Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:17:05 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức Tây Nguyên  (Đọc 16419 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:02:05 am »

Tên sách: Ký ức Tây Nguyên
Tác giả: Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2002
Số hóa: macbupda



LỜI GIỚI THIỆU

Cuốn KÝ ỨC TÂY NGUYÊN của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp - nguyên Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên, Chính ủy Quân đoàn 3 là cuốn sách phản ánh khá đầy đủ, khách quan những sự kiện chính diễn ra từ khi Mặt trận Tây Nguyên được thành lập đến mùa Xuân năm 1975 đại thắng, một cuốn sách khắc họa rõ nét tập thể cán bộ, chiến sĩ và người dân Tây Nguyên thông qua những hành động anh hùng và những phẩm chất tốt đẹp của họ, được thể hiện trong cuộc chiến tranh kiên trì, có nhiều sáng tạo.

Đọc
KÝ ỨC TÂY NGUYÊN, những ai đã từng sống, chiến đấu ở chiến trường gian khổ này và cả những ai chưa từng đến Tây Nguyên đều có thể hình dung được những năm tháng cực kỳ gian nan nhưng rất hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Tây Nguyên; rất cụ thể nhưng đạt được ý lớn đánh bại tư tưởng sợ Mỹ, cũng như thắng lợi dễ dàng, đồng thời làm nổi bật quan điểm quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu làm nên lịch sử. Tuy hoàn cảnh mới đã khác, nhưng những bài học về ý chí, nghị lực cách mạng, dũng khí tiến công, cả những kinh nghiệm về công tác tổ chức, công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác xây dựng con người mà tác giả thể hiện vẫn nguyên giá trị.

Tôi chúc mừng tác giả và hoan nghênh Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Tây Nguyên và 25 năm ngày thành lập Quân đoàn 3 anh hùng.


Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 1999
                                                                                                                                               
Đại tướng CHU HUY MÂN
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 12:11:19 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:04:01 am »

TỪ MỘT CUỘC HỘI THẢO

Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Tây Nguyên, có nhà báo đặt cho tôi câu hỏi: “Nói về những gì xảy ra ở Tây Nguyên mùa Xuân năm 1975 có lẽ trước hết phải nói đến trận Buôn Ma Thuột?”. Tôi trả lời: “Trước hết phải nói tới những gì đã xảy ra trên cao nguyên này từ nhiều năm trước. Phải nói tới cái nhìn đúng đắn, xa rộng của Đảng ta khi đánh giá địa bàn chiến lược Tây Nguyên và đã âm thầm xây dựng cơ sở cách mạng cũng như xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên từ những ngày còn mỏng manh nhất, gian khổ nhất đến khi hình thành một lực lượng đủ mạnh để có thể giải quyết những vấn đề chiến thuật và chiến dịch ở Tây Nguyên; trên cơ sở đó tạo ra thế chiến lược cho Tây Nguyên để rồi từ Tây Nguyên chúng ta bắt đầu cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975”.

Chiến thắng Buôn Ma Thuột mãi mãi là một dấu son trên trang sử vẻ vang của quân đội ta nhưng nó không phải là trước hết mà là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài của quân và dân Tây Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chiến thắng Buôn Ma Thuột là kết quả của 30 năm chiến đấu gian khổ của quân và dân Tây Nguyên, đặc biệt trong 15 năm kể từ năm 1960, khi tiểu đoàn chủ lực đầu tiên từ miền Bắc trở về cùng đồng bào xây dựng căn cứ mở đường giao liên.

Có thể nói trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tây Nguyên là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và địch. Bởi Mỹ đánh giá địa bàn Tây Nguyên rất quan trọng, chúng cho rằng: muốn chiến thắng ở miền Nam Việt Nam thì phải kiểm soát được vùng cao nguyên trung phần Đông Dương. Vì thế chúng đã biến Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn và đặt sở chỉ huy quân khu II và quân đoàn II của quân ngụy tại Plây Cu. Riêng Mỹ đã bố trí ở địa bàn này 2 sư đoàn (sư đoàn kỵ binh không vận 1 ở An Khê, sư đoàn bộ binh 4 ở Hòn Rồng thuộc tỉnh Gia Lai). Dọc đường 14 từ phía bắc tới phía nam cũng như dọc đường 19 đường 21 từ phía đông sang phía tây Tây Nguyên là một hệ thống cứ điểm dày đặc, trong đó có những căn cứ lớn cấp quân đoàn, sư đoàn; cũng phải kể đến nhiều cứ điểm ở dọc biên giới Việt Nam — Lào, Việt Nam — Cam-pu-chia do các tiểu đoàn biệt kích chiếm giữ. Hệ thống phòng ngự trên đường 14 khá vững chắc, là tuyến phòng ngự cơ bản, là nòng cốt cho toàn bộ hệ thống phòng thủ trên Tây Nguyên của địch. Ngoài ra ở Tây Nguyên địch còn có các căn cứ không quân khá mạnh với nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp và hàng chục đơn vị biệt, động quân tạo thành lực lượng tác chiến binh chủng hợp thành rất mạnh.

Thế nhưng sau nhiều năm chiến đấu, quân và dân ta đã đánh cho quân địch ở Tây Nguyên nhiều đòn đau và đã từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, liên hoàn hoàn chỉnh tạo thế ngày càng có lợi cho ta. Đến năm 1974, mặc dù địch ở Tây Nguyên còn quân số khá lớn, trang bị vũ khí có được tăng cường hơn, nhưng tinh thần binh lính địch đã suy sụp rất rõ rệt, do quân Mỹ đã phải rút ra khỏi miền Nam theo Hiệp định Pa-ri làm cho quân ngụy mất chỗ dựa. Chúng phải co về phòng thủ các thị xã, quận lỵ ven các trục đường giao thông chiến lược. Trong tình thế mới, ta hoàn toàn có thể thực hiện quyết tâm “đánh cho ngụy nhào”. Bộ Chính trị đã chọn Tây Nguyên là hướng chủ yếu mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược và quân dân Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó.
 
Chiến công của các đơn vị quân đội làm nên chiến thắng lịch sử này đã và sẽ còn được nói tới. Nhưng chúng ta không thể không nhắc tới sự đóng góp trên nhiều mặt của lớp lớp cán bộ chiến sĩ gồm hàng chục vạn người, trong đó gần ba vạn liệt sĩ, trong hàng chục năm ròng với biết bao gian khổ, hy sinh. Chúng ta càng không thể không nhắc tới công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nếu chúng ta đều biết tới hình ảnh từng đoàn dân công gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em của các buôn làng Tây Nguyên đã đi gùi gạo, gùi đạn tiếp tế cho bộ đội; nếu chúng ta biết tới những đồng chí cán bộ của Đảng đã từng cà răng căng tai, sống hàng vài chục năm với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên để bám dân, bám đất xây dựng địa bàn, xây dựng chỗ cho chúng ta đứng chân mà đánh giặc; nếu chúng ta biết rằng trước, khi chúng ta có xe pháo mở những trận đánh lớn như vậy đã có hàng ngàn đồng chí đi trước mở đường chiến lược vận chuyển Bắc - Nam, mở địa bàn, giành đi giật lại với địch từng tấc đất trong điều kiện đói cơm rách áo, thiếu thuốc men, thiếu vũ khí kéo dài hàng chục năm ròng... để hôm nay chúng ta có quân hùng tướng mạnh mà đánh giặc với thế mạnh như chẻ tre...; nếu chúng ta biết một cách đầy đủ tất cả những gì đã diễn ra trước khi có trận Buôn Ma Thuột, có mùa Xuân cao nguyên năm 1975, thì chúng ta càng thấy tự hào hơn về Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta.

Từ khá lâu, tôi đã có ý định ghi chép lại một điều gi đó về những năm tháng đã qua trong thời chống Mỹ, về cuộc đời mình và đồng đội. Một sự kiện thôi thúc tôi viết kỷ niệm về Tây Nguyên là hạ tuần tháng 6 năm 1997 tôi được mời tham dự hội thảo “Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Mỹ - Những cơ hội bị bỏ lỡ”. Đây là cuộc hội thảo giữa các nhà cựu ngoại giao, các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam với các nhà học giả Mỹ do ông Mac Na-ma-ra, cựu Bộ trưởng quốc phòng Mỹ dẫn đầu nhằm tìm ra những nguyên nhân chủ chốt đã gây ra cuộc chiến tranh, tìm hiểu xem liệu có những cơ hội nào đã bị bỏ lỡ để có thể sớm chấm dứt cuộc chiến tranh đó hay không và rút ra những bài học để thế hệ mai sau có thể tránh những thảm kịch trong tương lai. Trong cuộc hội thảo này hai bên đã trình bày nhận thức quan điểm của mình và tranh luận sòng phẳng. Trong nhiều vấn đề được đặt ra, thì vấn đề sự kiện ngày 6 tháng 2 năm 1965 ở Plây Cu (ta tấn công sân bay Hô-lô-uây) cũng gây nhiều tranh cãi. Sang ngày thứ hai của cuộc hội thảo, tôi đang chăm chú theo dõi cuộc tranh luận về các cơ hội bị bỏ lỡ do đó mà xảy ra chiến tranh (theo quan điểm của phía Mỹ) thì Chi-stơ Cu-pơ hỏi tôi:

- Thưa tướng Hiệp, ngài suy nghĩ gì về cuộc tấn công vào quân Mỹ ở Plây Cu đầu năm 1965 ?

Tôi có suy nghĩ gì về trận đánh này ư ? Rất bình thường thưa các ông - Tôi thầm nghĩ. Nếu đặt trận đánh đó trong tổng thể các trận đánh trên chiến trường miền Nam, nó chỉ là một trận rất nhỏ, có tiếng vang rất nhỏ trong cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam chông chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Vậy mà trận đánh đó, hơn một lần tôi đã được nghe các chiến lược gia Mỹ thổi phồng thật to tát, cố dựng nên cái cớ (mà sự chuẩn bị của họ cho cuộc “chiến tranh cục bộ” chống chiến tranh nhân dân Việt Nam đã chín muồi, cứu chế độ tay sai bán nước hại dân sắp sụp đổ) để họ buộc phải đưa quân viễn chinh vào miền Nam, “bỏ lỡ một cơ hội” lẽ ra không nên có ! Thật phi lý, nhưng thiết nghĩ đây cũng là dịp bóc trần tâm địa ngụy biện của những kẻ cố ý dựng nên sự kiện này, tôi nói:

- Lúc đó tôi ở Quân khu 5, cách thị xã Plây Cu không xa, nên tôi biết diễn biến và kết quả của trận đánh này. Nếu tôi không nhầm (theo tuyên bố của các nhà chính khách Mỹ) chúng tôi đã loại khỏi vòng chiến đấu 108 người Mỹ (8 chết, 100 bị thương), phá hủy 20 máy bay. Kết quả của trận đánh trại lính Mỹ ở Plây Cu nhỏ và bình thường thậm chí còn kém nhiều trận đánh khác ở chiến trường miền Nam lúc đó. Ấy vậy mà, phía Mỹ đã dựng nên “một cái cớ tày trời” biện hộ cho việc ném bom bắn phá miền Bắc, đưa quân viễn chinh xâm lược miền Nam. Vì vậy, đêm ngày 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1965, quân giải phóng miền Nam tiến công trại lính Mỹ Hô-lô-uây ở Plây Cu, thì cũng trong ngày đó, tổng thống Mỹ đã ra lệnh cho quân đội tiến hành chiến dịch “Flamingdart” bắt đầu ném bom miền Bắc. Sáng ngày 11 tháng 2, để đáp lại cuộc tiến công của lực lượng vũ trang giải phóng Khu 5 vào trại lính Mỹ ở Quy Nhơn, Mỹ liền mở chiến dịch “Flamingdart II” ném bom vào hàng chục mục tiêu trọng yếu ở các tỉnh Khu 4 cũ. Sau đó, ngày 13 tháng 2 tổng thống Mỹ Giôn-xơn bắt đầu quyết định chiến dịch ném bom rộng khắp miền Bắc. Hành động leo thang này đã phơi bày rõ bản chất của kẻ xâm lược muốn Hà Nội phải khuất phục Mỹ và thôn tính lâu dài miền Nam Việt Nam. Đó là toàn bộ nội dung như tôi đã hiểu về các sự kiện ngày 7 tháng 2 năm 1965.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:04:31 am »

Chi-tsơ Cu-pơ lại hỏi:

- Theo chủ quan của ông, Hà Nội nghĩ gì về cuộc tấn công đó ?

Tôi nghiêm giọng:

- Tôi hoàn toàn không hiểu được điều là tại sao sự kiện này lại bị thổi phồng lên ngay đêm trước khi Mỹ ném bom miền Bắc ? Tại sao chính phủ Mỹ lại quan tâm và dễ bị kích động bởi cuộc tiến công này trong khi nó không hơn, không kém, chỉ là một hoạt động chiến trường bình thường. Kết luận lô-gíc của tôi về cái gọi là “sự kiện tiến công trại lính Mỹ làm tổn hại an ninh nước Mỹ” chỉ là một cái cớ, một lý do ngẫu nhiên để Giôn-xơn quyết định bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc, điều mà ông ta có thể lúc đó đang muốn làm.

Tại sao tôi nói như vậy ? Bởi vì trước cuộc tiến công Plây Cu này có nhiều dấu hiệu cho thấy quân lực Việt Nam cộng hòa (quân ngụy) ở trong tình trạng không còn hy vọng. Họ mất hết khả năng chống lại lực lượng giải phóng một cách có hiệu quả. Nếu điều đó xảy ra ở cao nguyên, miền Trung thì có nghĩa là miền Nam Việt Nam bị cắt làm đôi. Không có khả năng ngăn ngừa điều đang diễn ra đó nên Mỹ đã lấy việc leo thang ném bom ra miền Bắc làm niềm hy vọng. Nếu như các ngài không đồng ý với nhận định này thì tôi muốn một người nào đó của phía Mỹ giải thích cho tôi rằng tại sao các sự kiện trong ngày 7 tháng 2 năm 1965 lại đáng chú ý đối với chính phủ Mỹ đến như vậy ?

Chi-tsơ Cu-pơ đáp:

- Tôi đã nghe ngài nói, thưa tướng Hiệp. Tôi thấy chúng ta đã trở lại với cuộc thảo luận về những cơ hội chấm dứt chiến tranh bị bỏ lỡ. Ngài nói rằng chỉ huy chiến trường địa phương ở gần Plây Cu đã ra lệnh tiến công nhưng tôi muốn nói với ngài rằng nếu trong thực tế, Bộ chỉ huy chiến trường địa phương ở gần Plây Cu đã không ra lệnh mở cuộc tiến công đó thì điều có thể làm là Mác Bun-đy và những người còn lại của nhóm chúng tôi phải quay trở về Oa-sinh-tơn với một lời khuyến nghị hoàn toàn khác mà chúng tôi đã cung cấp cho ông ta dựa trên cơ sở của cuộc tấn công ở Plây Cu là một cuộc khiêu khích có chủ tâm chống lại Mỹ trong khi Bun-đy đang ở trong đất nước này. Và ngài đã đúng, dựa trên cơ sở những gì đã xảy ra ở Plây Cu, cuộc ném bom đã được phát động. Nhưng nếu ngài biết được những gì đã xảy ra ở Oa-sinh-tơn (điều này tôi nhận thấy ngài không biết) - ngài sẽ nhận ra rằng trong chính phủ của chúng tôi có một nhóm đáng kể không thuộc loại “diều hâu” như mọi người thường nói. Những người này không sốt sắng lao vào cuộc chiến tranh không hạn chế ở Đông Nam Á. Và tôi có thể chỉ ra cho ngài rằng các ngài đã không giúp đỡ gì cho nhóm này cả...

Tôi trả lời:

- Như các ông đã biết, trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của mình, tướng Oét-mo-len đã nói tới kế hoạch OPLAN37 được chuẩn bị từ mùa xuân năm 1964. ông ta nói thêm: “Những người của chúng tôi ở Sài Gòn thấy ít có khả năng là Tổng thống sẽ thực hiện nó trước cuộc bầu cử tháng 11. Quả vậy, chúng tôi thấy rõ ràng là một kế hoạch sau bầu cử. Vì vậy, có nhiều lý do để tin tưởng rằng cuộc tiến công ở Plây Cu chỉ là một lời bào chữa chứ không phải là nguyên nhân chính hoặc là “cái cò súng” cho việc mở rộng chiến tranh của Mỹ ra miền Bắc”. Chiến dịch “Flamingdart” được thực hiện ngay trong ngày hôm sau (7-2-1965) và sau đó các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đổ vào Việt Nam. Điều đó phải được hoạch định trước hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Tiện đây tôi cũng dẫn chứng một vài trận đánh để thấy sự nghịch lý (ít nhất là nghịch lý về tính lô-gíc trong hội thảo này) rằng tại sao ngày 11 tháng 8 năm 1964, bộ đội đặc công quân giải phóng tiến công câu lạc bộ sĩ quan Mỹ ở Tân Sơn Nhất; sau đó ngày 25 tháng 10 năm 1964 lại tiếp tục tiến công khách sạn Brink ở Sài Gòn, giết và làm bị thương nhiều lính Mỹ, mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc vẫn chưa phản ứng “trừng trị Bắc Việt”. Tôi nghĩ rằng, những cuộc tiến công này đáng chú ý hơn nhiều so với cuộc tiến công ở Plây Cu, nhưng xem ra lúc đó chưa phải là thời điểm thích hợp vì sắp đến ngày bầu cử tổng thông Mỹ.

- Thưa tướng Hiệp, tôi xin lỗi đã cắt ngang câu nói của ngài - Gioóc Hơ-ring nói - Nếu có thể, tôi xin hỏi câu hỏi tiếp theo có liên quan đến Plây Cu. Rằng cuộc tiến công Plây Cu được ai hoạch định ? Có mối nhận biết nào về việc Bun-đy đang ở Sài Gòn hoặc sẽ ở Sài Gòn không ? Đã có lời khiển trách hoặc bất kỳ lời phê bình nào vì đã mở cuộc tiến công này hay không ?

- Tôi xin khẳng định lại rằng, cuộc tiến công thực tế là do Bộ chỉ huy các lực lượng ở Plây Cu tự quyết định. Các tướng lĩnh chỉ huy quân lực Việt Nam cộng hòa đã tổ chức lực lượng của họ để chống lại chúng tôi. Nhưng họ đã không ngăn cản được 30 chiến sĩ đặc công quân giải phóng tiến công trại lính Mỹ đã được canh phòng cẩn mật. Còn việc ngài Bun-đy lúc đó đang ở Sài Gòn và Aléc-xây Cơ-xư-ghin (Liên Xô) mới sang thăm Hà Nội thì chỉ đến bây giờ khi đọc hồi ký của ông Mác Na-ma-ra và ông Oét-mo-len tôi mới biết được điều đó. Việc các ngài cho rằng chúng tôi tiến công Plây Cu là vì sự có mặt của hai nhân vật này trên đất nước Việt Nam là không đúng. Những người hoạch định cuộc tiến công của chúng tôi đã không có một ý niệm gì về sự có mặt của hai người ấy trên đất nước chúng tôi. Đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chúng tôi - những cán bộ, chiến sĩ ở chiến trường chỉ có tìm cách tiến công địch. Đó là tư tưởng chủ động tiến công địch giành quyền làm chủ về mình, nên nó không hề có một sự hạn chế nào. Trong cuộc tiến công trại lính Mỹ ở Plây Cu, chúng tôi không những không bị phê bình mà còn được cấp trên khen thưởng.

- Khi chuẩn bị tiến công, các ngài có phân biệt mục tiêu mà các ngài gọi là “ngụy” và các mục tiêu gọi là “lính viễn chinh Mỹ” ?

- Không ! Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, chúng tôi nhận thức rằng quân ngụy và binh sĩ Mỹ đều là kẻ thù. Tư tưởng “tìm Mỹ mà diệt, tỉm ngụy mà đánh” không có gì khác nhau, cũng không có gì phân biệt. Đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chức năng của chúng tôi - những người lính ở chiến trường là tiêu diệt quân thù.

Sau đó một số thành viên hội thảo Mỹ có đưa ra những dẫn chứng về sự “cùng leo thang” của cả Mỹ và Bắc Việt Nam trong những năm 1965 -1968, nhằm xóa nhòa ranh giới giữa quyền tự vệ chính đáng của dân tộc ta và cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược mà đế quốc Mỹ tiến hành.

Chính từ trong cuộc hội thảo này, những gì mà các học giả Mỹ và các đồng chí ta đưa ra thảo luận về chiến trường Tây Nguyên, đã gợi lại cho tôi những kỷ niệm kỳ diệu trong cuộc đời binh nghiệp của mình. Đó là những ký ức nồng đậm nhất, sâu lắng nhất trong mười năm “nếm mật, nằm gai” cùng quân và dân Tây Nguyên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập nên những chiến công lẫy lừng. Trong cuốn sách nhỏ này, tôi không thể nói đầy đủ tất cả những gì đã diễn ra trong suốt mười năm kể từ khi khối chủ lực Tây Nguyên chúng tôi sống và chiến đấu ở đây. Tôi chỉ ghi lại một số những sự kiện và những con người mà hình ảnh và chiến công của họ đã, đang và sẽ theo tôi suốt cuộc đời.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:05:51 am »

I

THỜI KHẮC LỊCH SỬ

Trước khi nói về trận thắng oanh liệt của quân và dân Tây Nguyên tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn tinh nhuệ bậc nhất của Mỹ ở thung lũng Ia Đrăng trong chiến dịch Plây Me mùa khô năm 1965, tôi muốn nói vắn tắt bối cảnh của giai đoạn lịch sử này.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam bị phá sản. Nhà Trắng cho rằng thất bại trong “chiến tranh đặc biệt” ở Việt Nam mới chỉ là thất bai của ngụy quyền Sài Gòn, chứ chưa phải là thất bại của nước Mỹ và quân đội Mỹ. Vì vậy, ỷ vào tiềm lực quân sự và kinh tế to lớn lại có tham vọng ngông cuồng làm bá chủ thế giới, cuối cùng Giôn-xơn chọn phướng sách tăng quân và mở rộng chiến tranh. Ngày 28 tháng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã tuyên bố trong cuộc họp báo ở Nhà Trắng như sau: Hôm nay tôi đã ra lệnh đưa sang Việt Nam sư đoàn không vận và một số lực lượng khác nữa đề nâng hầu như ngay tức khắc số quân chiến đấu của chúng ta từ 75.000 lên 125.000. Sau đây khi cần thêm lực, lượng bổ sung thì lực lượng này sẽ được đưa sang theo yêu cầu.

Cuộc “chiến tranh cục bộ” bắt đầu từ đó.

Oét-mo-len vạch kế hoạch chiến lược cho cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ gồm ba giai đoạn với thời gian từ 2 năm đến 2 năm rưỡi. Giai đoạn 1 (cuối năm 1965) chặn chiều hướng thua, ghìm không cho cộng sản hoạt động, để bảo đảm triển khai lực lượng và bảo đảm an toàn cho các khu vực trong phạm vi có thể. Giai đoạn 2 (6 tháng đầu năm 1966) mở cuộc tiến công lớn để giành quyền chủ động phá chiến tranh du kích và lực lượng chính quy đối phương. Giai đoạn 3 (trong 1 năm đến 1 năm rưỡi đến giữa hoặc cuối năm 1967). Nếu đối phương kiên quyết chống lại thì sau giai đoạn 2 cần có thời gian từ 1 năm đến 1 năm rưỡi để đánh lớn nhằm tiêu diệt các lực lượng và khu căn cứ lớn của đối phương. Việc rút quân Mỹ và quân đồng minh sẽ bắt đầu vào giai đoạn 3 khi mà chính phủ Việt Nam cộng hòa có khả năng thành lập và duy trì trật tự trong nước và bảo vệ được biên giới.

Nhà Trắng tin tưởng bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam kết hợp với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc chúng sẽ khuất phục được nhân dân ta. Ý định của Đảng ta là kiềm chế và thắng Mỹ trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” để hạn chế tổn thất của nhân dân. Nhưng phái hiếu chiến ở Lầu Năm Góc và Nhà Trắng không dừng lại ở đó. Tướng Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ cho rằng chỉ cần một sư đoàn Mỹ vào đứng ở nam vĩ tuyến 17 là họ có thể chặn đứng cuộc tiến công của ta và chỉ cần hai sư đoàn lính Mỹ thì họ có thể xoay chuyển ngọn triều quân sự (!). Ngược.với những tính toán chủ quan của Mỹ, trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công đẩy địch vào một tình thế hết sức bất lợi. Trong năm 1964 toàn miền Nam có trên 28 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị và nổi dậy. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta phát triển mạnh; Hầu hết các xã đều có từ một tiểu đội đến trung đội du kích. Bộ đội địa phương toàn Miền có tới 42 tiểu đoàn tập trung của tỉnh và ở mỗi huyện cũng có từ một trung đội đến một đại đội. Nhiều nơi còn thành lập các đơn vị đặc công... Thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị ngày càng vững mạnh. Quân Mỹ, quân chư hầu cùng quân ngụy chẳng những “không đánh gãy được xương sống Việt cộng” mà còn bị quân và dân ta giáng những đòn phủ đầu choáng váng ở nhiều nơi. Trong năm 1964, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 119.000 tên địch. Tiêu biểu là trận Bình Giã diệt 2.031 tên (có 46 Mỹ), bắt sống 300 tên, bắn rơi 37 máy bay, phá hủy 27 xe bọc thép M113. Đó là trận thắng oanh liệt nhất của quân và dân miền Nam tính vào thời điểm đó.

Tôi muốn dành ít trang để nói về chiến trường Tây Nguyên trong thời khắc lịch sử này. Tây Nguyên, một vùng đất ở phía Tây Trung Bộ, với những cao nguyên rộng lớn và những cánh rừng nguyên sinh đại ngàn chiếm một phần ba diện tích rừng cả nước, lại ở độ cao có thể ví như mái nhà của Nam Đông Dương. Chiến trường này, trong kháng chiến chống Mỹ gồm ba tỉnh : Kon Tum, Gia Lai và Đắc Lắc với diện tích 36.000 km2, dân số khoảng 1 triệu người. Tây Nguyên có những điểm mạnh rất cơ bản, đó là tinh thần cách mạng của nhân dân và địa thế hiểm trở. Nói cách khác đó là con người và địa thế. Từ các hướng muốn đến Tây Nguyên đều phải vượt qua các dãy núi cao, những đường đèo quanh co, khúc khuỷu. Từ lâu thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đánh giá rất đúng vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Chúng cho rằng, ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương. Vì vậy, Tây Nguyên trở thành mục tiêu chiến lược và chiến trường rất quan trọng trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Chín năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm chống Mỹ, cứu nước, có nhiều khu vực chưa bao giờ quân thù dám đặt chân đến như Ngọc Linh, vùng đầu nguồn sông Ba và đầu nguồn sông Sê-rê-pốc, v.v...
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Chín, 2019, 10:19:33 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:06:28 am »

Trong những năm đánh Mỹ, chiến trường Tây Nguyên hình thành ba khu vực. Khu vực cánh Bắc (tỉnh Kon Tum), có nhiều núi cao rừng rậm, có ngọn núi cao tới 2.598 mét (Ngọc Linh), 2.259 mét (Ngọc-ni-ay), v.v... Các dãy núi này thấp dần về phía Nam và tạo thành vùng cao nguyên quanh thị xã Kon Tum và Plây Cu. Rừng Kon Tum gần liền với rừng Hạ Lào và rừng Tây Quảng Nam trùng điệp tạo thành một địa bàn quân sự rất sâu hiểm và kín đáo. Trong những năm Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “Tố cộng, diệt cộng”, dựa vào thế hiểm ấy ta đã nhen nhóm lực lượng cách mạng để từ đó trở thành phong trào lan ra xung quanh và tiến xuống đồng bằng. Kon Tum còn là đầu mối, nơi đón nhận nhân lực, vật lực từ hậu phương miền Bắc chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Trong kháng chiến chống Pháp cũng như trong chống Mỹ, Kon Tum là khu vực được giải phóng đầu tiên. Phần lớn những cuộc nổi dậy và những trận tiến công đều dấy lên từ đây. Cánh Bắc là vùng căn cứ đồng thời là chiến trường rất hệ trọng của Tây Nguyên. Nhận biết được điều đó, quân địch đã chiếm giữ và xây dựng vùng Bắc Kon Tum trở thành một khu vực phòng thủ khá kiên cố. Trung tâm phòng ngự này là Đắc Tô - Tân Cảnh, ở đây địch thường xuyên bố trí lực lượng cỡ sư đoàn chủ lực. Đường 18 từ Tân Cảnh đi Plây Cần sang A-tô-pơ (Lào) được chúng xây dựng thành tuyến phòng ngự cơ bản nhằm ngăn chặn và chia cắt chiến trường Tây Nguyên với hậu phương miền Bắc. Đoạn đường 14 từ Tân Cảnh đi Đắc Pét chúng cũng xây dựng thành tuyến ngăn chặn giữa Tây Nguyên với đồng bằng Khu 5. Trong những năm chiến tranh chông Mỹ, ở cánh Bắc Tây Nguyên luôn dịễn ra tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.

Khu vực cánh Trung (tỉnh Gia Lai) địa hình ít mấp mô, có nhiều đất bằng và khá kín đáo. Cánh Trung nối liền với vùng Đông Bắc Cam-pu-chia như một dải địa hình không phân cách, tạo nên những khu vực địa hình có dung lượng lởn, tập kết được nhiều binh đoàn, binh chủng hợp thành. So với cánh Bắc, việc mở các đường quân sự, bố trí kho tàng ở đây thuận lợi hơn. Cánh Trung có con sông Pô Cô về mùa mưa nước chảy xiết rất trở ngại cho việc cơ động bộ đội. Plây Cu, tỉnh lỵ của Gia Lai có nhiều sân bay và căn cứ quân sự lớn của Mỹ như sân bay Cù Hanh (Hô-Ịô-uây), An Khê... Đường 19 từ Quy Nhơn đi Plây Cu kéo dài qua Đức Cơ đến tận Stung-treng (Cam-pu-chia) là đường chiến lược trọng yếu. Đó là con đường sống còn của địch trên chiến trường Tây Nguyên. Nhiều nhà chiến lược quân sự cho rằng ai kiểm soát đường 19 sẽ kiểm soát cao nguyên trung phần và ai kiểm soát cao nguyên, người đó sẽ kiểm soát Nam Việt Nam. Năm 1961, tướng Tay-lo đã mưu đồ lập một hành lang chiến lược cắt ngang bán đảo Đông Dương từ Trung Trung Bộ đến Thái Lan và đặt đường 19 trong khu vực hành lang này. Trong hồi ký của mình, Giôn-xơn đã có lúc hốt hoảng cho rằng: Đã cổ bằng chứng chắc chắn là các nhà chiến lược ở Hà Nội hy vọng cắt đôi Nam Việt Nam dọc một tuyến từ Plây Cu ở cao nguyên trung phần theo hướng đông cho tới bờ biển. Vì lẽ đó, các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã sử dụng những lực lượng quan trọng chiếm giữ đường 19. Ngoài ý đồ trên địch còn ý định cắt chiến trường Tây Nguyên ra làm đôi và ngăn cách Tây Nguyên với chiến trường Nam Bộ.

Khu vực cánh Nám (tỉnh Đắc Lắc) là một vùng cao nguyên đất bằng. So với cánh Bắc và cánh Trung rừng ở đây thưa hơn, rất tiện cho việc cơ động các binh khi kỹ thuật. Cánh Nam cũng là nơi có dung lượng tập kết bộ đội rất lớn. Trở ngại lớn nhất ở đây là con sông Sê-rê-pốc (những con sông ở cánh Nam đều chảy về hướng tây), về mùa nước hung dữ, rất khó khăn cho việc đi lại. Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ của Đắc Lắc, nằm trên đường 14 cách thị xã Plây Cu 190 km, là thủ phủ chính trị của địch ở Tây Nguyên. Tuy nó rất quan trọng, nhưng do công tác bảo đảm hậu cần gặp nhiều khó khăn nên các hoạt động quân sự lớn của ta ở đây có hạn chế. Vì lẽ đó nên địch ở cánh Nam có phần sơ hở hơn so với cánh Bắc và cánh Trung.

Nhân dân Tây Nguyên có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền thống cách mạng kiên cường, Mặc dù quân thù ra sức dụ dỗ mua chuộc và khủng bố dã man, nhưng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn gắn bó sắt son với cách mạng, một lòng một dạ theo Đảng, theo Bác Hồ. Trong những năm đen tối nhất của cách mạng miền Nam, với chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Mỹ - Diệm tạm thành công ở nhiều nơi nhưng lại bị thất bại ở Tây Nguyên. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1960 một số nơi bị thoái trào nhưng ở Tây Nguyên phong trào vẫn giữ được và ngày càng phát triển. Khi quân địch dồn dân lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”, “ấp chiến lược” một bộ phận nhân dân đã chạy vào rừng sâu, sống bất hợp pháp, không chịu vào vùng địch. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Kon Tum chỉ có hai vùng: vùng bất hợp pháp (căn cứ) và vùng địch, không có vùng hợp pháp. Còn ở Gia Lai hình thành ba vùng: vùng căn cứ, vùng hợp pháp và vùng địch. Vùng hợp pháp trở thành khu trung gian móc nối liên lạc giữa ba vùng. Ở Đắc Lắc tình hình cũng gần giống như Gia Lai. Vùng bất hợp pháp dần dần được xây dựng thành những căn cứ du kích và sau này đã được nối liền nhau trở thành khu căn cứ địa cách mạng; nhân dân trong vùng bất hợp pháp chịu đựng gian khổ, đói cơm, nhạt muối, thiếu thốn trăm đường nhưng họ rất kiên trung theo cách mạng. Chính họ là chỗ dựa vững chắc và cơ bản nhất tạo địa bàn cho các lực lượng chủ lực của ta từ miền Bắc vào đứng chân và tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân trên chiến trường Tây Nguyên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:07:08 am »

Ngược lại lịch sử đấu tranh của Tây Nguyên, ta không thể quên được người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Dấu voi xưa còn in lại trên trảng cỏ An Khê, nơi dựng nghĩa của nhà Tây Sơn. Người dân Tây Nguyên tự hào đã góp con em của mình tham gia vào đội tượng binh của Nguyễn Huệ. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ nhất, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã anh dũng cùng cả nước chống giặc. Người dân Tây Nguyên tự hào đã cùng đồng bào các tỉnh miền xuôi hưởng ứng các phong trào Văn Thân, Cần Vương chống xâm lược. Ngày 6 tháng 1 năm 1885, công sứ Quy Nhơn Na-ven cùng đoàn tùy tùng ngược đường 19 lên Plây Cu nhằm khuất phục người dân ở đây, nhưng bị đồng bào phục kích ở làng Plây Tio, giết một tên làm bị thương chín tên lính Pháp, buộc chúng phải bỏ cuộc.

Sang đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn diễn ra liên tục sôi nổi, tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu vô cùng can trường ròng rã suốt 20 năm trời do Ama -Trang Lơn người dân tộc Mơ Nông lãnh đạo (1914-1934) đã lập căn cứ ở đại bộ phận vùng rừng núi Nam Tây Nguyên. Địch ra sức đàn áp nhưng vẫn không dập tắt được tinh thần yêu nước của nhân dân các dân tộc trên cao nguyên rừng xanh đất đỏ này.

Từ khỉ Đảng ra đời, thông qua nhiều chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là những đảng viên cộng sản trong các nhà tù đế quốc ở Kon Tum, Buôn Ma Thuột, cơ sở cách mạng ở đây được nhen nhóm và phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng dần dần được mở rộng đánh dấu bước ngoặc về chất trong phong trào yêu nước của đồng bào Tây Nguyên. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng giữ trọn khí tiết đến hơi thở cuối cùng, tiêu biểu là Anh hùng Vừu người dân tộc Ba Na. Đặc biệt là Anh hùng Núp và đội du kích Xi Tơ của ông đã thành biểu tượng của cả Tây Nguyên bất khuất. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây Cu ngày 19 tháng 8 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu liên lạc, hai là vì kẻ thù xúi giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là một của chúng ta... Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta(1). Từ đó những hiểu biết và niềm tin về Đảng tập trung vào Bầc Hồ kính yêu. Những tiếng “muối Bác Hồ”, “chữ Bác Hồ”, “bộ đội Bác Hồ”... đã trở nên gắn bó, sâu nặng biết bao trong lòng người Tây Nguyên.

Nhân dân Tây Nguyên chẳng những cầm vũ khí phối hợp với bộ đội đánh giặc giữ làng, mà còn tích cực sản xuất lương thực, nuôi cán bộ, bộ đội, đi dân công cáng thương, gùi đạn, đào hầm đắp ụ, cung cấp tình hình địch và dẫn đường cho bộ đội. Ba tiếng “làm cách mạng” thiêng liêng và quen thuộc đã trở thành nguyện vọng, niềm tự hào và là nghĩa vụ chung, của mọi người dân, không phân biệt gái trai, lớn nhỏ. Dù đói cơm nhạt muối, gian khổ ác liệt đến đâu, đồng bào vẫn một lòng trung thành với cách mạng, luôn lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.

Nhân dân các dân tộc Tây Nguyên những người con của đại gia đình các dân tộc Việt Nam có một niềm tự hào rất chính đáng với truyền thống đấu tranh của mình, với nền văn hóa cổ truyền lấp lánh như một viên ngọc trong nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Tây Nguyên còn là một miền đất huyền thoại với những ông vua Lửa, vua Nước (Pơ tan Pui, Pơ tan Ia) với những chàng dũng sĩ Đam San, Xinh Nhã... mạnh khỏe, tài ba và quả cảm cùng những âm thanh bất tận của cồng chiêng, của tiếng đàn T’rưng trầm hùng, của điệu kể khan đầy trữ tình, và những điệu múa rông chiêng, Kà Tu sôi nổi, rộn ràng. Có thể nói kiên cường, bất khuất trước quần thù, thủy chung son sắt với cách mạng, tin yêu Đảng, tôn kính Bác Hồ, sẵn sàng hy sinh tất cả để giành độc lập, tự do đã trở thành phẩm chất tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã đánh giá rất cao vị trí chiến lược của chiến trường Tây Nguyên: “Nhiệm vụ phất triển vào Tây Nguyên phải coi là quan trọng bậc nhất, nhiệm vụ củng cố vùng tự do phải coi là nhiệm vụ quan trọng thứ hai”. Tháng 10 năm 1960, trong bài giải thích về Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Tây Nguyên rộng lởn, địa thế tốt, phong trào quần chúng tốt... Tây Nguyên có khoảng 1 triệu dân, ta phải làm thế nào có thể 1/10 dân số kiên quyết cầm vũ khí đánh địch. Đặc biệt phải hết sức chú ỷ tăng cường về quân sự... Ớ đây mạnh thì ta mạnh toàn diện cả miền Nam. Nơi không có người thì đưa người đến, thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Không có người trồng người, có đất có ăn”.


(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, tr. 217
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Chín, 2019, 09:51:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:08:37 am »

Năm 1961, Trung ương Đảng ta chỉ thị “Căn cứ lâu dài và cho toàn miền Nam là khu vực rừng núi Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ”. Tháng 1 năm 1962, Đảng ủy Quân khu 5 ra nghị quyết nhấn mạnh “Tây Nguyên chẳng những chiếm vị trí trung tâm cơ động trên chiến trường liên khu và cả ở miền Nam Việt Nam, mà còn là trung tâm cơ động trên chiến trường Nam Đông Dương”.

Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam sang đến đầu năm 1964 đã đứng trước thời cơ chiến lược mới - chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đang bị thất bại nặng nề và đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Lực lượng cách mạng miền Nam đã phát triển không ngừng và có khả năng giáng đòn quyết định làm thất bại âm mưu chiến tranh của địch. Quy luật đấu tranh vũ trang của chiến tranh giải phóng là từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Trên cơ sở chiến tranh du kích đã được mở rộng từng bước phải phát triển chiến tranh chính quy để giữ vững thế tiến công, tiêu diệt lực lượng lớn của địch giải phóng đất đai. Trong thời kỳ đầu của chiến tranh giải phóng, do tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, chúng tạm thời có những mặt mạnh hơn ta, vì vậy ta thường chọn rừng núi làm chiến trường để tiến hành chiến tranh chính quy, tác chiến của bộ đội chủ lực. Theo phương châm đó, ngày 1 tháng 5 năm 1964, Bộ Chính trị quyết định thành lập Mặt trận Tây Nguyên, lấy phiên hiệu là chiến trường B3. Mặt trận Tây Nguyên được hình thành lúc đầu như là phân khu miền Tây của Quân khu 5 do anh Hà Vi Tùng và anh Dương Liên phụ trách, về sau anh Nguyễn Chánh làm tư lệnh, anh Đoàn Khuê làm chính ủy.

Như trên đã nói, Tây Nguyên là một bộ phận đất đai thuộc Liên khu 5. Nhiệm vụ của chiến trường Tây Nguyên gắn bó chặt chẽ với chiến trường Khu 5. Nhưng do vị trí của nó, về mặt chiến lược quân sự, Tây Nguyên còn có những quan hệ với các chiến trường Đông Nam Bộ, Trị Thiên và hai chiến trường nước bạn Lào và Cam-pu-chia. Do vậy, ngoài nhiệm vụ đối với chiến trường Quân khu 5, Tây Nguyên còn có những nhiệm vụ riêng do Bộ trực tiếp giao cho. Chỉ thị của Quân ủy Trung ương ngày 27 tháng 4 năm 1965 xác định nhiệm vụ của Tây Nguyên như sau: Trong phạm vỉ chiến tranh đặc biệt, Tây Nguyên là chiến trường chính để tiêu diệt sinh lực địch; phối hợp với Pa-thét Lào giữ vững và mở rộng khu giải phóng Hạ Lào tạo thành một căn cứ tương đối lớn ở Trung Đông Dương. Tuy vậy, trong từng thời kỳ phát triển khác nhau của chiến tranh, nhiệm vụ của chiến trường có lúc đã có sự bổ sung hoặc thay đổi nhất định, nhưng nhiệm vụ chung có thể nói vắn tắt: Một là, xây dựng chiến trường đánh tiêu diệt lớn, có đội quân chủ lực mạnh làm nòng cốt thúc đẩy ba thứ quân cùng phát triển, tiêu diệt, tiêu hao nhiều và rộng rãi sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Thu hút, giam chân lực lượng chủ lực cơ động Mỹ - ngụy, tạo điều kiện cho đồng bằng và đô thị nổi dậy. Phối hợp chặt chẽ với Trị Thiên, Đông Nam Bộ và các chiến trường khác tiến công địch trong những thời điểm chiến lược. Hai là, xây dựng hậu phương trực tiếp của cách mạng miền Nam và Đông Dương, xây dựng và bảo vệ hành lang chiến lược nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, phá thế chia cắt của địch, tiến lên chia cắt địch. Ba là, xây dựng và phát triển chiến trường thành hướng chiến lược của Bộ trong giai đoạn giành thắng lợi quyết định của chiến tranh. Có thể nói đây là nhiệm vụ xuyên suốt của Mặt trận Tây Nguyên trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nhân đây tôi nói thêm, mối quan hệ giữa Mặt trận Tây Nguyên đối với Bộ và Khu 5. về chính trị thì song trùng lãnh đạo, Mặt trận vừa chịu sự lãnh đạo của Khu ủy Khu 5, vừa chịu sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, về quân sự và hậu cần thì do Bộ trực tiếp chỉ huy và tổ chức bảo đảm. Quân khu tham gia góp ý kiến chỉ đạo. Đối với các tỉnh ủy ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên đã đoàn kết chặt chẽ chủ động hiệp đồng vì thắng lợi chung, vì sự nghiệp cách mạng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Mối tình đoàn kết giữa các tỉnh ủy với Đảng ủy B3 chúng tôi là tình cảm cách mạng chân thực, trong sáng và hiếm có. Đối với các tỉnh đội, có lúc thì Quân khu giao cho Mặt trận trực tiếp chỉ huy, có lúc thì do Quân khu chỉ huy, Mặt trận chỉ có hiệp đồng chiến đấu. Mặc dù về tổ chức có chỗ chưa hợp lý nhưng mối quan hệ giữa Mặt trận với ba tĩnh đội luôn luôn gắn bó chặt chẽ, luôn luôn tạo điều kiện giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ.

Lực lượng vũ trang của Mặt trận Tây Nguyên hình thành và phát triển từ hai nguồn. Lực lượng vũ trang địa phương hình thành từ cao trào đồng khởi, về sau ngày được bổ sung và xây dựng phát triển dần lên. Lúc đầu các đảng bộ địa phương cử các đảng viên ưu tú và chọn số thanh niên hăng hái đưa vào tổ chức các đội tự vệ và du kích. Đầu năm 1960, Bộ phái một số cần bộ từ ngoài Bắc vào để tăng cường thêm dần, về sau các lực lượng trên phát triển thành bộ đội địa phương tỉnh và huyện. Bộ đội chủ lực của Mặt trận đều do Bộ tổ chức từ hậu phương miền Bắc đưa vào. Tuy không phải là lực lượng được xây dựng tại chỗ, nhưng bộ đội chủ lực ta đã phát huy bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Được dân tin yêu và đùm bọc, bộ đội chủ lực Tây Nguyên thực sự là con em của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, đói no, ngọt bùi cùng chia sẻ với nhân dân.

Công tác tổ chức và bảo đảm hậu cần cho chiến trường một phần do trên chi viện, một phần dựa vào sự đóng góp của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đồng thời bộ đội ta đã ra sức tăng gia sản xuất và lấy của địch để đánh địch. Phát huy tiềm năng tại chỗ, kết hợp với sự chi viện của trên, đó là phương châm giải quyết công tác bảo đảm vật chất cho chiến đấu của chiến trường Tây Nguyên.

Vào thời gian này, lực lượng chủ lực của Tây Nguyên có tiểu đoàn 2001, tiểu đoàn đặc công 407 và tiểu đoàn súng máy 303 của Quân khu 5 vừa bổ sung. Cuối năm 1964, Tây Nguyên được Bộ tăng thêm trung đoàn 320, trung đoàn đầu tiên đủ quân được chọn lọc từ 3 sư đoàn 308, 304, 350 được trang bị vũ khí bộ binh của Liên Xô. Tiếp đó là trung đoàn 101 (Sư đoàn 325) và tiểu đoàn 545 (Quân khu Tây Bắc). Đồng thời để đáp ứng nhiệm vụ tác chiến, Mặt trận thành lập Viện quân y(1) và mở cửa khẩu Tân Lập để thu mua lương thực, thực phẩm tăng nguồn dự trữ cho chiến đấu.


(1) Tiểu đoàn pháo binh 200 thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1960 ở Mậu Long (Nghệ An) gồm 148 cán bộ, chiến sĩ (phần lớn là các chiến sĩ miền Nam và Tây Nguyên tập kết ra Bắc năm 1954, trong đó có 4 chiến sĩ gái người Ê Đê là: Y Nay, Y Hông, Y Ngoan, Y Na), được lựa chọn từ 2 tiểu đoàn pháo của các sư đoàn 305 và 324 do anh Trần Trọng Sơn làm tiểu đoàn trưởng và anh Hồ Thắc làm chính trị viên. Trang bị của tiểu đoàn gồm 2 khẩu sơn pháo 75 ly (208 quả đạn), cối 81 ly và cối 60 ly, một ít tiểu liên cải tiến. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của ta từ miền Bắc vào, đến chiến trường giũa tháng 1 năm 1961.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:11:53 am »

Giữa năm 1965, tăng cường lãnh đạo, thống nhất chỉ huy và phát triển lực lượng ba thứ quân xây dựng căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường là vân đề có ý nghĩa chiến lược chẳng những đối với Tây Nguyên mà còn cho cả Khu 5 và Nam Bộ. Do vậy, sau khi chiến dịch Ba Gia(1) kết thúc, Quân ủy Trung ương cử anh Chu Huy Mân lên Tây Nguyên làm tư lệnh kiêm chính ủy mặt trận. Cùng lên Tây Nguyên với anh Mân còn có anh Bùi Nam Hà, tham mưu phó quân khu và tôi (do còn phải giải quyết một số công việc nên tôi đi sau đoàn nửa tháng). Đầu tháng 9 tôi đến Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Mặt trận đóng ở một cánh rừng già thuộc khu vực Tà Xẻng gần ngã ba Đông Dương. Cũng vào thời gian này Bộ bổ sung cho Tây Nguyên trung đoàn 33, đến tháng 10 tăng thêm một số cán bộ của hai sư đoàn 325 và 304. Ý định của Bộ lúc đó là tập trung chủ lực mở chiến dịch tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân ngụy, giải phóng vùng Bắc Tây Nguyên (mục tiêu là tỉnh Kon Tum). Nhưng do tình hình địch thay đổi nên ta tạm hoãn lại kế hoạch này. Cũng vào thời gian này, nhằm mở rộng cơ sở hậu cần chiến dịch, hai tiểu đoàn vận tải của Đoàn 559 và đoàn cán bộ Tổng cục Hậu cần đến Tây Nguyên thành lập cửa khẩu VQ5 tiếp nhận nguồn hàng của Trung ương chi viện qua đường Cam-pu-chia và tổ chức mua thêm nguồn hàng tại chỗ cung cấp cho chiến trường. Để bảo đảm cơ sở vật chất cho nhu cầu tác chiến, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập Binh trạm Nam và bệnh viện 2 hình thành căn cứ hậu cần cánh Nam. Đồng thời tổ chức bộ phận ở phía nam sông Sê Sụ làm nhiệm vụ nhận hàng chuyển giao của Đoàn 559, chuẩn bị xây dựng căn cứ hậu cần cánh Bắc. Các đường hành lang C01, C02, C03, C07 thuộc Quân, khu 5 được chuyển giao cho hậu cần mặt trận quản lý.

Khi các đơn vị chủ lực đến các chiến trường, thì lực lượng tại chỗ đã chuẩn bị sẵn chỗ đứng chân và các bàn đạp tiến công khá tốt. Nhờ vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, bộ đội chiu lực đã có thể triển khai tiến công địch ngay. Chiến tranh chính quy xuất hiện đã làm biến đổi nhanh chóng cục diện chiến trường. Bước vào thời kỳ chiến tranh cục bộ lực lượng bộ đội chủ lực phát triển rất nhanh, từ một vài trung đoàn năm 1964 đã tăng lên tương đương một sư đoàn vào cuối năm 1965. Trong khi đó lực lượng vũ trang địa phương phát triển chậm hơn. Tình hình này phát sinh một mâu thuẫn mới là chiến tranh du kích không theo kịp và không hỗ trợ đắc lực cho chiến tranh chính quy. Trước tình hình đó, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã có một quyết định rất sáng tạo là tổ chức các đơn vị chủ lực tại chỗ. Bộ đội chủ lực tại chỗ của ta là những trung đoàn bộ binh, những tiểu đoàn mũi nhọn, những đơn vị pháo, đặc công, công binh... Nhiệm vụ của bộ đội chủ lực tại chỗ là cắm chân vững chắc trên địa bàn từng tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh tiêu diệt địch, kìm chân địch tại chỗ, phá bình định, xây dựng cơ sở chính trị địa phương sẵn sàng phối hợp với chủ lực cơ động trong những chiến dịch tiến công. Phương thức tác chiến của bộ đội chủ lực tại chỗ là kết hợp tiêu diệt địch với giành dân, kết hợp đánh vừa, đánh nhỏ với đánh lớn. Đồng thời phải ra sức tăng gia sản xuất và dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân địa phương để giải quyết vấn đề lương thực tại chỗ. Có thể nói bộ đội chủ lực tại chỗ là cầu nối giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Sau chiến dịch tiến công mùa Hè năm 1965 của ta kết thúc bằng trận công kiên, tiêu diệt căn cứ Đắc Xút (Kon Tum) và việc đánh bại cuộc hành quân của địch nhằm giải tỏa Đức Cơ (Gia Lai), trong đó có trận phục kích trên đoạn Lệ Thanh - Phước Thiện gây cho địch tổn thất nặng nề, quân địch ở Tây Nguyên từ thế chiếm đóng “tuyến kết hợp diện” phải thu hẹp lại và bắt đầu thay đổi cơ cấu tổ chức nhằm củng cố và tăng cường sức chiến đấu cho lực lượng chủ lực. Chúng thực hiện ý đồ co cụm lớn bảo vệ những nơi xung yếu như quận lỵ, thị trấn, thị xã, đường giao thông chiến lược, ngăn chặn ta tiến công. Tiểu khu Kon Tum tách khỏi vùng chiến thuật 2. Cuối mùa hè năm 1965, địch lập biệt khu 24. Chúng tổ chức thêm cho mỗi trung đoàn bộ binh tiểu đoàn chiến đấu thứ tư và tăng cường trung đoàn 42 quân ngụy cho biệt khu 24. Cùng thời gian này, địch bố trí tổ chức vùng chiến thuật, thành lập quân khu 2 và quân đoàn 2 ngụy đặt sở chỉ huy tiền phương tại Plây Cu.

Đầu tháng 9 năm 1965, Oét-mo-len, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam quyết định đưa sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ do Trung tướng Ha-ri-kin-na chỉ huy lên Tây Nguyên đứng chân ở quận lỵ An Khê, một vị trí then chốt trên đường 19, án ngữ cửa ngõ Tây Nguyên. Căn cứ sư đoàn kỵ binh không vận đóng trên hai khu vực: Trung tâm căn cứ nằm ở phía tây sông Ba gồm có cơ quan chỉ huy, điện đài, trạm quân y, tổng kho hậu cần... Sân bay Tân Tạo nằm sát chân núi Hòn Công. Khu phía đông sông Ba có sân bay Cây Me (sân bay cũ của Pháp), Mỹ cải tạo thành nơi đậu các loại máy bay vận tải. Nối liền hai khu là chiếc cầu sắt bắc qua sông Ba. Xung quanh căn cứ là hàng rào dây kẽm gai, với bãi mìn dày đặc, có đường cho xe tuần tiễu. Bên ngoài căn cứ là hệ thống đồn bốt và ấp chiến lược tạo thành vành đai bảo vệ. Chiếm giữ An Khê chúng có thể khống chế vùng đồng bằng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và ba tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc Tây Nguyên, đồng thời uy hiếp trực tiếp đường hành lang chiến lược Bắc - Nam.

Theo tin chúng tôi nắm được về sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ (ta quen gọi là sư đoàn kỵ binh bay) lúc đó như sau(2): về quân số: 15.984 người, vũ khí trang bị 450 máy bay hầu hết là trực thăng, trong đó có 39 trực thăng vũ trang (mỗi chiếc trang bị 48 đạn rốc-két 70 ly); 54 pháo 105 ly; khoảng 1.600 xe (trong đó có 20 xe vận tải bọc thép); hơn 2.000 máy VTĐ các loại, trong đó có loại hiện đại nhất của Mỹ lúc bấy giờ là máy 2w PRC25. Biên chế 8 tiểu đoàn chiến đấu gồm 3 tiểu đoàn dù và 5 tiểu đoàn bộ binh, mỗi tiểu đoàn có 830 người. Bán kính hoạt động tối đa của sư đoàn kỵ binh là 300km, trung bình từ 100 đến 200km. Nếu lập căn cứ độc lập thì bán kính hoạt động của lữ đoàn có thể từ 50 đến 100km. Chỗ mạnh của sư đoàn này là nhiều phương tiện hiện đại có khả năng trinh sát phát hiện đối phương (tiểu đoàn trinh sát gồm 3 đại đội trinh sát đường không và 1 đại đội trinh sát mặt đất, trang bị 92 trực thăng, trong đó có 36 chiếc trực thăng trinh sát). Chúng có khả năng tập trung lực lượng thực hành tập kích bất ngờ, nhanh chóng bằng hỏa lực gây tổn thất nếu ta không đề phòng. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 còn có thể tác chiến ở nhiều khu vực hoặc nhiều hướng cùng một lúc. Song chúng cũng bộc lộ những mặt yếu rất khó khắc phục đó là bị lệ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu, thời tiết. Khả năng cơ động và tác chiến ban đêm yếu. So với các sư đoàn chiến đấu khác của Mỹ thì khả năng cơ động trên bộ và hỏa lực pháo binh chi viện yếu hơn. Sức đột kích của tiểu đoàn và lữ đoàn trong chiến đấu tấn công cũng như khả năng tác chiến liên tục thời gian dài và phòng ngự cố định ở mọi khu vực đều yếu, nhất là khi hoạt động trực thăng bị hạn chế hoặc bị ta tấn công trực tiếp vào hậu cứ thì nhược điểm này càng bộc lộ rõ. Bị lệ thuộc vào căn cứ sân bay. Nhu cầu tiếp tế hậu cần, nhiên liệu cho trực thăng hoạt động rất lớn (một ngày toàn sư đoàn hoạt động, tiêu thụ hết 440 tấn dầu). Việc bảo dưỡng máy bay càng đặt ra nhiều vấn đề buộc chúng phải giải quyết, v.v...

Về thủ đoạn tác chiến, chúng sử dụng chủ yếu từng lữ đoàn tác chiến độc lập, đổ từng đại đội theo kiểu “cóc nhảy” xuống các vị trí, sau đó hợp lại thành cụm quân để “vồ chụp”, “cất vó”, “tìm diệt” đối phương. Chúng rất coi trọng việc sử dụng ưu thế về hỏa lực không quân, máy bay lên thẳng mang rốc-két thay cho pháo binh mặt đất để thực hành đánh nhanh, giải quyết nhanh, rút nhanh khỏi khu chiến. Cách đánh này là rất mới mẻ đối với bộ đội ta.


(1) Ba Gia là một thị trấn nhỏ thuộc huyện Sơn Tịnh trên đường số 5, cách thị xã Quảng Ngãi trên 10 km, nằm trong thung lũng sông Trà Khúc. Tháng 7 năm 1965, Quân khu 5 mở chiến dịch Ba Gia do anh Chu Huy Mân, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5 trực tiếp làm tư lệnh chiến dịch. Với cách đánh “vây điểm, diệt viện", tuy quy mô nhỏ nhưng đạt kết quả lớn, trung đoàn 1 chủ lực quân khu đã tiêu diệt 1 chiến đoàn quân chủ lực ngụy, diệt và làm bị thương 915 tên (có 6 tên Mỹ), bắt sống 270 tên, thu 307 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 pháo 105 ly, 14 xe quân sự các loại.
(2) Những thông tin chúng tôi nắm được có thể khác so với thực tế lúc đó và những tư liệu báo chí công bố sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:15:01 am »

II

DÁM ĐÁNH VÀ QUYẾT THẮNG

Sau khi đoàn cán bộ Quân khu 5 lên Tây Nguyên, trong Bộ tư lệnh Mặt trận có sự phân công mới. Anh Chu Huy Mân làm chính ủy kiêm tư lệnh. Anh Huỳnh Đắc Hương làm phó chính ủy; anh Nguyễn Hữu An, anh Nguyễn Chánh làm phó.tư lệnh; anh Bùi Nam Hà làm tham mưu trưởng và tôi làm chủ nhiệm chính trị mặt trận.

Vào thời điểm này, sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ cũng đã hoàn thành việc đưa quân lên chiếm đóng An Khê, chúng bắt đầu mở cuộc hành quân tìm diệt ở Bồng Sơn (Bình Định). Trước tình hình trên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho chiến trường tranh thủ thời cơ đánh đau quân ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định không để quân Mỹ rảnh tay tìm diệt; đồng thời khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng quân Mỹ ngay từ trận đầu, nỗ lực cao nhất đánh bại kế hoạch chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh” tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Thực hiện chủ trương chiến lược của trên, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô năm 1965 nhằm tiêu diệt một bộ phận quân ngụy và tạo thời cơ buộc Mỹ phải tham chiến để tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, củng cố và mở rộng vùng mới giải phóng, xây dựng căn cứ địa vững chắc, rèn luyện bộ đội và cơ quan chỉ đạo chiến dịch, nâng cao trình độ tác chiến, đồng thời qua tác chiến tìm hiểu thêm quân Mỹ; phối hợp với các chiến trường Khu 5 và Nam Bộ căng địch ra mà đánh buộc chúng phải phân tán đối phó. Vấn đề đặt ra với mặt trận là chọn hướng mở chiến dịch nên ở cánh Bắc hay cánh Nam Tây Nguyên. Cánh Bắc chủ yếu là tỉnh Kon Tum có rừng rậm, núi cao hiểm trở, với ta thuận lợi cho việc giấu quân, lập kho tàng, hạn chế đến mức thấp nhất hiệu lực của máy bay và pháo binh địch, ở địa hình này hoạt động tác chiến cỡ vài trung đoàn đều khó phát huy sức mạnh, đặc biệt tính cơ động của tăng - thiết giáp khó khăn. Còn phía cánh Nam Tây Nguyên thời tiết từ tháng 10 trở đi bước vào mùa khô, địa hình rừng bằng, đồi núi thấp, xen kẽ nương rẫy, ven đường lớn có nhiều cây gai xấu hổ, nhiều nơi là những thung lũng bằng, trảng trống và rừng cây khoọc, cây này về mùa khô rụng trụi lá, về cơ bản sông suối không ảnh hưởng đến cơ động. Địa hình thời tiết thời gian này cho phép ta tập trung binh lực tương đối lớn cơ động được rộng rãi nhưng đồng thời với địch chúng cũng phát huy được uy lực không quân trong tác chiến, nhất là việc vận dụng chiến thuật “trực thăng vận” chúng có thể cơ động nhanh đổ bộ được nhiều nơi. Với đặc điểm địa hình và thời tiết như vậy, thì vấn đề tổ chức đối không rộng rãi không những làm giảm bớt uy lực không quân địch mà còn là thời cơ bộ đội ta bắn rơi máy bay Mỹ, nhất là trực thăng. Mặt khác nếu ta tổ chức rộng rãi mạng đường quân sự làm gấp không những bảo đảm được sự cơ động nhanh bí mật mà còn tạo điều kiện cho ta tiếp cận phản kích địch trên nhiều hướng. Từ những phân tích trên, Đảng ủy nhất trí chọn hướng cánh Trung Tây Nguyên mở chiến dịch mùa khô năm 1965.

Tôi còn nhớ cuộc họp Đảng ủy Mặt trận mở rộng do anh Chu Huy Mân chủ trì nghiên cứu quán triệt nhiệm vụ và xây dựng kế hoạch chiến dịch. Sau khi phân tích trên bình diện toàn chiến trường, anh Chu Huy Mân nói:

- Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã thất bại, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn tuy chưa tan rã về tổ chức, nhưng đã suy yếu toàn diện, về phía ta, lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và cách mạng miền Nam đang ở thế tiến công. Như vậy, về chiến lược, Mỹ nhảy vào miền Nam nước ta trong thế hoàn toàn bị động.

Do vị trí chiến lược đặc biệt của Tây Nguyên nên Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn đã tung đơn vị sừng sỏ bậc nhất của chúng lên chiếm đóng tại đây, với tham vọng tiêu diệt chủ lực của ta trong một thời gian ngắn, vực quân ngụy dậy và từ đó chiếm đóng lâu dài Tây Nguyên. Mặc dù chúng ta đã tập trung nghiên cứu nhưng cũng chỉ hiểu Mỹ trên lĩnh vực tư tưởng, tâm lý và chiến thuật “nhảy cóc”, còn cách đánh với sư đoàn kỵ binh không vận số 1 ở chiến trường rừng núi ra sao thì chưa có tiền đề. So sánh lực lượng ta ít hơn địch cả về quân số và trang bị vũ khí. Quân Mỹ có nhiều xe tăng, thiết giáp, máy bay, pháo binh còn chúng ta không có. Khi sư đoàn kỵ binh không vận số 1 bước vào tham chiến thì cường độ ác liệt do pháo binh và hỏa lực từ máy bay sẽ gia tăng gấp bội. Do vậy để bảo đảm chắc thắng, Đảng ủy cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu, đặc biệt coi trọng việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ cho bộ đội.

Dừng hồi lâu, đồng chí Bí thư Đảng ủy chậm rãi nói tiếp:

- Thưa các đồng chí! Chiến dịch tới Quân ủy Trung ương đặt niềm tin rất lớn vào quân và dân Tây Nguyên, ta thắng Mỹ trận này sẽ có ý nghĩa lắm, không những về quân sự mà cả về chính trị, tâm lý sẽ tạo ra thế mới, lực mới đối với lực lượng vũ trang Tây Nguyên nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Chính vì lẽ đó chúng ta phải làm cho cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch có ý chí quyết tâm, trước hết phải dám đánh Mỹ và quyết tâm đánh thắng, vừa đánh vừa tìm hiểu địch nhất định chúng ta sẽ tìm ra cách đánh thắng chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2019, 10:15:43 am »

Từ sau hội nghị Đảng ủy, cả mặt trận sôi động khí thế đánh Mỹ. Từ các trung đoàn chủ lực, các đơn vị binh chủng, kỹ thuật đến các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đều tiến hành đại hội Đảng. Các đơn vị trong toàn mặt trận mở đợt sinh hoạt chính trị tập trung quán triệt nhiệm vụ chiến dịch. Đây là đợt sinh hoạt chính trị lớn đầu tiên được tổ chức trên phạm vi toàn mặt trận. Điều tôi nhớ nhất là trong đợt sinh hoạt này từ người binh nhì đến vị tư lệnh đều có tiếng nói chung là quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ ngay từ trận đầu.

Tối ngày 27 tháng 9, anh Chu Huy Mân gọi tôi đến nơi ở, cũng là nơi làm việc của anh. Đó là căn nhà nhỏ do anh em công binh làm ở lưng chừng một ngọn núi cao. Mái nhà lợp bằng lá trung quân (mùn cun), một loại lá rất khó cháy, được gập lại rồi gài thành từng tấm rất công phu, vừa bền, vừa đẹp. Quanh nhà được che bằng những tấm phên nứa đan lóng đôi rất cẩn thận. Khi tôi đến anh đang chăm chú bên tấm bản đồ trải rộng trên chiếc bàn làm bằng những nan tre được vót nhẵn bóng rồi dùng sợi mây ghép lại.

Vừa thấy tôi, anh Chu Huy Mân nói ngay:

- Mấy hôm nay, Đảng ủy đã bàn nhiều về nhiệm vụ chiến dịch tới. Với lực lượng của ta hiện có, lại tác chiến với một đối tượng sừng sỏ bậc nhất của quân đội Mỹ, yêu cầu nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho rất cao, theo anh vấn đề quan trọng bậc nhất để giành thắng lợi ở chiến dịch này là gì?

Suy nghĩ một lát, tôi nói:

- Thưa anh, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc mình luôn phải đương đầu với những kẻ thù hung bạo và lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Tuy vậy, dân tộc ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước một kẻ thù nào, kể cả chúng là một quốc gia mạnh nhất thời đó, một khi ta khơi dậy được lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc và chí căm thù giặc cho quân và dân cả nước.

- Nhưng đây là đối tượng tác chiến mới, có nhiều máy bay, đại bác, xe tăng - Anh Chu Huy Mân cắt ngang lời tôi như một gợi ý.

Tôi nói tiếp:

- Đối tượng tác chiến của quân và dân Tây Nguyên là sư đoàn kỵ binh không vận số 1. Cái mạnh của nó ai cũng biết, đó là sức cơ động và hỏa lực phi pháo. Nhưng thưa anh, nó cũng có cái hạn chế nhất định ở ngay trong cái mạnh đó. Do được trang bị mạnh nên quân Mỹ thường ỷ vào hỏa lực, một khi ta hạn chế hoặc vô hiệu hóa chỗ dựa đó thì tinh thần và ý chí của chúng chắc chắn sẽ bị suy giảm. Với ta ưu thế đồng thời cũng là sức mạnh ở chính trị tinh thần và sở trường đánh vận động trên địa hình rừng núi bằng vũ khí mang vác. Nếu ta phát huy được ưu thê này thì nhất định ta sẽ đánh thắng chúng.

- Đúng! Đúng vấn đề là ở chỗ đó - Anh Chu Huy Mân vừa nói vừa gật đầu xác nhận.

Tôi mở cuốn sổ tay công tác, nói tiếp:

- Hiện nay cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn 33, trung đoàn 320 và cả trung đoàn 66 đang trên đường hành quân vào chiến trường. Theo chúng tôi nắm được, các trung đoàn này quân số trên dưới 2.600 người (tôi lấy tròn số), đảng viên 420 người, đoàn viên 1.720 người. Cán bộ trung đội đã qua chiến đấu 32%; cán bộ đại đội đã qua chiến đấu 80%; còn cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn 100% đã qua chiến đấu. Điều quan trọng nhất là sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, theo yêu cầu mới, những người vào quân đội phải có những tiêu chuẩn nhất định về chính trị, tư tưởng, có sức khỏe, có văn hóa và tự nguyện. Thời gian huấn luyện cơ bản của những chiến sĩ này dài hơn. Nội dung huấn luyện bao gồm cả kỹ thuật, chiến thuật đều đạt trình độ thuần thục các yếu lĩnh động tác cơ bản, sử dụng thành thạo các loại, vũ khí trang bị, đặc biệt là khả năng bắn súng bộ binh đạt tỷ lệ khá, giỏi rất cao.

Việc rèn luyện thể lực để nâng cao sức chịu đựng bền bỉ, dẻo đai được tiến hành thường xuyên thông qua các cuộc hành quân xa, mang vác nặng, ăn ở dã ngoại dài ngày trong điều kiện rừng núi khí hậu khắc nghiệt trước khi vào chiến trường.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được coi trọng, nhất là giáo dục về lòng yêu nước, chí căm thù giặc Mỹ, và truyền thống chống giặc giữ nước của cha ông ta từ đời này qua đời khác; với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Qua năm tháng huấn luyện, rèn luyện và học tập họ đã trở thành những chiến sĩ quân đội cách mạng thực thụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhận thức sâu sắc vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mình với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Do vậy, khi được lệnh lên đường họ đều tình nguyện ra đi không đắn đo suy tính, không nề hà hy sinh gian khổ. Những người chiến sĩ như vậy, thưa anh tôi tin họ sẽ không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM