mỹ và chư hầu ở miền Nam đã lên tới 20 vạn tên, chưa kể 7 vạn lính hải quân và không quân Mỹ trên các căn cứ của Mỹ ở Gu-am, Phi-líp-pin, Thái Lan và hạm đội 7 cũng trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Lực lượng quân Mỹ đưa vào miền Nam chiếm tới một phân năm bộ binh, một phần ba số máy bay chiến đấu và một phân tư số hàng không mẫu hạm của Mỹ. Ban Chấp hành Trung ương xác định dù Mỹ có đưa quân vào miền Nam bao nhiêu đi nữa thì vẫn là chiến tranh xâm lược kiểu mới. Do đó ngụy quân, ngụy quyền vẫn có vai trò quan trọng. Như vậy, đối tượng tác chiến của quân và dân ta ở miền Nam là cả Mỹ và ngụy. Tôi còn nhớ đồng chí Lê Duẩn nói: Mỹ có thể lúc nào đó chịu rút quân, nhưng ngụy vẫn tồn tại, không có ngụy thì Mỹ không thể vào được miền Nam ta, nhưng không có Mỹ thì quân ngụy sẽ tan rã nhanh.

Mỹ vào đông tuy có làm thay đổi về tương quan lực lượng, nhưng vẫn có lợi cho ta. Mặc dù quân Mỹ có 46 tiểu đoàn, quân ngụy có 150 tiểu đoàn, trong khi đó quân Mỹ phải đóng 96 cứ điểm, quân ngụy phải phân tán hơn 3.000 đồn bốt và căn cứ. Do vậy dù tăng đến 20 vạn nhưng quân Mỹ vẫn không có lực lượng cơ động. Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 dự định là lực lượng cơ động, trên thực tế sư đoàn này cũng chỉ sử dụng được một lữ đoàn. Một vấn đề rất quan trọng là chủ trương chiến lược cũng như chủ trương tác chiến của những người trong cơ quan lãnh đạo nước Mỹ bộc lộ nhiều điểm vừa mâu thuẫn vừa không nhất quán, ví như đánh lâu dài hay đánh nhanh thắng nhanh, phân tán hay tập trung, cơ động hay chiếm đất, v.v... Mặt khác về vũ khí trang bị của quân Mỹ cũng chưa thích hợp. Vũ khí sản xuất để sử dụng ở chiến trường châu Âu nay phải tung ra dùng ở vùng nhiệt đới châu Á nên tác dụng hạn chế mà tổn phí lớn. Điều đó chứng tỏ Mỹ chưa có sự chuẩn bị đầy đủ cho chiến trường này. Vì vậy, họ đã phải cử sang Việt Nam mấy trăm nhà khoa học để nghiên cứu từ vải mặc, màu sắc đến việc bảo quản vũ khí, lương thực, thuốc chữa bệnh sốt rét, thuốc chống côn trùng và rắn độc ở miền nhiệt đới. Một vấn đề nan giải khác là việc tiếp tế cho quân chiến đấu Mỹ. Cứ một lính Mỹ một ngày cần 29 kg và lính ngụy cần 7 kg từ lương thực thuốc men, nước uống đến vũ khí đạn dược... Trong khi đó chúng gặp không ít khó khăn về phương tiện, bến bãi, kho tàng, lực lượng bốc xếp và lực lượng bảo vệ từ cảng về các vị trí đóng quân. Như vậy, khả năng tăng quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu không phải là vô giới hạn, bởi nếu tăng 40 vạn quân thì chúng phải giải quyết khâu vận chuyển với khối lượng khổng lồ.

Trước tình hình trên, ngày 27 tháng 12 năm 1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 12 định ra nhiệm vụ: Động viên lực lượng của cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Và xác định: Nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của cả nhân dân ta từ Nam chí Bắc. vấn đề đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta lúc đó là phải tập trung lực lượng của cả nước kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường chính miền Nam. Ta chủ trương kiên trì phương châm ra sức hạn chế cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó là thắng địch một cách có lợi nhất cho cách mạng nước ta và cách mạng thế giới; tiếp tục phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính.trị, thực hiện ba mũi giáp công, trong đó đòn quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng, nhưng đấu tranh quân sự chỉ thu được kết quả lớn nhất nếu nó được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Ta cố gắng cao độ để tranh thủ thời cơ tăng cường lực lượng về mọi mặt, chủ động liên tiếp tiến công địch, tiêu diệt tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, do đó mà đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Mặt khác chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị để thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và mở rộng ra cả nước. Chúng ta cũng cần hết sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và viện trợ quốc tế, một nhân tố góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân ta, do đó cần đẩy mạnh đấu tranh chính trị ngoại giao.

Tôi còn nhớ Nghị quyết lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương đã ra lời kêu gọi: Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà, một cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cống hiến vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó trong giai đoạn lịch sử quang vinh này của Tổ quốc, chúng ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào.

Đáp lời kêu gọi của Đảng, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc bừng bừng khí thế thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Trên chiến trường Tây Nguyên, Đảng ủy Mặt trận kịp thời đề ra nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên là kiên định lập trường, vượt qua khó khăn, vượt qua ác liệt đánh thật nhanh, mạnh, liên tục, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ và quân chủ lực ngụy, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng diệt kím, phá ấp, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, củng cố căn cứ địa hậu phương trực tiếp của chiến trường. Trên cơ sở sự chi viện của hậu phương lớn, nhiệm vụ đó đặt ra cho đảng bộ và lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên phải nỗ lực vượt bậc chạy đua với thời gian về mọi mặt để kịp thời đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng lớn của chiến trường và phương hướng chiến lược của Bộ.

Tháng 12 năm 1965, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 1 gồm các trung đoàn 33, 66, 320 là những trung đoàn đã cùng chiến đấu trong chiến dịch Plây Me - Ia Đrăng do anh Nguyễn Hữu An làm sư đoàn trưởng, anh Hoàng Thế Thiện làm chính ủy. Lực lượng pháo binh của Tây Nguyên cũng có sự phát triển mới. Ngoài lực lượng pháo cối, pháo phòng không hiện có, Bộ đã bổ sung cho Tây Nguyên tiểu đoàn cối 120 ly, tiểu đoàn 30 súng máy phòng không 12,7 ly.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:15:30 pm »

Như trên tôi đã đề cập, tác chiến của các binh đoàn chủ lực có phát triển mạnh mẽ và vững chắc là phải dựa vào sự phát triển của chiến tranh du kích. Ngược lại chiến tranh phát triển đến mức đó nào đó mà không có tác chiến của các binh đoàn chủ lực hỗ trợ thí cùng khó phát triển. Đây là mối quan hệ hữu cơ giữa hai lực lượng để tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân hùng mạnh vững chắc. Để vận dụng được quy luật đẩy mạnh chiến tranh du kích phát triển cùng với chiến tranh chính quy phù hợp đặc điểm chiến trường Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận xác định phải xây dựng hai khối chủ lực: khối chủ lực cơ động và khối chủ lực tại chỗ Hai khối chủ lực này sẽ cùng với lực lượng vũ trang địa phương tiến hành và đẩy mạnh chiến tranh nhân dân.

Thời gian này, lực lượng địa phương ba tỉnh đã phát triển khá mạnh. Ở Kon Tum có 1 tiểu đoàn và 6 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. Ở Gia Lai có 1 tiểu đoàn, 2 đại đội và 11 trung đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. ở Đắc Lắc có 1 tiểu đoàn và 4 đại đội bộ binh, 1 đại đội đặc công, 1 đại đội pháo cối. Lực lượng này đã hình thành khá cân đối giữa bộ binh với đặc công và pháo binh, giữa tỉnh và huyện, về lực lượng du kích, Tỉnh ủy Gia Lai có nghị quyết: Đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. Hai phần ba số đảng viên và 100% số đoàn viên phải vào du kích. Do vậy toàn tỉnh Gia Lai có 8.541 du kích, trong đó có 887 nữ, tỷ lệ 6,9% số dân vùng giải phóng. Đảng viên chiếm 7,2%. Có huyện như huyện 5 (Chư Pông) đạt 16% số dân tham gia du kích, về trang bị trung bình 9 du kích có 1 súng, số còn lại trang bị vũ khí thô sơ.

Ở Kon Tum, tỉnh cũng đặt vấn đề xây dựng du kích phải đạt 3 tính chất: quần chúng, giai cấp và quân sự. Tổng số du kích toàn tỉnh là 4.736 người, chiếm 14% dân số vùng giải phóng. Du kích nữ chiếm 25%. Cứ 12 du kích có 1 đảng viên, 3 du kích trang bị 1 súng.

Ở Đắc Lắc, tổng số du kích là 2.740 người, đạt tỷ lệ 9% dân số vùng giải phóng. Du kích nữ chiếm 30%.

Như vậy, lực lượng dân quân du kích xã, thôn lên tới 16 nghìn người, số đông đã qua chiến đấu. Những vành đai diệt Mỹ bắt đầu hình thành quanh các căn cứ địch.

Cũng vào cuối năm 1965, Tây Nguyên thành lập binh trạm Nam và binh trạm Bắc, xây dựng căn cứ hậu cần khu vực. Lực lượng công binh, vận tải và các đơn vị làm nhiệm vụ ở tuyến sau được huy động, gấp rút mở thêm đường ô tô 128 từ Tà Xẻng vào nam đường 19 và các đường hành lang chạy xuống phía đông. Đường hành lang C01 đi xuống căn cứ Khu 5. Đường hành lang C09 từ miền tây Gia Lai tiếp tế cho lực lượng hoạt động ở phía đông bắc Plây Cu. Đường hành lang C06, C010 chuyển hàng chi viện cho căn cứ kháng chiến tỉnh Bình Định, Phú Yên. Với sự hình thành căn cứ hậu cần khu vực cánh Nam, cánh Trung, cánh Bắc và hệ thống đường hành lang Bắc - Nam, Đông - Tây, các xã huyện vùng giải phóng ba tỉnh Tây Nguyên được nối liền thành căn cứ hậu phương tại chỗ, bảo đảm chỗ đứng chân xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang nhân dân.

Đầu năm 1966, xưởng quân giới Tây Nguyên ra đời. Từ một xưởng sửa chữa lúc đầu trang bị còn thô sơ, được miền Bắc chi viện thiết bị, các chiến sĩ quân giới đã xây dựng thành xưởng sản xuất quân giới mang mật danh X53.

Thời gian này, tổ chức quân y Tây Nguyên được bổ sung củng cố hoàn chỉnh từ cơ quan chỉ đạo đến các hệ thống điều trị, vệ sinh phòng dịch, sản xuất thuốc chữa bệnh, huấn luyện cán bộ chuyên môn. Hệ thông điều trị hình thành từng khu vực, phía trước có quân y các đơn vị, các đội phẫu thuật cơ động và trạm xá, phía sau có các bệnh viện. Viện 1 ở cánh Bắc, Viện 2 ở cánh Nam. Ngày 22 tháng 3 năm 1966, tôi làm việc với anh Vũ Văn Cẩn, Cục trưởng Cục quân y vừa từ miền Bắc vào, được anh cẩn thông báo: Tổng cục Hậu cần, Cục Quân y đã cử một khung bệnh viện gồm các bác sĩ được lựa chọn từ hai viện tuyến cuối của quân đội do anh Võ Văn Vinh(1), Cục phó Cục Quân y trực tiếp làm viện trưởng, anh Khuất Duy Kính làm chính ủy, anh Lê Cao Đài, Viện phó phụ trách ngoại, anh Trần Nam Hưng làm viện phó phụ trách nội, anh Lê Công làm viện phó phụ trách hậu cần.

Viện 211 có 1 đội ngũ cán bộ được lựa chọn trong các chuyên viên của hai bệnh viện 108 và 103 (211 là số cộng của 108 và 103).

Khu ngoại có các anh Đinh Văn Lạc, phó chủ nhiệm khoa phẫu thuật thần kinh Viện quân y 108, anh Lê Sỹ Liêm, chủ nhiệm khoa phẫu thuật bụng Viện quân y 103, anh Trương Công Cán, phó chủ nhiệm khoa chấn thương chỉnh hình Viện quân y 108.

Khoa nội có các anh Nguyễn Văn Âu, chủ nhiệm khoa truyền nhiễm Viện quân y 108, anh Đỗ Xuân Cương chủ nhiệm khoa nội tiêu hóa Viện quân y 103, anh Vũ Bích, khoa nội thần kinh Viện quân y 103, anh Nguyễn Đăng Giá, nội tim mạch Viện quân y 108 và anh Nguyễn Cảnh cần khoa da liễu Viện quân y 108.

Chuyên khoa có anh Đào Gia Thìn khoa tai mũi họng Viện quân y 108, anh Trần Quang Minh chuyên khoa mắt, anh Nguyễn Trung Lương, phẫu thuật hàm mặt.

Các khoa cận lâm sàng có các anh Phạm Phú Thọ, gây mê hồi sức Viện quân y 108, anh Lê Đức Tu, sinh hóa Đại học Quân y, anh Nguyễn Quang Huy, vi sinh, anh Hà Nhưỡng, giải phẫu bệnh lý Viện quân y 108.

Đa số bác sĩ chủ nhiệm khoa Viện 211 thuộc lớp sinh viên y khoa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám được đào tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là những cán bộ chuyên khoa có kinh nghiệm của các bệnh viện lớn của quân đội ta. Điều đó nói lên sự quan tâm đặc biệt của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với cán bộ, chiến sĩ trên một địa bàn chiến lược quan trọng của Tổ quốc. Như vậy, Tây Nguyên có một bệnh viện với đầy đủ các khoa như Viện 108, với đội ngũ cán bộ có trình độ cao vừa có khả năng cứu chữa thương binh vừa làm nhiệm vụ huấn luyện đào tạo quân y sĩ và bổ túc bác sĩ đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng lớn của chiến trường.


(1) Anh Võ Văn Vinh thuộc lớp bác sĩ cuối cùng trước Cách mạng Tháng Tám của Trường đại học Y khoa Hà Nội. Anh là một sinh viên giỏi nội trú các bệnh viện và là bác sĩ nội khoa có uy tín trong quân đội. Anh đã bốn lần vượt Trường sơn ra Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1945, ngày đầu Nam tiến anh vào Khu 5 công tác. Năm 1951, anh ra Việt Bắc dự hội nghị rồi lại trở vào Khu 5. Năm 1954 anh tập kết ra Bắc. ở tuổi gần 50, đầu đã điểm bạc, anh lại khoác ba lô vào Tây Nguyên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:16:44 pm »

*
*   *

Cuối năm 1965, trên chiến trường miền Nam địch đã tăng số quân lên tới 72 vạn tên (có 18 vạn lính Mỹ, 2 vạn lính chư hầu) với trên 2.000 máy bay (có 600 máy bay chiến đấu). Với quân số và phương tiện chiến tranh trên những người chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn bắt đầu thực hành cái gọi là “cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất”, nhưng Mỹ đã thất bại liên tiếp trên các chiến trường. Để lý giải những thất bại ở Plây Me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng những người chỉ huy quân đội Mỹ cho rằng họ thua vì mới chân ướt chân ráo đến Việt Nam, chưa kịp làm quen với địa hình, khí hậu. Hơn nữa đó cũng chỉ là thua từng trận, từng sắc thái lính, Bộ chỉ huy Mỹ chưa ra tay, v.v... Do vậy, với cuộc phản công chiến lược này chúng đã sử dụng 78% các lực lượng cơ động Mỹ và chư hầu, một nửa lực lượng cơ động chiến lược của quân Sài Gòn để tiến hành 450 cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm vào Củ Chi, đông bắc Sài Gòn, nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định, nam Phú Yên (chúng còn gọi là chiến dịch “Năm mũi tên”); với tham vọng là giành lại quyền chủ động, bẻ gãy xương sống Việt cộng, tức là tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, mở rộng vùng kiểm soát hỗ trợ việc bình định, chặn đứng cuộc khủng hoảng tan rã của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Nhưng quân và dân ta kiên cường chống trả bằng nhiều phương thức tác chiến khác nhau. Chúng ta đã liên tiếp tiến công địch, trong đó có hai trận thắng lớn ở Củ Chi, trận thứ nhất từ ngày 9 đến ngày 19 tháng 1 và trận thứ hai từ ngày 23 tháng 1 đến ngày 5 tháng 2 nãm 1966. Trong hai trận này ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 lính Mỹ, bắn rơi và phá hủy gần 100 máy bay. Trận ở Phú Yên từ ngày 19 tháng 1 đến ngày 10 tháng 2 năm 1966, và trận chống càn ở Bình Định từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 7 tháng 3 năm 1966 ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn lính Mỹ và chư hầu, bắn rơi hàng trăm máy bay. Trận tập kích Nhà Đỏ - Bông Trang (Thủ Dầu Một) ngày 24 tháng 2 năm 1966 chỉ trong mấy giờ chiến đấu ta diệt gọn 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn xe bọc thép quân Mỹ.

Phối hợp với đòn quân sự, phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố phát triển. Thời gian này ở Huế và Đà Nẵng, sinh viên học sinh và công nhân đã nổi dậy đình công, bãi khóa, bãi thị... chiếm đài phát thanh, đốt phòng thông tin Mỹ, phá nhà lãnh sự Mỹ, đòi “ly khai” với chính quyền Sài Gòn làm cho cả Mỹ, lẫn ngụy ở đây hoang mang bối rối.

Tôi còn nhớ đồng chí Nguyễn Chí Thanh nói về ý nghĩa chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất như sau: “Chúng ta đã giành thắng lợi cả về chính trị và quân sự, và chủ yếu đó là thắng lợi quân sự. Ý nghĩa rất quan trọng của thắng lợi mùa khô này là, một lần nữa nó chứng minh rằng: đường lối chính trị của ta đã thắng và sẽ toàn thắng đường lối chính trị xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ, đường lối quân sự, chiến lược, chiến thuật của chúng ta đã thắng và sẽ toàn thắng chiến lược, chiến thuật chiến tranh cục bộ của Mỹ. Chiến tranh nhân dân của ta với nhiều tính ưu việt của nó đã tỏ ra là vô địch”.

Tháng 2 năm 1966, Quân ủy Trung ương họp bàn cụ thể về tổ chức thực hiện các mặt công tác quân sự. Về đối tượng tác chiến, Quân ủy cho rằng phải chú trọng cả quân Mỹ, quân chư hầu và quân ngụy, về phương thức tiến hành chiến tranh, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích khắp nơi tiêu hao, tiêu diệt địch đồng thời đẩy mạnh tác chiến tập trung, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu ở chiến trường rừng núi, trọng điểm là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Quân ủy quyết định tổ chức chiến dịch lớn trên những hướng quan trọng làm chủ và mở rộng các địa bàn chiến lược, phát triển đánh vào hậu phương địch, đánh giao thông, đánh vào các cơ quan đầu não đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh chính trị trong các đô thị, tranh thủ nhân dân buộc địch phải lo việc phòng ngự.

Quân ủy thảo luận kỹ các mặt xây dựng và tăng cường lực lượng ở cả hai miền, chú trọng cả ba thứ quân, khắc phục xu hướng coi nhẹ dân quân du kích ở một số địa phương, cần phát triển đặc công và các đội chuyên trách đánh giao thông, xây dựng từng bước và có trọng điểm hệ thống giao thông vận tải và kho tàng chiến lược. Các mặt công tác chính trị, công tác xây dựng Đảng phải được đẩy mạnh cho phù hợp với yêu cầu chiến đấu mới.

Thực hiện chủ trương quân sự của Quân ủy Trung ương, đầu năm 1966, Bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trung đoàn 24 do anh Phùng Bá Thường(1) làm trung đoàn trưởng. Các anh Nguyễn Mạnh Thạch, chính ủy, Nguyễn Xuân Mô, tham mưu trưởng, Võ Tấn Nam, chủ nhiệm chính trị. Trung đoàn 24 tới chiến trường với quân số 2.634 người, có 473 đảng viên (trong đó có 25 đồng chí được kết nạp trên đường hành quân), 1.473 đoàn viên. Chất lượng chính trị tốt, 25 trên 26 chi bộ có cấp ủy (riêng đại đội quân y chưa có), 56 trên 57 trung đội có tổ đảng (trung đội 3, đại đội 2, tiểu đoàn 4 chưa có tổ đảng). Theo báo cáo của chỉ huy trung đoàn 24, khả năng thực tế hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và công tác của trung đoàn tốt.


(1) Anh Phùng Bá Thường, quê ở xã Nghi Thu, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở lên cán bộ trung đoàn. Anh có cái uy của người cầm quân, có tính quyết đoán dám làm, dám chịu, được anh em tin nhiệm về mọi mặt. Anh gắn bó với Tây Nguyên liên tục cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:17:21 pm »

Đầu tháng 4 năm 1966, Bộ tăng thêm cho Tây Nguyên sư đoàn 325B (đến Tây Nguyôn mang phiên hiệu Nông trường 10 (NT10) do anh Vương Tuấn Kiệt sư đoàn trưởng, anh Trần Văn Trân làm sư đoàn phó, anh Quốc Tuấn làm chính ủy, anh Trần Xuân Lư làm phó chính ủy, anh Thái Cán làm tham mưu trưởng, anh Thái Bá Nhiệm làm chủ nhiệm chính trị. Sư đoàn 325B đến chiến trường với quân số 8.059 người của 2 trung đoàn là 95 và 101B. Trung đoàn 95 do anh Lê Khắc cần, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Hữu Hưu, chính ủy, các anh Trần Ngọc Anh, trung đoàn phó, tham mưu trưởng, Võ Duy, phó chính ủy, anh Phan Duy Nguyên, chủ nhiệm chính trị. Trung đoàn 101B do anh Ma Văn Minh, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Thế Hân, chính ủy, các anh Hà Phúc Hảo, trung đoàn phó, Nguyễn Hồng Hải, tham mưu trưởng, Vũ Đình Trụ, phó chính ủy, Đàm Hữu Vấn, chủ nhiệm chính trị.

Theo báo cáo của anh Thái Bá Nhiệm, quyết tâm của sư đoàn trước khi vào chiến trường khá tốt. Lúc đầu mỗi đại đội có dăm ba người tư tưởng còn có vấn đề, nhưng trong hành quân có chuyển biến tích cực. Nhiều đồng chí đang ốm vẫn cố gắng theo đơn vị hoặc anh em khiêng cáng nhau đi trong đội hình.

Như vậy, đến giữa năm 1966, khối chủ lực Tây Nguyên đã tương đương hai sư đoàn. Với lực lượng bộ đội chủ lực ngày một lớn như vậy, vấn đề xây dựng hậu phương trực tiếp của chiến trường đặt ra những đòi hỏi bức xúc.

Ngày 3 tháng 3 năm 1966, anh Chu Huy Mân và tôi cùng một số cán bộ Mặt trận Tây Nguyên đã họp với lãnh đạo tỉnh Kon Tum do anh Nguyễn Văn Tiềm (Bùi Anh), bí thư tỉnh ủy, anh Lê Băng, phó bí thư tỉnh ủy, anh Nguyễn Tập, phó bí thư tỉnh ủy kiêm chính trị viên tinh đội, anh Nguyễn Trọng Đàm, tỉnh đội trưởng cùng một tổ cán bộ ban ngành khác của tỉnh.

Đây là cuộc họp đầu tiên giữa lãnh đạo Mặt trận với lãnh đạo tỉnh Kon Tum để bàn nhiều vấn đề liên quan đến nhiệm vụ tác chiến và công tác xây dựng hậu phương chiến lược tại chỗ của chiến trường theo tinh thần Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương. Về tình hình địch, anh Nguyễn Văn Tiềm cho biết: “Ở Tân Cảnh có 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 42 sư đoàn 22 ngụy. Ngày 15 tháng 2 năm 1966 Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tăng thêm 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn không vận số 1 Mỹ lên Tân Cảnh. Có 2 đại đội lính mũ nồi xanh Mỹ, 1 đại đội chiếm đóng căn cứ Mãng Đen, 1 đại đội chiếm đóng căn cứ Măng Bút, nhằm khống chế ta ở vùng Bắc Tây Nguyên. Lực lượng bảo an có 1 tiểu đoàn và 6 đại đội độc lập đóng ở Kông Trang Ho, Kon Rẫy, Kroong và cầu Kon Tum. Ở Đắc Pét có 1 tiểu đoàn biệt kích ngụy và 50 cố vấn Mỹ đóng trong căn cứ. Ngoài ra còn khoảng 700 dân vệ nằm trong các buôn ấp xung quanh quận lỵ Đắc Pét.

Khác với khi còn thực hiên chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, giờ đây quân Mỹ và quân chư hầu phối hợp với quân ngụy khá chặt chẽ để cắm đồn, chốt giữ mở nhiều cuộc hành quân càn quét “tìm và diệt”. Có cuộc càn chúng huy động tới 12 tiểu đoàn (có một lữ đoàn Mỹ) tham chiến, vừa hành quân càn quét, đánh phá vừa gom xúc dân vào các “ấp tân sinh”, “khu tập trung”, “ấp chiến lược”. Chúng huy động lực lượng lớn gồm cả bộ binh, pháo binh, không quân, có thám báo, biệt kích dẫn đường, chỉ điểm đánh theo lối “cuốn chiếu”, “úp nơm” để triệt phá vùng giải phóng, vùng căn cứ cách mạng của ta. Đồng thời chúng dùng máy bay bắn phá ngày đêm, liên tục rải chất độc hóa học phát quang diệt môi sinh, phá hoại hoa mầu nương rẫy khiến nhiều làng trong căn cứ kháng chiến bị hủy diệt, gây cho ta khó khăn tổn thất.

Cùng với hành động quân sự kể trên địch còn đẩy mạnh việc củng cố chính quyền tay sai tề ngụy ở các ấp. Mặt khác chúng đẩy mạnh chiến tranh tâm lý chiêu hồi, chiêu hàng, lũng đoạn tư tưởng cán bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân gây rối nội bộ ta”.

Anh Nguyễn Tập cho biết thêm: “Gần đây lực lượng Phun-rô đang trỗi dậy hoạt động khá tích cực, chúng có cờ và truyền đơn, địa bàn chủ yếu quanh thị xã Kon Tum. Từ đầu năm 1966 chúng mở rộng địa bàn ra khu vực Đắc Tô, Kon Hơ Giao. Âm mưu của chúng là chia rẽ người Kinh và người Thượng, Mỹ đang lợi dụng bọn này để chống phá ta. Chúng cho người chui vào cơ sở của ta để tuyên truyền lôi kéo. Ở huyện 67 đã có 9 thanh niên và du kích chạy theo chúng”.

Từ tình hình trên, Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên và lãnh đạo tỉnh Kon Tum thống nhất cho rằng, trước mắt tình hình địch ở Kon Tum là khá phức tạp. Mỹ - ngụy đang tranh thủ Phun-rô và các đảng phái phản động như đảng Cần lao nhân vị, đảng Đại Việt và Quốc dân đảng để chống phá ta. Do vậy, quân và dân Tây Nguyên nói chung, quân và dân tỉnh Kon Tum nói riêng phải đề cao cảnh giác, kiên quyết làm thất bại âm mưu của chúng

Về tình hình ta, anh Nguyễn Văn Tiềm cho biết:

- Tính đến đầu năm 1966, cả tỉnh Kon Tum có 120 nghìn dân gồm 14 dân tộc, trong đó có gần 40 nghìn dân người Kinh, sống chủ yếu ở thị xã và một số thị trấn, quận lỵ. Số dân vùng giải phóng là hơn 40 ngàn người, sống chủ yếu trong vùng núi sâu và căn cứ của ta. Số dân sống trong vùng địch tạm thời kiểm soát là 70 nghìn và 10 nghìn dân sống ở vùng tranh chấp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:17:47 pm »

Tình hình vùng giải phóng và căn cứ của ta cơ sở chính trị tốt, nơi nào cũng có tổ chức của Đảng, đời sống nhân dân khó hơn trước, nhưng tinh thần đóng góp của nhân dân các dân tộc rất cao. Kon Tum là tỉnh nghèo, mặc dù còn thiếu đói nhưng nhân dân vẫn dành gạo cho cách mạng. Năm 1965, toàn tỉnh đóng góp được 230 tấn lương thực, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1964.

Các huyện trong tỉnh đều có bệnh xá, với đội ngũ y sĩ, y tá có khả năng giải quyết những trường hợp nhân dân và du kích bị thương hay bệnh tật. Bệnh viện tỉnh có khoa nội và khoa ngoại, một lúc có thể tiếp nhận vài chục thương bệnh binh. Phong trào của tỉnh phát triển khá toàn diện, lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đã mở được nhiều địa bàn sát các vùng xung yếu. Nhân dân ở vùng giải phóng và căn cứ luôn sẵn sàng phục vụ bộ đội. Huyện 40 (Đắc Lây), có thể huy động 1.000 dân công phục vụ chiến đấu, huyện 67 huy động từ 1.300 đến 1.500 dân công khi cần thiết. Huyện 80 (Đắc Tô), thường xuyên có 3 trung đội du kích hoạt động quanh huyện và trục đường 14 Đắc Tô đi Đắc Sút. Những trung đội du kích này có khả năng chiến đấu độc lập, đánh ấp, chống càn.

Trao đổi với lãnh đạo tỉnh Kon Tum, anh Chu Huy Mân đề nghị tỉnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu vừa cấp bách, vừa mang tính chất cơ bản lâu dài đối với tỉnh Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung, anh nói:

- Kon Tum là trung tâm căn cứ không những của Tây Nguyên mà còn của cả Khu 5, là đầu mối của tuyến đường chiến lược nối liền hậu phương lớn miền Bắc với Tây Nguyên và từ đây đi vào Nam Bộ. Do vậy, nhiệm vụ trên giao cho Kon Tum và Tây Nguyên là chiến trường có điều kiện tiêu diệt lớn quân địch, không phải một năm mà nhiều năm. Để làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang trên, trước hết trong trường hợp nào tỉnh cũng phải giữ được dân, vận động nhân dân bám địa phương không bỏ chạy đi nơi khác và thực hiện việc “cấy dân” ở những địa bàn trọng điểm. Có dân ta mới xây dựng được căn cứ, xây dựng được hậu phương. Muốn giữ được dân, tỉnh cần tập trung giải quyết vấn đề đời sống cho nhân dân trên cơ sở động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất lương thực toàn diện, nhưng lấy cây mì (sắn) là chủ yếu.

Một vấn đề hết sức quan trọng là chăm lo xây dựng cơ sở chính trị ở mọi nơi, thực hiện tốt chính sách của Đảng, đặc biệt là hai chính sách lớn: chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo. Chúng ta phải tìm mọi cách thâm nhập chính sách của Đảng vào quần chúng nhân dân. Bởi vì chính sách là thể hiện tính ưu việt của cách mạng, làm đúng, làm tốt quần chúng mới tin và noi theo.

Dừng một lát, anh Chu Huy Mân nói tiếp:

- Tôi muốn nói với các đồng chí về công tác địch vận. Đây cũng là một chủ trương lớn của Đảng, các cấp các ngành cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải tham gia tuyên truyền vận động gia đình và sĩ quan binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền quay về với cách mạng. Tôi được biết, hiện nay tỉnh có hai trại giam với gần 500 tù binh. Tỉnh cần có kế hoạch giáo dục tuyên truyền giải thích cho số tù binh này rồi thả ra đề họ tuyên truyền cho ta. Có thể một nửa hay hai phần ba số này lại theo địch thì ta vẫn còn một phần ba, có khi một nửa, như vậy vẫn có ích.

Từ sau cuộc họp giữa lãnh đạo Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên với các đồng chí lãnh đạo tỉnh Kon Tum, tình hình chung có sự chuyển biến tích cực. Bộ đội bước vào chuẩn bị cho đợt chiến đấu Xuân Hè 1966. Lãnh đạo tỉnh Kon Tum kịp thời đề ra một kế hoạch toàn diện lâu dài trên nhiều lĩnh vực. Có nhiều việc kết quả vượt xa so với dự kiến ban đầu.

Tôi đã có dịp đến những buôn làng căn cứ Tây Nguyên trong đó có tỉnh Kon Tum, tiếp xúc với người dân, với cán bộ cơ sở, tôi hiểu từ trong tiềm thức của đồng bào Tây Nguyên nói chung và nhân dân các dân tộc Kon Tum nói riêng thì cán bộ, Đảng, cách mạng là một. Họ yêu cán bộ tức yêu quý Đảng. Họ làm theo lời cán bộ tức là làm theo mệnh lệnh của cách mạng, của Đảng. Gian khổ, đói nghèo không làm cho người dân Kon Tum sờn lòng, nhụt chí. Trái lại, càng làm cho họ gắn bó với Đảng cao hơn. Nhân dân Tây Nguyên yêu cái rừng cái núi bao nhiêu thì họ cũng yêu cách mạng bấy nhiêu. Vì thế họ sẵn sàng chịu đựng tất thảy những mất mát hy sinh để cho cách mạng thắng lợi.

Tôi còn nhớ trong cuộc họp của dân bản Đắc Son gần ngã ba biên giới Đông Dương bàn việc đóng góp thóc lúa cho cách mạng và dân công phục vụ bộ đội chiến đấu; khi đồng chí bí thư chi bộ đặt vấn đề: “Chúng ta đi theo Đảng, theo cách mạng, nay Đảng cần gạo cho bộ đội ăn no đánh thắng giặc Mỹ, cần dân công phục vụ tiền tuyến, bà con nghĩ sao ?”. Tất cả đều trả lời không một chút do dự: “Đảng cần cái gì, đồng bào đóng góp hết”. Thế là ngày hôm sâu đồng bào vùi thóc, gùi gạo, ùn ùn nộp vào kho cách mạng. Cán bộ hỏi: “Có bao nhiêu gạo đồng bào đóng góp cho cách mạng cả, còn mình sống bằng gì ? Đồng bào trả lời: “Mình quen chịu khổ rồi, mình ăn cái rau, củ mì được, chứ để bộ đội đói thì lấy sức đâu đánh giặc”. Câu nói giản dị ấy chứa đựng một tình cảm sâu nặng, gắn bó của người dân Kon Tum với cách mạng. Đảng cần, cách mạng cần là nhân dân các dân tộc sẵn sàng làm ngay, họ không đòi hỏi bất cứ một điều kiện nào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2019, 02:18:08 pm »

Khi viết đên đây tôi chợt nhớ câu thơ của Nguyễn Duy Nhiệm, nguyên đội trưởng đội văn nghệ xung kích Mặt trận Tây Nguyên:

      Gạo giã xong - đầy gùi - phần cách mạng

Một lần khác chúng tôi được anh cán bộ kinh tế huyện 67 dẫn đến chỗ đồng bào đang nộp thóc. Bà con vây quanh, họ nói nhiều, tiếc rằng ngôn ngữ khác nhau nên chẳng hiểu được là bao. Anh cán bộ nói lại cho tôi nghe đại ý: Bộ đội, đồng bào cùng đánh Mỹ, ngụy. Đồng bào có ăn, bộ đội không lo đói. Hết gạo ta có mì (sắn), hết mì ta có rừng. Rừng là gạo, là mì, là tất cả đó thôi. Bao đời nay ông cha ta sống với rừng. Rừng vẫn là của ta. Cái bụng ưng nhau rồi không lo gì hết.

Anh chỉ cho tôi số bà con đứng ở bên cạnh:

- Bà con mới ở “ấp chiến lược” được cơ sở dẫn mang gạo ra đấy. Đi cả ngày đường mới tới đây. Ai cũng bảo: làm cách mạng bằng nhau. Mình còn tạm thời ở trong ấp nhưng mình đã là người của cách mạng mình phải đóng góp bằng nhau với bà con vùng giải phóng chớ!

Chúng tôi và anh cán bộ kinh tế huyện đã từng đi qua những “rẫy cách mạng”, với bạt ngàn đu đủ, chuối. Anh nói với tôi:

- Bà con làm cho cách mạng cả đây. Bộ đội, cán bộ dân sự đi công tác qua cứ lấy mà ăn. Không phải hỏi ai cả. Nhưng ăn đến đâu, lấy đến đó đừng lãng phí là được rồi.

Một lẫn khác nữa, chúng tôi đến một làng, từ xa đã nghe tiếng chày giã gạo thình thịch đều đều tạo thành một âm điệu nhịp nhàng.

Ở đây chúng tôi gặp anh em mình đang lấy gạo. Một cảnh tượng thật khó quên dối với tôi: cả làng giã gạo. Từ em bé đến cụ già đều giã gạo. Bộ đội cũng đang giã tay đôi với bà con. Mọi người vừa làm vừa hát. Nghe thì hay nhưng tôi chẳng hiểu gì. Tôi hỏi anh cán bộ kinh tế huyện:

- Bài hát ấy là thế nào?

Anh đọc lại cho tôi nghe, lời bài hát như sau:

      Trăng lên rồi
      Đêm càng đẹp.
      Lũ làng mừng giã gạo nuôi quân
      Ơi anh giải phóng, cái chân không mỏi
      Lũ làng đây cái tay cũng không mỏi.
      Anh diệt nhiều thù, cối gạo càng trắng thơm
      Đẹp lòng quân dân
      Nghĩa tình cá nước.


Tôi cũng đã từng gặp những đoàn dân công đủ các lứa tuổi của các dân tộc ở tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc đi gùi gạo, gùi đạn phục vụ tiền tuyến trong những ngày mưa lạnh. Có một bà mẹ ở làng Đắc Xây lưng gùi 4 quả đạn cối 82 ly, tay dắt theo một đứa nhỏ, tay kia bế đứa con địu trước ngực cũng luồn rừng, lội suối theo dân làng ra trận. Không có áo mưa họ phải dùng lá chuối rừng che hàng cách mạng, còn mình thì chịu ướt, chịu rét. Đêm mưa tầm tã, bà con lại lấy lá chuối rừng che thân rồi từng tốp ba người, năm người ngồi dựa vào nhau đợi giờ quân ta nổ súng, hễ có thương binh là họ khiêng cáng về trạm phẫu ngay không kể lúc nào.

Hàng cách mạng gùi đến nơi đến chốn, không hao hụt một lạng, một hạt. Đồng bào nói với nhau: “Lấy của cách mạng là không tốt, là có tội”. Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ đồng bào Tây Nguyên nói chung, đồng bào Kon Tum nói riêng, vẫn liên tục phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Điều này đã trở thành nếp sống đạo đức tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, nó chất chứa một niềm tin trọn vẹn vào Đảng, vào cách mạng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM