Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:45:19 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Dòng đời - Nguyễn Trung  (Đọc 9282 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #10 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 10:54:27 am »

   Xin giới thiệu với ông Trần Ngọc Cương, hôm nay ngoài tiểu ban chỉ đạo ra, có ông Đoàn Danh Tiến, thay mặt cho Trung ương xuống làm việc với khu phố, nhằm giúp khu phố xử lý dứt điểm trường hợp nhà tư sản mại bản Phạm Trung Học. Khu phố chúng ta đang phấn đấu trở thành lá cờ đầu của thành phố hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa. Vì đây là trường hợp điển hình của khu phố ta, nên Trung ương về tận nơi làm việc... – giọng Hân nghiêm trang, dằn từng đoạn để nhấn mạnh.

Tai Tư Cương ù lên, chân tay run lẩy bẩy. Ông lắp bắp và nói nhịu mấy lần trong khi báo cáo lại một lần nữa từ đầu tới đuôi về nhà in Tia Sáng. Ông nhẩm trong bụng: Đây là lần báo cáo thứ sáu...

Ông già Tư Cương thuộc mặt hết các thành viên trong tiểu ban chỉ đạo cải tạo của khu phố. Ban có năm người thì ông Tư đã biết ba từ trước ngày 30 Tháng Tư. Nghĩa là ngoài Hai Hân ra ông còn biết Ba Khang, nguyên là kế toán hãng xe đò đường dài “Cánh Nhạn”, và Bảy Dự vốn là giáo viên trường trung học tư thục Nguyễn Trãi. Sự quen biết Ba Khang hoàn toàn tình cờ, vì tháng tháng chạm mặt nhau lúc chờ đợi ở Sở Tài chính để nộp thuế. Dần dà Ba Khang tôn Tư Cương lên làm thầy, vì được Tư Cương bày cho cách làm sổ sách đúng luật lệ để cánh chi cục thuế không hạch sách được. Sau đó bà sáu Nhơn còn nhờ Tư Cương làm cố vấn về kế toán trong nhiều năm, vì tay nghề của Ba Khang giỏi về tháo vát chứ không giỏi về sổ sách và các chứng từ. Còn thầy giáo Bảy Dự là người ông đã đến gặp mấy lần tại nhà riêng để lo việc dạy học thêm cho con trai Mạnh. Thằng bé này bị đuổi học mấy lần vì tội trốn học nhiều quá. Bảy Dự là cán bộ nằm vùng được Ba Khang che chở. Bộ ba này quen nhau từ lâu.

   Ông Trần Ngọc Cương, một lần nữa tôi yêu cầu ông nghĩ lại, còn điều gì quên chưa khai báo không? Tôi thấy ông không nói được điều gì mới – Hai Hân hỏi gặng, sau khi Tư Cương dứt lời.

   Dạ thưa không, nhà in có vậy thôi. Năm lần trước tôi cũng báo cáo chính xác như vậy. Cả thảy có 78 người vừa nhân viên kỹ thuật, vừa công nhân và tạp vụ, trừ tôi ra là quản lý chung quán xuyến mọi việc. Toàn bộ thiết bị là 3 cỗ máy in cho các loại công việc in khác nhau, một máy đóng sách. Các máy chi tiết, nguyên vật liệu còn lại, máy điện thoại, máy teletif, 4 cái xe đạp, 3 ô tô tải mini tôi đều ghi rõ trong bản kiểm kê. Không thiếu đến một cái bàn, một cái ghế đẩu. Các quạt trần trong xưởng còn đầy đủ. Sổ sách tôi đã nộp không thiếu quyển nào kể từ khi ông Học đi Mỹ cho đến ngày giải phóng. Báo cáo kết toán thu chi và chứng từ hoàn toàn khớp với sổ cái. Kiểm toán của Sở Tài chính hàng năm xác nhận đầy đủ. Gia sản ông Học ngoài cái nhà in ra chỉ có mỗi cái nhà tôi đang vừa ở vừa trông coi hộ.

   Ông Tư, tôi cảm thấy ông vẫn chưa giác ngộ vai trò kẻ làm thuê của mình. Hình như ông đang nhầm lẫn với vai trò đại diện cho chủ mình. Nếu tự cho mình là đại diện cho chủ thì ông cũng bị cải tạo đấy. – Hai Hân dồn ông Tư.

   Chết, chết. Tôi thực sự được ông Học thuê ạ. Làm công ăn lương, sổ lương rành rành năm này qua năm khác, không họ hàng liên quan gì cả. Chẳng qua tôi làm ăn cẩn thận, thực thà, nên ông Học phó thác cho mọi công việc mà thôi, kể cả giữ quỹ. Không phải tôi muốn leo cao lên địa vị gì ngoài cái việc làm quản gia của mình đâu ạ. Trước đây tháng tháng ông ấy chỉ xem báo cáo công việc, sổ sách kết toán, đối chiếu các chứng từ, rồi quyết định bảo tôi làm thêm việc này, bớt việc kia. Từ ngày ông Học sang Mỹ công việc của tôi vẫn như lúc ông ấy còn ở nhà, chỉ khác một điều là bây giờ ông ấy đọc các bản sao, giao việc mới bằng thư hay điện thoại, đôi lúc có việc gì gấp thì gửi telex. Tiền nong thì qua chuyển khoản, chứng từ giao dịch tổng hợp cụ thể hàng tháng liên tục cho đến ngày giải phóng. Tất cả tôi đã nộp đầy đủ cho Ban cải tạo...

Hai Hân thấy bí. ...Tư Cương còn nói nhiều điều chi tiết hơn mình biết về cái nhà in này, không thể bắt bẻ vào đâu được. Hai Hân chuyển hướng:

   Tại sao dự trữ giấy in cho xí nghiệp chỉ còn đủ dùng cho khoảng hai tháng? Một nhà máy in không lý gì chỉ có ngần ấy giấy! Ông nhớ kỹ xem có còn cất giấu của cải ở đâu không? Bây giờ
 

khai ra thì không bị coi là ngoan cố.

   Thưa như thế là quá nhiều chứ ạ. Vì thực tế từ đầu năm 1975 cho đến ngày 30 tháng Tư hầu như không có nơi nào thuê in nữa. Các ông xem sổ kết toán cũng sẽ thấy. Trong thời gian này cả thành phố có còn ai lo đến làm ăn nữa đâu. Lúc bình thường xí nghiệp cũng chỉ duy trì mức dự trữ giấy, mực in và các phụ tùng khác cho máy móc tối đa hai đến ba tháng là cùng. Có khi chỉ một tháng thôi ạ. Để kho nhiều hơn nữa, sẽ nhiều vốn chết và phải trả thêm nhiều lãi cho ngân hàng. Làm ăn như thế có thể lỗ to. Kinh doanh là phải tính toán chi li từng xu ạ.

   Ông quả là rất trung thành với ông Học. – Hai Hân chộp ngay câu nói cuối cùng của Tư Cương. - ...Thảo nào toàn bộ quyền sinh quyền sát của xí nghiệp này nằm hết trong tay ông.
   Chết, xin các cán bộ đừng hiểu lầm. Ông Học trả lương cho tôi là để làm tất cả những việc như vậy. Nếu không, ông Học sẽ thuê người khác ạ. – vừa nói ông già Tư Cương vừa vuốt mấy giọt mồ hôi lăn trên mặt.

Hai Hân lại bí, đưa mắt nhìn các cán bộ khác, hàm ý nói rằng các anh tranh thủ hỏi đi. Nhưng các cán bộ khác, kể cả ông trung ương, vẫn ngồi yên, vẻ mặt chăm chú, đầy suy nghĩ. Có người còn mím chặt môi, chắc nghĩ ngợi điều gì căng thẳng lắm. Ông Tư Cương trộm đảo mắt quan sát tất cả để còn định liệu, trong lòng chỉ lo lỡ miệng thì khốn.

   Ông Học tham gia tổ chức chính trị nào? - Ông trung ương Đoàn Danh Tiến đĩnh đạc.

Tư Cương bật đứng dậy như bị điện giật, hai tay vê vê hai bên ống quần cho đỡ run. Trời ơi, hỏi thế bố ai trả lời được! Đích thân cái ông trung ương hỏi câu này thì gay to rồi!.. Lưỡi Tư Cương cứng đơ.

   Nói đi, ông Học có mối quan hệ gì với Mỹ và nguỵ quyền? Hôm nay có đại biểu Trung ương dự, ông phải nói hết. – Hai Hân tìm cách phá vỡ sự im lặng.

Tư Cương choáng váng.

   Ông cứ ngồi xuống mà nói. Câu hỏi khó quá phải không ông Tư? – Hai Hân tra khảo.

   Quả thực tôi không biết gì để trả lời câu hỏi này. – Tư Cương lúng búng.

   Con trai làm đến thiếu tá mà lại không có quan hệ chính trị gì với Mỹ - nguỵ sao được? Mà ông lúc nào cũng kè kè bên cạnh ông chủ. Tôi còn lạ gì nữa.
   Tôi chỉ gặp ông chủ khi công việc bắt buộc thôi ạ. Ông Hai cũng làm việc ở xí nghiệp này, có quan hệ rộng hơn tôi, lại hoạt động bí mật, ông Hai biết rất rõ quan hệ giữa ông Học và tôi ạ.

Thôi được, ông không muốn nói thì tôi nói cho ông nghe, rồi về suy nghĩ cho kỹ. Bây giờ ông chỉ trả lời có hay không thôi.

   Xin vâng. – Tư Cương lật bật như đứng trên lửa, lúc này vẫn chưa dám ngồi xuống.

   Thời còn Ngô Đình Diệm ông Học có tiếp một số khách của Cần Lao Nhân Vị tại nhà, có đúng không?
   Đúng ạ, nhưng đấy là...

   Tôi đã nói là ông chỉ cần nói đúng hay không thôi mà. Người của Hội đồng Quân lực Sài Gòn vẫn thường đến gặp trung tá Lễ và thiếu tá Mạnh tại nhà này, có đúng không?
   Vâng đúng, điều này có gì là lạ ạ?

   Ngày ông Học ra đi còn có nhiều người của Quốc hội Sài Gòn đến đây tiễn có đúng không.

   Vâng, đúng, nhưng khổ quá...

   Tôi gợi ra sơ sơ như vậy thôi. – Hai Hân gạt phắt đi. - ...Ông về suy nghĩ xem những quan hệ ấy là quan hệ gì! Nghĩ thật kỹ hãy trả lời, không nói đi nói lại được đâu. Tôi không hỏi ông về các cuộc tiếp khách thương nhân của ông Học. Bây giờ ông nói cho tôi biết tài sản của ông Học còn những gì nữa?

   Tôi đã trình hết trong tờ khai rồi ạ.

   Không, ý tôi muốn hỏi ngoài xí nghiệp in ra, ông Học còn tài sản hay bất động sản nào khác nữa không?
 

   Theo các văn tự tôi đã giao cho ban cải tạo, theo các khoản thuế hàng năm tôi phải đi nộp cho ông Học, tôi nghĩ rằng ông Học không còn tài sản hay bất động sản nào khác. Nhưng...

   Nhưng gì nữa?

   Dạ, nhưng... - để phòng xa chữ ngờ, Tư Cương nghĩ một lát rồi nói thêm: Nhưng xin thưa với các cán bộ, đấy là tôi dựa vào những việc tôi được giao, những sổ sách giấy tờ tôi được giữ mà báo cáo như vậy ạ. Còn nếu cán bộ nắm được sổ sách giấy tờ hay tin tức gì khác thì tôi chịu không biết được. Tôi không thể nói điều gì tôi không biết...

   Hôm nay ông vẫn không nói lên được điều gì mới so với năm lần trước. Tôi cho phép ông có thêm thời giờ để tiếp tục suy nghĩ. Hoặc là nói hết sự thật, hoặc là tự chuốc lấy mọi hậu quả.

Tư Cương hiểu là đã bị dồn đến đường cùng rồi.

...Con giun xéo mãi cũng quằn, đến nước này thì phải liều thôi, nếu không mình còn chết nữa! ...Tư Cương ráng tự trấn tĩnh rồi mới nói rõ to:

   Ông Hai Hân, tôi đã khai hết rồi. Xin ông cho phép tôi nhắc lại lời thề này: “Ông biết tính tôi rồi đấy. Lời thề đọi máu, có trời đất chứng giám!” – ông Tư cố dằn từng tiếng, tay giơ cao, ngón tay trỏ chỉ lên trời.

Câu nói của Tư Cương làm cho Hai Hân bỗng dưng nhũn ra trong khoảnh khắc, muốn đổ nhào xuống đất. Hai Hân phải nắm chặt lấy thành bàn để lên gân cho chính mình, cố lấy lại giọng nói cứng rắn:

   Ông Tư, ông đã làm xong việc bàn giao xí nghiệp. Quyết định tịch biên ngôi nhà ông đang ở đã trao cho ông tuần trước. Ông còn đúng bảy ngày nữa để hoàn thành công việc này. Nhưng ngay ngày mai sẽ có người đến cùng ông làm biên bản bàn giao nhà...

Tư Cương hiểu câu nói của mình đã đánh trúng huyệt, song vẫn dạ dạ vâng vâng rồi mới ngồi xuống, hồi hộp chờ đợi. Lời thề nói trên thực ra là của Hai Hân, thề thốt với Tư Cương chuộc lại một trọng tội mà Hai Hân mắc phải trong năm đầu khi mới về làm tại xưởng in của ông Học. Ông Đoàn Danh Tiến không hiểu được tình tiết này nên không hay biết gì, cũng không phán quyết thêm điều gì. Mọi người vẫn ngồi im chờ đợi. Mãi mới thấy Hai Hân quay ra đề nghị với Tiến:

   Xin anh cho phép hôm nay tạm dừng tại đây. Ban chúng tôi sẽ báo cáo anh kế hoạch tiếp theo.

Ông Tiến đồng ý. Cuộc họp giải tán.

Tư Cương chào mọi người. Nhưng không rõ vì ông nói quá lí nhí, hoặc vì mọi người không để ý, chẳng có lời chào đáp lại.

Tư Cương bước ra khỏi phòng họp rồi mà chưa hết băn khoăn. Mình chào, họ không thèm chào lại. Kế hoạch tiếp theo là cái gì đây? Hai Hân chẳng nói mình đang nhầm lẫn vai trò làm thuê với vai trò đại diện cho chủ là gì?.. Họ còn muốn moi thêm gì nữa? Hay là họ muốn mình phải tố ông Học? Bị quy kết là tay sai của tư sản mại bản thì bỏ mẹ! Nhưng làm sao có thể tự dưng tố khống ông Học được? Các ông các bà nhớ cho kỹ, đế quốc và tư sản mại bản là kẻ thù không đội trời chung của dân tộc Việt Nam ta ... Những buổi giảng giải không thể nào quên được của Hai Hân cho lớp học cải tạo xã hội chủ nghĩa ...

Tư Cương nhớ lại, trong tất cả các cuộc họp từ khi tiến hành cải tạo đến giờ, Ba Khang và bảy Dự cứ như là người xa lạ. Cả hai, ngoài những câu chào hỏi đúng mực, đều không nói chuyện riêng, cũng không hé răng chất vấn ông điều gì. Ông hiểu là họ phải giữ ý. Ông Tư phân vân không biết nên đánh giá cái Ban cải tạo này như thế nào. Khi nghe đến kế hoạch tịch thu nhà ông Học, ông yên chí là mọi chuyện đã an bài, suôn sẻ, không ngờ lại còn đẻ thêm ra cái kế hoạch tiếp theo ...

Hôm ấy trên đường về, Đoàn Danh Tiến mấy lần nói với Hai Hân:

   Đồng chí cừ lắm! Đúng là nắm tận thắt lưng địch mà đánh!

   Em thấm nhuần tinh thần truy kích đến cùng.

   ...
 

Dăm hôm trước đấy, bà Sáu Nhơn mời Ba Khang và Bảy Dự đến ăn cơm đón vợ chồng Hai Phong ngoài Bắc vào thăm. Tư Cương cũng được mời. Nếu đúng như Hai Phong giải thích, Tư Cương thấy mình đã làm đúng và làm hết bổn phận công dân. Làm gì có chuyện nhầm lẫn giữa vai trò làm thuê và vai trò đại diện như Hai Hân riếc móc. Cả Ba Khang và Bảy Dự đều tán thành cách giải thích của Hai Phong.

   Thế hãng xe Cánh Nhạn của bà Sáu nhà ta đã bị bị tịch thu để cải tạo rồi thì ông tính sao? Ai bây giờ mà không biết bà Sáu là cơ sở của Cách Mạng? – Tư Cương băn khoăn.
   Thầy Tư vốn sáng suốt, thế mà bây giờ quá lo lắng, nói sai danh từ rồi. Phải nói là quốc hữu hoá hãng xe Cánh Nhạn mới đúng danh từ chứ. – Ba Khang đế lại Tư Cương.
   Không mua lại, không đền bù một cắc, thế không là tịch thu thì là cái gì? – Tư Cương chưa chịu.
   Cải tạo là chính sách áp dụng chung cho cả nước, thì cả nước cứ phải theo thế mà làm thôi, còn tính gì nữa, bác Tư? – Hai Phong giải thích.
   Nhưng thật tình em không hiểu tại sao lại làm đúng như ở miền Bắc những năm đầu sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 hả anh Hai? – Bảy Dự hỏi.
   Làm đúng như ở miền Bắc sau 1954 thì làm sao? – Hai Phong hỏi lại.

   Hầu như em thấy chỗ nào được cải tạo thì cuối cùng cũng chỉ thấy xuất hiện những mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, tổ phục vụ, nghĩa là nơi bán nước sôi ấy mà... Tóm lại các cơ sở sản xuất kinh doanh cũ lần lượt biến hết. Báo chí trong này chứng minh bằng những chứng cứ và số liệu rành rọt mà anh Hai, có cả ảnh chụp nữa!

-Hay là tình hình chiến tranh và chính sách kinh tế tem phiếu đưa đến kết quả như vậy? – Tư Cương hỏi chen vào.

   Bác Tư và chú Bảy ạ, tôi không phải là nhà kinh tế nên không giải thích cặn kẽ được. Điều chắc chắn là các cơ sở công nghiệp của tư sản miền Bắc hồi đó rất nhỏ hoặc không đáng kể. Cải tạo xã hội chủ nghĩa lúc đó gần như là cải tạo công thương. Nói sát hơn nữa cải tạo nhà đất là chính. Sau đó chỉ phát triển kinh tế quốc doanh và hợp tác xã cho phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Từ 1964 trở đi là những năm tháng tập trung mọi nỗ lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, tất cả cho tiền tuyến.

   Anh Hai ạ, em thấy cánh nhà giàu có hạng ở trong này nhạy bén còn hơn cả Nguyễn Văn Thiệu. Qua đám học trò của em, em thấy khi ký hiệp định Pa-ri là họ đã bảo nhau chuẩn bị rút ra nước ngoài. Không phải chỉ riêng mình nhà ông Học đâu.

   Một số người đã bỏ đi ngay sau khi ký.

   Thật ra các tư sản cỡ lớn như cánh người Hoa kết bè kết phái với Lý Lương Thân, cánh làm ăn với hậu cần quân đội Mỹ, cánh nhà thầu cho quân đội Cộng hòa đã cao chạy xa bay và mang hết của nổi đi rồi. Còn lại là loại tàng tàng thôi. – Ba Khang nhận xét.

   Phải đấy. Ông Học bây giờ đâm ra nổi tiếng, vì được báo đài nêu đích danh trong chiến dịch cải tạo, chứ trước ngày giải phóng, cả Sài Gòn này đâu thèm để ý đến cái nhà in cổ lỗ sĩ của ông Học. – Tư Cương đồng tình.

   Anh Hai ạ, chính sách thì phải thi hành, đúng sai tính sau vậy. – Ba Khang chen vào. -
...Nhưng thái độ của Hai Hân làm Năm Thịnh nhà ta tức nổ ruột. Giữa cuộc họp để khai báo, Năm Thịnh chỉ thẳng vào mặt Hai Hân: “Ông đừng có giở cái trò truy ép ra đây, chuyện nọ xọ chuyện kia. Chẳng có quan hệ gì hết với Lý Lương Thân! Hay là ông muốn lấp liếm chuyện vì sao ông bị mật vụ Sài Gòn bắt?”. Ngồi nghe mà tôi toát mồ hôi hột, chỉ sợ Năm Thịnh tức quá hoá điên, lộ hết mọi chuyện cũ...

   Phải nói thế này anh Hai mới hiểu được... – Bảy Dự giải thích: Cơ sở nhờ anh Năm cứu Hai Hân. Ảnh mất khá nhiều tiền và phải lấy tính mạng mình ra cược... Lẽ ra Hai Hân phải vận động, phải giải thích chính sách cho anh Năm, nhưng lại đe nẹt đao to búa lớn, thế là anh Năm khùng lên: Chính sách dạy anh ăn nói với dân như vậy hả? Không phải chỉ mình anh biết cách mạng đâu nhé! Đây còn nuôi cách mạng đấy, sẵn sàng mất cả cơ nghiệp đấy. Nhưng cách mạng như anh thì đừng hòng tôi bỏ ra một xu! Hiểu chưa...
 
   Thôi, ta nói chuyện khác đi. – Bà Sáu Nhơn cắt ngang. -...Hôm nay mời ông Tư và các anh đến chơi với vợ chồng Hai Phong, chứ có phải mở lớp cải tạo trong cái nhà này đâu! Ai mà chẳng của đau con xót. Cơ nghiệp là cả một đời vất vả gây dựng, chứ có phải là của đi cướp không được về đâu... Ông Tư ạ, Năm Thịnh nhà tôi nói đúng đấy. Giặc chà đi xát lại, tính mạng tôi, tính mạng cả năm gia đình các con tôi, tôi còn không tiếc cho cách mạng, hãng xe Cánh nhạn nghĩa lý gì? Nếu đổi bất kể cái gì làm cho mẹ con Út Thạnh sống lại được, bây giờ tôi đổi hết, kể cả nếu tôi phải chết!

Ông Tư nhớ mãi bữa cơm hôm đó và lời nói cắt ngang của bà Sáu. Thế nhưng câu nói của Hai Hân nói với ông Trung ương cứ đeo đuổi ông lẵng nhẵng trong đầu: Sẽ báo cáo kế hoạch tiếp theo...

Vì biết bữa cơm hôm ấy có mặt Ba Khang và Bảy Dự, nên Ba Tước, Tư Quang, Năm Thịnh - ba con trai bà Sáu đều bảo nhau lánh mặt. Cả ba đều trong diện tư sản phải cải tạo. Họ nói thẳng thừng là không thể ngồi chung đũa chung bát với cái bọn trong Ban cải tạo...

Song lạ thay, từ bữa ấy trở đi không ai thấy bà Sáu than thở một lời nào về hãng xe Cánh nhạn nữa, như thể là nó chưa bao giờ tồn tại. Ba Khang đã giúp bà trao gọn ghẽ cho Ban cải tạo cái ga -ra (garage) hai nghìn thước vuông đất – trong đó có một phân xưởng sửa chữa, mười một xe đò(*) [(*) Các loại xe bus và mini bus chở khách.] lớn nhỏ chạy tốt – nói chính xác là mười một xe hoàn chỉnh và bốn xe nát đã bị mổ ra để lấy phụ tùng thế vào cho những xe đang chạy. Khác với những nhà tư sản khác trong thành phố bị cải tạo, má Sáu bắt đại tu lại hết mọi xe cộ, sửa sang lại nhà xưởng trước khi trao cho Ban cải tạo:

   Xe cộ liên quan đến an toàn tính mạng của hành khách, ông Ba đích thân kiểm tra dùm từng cái trước khi bàn giao. – má Sáu nói với ông Ba với giọng người ra lệnh.

Nhưng đã mấy lần bà nói với bốn con trai bà:

   Má muốn các con phải tránh bằng được cái cảnh huynh đệ tương tàn... Tình máu mủ ruột thịt là thiêng liêng, các con gắng giữ lấy. Đừng bao giờ phụ lòng dạy dỗ của ba các con. Hoà bình rồi, đất nước thống nhất rồi, má chỉ còn thiếu mẹ con út Thạnh thôi...

Sau cuộc họp khai báo hôm ấy, cuộc khai báo lần thứ sáu với Ban cải tạo, ông Tư Cương về đến nhà đã vào giữa trưa. Cơm nước xong, ông bỏ cả nghỉ trưa, làm ngay công việc chụp ảnh từng gian phòng, những đồ dùng và tiện nghi nội thất và toàn bộ ngôi nhà của ông Học, ghi ghi chép chép. Mãi đến xẩm tối việc chụp ảnh và ghi chép mới xong. Ông lẩm bẩm một mình lấy làm tiếc là ông Học không có mặt ở nhà để tự tay trao ngôi nhà này cho Ban cải tạo.

...Thôi thì đành rửa ra mỗi ảnh hai kiểu vậy. Một kiểu sẽ gửi ông Học, để ông Học thấy rõ mình không tơ hào một chút gì đồ đạc nhà cửa, thấy rõ ngôi nhà được trao cho Ban cải tạo trong trạng thái thế nào. Một kiểu giữ riêng cho mình, biết đâu có khi lại cần đến, ít nhất cũng là để giữ làm kỷ niệm...

Khẩn trương là thế mà vẫn chậm. Làm xong mọi việc hôm trước, hôm sau hai Hân đã đưa người đến tiếp quản. Hai Hân nói ông có hai ngày để ra khỏi ngôi nhà này, kể cả việc tìm nơi ở mới. Ba Khang ngầm mách nước cho ông Tư nên lấy tư cách người làm thuê kèo nèo giữ lại một phòng hoặc cả tầng dưới cho gia đình mình để ở, vì ông Tư không có nhà trong thành phố. Nhưng cái câu Sẽ báo cáo kế hoạch tiếp theo ... của Hai Hân ong ong trong đầu, làm cho ông dứt khoát gạt lời khuyên của ba Khang sang một bên. ...Đừng có dại gì mà dây vào. Nhỡ bị quy kết là tay sai của tư sản mại bản thì chỉ có sống mà ăn cám ...

   Hai cán bộ thấy biên bản làm như thế này đã được chưa ạ? - ông Tư nói với Hai Hân và người đi cùng. Người này làm về công tác nhà đất của thành phố.
   Anh Ba coi dùm hộ. Biên bản có khớp với số của văn tự gốc đã nộp không. – Hai Hân đưa biên bản cho người cán bộ nhà đất.

Ông Tư rất đỗi ngạc nhiên, người cán bộ nhà đất chỉ đọc đánh loáng một cái, chẳng nói chẳng rằng bóc tách phần phụ lục ghi chi tiết đồ dùng và các tiện nghi nội thất trong nhà ra khỏi hồ sơ bàn giao rồi lại trả lại tập hồ sơ đã bị chia thành hai tệp cho Hai Hân:

- Đây là phần cải tạo về nhà đất, không cần bản phụ lục này.
 

Hai Hân ghi bổ sung thêm mấy chữ rồi đưa cho tư Cương, ngón tay chỉ vào chỗ vừa điền thêm:

   Ông ký vào đây.

   Không. Không, thế này thì tôi không ký được, hai cán bộ thông cảm cho. - Ông Tư giãy nảy lên. -...Tôi có được ông Học uỷ quyền đâu mà ghi là đại diện cho ông Phạm Trung Học.
   Thế thì ông muốn ký như thế nào?

   Anh Hai ạ, anh thừa biết là ông Học không uỷ quyền cho tôi thay mặt ổng giao nhà cho chính quyền Cách mạng. Tôi đã làm đúng chỉ thị của Ban cải tạo là lập giúp hồ sơ ngôi nhà. Tôi hoàn toàn không có tư cách đại diện cho ông Học để ký vào biên bản giao nhà.

   Người ta yêu cầu ông ký là để hợp thể thức. Coi bộ ông có vẻ ngoan cố! – hai Hân biểu thị rõ sự bất bình trên mặt.
   Không phải thế ạ. Ngoài tư cách làm thuê, tôi chỉ là người ở nhờ trong cái nhà này, tiền nhà cũng không phải trả. Sau đây Ban cho gia đình tôi tiếp tục trú tại đây hay bảo phải dọn đi nơi khác, xin tuỳ Ban quyết định.

Hai Hân đọc lại biên bản một lần nữa, ngẫm nghĩ một lát, thừa nhận ông Tư có lý:

   Thôi thế cũng được.

   Ông Trần Ngọc Cương có nguyện vọng xin tạm trú trong ngôi nhà này hay xin cấp nơi ở mới không? Nếu có thì ghi vào đây. – Người cán bộ nhà đất hỏi ông Tư.
   Ký thì không chịu, nhưng gợi ý này chắc không chê, có phải thế không ông Tư? – Hai Hân cười nửa miệng.
   Mong anh Hai hiểu cho. Còn gia đình chúng tôi ở đâu xin tuỳ Ban quyết định.

   Về chỗ ở của ông, Ban sẽ tính sau. Trước mắt ông thu xếp giao nhà đúng như lịch ghi trong biên bản. – Hai Hân đứng dậy kéo người cán bộ nhà đất về cùng.

Ông Tư ngăn hai người lại:

   Đề nghị một trong hai anh, hay là cả hai anh ký vào phần phụ lục ạ. Nếu không sau này xảy ra suy suyển gì thì rất khó cho tôi.
   Ô hay, cái nhà ông này học mãi mà không thông.

   Chậm hiểu hay là cố tình không hiểu hả? Đã bảo đây là cải tạo nhà đất của tư sản mại bản, không phải là chuyện tịch thu các tài sản trong nhà. Cái phụ lục này là thừa, ông hiểu chưa?. – Hai Hân dồn Tư Cương một thôi một hồi.

   Tôi hiểu ạ. Nhưng khi Ban cho người đến nhận nhà thì sẽ nhận luôn cả đồ đạc trong nhà. Không có phần phụ lục này thì không có gì làm bằng là tôi không hề biển thủ bất kể đồ đạc gì của ông Học ạ.

   Thì ra ông vẫn lo thanh minh cho phần ông, vun vén cho ông Học. Hay là ông còn có ý đồ gì khác? Bọn các ông là lắm âm mưu thâm độc lắm.
   Anh Hai quy kết như thế thì đời tôi hết đường rồi, trời đất ơi... Thực tình là từ khi biết làm người, tôi toàn sống với hoá đơn, chứng từ, sổ sách. Đi theo ông Học từ mấy chục năm nay, chưa bao giờ tôi bị khiển trách vì một sai sót nào... – Trong khi nói, hai tay ông Tư ngửa ngửa lên trời như thể tăng thêm sức minh oan cho việc mình làm.

   Ông đừng quá lo. Khi có người đến nhận nhà, ông giao nhà theo nguyên trạng là được rồi. – Người cán bộ nhà đất nói xong kéo Hai Hân ra về.

Ông Tư ngơ ngác nhìn theo, quên cả chào hai cán bộ . ...Khi đến, Hai Hân ghi tên mình là đại diện cho ông Học, khi về Hai Hân nhập mình với ông Học thành cùng một bọn... Không biết Hai Hân hiềm thù mình nỗi gì mà cứ xiết mình vào chỗ chết thế này?..
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #11 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 10:55:44 am »

Hai hôm sau Ban đã cử một tốp người đến nhận nhà. Ông Tư không thấy họ nói gì đến chỗ ở của mình. Lệnh chỉ ghi tiếp quản toàn bộ ngôi nhà. Lệnh có hiệu lực ngay tức khắc.
 

6.

Thân cô thế cô giữa cái thành phố mênh mông này, vợ chồng tư Cương đành cuốn gói đến nhà Lễ cùng ngày, chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi ba bác cháu Nghĩa vừa mới lên đường đi Bảo Lộc thăm Lễ.

- Nhà của em liệu có bị cải tạo không, anh Nghĩa?

Chờ cho mọi người đi ngủ hết, Lễ mới đem việc này ra hỏi.

Thoắt một cái đã hết hai ngày rồi. Sáng mai phải trở lại trại, nên Lễ dự định ngồi tâm sự trắng đêm với anh mình cho đến lúc chia tay. Thảo đã sai Huệ chuẩn bị cho hai người cà phê, bánh ngọt và ấm nước chè.

   Theo anh biết, chỉ có chủ trương cải tạo nhà cửa của tư sản, ví dụ như nhà của chú Học. Nếu chú thím Học không đi Mỹ chẳng hạn, nhà hoàn toàn dùng để ở, không cho ai thuê cùng, thì theo chính sách hiện hành chỉ cải tạo xã hội chủ nghĩa phần nhà máy in thôi. Đáng lo hơn là anh chưa hình dung nổi gia đình em rồi đây sẽ sống bằng gì.

   Em cũng lo lắm. Đành trời sinh voi thì trời sinh cỏ vậy... Tối hôm qua vợ chồng em tâm sự với nhau gần đến sáng. Càng bàn mọi chuyện, càng lo. Sống ở đâu, đối với tụi em không thành chuyện gì cả, miễn là sống được. Nhưng sống thế nào, thì chúng em bế tắc.

   Thế sao em lại lo mất nhà? – Nghĩa cảm thấy câu chuyện nghiêm trọng hơn mình nghĩ.

   Cái nhà này đối với tụi em không nghĩa lý gì. Riêng cái đoạn Thảo chạy chọt các cửa lo cho em khỏi chết, lo lót cánh Lý Lương Thân, tụi em có thể đủ tiền mua hai cái nhà như thế này. Anh xem, tiền bạc có giữ được đâu, nằm trong túi rồi còn mất! Tất cả là có số hết! Nếu dựa vào bố mẹ Thảo, thì chúng em không phải lo kiếm sống. Papa của Thảo không thiếu gì tiền và cưng Thảo lắm. Bây giờ nghề luật sư của ổng ở bên Mỹ hái ra tiền.

   Tụi em có ý định bán nhà?

   Không ạ. Nếu cái nhà này không phải cải tạo, sau này em sẽ cho đứt ông Tư Cương. Coi như đền đáp công lao của ông Tư. Anh ạ, không có ông Tư, chú Học chắc không thể có cơ nghiệp như ngày nay, bọn em cũng khó được nuôi nấng ăn học như thế này.

   Em nói sau này là thế nào? Tụi em định đi đâu?

   Trước mắt phải chờ em hết cải tạo đã, rồi mới tính được. Tôn Thất Loan nói thật lòng đấy anh ạ. Sắp tới, em có lẽ vẫn đành chịu bất hiếu với cậu mợ, đi ngược lại chí hướng anh em trong nhà mình, nhưng em không thể đi theo con đường của các anh được. Em chỉ cầu mong từ nay bản thân mình đừng làm gì phản lại lợi ích của đất nước. Tâm của em, lực của em chỉ đi được tới đấy. Cũng là nhờ có anh, em mới khẳng định được như vậy. Mà sự khẳng định này đã có gì là chắc chắn đâu!

   Kết quả học tập ở trại chỉ có thế thôi à?

   Anh hiểu thế cũng được. Em không thể...

   Sao em bi quan thế?

   Không, đấy là sự thật, anh Nghĩa ạ. Cuộc sống đã nhào nặn em thành con người như vậy mất rồi. Cũng giống như đại tá Loan đã nói với anh, cậu mợ có sinh ra em một lần nữa, có lẽ em vẫn không dám chọn con đường cậu mợ, anh Chính, anh và Minh đã đi, đang đi... Sáng nay em lại thắp hương cầu khấn cậu và em Minh tha thứ cho em. Tôn Thất Loan đã nói thật cho mình và nói đúng tâm trạng em anh ạ. Con đường đã đi gần hết cuộc đời...

   Chiến tranh đã qua đi trên đất nước, nhưng chưa kết thúc trong em?

   Còn hơn thế, anh Nghĩa ạ. Ở trại em được giảng chiến tranh đã kết thúc ở Việt Nam, nhưng chưa kết thúc ở nước Mỹ. Điều này đúng một vế. Chắc chắn là nước Mỹ còn nhức nhối về cuộc chiến tranh này. Nhưng cũng với nghĩa như vậy, còn phải nói là cuộc chiến này chưa chấm dứt trong lòng nước ta anh ạ. Nhất là trận địa của cuộc chiến tranh này lại diễn ra ngay trên nước ta!
 

   Em nghĩ đến nợ máu trong cộng đồng dân tộc? Đến những vết thương không thể hàn gắn được trên đất nước? – Nghĩa đi thẳng vào vấn đề tế nhị nhất, cố gợi cho Lễ nói hết tâm trạng mình.
   Chúng em được học tập nhiều về chính sách khoan hồng của Cách mạng. Chúng em tin điều này, đang được hưởng điều này. Anh chắc khó đoán nổi các trại viên phấn khởi như thế nào về việc em được đi theo anh về thăm nhà ba ngày. Tôn Thất Loan ôm chầm lấy em khi biết chuyện này: - “Đúng là cải tạo thật rồi! Ông Lễ, mình bắt đầu tin là cải tạo thật!”

   Vậy mà em vẫn bi quan?

   Vâng. Những điều em đang nghĩ nằm ngoài sự khoan hồng của Cách mạng. Có lẽ nằm ngoài cả sự chất vấn của lương tâm. Em đang dần dà ý thức được điều này, nhưng chưa nghĩ cho rạch ròi được.

   Em hãy thử đứng ra làm người tự phán xét chính mình xem nào. Như thế may ra em có thể
   niệm được rõ ràng suy nghĩ của em.

   Những điều em thực sự học được ở trong trại không nhiều lắm. Hình như các giảng viên, kể cả người chăm sóc đời sống tinh thần của tụi em là ông thiếu tá chỉ huy trại, đều không biết rằng có nhiều thứ tụi em học được lại nằm ngoài các bài giảng.

   Xưa nay anh chưa bao giờ coi sách vở, giáo trình và những bài giảng là trí tuệ vô song, là chân lý cuối cùng.
   Anh vẫn chưa hiểu ý em. Có lẽ mọi suy nghĩ của em vẫn đang tiếp tục hình thành. Ý em muốn nói tụi em học một đằng, nhưng lại hiểu một nẻo. Ví dụ những bài giảng về chính sách khoan hồng đưa ra rất nhiều lý lẽ, nhưng thực lòng đa phần học viên trong trại tâm sự với nhau là chưa thấy lý lẽ nào thuyết phục. Tuy vậy, rành rành là tụi em đang được hưởng quy chế cải tạo.

   Như Tôn Thất Loan đã nói với em?

   Vâng. Việc em được ngồi ở nhà mấy ngày nay giá trị hơn tất cả các bài giảng về chính sách khoan hồng cộng lại anh ạ. Song tụi em cũng mới chỉ học được đến đấy thôi. Em nói học với nghĩa là nhận biết cái điều trước đây mình chưa biết, chấp nhận cái điều trước đây mình chưa chấp nhận hay không chấp nhận.

   Đến đấy là thế nào? Tại sao lại chỉ đến đấy thôi hả Lễ?

   Chắc anh còn nhớ chứ, Tôn Thất Loan nói công khai giữa hội trường là ông ta rất sợ cái vô định. Chỗ này thì các bài giảng về chính sách khoan hồng không với tới. Tâm lý nghi ngờ ấy là tâm lý chung của tụi em trong trại. Có người đã hỏi thẳng anh rồi đấy...

   Anh hiểu. Em nói tiếp đi! – Giọng Nghĩa hơi lạc đi.

Ông có cảm giác như đang đối thoại với một người đứng bên kia chiến tuyến, trong lòng cay đắng. ...Phải chăng vì thế chiến tranh chưa kết thúc trong lòng đất nước chúng ta?

   Em nói rồi, tâm và lực của em bây giờ là từ nay cố đừng làm điều gì hại cho đất nước. Nhưng ngay cả ý nghĩ này cũng không làm em thanh thản.
   Nghĩ được như thế là tốt. Em còn băn khoăn điều gì nữa chứ?

   Nghĩ đến tinh thần cách mạng của cậu mợ, đến con đường gia đình mình đã lựa chọn, nhất là nghĩ đến tất cả những gì em tự thân mình đã trải qua trong chế độ Cộng hòa Việt Nam, đến sự thật lịch sử là Cách mạng đã giải phóng và thống nhất đất nước, em thấy phải tự xác định cho mình như vậy. Nhưng khốn nỗi ngay lập tức em lại phải tự dằn vặt mình: Tại sao chỉ nghĩ đến đấy? Tại sao không nghĩ đến đền bù tội lỗi cũ của mình? Tại sao không nghĩ đến bổn phận đền đáp đất nước? Hay là em mất tinh thần yêu nước rồi? Em sẽ mãi mãi là kẻ phản bội tổ quốc mình và dân tộc mình, là kẻ mất nước?

   Em cố tự trả lời đi.

   Mấy tháng trời chờ anh đến thăm, ngoại trừ nỗi lo về gia đình, hầu như em chỉ loay hoay với những câu hỏi đại loại như vậy. Em tranh luận với Tôn Thất Loan, chán rồi quay ra tự mình tranh luận với mình: Nhất thiết phải cố từ nay trở đi đừng làm điều gì hại cho đất nước!
 

...Nhưng em bị vấp ngã ngay tức khắc: Đất nước nào? Đất nước này từ nay trở đi là của ai? Mình còn được quyền coi đất nước đã sinh thành ra mình là của mình nữa không? Với tất cả lỗi lầm mình đã làm?.. Em đã tự đặt ra biết bao nhiêu câu trả lời. Nhưng đến nay vẫn không câu trả lời nào thuyết phục được em.

   Hay là vì em không tán thành chế độ chính trị của nước ta?

   Anh lại nêu thêm một vấn đề khác tụi em học không vô được. Nghĩa là học nhưng không nhập tâm được.
   Em có biết cậu lúc còn đi dạy học thường nói về trường hợp này như thế nào không?

   Em không biết ạ. Vì khi vào đây em còn bé quá.

   Đúng là em thiệt thòi quá. Cậu gọi đó là nước đổ đầu vịt. Đôi ba lần anh bị cậu mắng như thế...
   Đối với em, nếu được cậu mắng như vậy, thì quả là không oan anh ạ. Em thừa nhận một chế độ chính trị đủ khả năng huy động mọi lực lượng đánh bại cuộc chiến tranh của Mỹ và chế độ Cộng hòa, dứt khoát phải là một chế độ giỏi hơn, ưu việt hơn...

   Đấy là nhận thức em thu hoạch được trong học tập ở trại?

   Không anh ạ. Đấy là kết luận tự em rút ra trong những ngày nằm ở trại. Có thấy được Mỹ đã huy động tổng lực như thế nào, kể cả khoa học, kỹ thuật, trí tuệ và văn hoá Mỹ, chỉ còn thiếu có bom nguyên tử thôi, có thấy được Mỹ đã dựng lên ở miền Nam cả một chế độ chính trị có lực lượng quân sự mạnh hơn bất kể đồng minh nào của Mỹ ở châu Á, với ý thức hệ chống cộng quyết liệt, có thấy được như thế mới hiểu được tầm vóc đối thủ đã đánh bại cuộc chiến tranh này. Các bài giảng ở trại chưa đạt tới tầm này anh ạ. ...Em nghĩ cũng không thể trách những người giảng được, vì họ không thể hiểu Mỹ và chế độ Cộng hoà bằng tụi em... Và thực lòng trình độ họ cũng thấp quá... Nhưng khi nghĩ về chế độ chính trị của một quốc gia nói chung, về con đường đi lên của một quốc gia.., em và nhiều người trong trại lại có cách nhìn khác. Rất khác so với những bài giảng... Em vẫn loay hoay tìm cách xác định cho mình...

Lễ hình như chật vật trong việc sắp xếp các suy nghĩ của mình, dừng lại một lúc lâu rồi mới nói tiếp được:

   Nói theo danh từ hay cách nghĩ của phía anh, có thể dòng máu phản động trong con người em quá nhiều. Cũng có thể cuộc đời của những người như tụi em được nuôi dưỡng bằng thứ máu khác... Tụi em có cách nhìn khác về chế độ chính trị.

   Anh không chờ đợi sau một thời gian học tập em sẽ có ngay một quan điểm chính trị khác.

   Thực là khi học, bọn em không nói ra nhưng hay so sánh. Các bài giảng nói về cái thiện, cái mỹ, cái nhân bản của chế độ chính trị nước ta, em thấy về mặt lý thuyết còn thua xa những tư tưởng tiến bộ và nhân đạo của Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), còn thô sơ rất nhiều so với hệ thống xã hội và nhà nước của Rút-sô (Jean Jacques Rousseau), không bằng Tuyên ngôn Độc lập của Jép-phơ-sơn (Thomas Jefferson)... Kém xa Tuyên ngôn Độc lập mồng Hai tháng Chín của Cụ Hồ.

   Trong trại cũng giảng về Tuyên ngôn Độc lập mùng Hai tháng Chín à?

   Không anh ạ, khi ở Ban tham mưu Bộ Quốc phòng Sài Gòn, em được giao cho nghiên cứu chế độ chính trị của Bắc Việt. Em tìm hiểu Tuyên ngôn này và thấy rất thích. Nó đúng với ý nguyện của mình. Nhưng đấy là nói về lý thuyết. Còn cuộc sống thực của thế giới đồng tiền, thì dù là ở Mỹ, ở Pháp, ở Cộng hòa Việt Nam, ở khắp quả đất này, em tin chắc hiểu biết như anh thì cũng có thể hình dung được. Nhưng anh cũng đừng nên hình dung theo những điều như người ta đã viết trong các bài giảng ở trại!

   Trại giảng đề tài này dở lắm hả em?

   Em không có quyền cho điểm. Em đã nói rồi, tụi em thực sự là có cách nhìn hoàn toàn khác. Các bài giảng nói nhiều đến chủ nghĩa Mác, đến Chủ nghĩa xã hội. Cả anh và em đều chưa có điều kiện để xem xét rồi đây chúng ta có xây dựng được đất nước đúng như nói trong chủ nghĩa Mác hay không.
 

   Đừng quên đây là lý tưởng, là ước mơ cần hướng tới.

   Vâng, em hiểu chứ. Chiến tranh vừa mới kết thúc thôi mà. Còn nói một đằng làm một nẻo, hay muốn định nghĩa chính trị là gì, thì Cộng hòa Việt Nam là một trong những ví dụ mẫu mực. Em có thể bảo vệ thành công quan điểm này bất kỳ tại đâu. Chế độ chính trị sắp tới của nước ta liệu có thể tránh được nguy cơ này không anh? Anh còn nhớ câu hỏi của Quách Minh Châu?

   Nhớ.

Hôm ấy Quách Minh Châu chỉ hỏi anh về khía cạnh tham nhũng, nhưng trong bụng hiểu là hỏi về tất cả. Đúng là bữa ấy anh đã nói thật. Nghĩa là chính anh cũng nghĩ rằng phải chờ thực tế trả lời câu hỏi ấy. Trước đây em cũng tò mò tìm hiểu chủ nghĩa Mác, vì thần tượng Mác dù sao đã có lúc ảnh hưởng hay chinh phục tới một phần ba nhân loại.

   Ít nhiều chủ nghĩa Mác cũng hấp dẫn em hay sao?

   Đúng ra là sự tò mò kích thích em... Vả lại muốn chống Mác thì phải hiểu Mác...- Em hiểu Mác như thế nào?
   Lại thêm một vấn đề nữa trong các bài giảng ở trại không nhập vô tụi em. – Lễ đứng dậy đi đi lại lại, vừa nói vừa tìm các ý nghĩ. - Không có các bài giảng chuyên đề về chủ nghĩa Mác, nhưng hầu hết các bài giảng đều nói là dựa vào Mác. Các bài giảng về con đường phát triển của Việt Nam, về chế độ chính trị nước ta là dính sâu nhất đến chủ nghĩa Mác. Nhưng thành thực là tụi em nghe vì phải nghe thôi.

   Bởi vì quan điểm của em chống Mác?

   Không hoàn toàn như vậy anh Nghĩa ạ. Em cố khách quan. Chính vì thế em không muốn lấy những gì đã làm trong thời chiến để làm thước đo cho thời bình. Em đã nói rồi, cả hai anh em ta hiện nay đều chưa có điều kiện để đánh giá mô hình kinh tế và chính trị rồi đây đất nước ta sẽ xây dựng lên trong hoà bình. Tất cả còn ở phía trước, chúng ta phải chờ. Còn tin thì em không tin. Trong này tụi em nhiều thông tin về cộng sản lắm.

   Em được nuôi bằng máu thực dụng và hít thở bằng không khí hoài nghi!

Lễ cười:

   Em biết ngay mà, nói thế là anh đã tự bộc lộ chính mình. Anh với các cán bộ giảng dạy ở trại cải tạo đúng là chỉ là một! Cùng một giuộc mà ra!
   Thế hả? Nghĩa là anh cũng giáo điều? – thật khó mà nói được nét mặt của Nghĩa lúc này đang nhăn nhó hay là cười, nhưng câu hỏi câu hỏi của Nghĩa là chân thành.
   Anh hiểu em chưa đúng. Em phục Mác với tư cách là một nhà khoa học kiệt xuất, một triết gia vĩ đại, một nhà tư tưởng dám đảo lộn nhiều cái cũ, một nhà văn hoá cả gan xem xét lại nhiều giá trị đã được coi như khuôn vàng thước ngọc, một đầu óc phê phán, nhà bút chiến sắc sảo... Em tôn vinh Mác như thế đủ chưa anh?

   Cứ nói đi, để xem em thực lòng với Mác đến mức độ nào!

   Thế này nhé, phân tích về kinh tế tư bản thời của Mác đến nay em thấy hình như chưa ai vượt được Mác.
   Em nói nghiêm túc?

   Anh chắc không tin, nhưng em hiểu được cái cốt lõi bên trong của đồng tiền, của chủ nghĩa tư bản, sự gắn kết giữa tư bản và quyền lực, những lý tưởng mỹ miều bọc gói hay nguỵ trang cho sự gắn kết này.., tất cả là em nhờ đọc Mác. Trước đây em cứ tưởng là có một sức mạnh huyền bí nào đó như là sự chi phối của định mệnh, nhưng Mác đã phanh phui ra tất cả.

   Thế mà em vẫn chống Mác?

   Anh cho em nói hết đã. Mác tuyệt vời về điểm gốc này, nhờ đó em đỡ bị mắc lừa. Em thích Mác nhất với tính cách là một con người đã dám đề ra những ý tưởng mới về giải phóng con người, đã nhiệt thành chiến đấu hết mình cho ý tưởng ấy theo chính kiến của ông ta. Oái oăm ở chỗ là đấy chính là điểm em không theo Mác được... Đã có lần em thuyết trình những điều này hay đến mức có ý kiến tiến cử em vô Hội đồng chiến tranh tâm lý...
 

   Em không nhận lời?

   Em đã đến làm việc thử mấy tháng, song mấy cha lãnh đạo ở đấy võ biền quá, không ngồi chung với nhau được... Nhưng quan trọng hơn là em không tin Mác.
   Đến mức ấy cơ à? Vì sao? – ông Nghĩa nhìn sát tận mặt em mình vì quá ngạc nhiên.

   Đơn giản là em chỉ tin vào ma lực của đồng tiền, không tin con đường ông ta vạch ra cho tương lai của nhân loại. Tính em lại ích kỷ, chỉ thích sống cho mình, không muốn phấn đấu hy sinh như những người cộng sản các anh.

   Có ai bắt em phải trở thành người cộng sản đâu!

   Không theo thì làm sao bắt được hả anh? Chú Học cũng có nhiều phẩm chất tốt, em kính phục nhưng em cũng không theo chú Học được. Anh Nghĩa ạ, em đọc được một vài quyển sách có những bài viết rất hay của các học giả Anh và Mỹ viết về sự nghiệp, về cuộc sống của Mác cho đến khi ông qua đời. Tuy thế, cái xã hội cần phải tạo ra, cần phải có để thực hiện ý tưởng giải phóng của Mác, nói cụ thể hơn nữa là cái mô hình kinh tế cộng sản Mác tưởng tượng ra thì em không tin. Dứt khoát không tin! Nó có thể xảy ra ở một hành tinh lý trí và đạo đức thuần khiết nào khác của những robot chứ không thể ở trên quả đất đầy rẩy những chuyện trần tục hỗn độn của con người chúng ta! Mác phê phán Kant và Hegel là duy lý, nhưng chỗ này chính Mác cũng duy lý đến mức duy ý chí! Không biết ai duy tâm hơn ai!?.

   Anh thực không ngờ... – trong lòng Nghĩa không sao hình dung nổi Lễ đã tìm hiểu khá sâu về Mác như vậy. Cũng may là Nghĩa đọc nhiều, nếu không thì cũng khó nói chuyện với Lễ. Nghĩ một lúc, Nghĩa gợi ý: - Xã hội Mác nói tới còn xa lắm mà em?

   Vâng, phải nói là xa vời lắm! Nhưng em cho đó chỉ là một giả định, rất duy lý. Một phác đồ, một mơ ước.., nghĩa là cũng rất mơ hồ, nếu có đúng thì cũng còn quá quá xa vời đối với loài người bằng xương bằng thịt và còn không ít thú tính như chúng ta!

   Em chỉ muốn sống hôm nay mà không cần nghĩ đến ngày mai?

   Không phải thế anh ạ. Anh xem, từ ngàn đời nay con người làm sao sống được không có mơ ước? Nhiều nhà trí thức có tầm cỡ trên thế giới cho rằng tác giả của Tuyên ngôn Cộng sản và tác giả của Tư bản là hai ông Mác khác nhau. Họ cho đấy là một trẻ một già, một nhà thơ lãng mạn đến duy lý và một nhà khoa học lô gích đến triệt để... Từng chặng trên con đường đi lên của mình, nhân loại cần có những vĩ nhân như thế khai phá, đào bới, cổ vũ mình đi tiếp...

Em thấy nhận xét này của họ đáng suy nghĩ, em tán thành cách giải thích Mác như vậy, không như các bài giảng ở trại...
Bây giờ Nghĩa bị bất ngờ và lúng túng thật sự:

   Chẳng trách gì cán bộ ở trại không thể giảng chủ nghĩa Mác cho em được! Họ không phải là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp...
   Tụi chúng em bị nhồi sọ đấy chứ! Tụi em có tự nguyện xin học môn này đâu!

   Thôi được rồi, hãy tạm đặt ông Mác của các nhà phê bình trên thế giới sang một bên, chúng ta nói chuyện của chúng ta. Em nói là em thích Mác, anh nói là anh theo Mác. Ông Mác của em và ông Mác của anh khác nhau thế nào? Chẳng lẽ đấy là hai ông Mác?

   Anh hỏi lý sự quá, em chưa biết nói thế nào cho “lọn” ý mình nghĩ. Nhưng mà ...hình như anh nói đúng, có lẽ có hai ông Mác thật anh ạ... Đại thể là Mác của em giúp em hiểu được nhiều điều trần tục. Ông Mác của anh lại là nhà hiền triết, là nhà tiên tri, thậm chí là một đấng chí tôn như Phật Thích Ca, Jésus hay Alah... nhưng vô thần!

   Em nói cái gì! – Nghĩa buột mồm gần như một phản xạ tự nhiên, đang ngồi mà bật đứng dậy, hai tai nóng bừng, tay nắm chặt tách cà phê, cố tự kiềm chế.
   Anh cho là em bị nhồi sọ nên mới nói năng như thế, có phải không? – Lễ tìm cách đấu dịu với anh mình.
   Có thể là cậu đã bị nhồi sọ đến mức không biết là mình bị nhồi sọ, nhưng từ trước đó rồi, không phải ở trong trại!
   Tùy anh. Anh nghĩ về em thế nào cũng được. Em nói thật chân thành như thế này. Mác của
 

em là một trong các ông thầy dậy các môn em học, đại thể như Newton, Einstein, Smith... Còn Mác của anh là ông... Em thực khó nói quá.

– Lễ bỏ dở câu nói một lúc để tìm ý. – Thôi, cho em nói thế này: Mác đối với anh là chân lý cuối cùng, là giai đoạn phát triển tột cùng của nhân loại. Nghĩa là ông Mác của anh đã tuyên ngôn về sự cáo chung của lịch sử!

   Trời ơi, Lễ ơi là Lễ! Anh phân biệt được giữa tín ngưỡng và tôn giáo, giữa lý tưởng và tà đạo chứ...
   Em biết.

   Suy cho cùng, Phật Thích Ca, Chúa Jésus, các vị thần thánh của những tôn giáo khác, biết bao nhiêu các nhà hiền triết trong lịch sử nhân loại đã nói lên những mơ ước có thể nói là vĩnh cửu của con người. Mác cũng có những ý tưởng cao đẹp như họ... Chính em cũng thừa nhận như thế có phải không?

   Vâng ạ. Nhưng...

   Chỉ có một chỗ khác nhau thôi Lễ ạ. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức. Vì nó chỉ có than thở và cầu nguyện nên trở thành nha phiến của con người... Còn Mác có lý luận khoa học, có lý tưởng đấu tranh. Mác muốn thức tỉnh con người tự tại đấu tranh cho con người vì mình, ngay trên trần thế này! Em không thấy đó là sự khác biệt lớn nhất à?

   Đấy là anh nghĩ.

   Chỉ vì thụ động và cầu nguyện, chứ không hành động, nên tôn giáo trở thành phương tiện ru ngủ con người! Thế mà không hiểu à?

Lễ bật lại:

   Anh nói thế thì trái với ý kiến chú Học rồi. Trái xa rồi! Em đã có lần tranh luận với chú rất lâu về tôn giáo. Chú Học giữ lại phần tín ngưỡng trong tôn giáo, không thừa nhận phần mê tín dị đoan, nhưng kịch liệt bác bỏ quan điểm vô thần.

   Anh cứ tưởng là chú Học chỉ quan tâm đến kinh doanh.

   Không anh ạ, chú ấy là con người của cuộc sống thực tiễn. Trong cuộc tranh luận hồi ấy em thua. Cãi lý với chú mấy ngày liền, em thua đơn thua kép. Em thử đứng về phái vô thần chống lại chú Học đến cùng. Chú cãi lại rất ghê, trước sau chỉ một niềm tin bất di bất dịch: nhận thức càng thông tuệ, lẽ của đạo càng tỏa sáng!.. Chú viện cả Einstein ra để cãi lại em. Chú còn cho rằng người cộng sản coi tôn giáo chỉ là một thứ thuốc phiện là một quan điểm phiến diện, nghĩa là mới chỉ đúng một phần, và vì thế sai lầm! Nhưng mãi cho đến khi chú hỏi em mấy câu hỏi đơn giản nhất, lúc ấy em mới chịu treo cờ trắng!

   Chú hỏi thế nào?

   Chú hỏi mấy câu hay lắm, nhưng lâu quá rồi, từ ngày em mới xong đại học, chưa vào Đà Lạt đi lính! Em chỉ còn nhớ loáng thoáng vài ý thôi. Nhất là khi chú hỏi em: Cha mẹ hiền lành để đức cho con, đấy là cái gì? Em trả lời: Đấy là một nhân sinh quan tốt ạ! Chú nói: Đúng mà chưa thật đầy đủ. Đấy là sắc thái tinh tuý nhất hàm chứa trong đạo Phật riêng ở nước ta đấy cháu ạ! Dân dã vô cùng, và trở thành đức tin nhân bản vô cùng!

   Sao có thể nói như thế được nhỉ?

   Anh thấy chưa, chỗ này em cũng nghĩ như anh. Em cãi lại chú là đạo Phật chỉ dạy người ta sống thì diệt dục để mong kiếp sau lên cõi niết bàn, mong thoát khỏi vòng luân hồi. Chú bảo nói như thế là hiểu một mà không hiểu hai. Cốt lõi của đạo Phật là tu thân tích đức để làm tốt bổn phận với đời.

   Chú có cắt nghĩa tại sao không Lễ?

   Anh không thể tưởng tượng được chú nói với em mấy ngày liền về cái triết lý này. Mấy ngày liền, chứ không phải mấy giờ anh ạ! Chú nhấn mạnh đạo Phật ở nước ta trước hết là đức tin, là con thuyền chuyển tải đến các thế hệ sau những giá trị cao đẹp nhất của tổ tiên, chứ không phải là một hệ tư tưởng như nhiều tôn giáo ở các nước khác... Mà cha mẹ hiền lành để đức cho con là một trong những giá trị cao quý nhất của dân tộc mình để chuyển tải cho đời
 

sau... Em thấy nhận xét này chí lý quá.

   Ôi chú Học hiểu đạo Phật theo cách nghĩ riêng của mình! Các giá trị được gìn giữ đến mức như một tín ngưỡng!..
   Thế là chiến sĩ vô thần như anh cũng bị chú Học đánh gục rồi có phải không?

   ... – Nghĩa muốn nghe tiếp nên ngồi im.

   Điều còn đọng lại trong em đến bây giờ là câu hỏi của chú: Có thể tìm được trên đời này cái triết lý nào về cuộc sống cao đẹp hơn thế không?!. Cha mẹ hiền lành để đức cho con...

-Chú Học đi chùa hay học đạo Phật ở đâu hả em?
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #12 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 10:57:25 am »

   Chú cả đời không đi lễ bái chùa nào anh ạ, nhưng đi thăm các chùa và đọc sách Phật giáo thì có. Chú mê nhất các bài viết về đạo Phật của Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung, của vua Trần Thái Tông, vua Trần Nhân Tông... Giảng giải mãi, để kết luận chú kể lại: Khi vua Trần Thái Tông bỏ cung điện lên chùa Yên Tử, Quốc sư đại sa môn, nói với nhà vua: Trong núi không có Phật. Nhưng Bệ hạ đã có tâm, Bệ hạ lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, Bệ hạ lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình, chính Bệ hạ đã thành Phật... Như thế không phải là tu thân tích đức để làm tốt bổn phận với đời hay sao?! Anh xem, có chí lý không.

   Anh có biết tích này. Đúng là tông Trúc Lâm được sáng lập tại chùa Yên Tử, và bây giờ anh hiểu thêm vì sao Trần Tung lại khuyên vua như vậy.
   Anh thấy chưa, đức tin và ý thức hệ khác nhau như nước với lửa!

   Trời ơi, Lễ!

   Chú Học giảng cho em về Trần Tung: ...Theo Phật thì phải kiến tính, kiến tính là để lập tâm, tâm là Phật, khi có tâm là Phật ở trong ta!.. Tóm tắt lại cho em hiểu, chú Học nhắc lại vẻn vẹn có bốn chữ của vua Trần Nhân Tông: Tức tâm, tức Phật! Anh thấy không, đơn giản vô cùng, xán lạn vô cùng! Chẳng có gì là mê tín dị đoan cả...

   Tuy vậy anh vẫn nghĩ, cái gốc của đạo Phật xưa nay vẫn là quan niệm đời là bể khổ, là kiếp luân hồi, sống cũng chỉ là sống gửi sống nhờ, tu thân diệt dục là cách chấm dứt vòng luân hồi để lên cõi niết bàn. Người cộng sản thì lại muốn có một cuộc sống tốt đẹp ngay trên mặt đất này. Em không nhận ra sự khác biệt này à? Có mấy người nghĩ như chú Học!

   Em lại nghĩ khác, anh ạ. Chỗ này chúng ta cần tranh luận với nhau. Trước người cộng sản, theo em nhân loại đã có không biết bao nhiêu vĩ nhân sống và phấn đấu cho ý tưởng này. Đấy là ước vọng ngàn đời của nhân loại. Ước vọng này nằm cả trong tín ngưỡng, và cao hơn nữa là tôn giáo với nghĩa nguyên thuỷ của nó, nghĩa là khi tôn giáo chưa dính mùi thần quyền và quyền lực.

   Sao em không nói là khi tôn giáo chưa dính mùi chính trị?

Anh muốn nói thế cũng được. Con đường đi tới ước vọng này đến nay cũng là nỗi trăn trở ngàn đời của nhân loại, chân lý quả là không dễ dãi với con người! Mãi mãi sẽ như vậy thôi anh

   Cũng may, điều này chính là hạnh phúc của con người, nếu không cuộc sống chẳng còn gì đáng sống và con người sẽ tự diệt vong trong trạng thái thỏa mãn của mình anh ạ, nghĩa là một trạng thái mông muội khác...
   Thế mà em vẫn đầy rẫy tư tưởng hoài nghi!
   Chú Học nhìn nhận đạo Phật là một con đường trong biết bao nhiêu con đường mà nhân loại đang ra sức khai phá, kể từ khi nhân loại ý thức được về mình. Đạo Phật của chú Học lại chú trọng đến chuyển tải các giá trị từ bi bác ái, đến vị tha, đến tu thân tích đức để phúc cho đời sau nhiều hơn là đến cõi niết bàn.

   Anh nghĩ phải nói đấy là đạo Phật của Việt Nam chứ?

   Vâng. Chú Học còn nói đó là đạo Phật của sống hiện tại vì tương lai. Tư tưởng này chú Học học được từ suy nghĩ ngàn đời của tổ tiên ta: ...Cha mẹ hiền lành để đức hay là để phúc cho con! Càng nghĩ càng thấy chí lý có phải không anh? Chú nhìn đạo Phật là cái tâm chuyền đạt cái chất như vậy. Chú Học say sưa với điều này lắm anh ạ, giảng đi giảng lại mãi. Có thể nói là em hiểu được chú, nhưng không theo chú được, hay là đến nay vẫn chưa học chú được anh ạ! Chú Học
 

khác hẳn em và Mạnh là ở chỗ này. Tranh luận với anh, hôm nay em lại vỡ lẽ ra thế này: Con đường của chú Học là một con đường của từng cá thể con người trong cộng đồng xã hội. Con đường của anh chọn là một con đường của cộng đồng xã hội. Có lẽ đấy là sự khác biệt anh đang muốn tìm hay là anh tìm không thấy đấy...

   Thế em có nghĩ rằng đạo Phật hướng thiện, nhưng lại thủ tiêu đấu tranh không?

   Em lại nghĩ người theo đạo Phật đấu tranh theo phương thức của đạo Phật. Anh khó hình dung được cuộc đấu tranh của phong trào phật giáo chống Diệm năm 1963 quyết liệt như thế nào. Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu đã làm chấn động dư luận cả thế giới và làm cho chế độ Diệm đổ nhanh hơn. Năm 1967, bà Phan Thị Mai, nhà giáo Phật học tự thiêu ở chùa Từ Nghiêm là một đòn sét đánh nữa giáng vào chế độ Thiệu và tác động mạnh vào phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ...

   Anh biết hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, nhưng thực quả anh không biết bà Phan Thị Mai tự thiêu...
   Em nghĩ rằng những công trình nghiên cứu của ông Mai Thọ Truyền đã thức tỉnh sự quan tâm của chú Học đối với đạo Phật...
   Thật là điều làm anh bất ngờ về chú mình!

   Nhưng không có máu lạnh và giàu như chú Học không theo Phật được, anh Nghĩa ạ. – Lễ vừa nói vừa chép miệng, ngao ngán.
   Em nói cái gì mà lạ hoắc thế? – Nghĩa chau mày lại vì ngạc nhiên. - Lúc nãy em nói chữ tâm, bây giờ em nói đến máu lạnh!
   Vâng, cuộc sống trong này nó như vậy đấy anh ạ. Nhút nhát và nghèo như tụi em không giữ được tâm cho mình để tin theo Phật đâu. Có thực và có lực mới vực được đạo!
   Trời, sao ngôn ngữ của em trần trụi thế!

   Anh ơi, phải chờ đến những ngày nằm vắt tay lên trán ở B7, nhớ lại những tội ác man rợ em đã tham gia, đã chứng kiến suốt chiều dài chiến tranh, những thủ đoạn bẩn thỉu ăn thịt nhau trong nội bộ chính quyền Sài Gòn mà có lúc chính em cũng là nạn nhân... Qua những chặng đường như thế em mới ngày một hiểu rõ hơn những lời giảng giải về đạo Phật của chú Học.

   Anh thú thực là hôm nay em làm cho anh quan tâm đến đạo Phật, mặc dù cả nhà ta xưa nay theo đạo Phật...
   Anh không tưởng tượng nổi đâu, một khi con thú trong con người không còn một bàn tay linh hồn nào nữa kiềm giữ, thì cái con trong con người kinh khủng lắm anh Nghĩa ạ! Nhìn sang một khía cạnh khác, trong những năm chiến tranh em còn thấy đi thấy lại cảnh những người dân bị giết chết, tay vẫn giữ tràng hạt hoặc nắm chặt cây thánh giá đeo ở ngực... Anh thử nghĩ xem, không có một niềm tin nào đó, dù là niềm tin tuyệt vọng, những cái chết của những người này sẽ còn khủng khiếp hơn đến mức nào!

   Anh thừa nhận em có lý điểm này.

   Anh ơi, cả cái chế độ Sài Gòn này sụp đổ, có nhiều nguyên nhân lắm... Song trong đó có những nguyên nhân tự nó, và vì thế nếu không bị miền Bắc đánh bại thì về lâu dài nó cũng phải sụp đổ, vì những tha hoá không thể cứu vãn được anh ạ. Trước hết đó là vì nó có quá nhiều bom đạn tiền bạc nhưng lại không có ý thức hay lý tưởng sống cho ngày mai. Nó tôn thờ một cách bệnh hoạn cái mặt tiêu cực nhất của chủ nghĩa hiện sinh và muốn tiếp thu trọn vẹn những điều bệnh hoạn này, nhưng nó lại xa lạ với cái triết lý sâu xa “cha mẹ hiền lành để đức cho con” theo cách nhìn đời của chú Học! Cái khái niệm “cha mẹ hiền lành...” chú Học luận ra rộng lắm anh ạ, gần như là chân lý phấn đấu làm người, em thật không ngờ! Bản thân cái khái niệm “hiền lành”, rồi đến cái khái niệm “để đức cho con” đã vô cùng phong phú, vô cùng cao xa! Con đường đi từ “hiền lành” đến “để đức cho con” vô cùng trí tuệ và nhân bản anh ạ! Tuy nhiên chính chú Học cũng thú nhận rằng cố giữ đức tin như thế để luôn luôn sửa mình thôi, còn thực hiện nó trong đời thì còn gian truân lắm, xa vời lắm...

   Chú có nói với em là phải có máu lạnh và phải giàu không?
 

- Không, đấy là điều em tự rút ra cho mình.

Nói đến đây Lễ như đang bị cuốn hút vào một điều gì khác, bỏ dở những điều đang nói, nhìn đi đâu đâu một lúc rồi mới quay lại với Nghĩa:

- Anh ạ, có một điều ngẫm lại em thấy kỳ quá, nhưng anh đừng giận.

Nghĩa vẫn chưa ra khỏi sự bất ngờ về triết lý của chú mình, về suy nghĩ của Lễ, nên động viên Lễ nói tiếp:

   Kỳ cục thế nào? Em cứ nói đi.

   Nằm ở B7, học được điều gì thì ít, nhưng lại hiểu chú mình nhiều hơn, thật là kỳ! Bây giờ nói chuyện với anh, em lại phát hiện ra một sai lầm lớn của người cộng sản các anh.
   Nghe thú vị quá nhỉ. Sai lầm gì vậy? – giọng Nghĩa đượm vẻ bực bội.

   Trong khi tôn giáo đang cố gắng đưa những vấn đề từ trên trời xuống đất, nào là thức tỉnh tâm linh con người để cứu vãn đạo đức, nào là cố làm nơi nương tựa cho con người dưới đất này.., thì các anh lại dùng chủ nghĩa của mình đưa những vấn đề của dưới đất lên trời, bằng những lý tưởng viển vông của mình!

   Lễ, như thế nghĩa là em không tin vào chủ nghĩa xã hội khoa học?

   Bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học? Nó là gì thế anh? Anh nói rõ cho em nghe xem nào?

   Nghĩa là em không tin cái cốt lõi nhất trong chủ nghĩa Mác: Gắn giải phóng cá nhân với giải phóng giai cấp, với giải phóng cộng đồng dân tộc. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là như vậy. Học thuyết Mác nhằm vào mục tiêu giải phóng cá nhân như vậy, chứ không phải là phủ nhận cá nhân.

   Nói đến như anh mà em thực lòng vẫn không tin, thế có chết không! Ha... Ha... Ha... – Lễ chua chát cười phá lên.

Vì sao em không tin? – Nghĩa châng hẩng, mặt đỏ bừng, thận trọng ướm từng câu hỏi với Lễ: - Hay là em cho anh là cả tin, còn em thì quá thực dụng? Em nói rõ ý em xem nào! – Nghĩa thúc giục.

Ngẫm nghĩ một lúc, Lễ đáp lại:

   Anh Nghĩa ạ, đơn giản là làm sao thực hiện được cái việc gắn như anh nói! Thời nào mà chẳng có sự thống trị của cái tầng lớp thuộc về thời ấy, nói rộng ra là của cái chế độ ấy! Ngay cả cái gọi là chuyên chính giai cấp em cũng cho là tào lao, là dụng ý. Nếu coi đó là một khái niệm để tư duy, một công cụ quyền lực được nguỵ tạo ra cho mục đích như mọi công cụ khác thì em chấp nhận. Khi mổ xẻ đến tận cùng bản chất của quyền lực, anh cứ thử tách bóc mọi thứ người ta đắp điếm lên hai chữ giai cấp mà xem!.. - Lễ càng nói càng sôi nổi, nhấn mạnh vào các từ ngữ xưa nay Lễ vẫn thường tranh cãi với nhiều người kể từ khi còn đang ở đại học, ở các buổi hội thảo do cơ quan nghiên cứu chiến tranh tâm lý tổ chức...

Khó khăn lắm Nghĩa mới chen ngang vào được:

   Nói như em thì xã hội không có giai cấp à?

   Có chứ ạ. Giai cấp và nhân danh giai cấp là hai chuyện khác nhau.

   Em cũng nghiên cứu về giai cấp à?

   Vâng. Nhưng em đi sâu vào cái gọi là nhân danh giai cấp, điều này mới thực sự quan trọng anh ạ. Đây không phải là lần đầu tiên! Chuyện này trong Sài Gòn những người có ý thức một tý không thể dửng dưng được. Ngô Đình Diệm đã nhân danh giai cấp cần lao nhân vị lê máy chém đi khắp nơi. Đúng ra phải nói đó là giai cấp mấy anh em nhà họ Ngô, chuyên chính của mấy anh em nhà họ Ngô, của chế độ họ Ngô!.. Anh đã thấy rõ sự lừa bịp chưa? Đến Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cũng à la mode kêu gọi hữu ái giai cấp thì thật là không còn gì để nói nữa! Anh đã biết Thiệu – Kỳ hữu ái giai cấp với em như thế nào rồi!

   Như thế theo em là không có chuyên chính giai cấp?

   Dứt khoát không. Chuyên chính vô sản như tụi em được học ở B7 về chủ nghĩa xã hội khoa học cũng không! Chỉ có cái chuyên chính của nhân danh giai cấp!
 

Đến lúc này Nghĩa không giữ được bình tĩnh nữa, một điều hiếm khi xảy ra đối với Nghĩa.

Ông hỏi dồn:

   Theo cậu là không có giai cấp hay chuyên chính gì hết? Lễ đáp lại ngay:

   Có chứ anh. Tên gọi chuẩn xác là chuyên chính của cai trị đối với bị cai trị!

   Nhưng ít nhất cậu cũng phải hiểu mỗi nền chính trị có một chủ thuyết của giai cấp nó đại diện chứ!
   Chủ thuyết cũng chỉ là thứ người ta đưa ra để để bám lấy, nếu không thì chỉ để biện hộ thôi anh ạ. Chế độ nào cũng thế, em chưa thấy cái gì hơn ngoài cái cai trị và cái bị cai trị! May ra thì có sự khác nhau giữa cai trị tốt và cai trị xấu! Còn cái gọi là chủ thuyết của giai cấp như anh đang nghĩ trên thực tế nó luôn luôn trở thành chủ thuyết của cái nhân danh giai cấp!

   Cậu thực dụng hết chỗ nói. Phải cải tạo một trăm lần, một nghìn lần! – tay Nghĩa nắm lại, hết miết miết lại rồi đấm đấm trên mặt bàn. Cái giọng nhỏ nhẹ lúc đầu câu chuyện không còn nữa.

Trong ánh điện mờ mờ ban đêm, Lễ vẫn thấy mặt anh mình đỏ lên như người say rượu. Lễ biết anh mình đang giận lắm. Câu chuyện không còn anh anh em em nữa. Cách xưng hô của Nghĩa chuyển sang tôi tôi cậu cậu từ lúc nào không biết! Tự nhiên Lễ cũng thấy không muốn nhượng bộ anh mình:

   Anh cáu em đấy à?

   Tôi muốn tranh luận với cậu cho ra nhẽ!

   Nếu thế anh phải bình tĩnh. Chung quy lại em và anh đều kính phục Mác. Nhưng em thì hoài nghi và không chịu hy sinh. Anh thì lại dám hy sinh vì đã trở thành tín đồ!
   Ai cho phép cậu quy kết tôi như vậy?! – Nghĩa cáu thực sự.

   Chính câu hỏi của anh vừa nói đang chứng minh điều em nghĩ!

   Cậu thông tục hoá và hiểu sai Mác hết chỗ nói! Cậu không hiểu cái tinh tuý nhất của Mác là giải phóng con người à?! Giải phóng đến mức coi tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do cho mọi người! Cậu đã thủng ra chưa!.. Tự do của mỗi người ở đây khác hẳn với cái tính ích kỷ của cậu!.. - Nghĩa bực dọc bắn ra một tràng, bàn lại tay nắm lại, gõ gõ xuống mặt bàn.

Lễ ít nhiều thất vọng, nhưng vẫn kiên nhẫn chờ cho anh mình nói xong, mới lựa lời:

   Anh mắng em thế nào cũng được... Em muốn bộc bạch suy nghĩ của mình, nhưng anh đang từ cục đất bỗng dưng trở thành ông Trương Phi! Thế thì tâm sự với nhau làm sao được! – Lễ gần như rên lên, nhích ghế ra xa, muốn đứng dậy bỏ dở câu chuyện.

   Anh xin lỗi... Nói đi!.. Em nói tiếp đi!.. – chính Nghĩa cũng không hiểu bây giờ mình đang ra lệnh hay đang thúc giục, dỗ dành Lễ.
   Còn chuyện này em chưa kể anh nghe, nếu có thói quen tin vào chủ thuyết, thì có lẽ em đã không chọn con đường rốt cuộc đã dẫn đến trại cải tạo B7 ở Bảo Lộc. – Lễ vừa nói vừa kéo ghế trở về ngồi chỗ cũ.

Nghĩa ngồi im. Lễ không biết anh mình đang nghe mình nói hay đang ngồi nuốt giận. Lễ cố lấy lại không khí anh em:

   Anh ạ, câu chuyện là thế này. ...Trước khi vào trường sĩ quan Đà Lạt, em đã đi học đại học kinh tế. Nhưng nghe giảng được gần hết học kỳ đầu, em nuốt không nổi, liền bỏ đi học cái khác.
   Cậu ghét môn này?

   Đơn giản là không nuốt nổi anh ạ. Người ta giảng cho em, nếu có cạnh tranh hoàn hảo, nếu có thông tin hoàn hảo, thị trường sẽ là bàn tay vô hình toàn năng đến kỳ diệu... Nếu nếu nếu...

Nhưng anh ơi, trên đời này làm gì có chữ nếu và vì thế làm sao có được sự hoàn hảo ấy! Sở dĩ các mô hình kinh tế thường đi tới đổ vỡ, là vì khi thiết kế nó người ta phải đơn giản hoá nhiều điều, để dễ lập mô hình, dễ tính toán...
 
   Trời ơi Lễ, cậu phản khoa học đến mức đố kỵ với khoa học!

   Anh giải thích dùm em, sự hoàn hảo dựa trên chữ nếu không bao giờ có thì làm sao có mô hình kinh tế đúng được! Em thì không bao giờ tin vào chữ nếu ấy. Lại càng làm gì có khả năng thoả mãn nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần ngày một tăng của mọi người như bài giảng nói về chủ nghĩa cộng sản của các anh! Trong trại người ta giảng thô thiển lắm. Thô thiển đến mức em cảm thấy mình bị xúc phạm, bị coi là đồ con nít! Thế mà còn gọi là hoài bão, là tiêu chí cao nhất của chủ nghĩa cộng sản mà nước ta đang mở đường đi tới... tụi em nuốt không được!

   Nhưng hiện nay chúng ta đã xây dựng chủ nghĩa cộng sản đâu?

   Tụi em hiểu chứ. Đấy là phần giảng trong bài học “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”. Nhưng cái đích mơ hồ thì làm sao có con đường đúng? Sự thoả mãn ấy là không tưởng! Giả thử một khi đạt được sự thoả mãn ấy thì loài người sẽ tự huỷ diệt, nghĩa là không còn lý do để sống, vì chẳng còn điều gì để ham muốn, để hào hứng.

Càng nghe, Nghĩa càng thấy bứt rứt trong người. Nghĩa cướp lời của Lễ:

   Đã bảo là chúng ta mới còn đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thế mà không hiểu à?

Lễ cố cười để bớt gay gắt với anh mình:

   Khổ quá, em hiểu chứ. Nội dung cốt lõi của chế độ xã hội chủ nghĩa là chuyên chính vô sản dựa trên liên minh công nông và trí thức, là quan hệ sản xuất chủ yếu dựa trên sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và nhờ vậy xoá bỏ được bóc lột, là đoàn kết dân tộc, là dân chủ của chế độ nước ta gấp vạn lần dân chủ phương Tây... Anh không thể nói em không thuộc bài!

   Lễ, cậu giễu tôi hay cậu nói nghiêm túc đấy!

   Em xin lỗi đang làm anh giận, nhưng em nói thực lòng những điều được nghe giảng đấy.

   Giảng với giải gì mà toàn là khẩu hiệu thế! – Nghĩa cố ôn tồn giải thích lại cho Lễ. - Có thể ngày xưa, đã lâu rồi, đúng là giới nghiên cứu nước nào đó trong phe xã hội chủ nghĩa có đề ra một số tiêu chí cho lý luận về chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Nhưng bây giờ đã thay đổi rồi. Bài giảng phải đi vào những vấn đề thiết thực đất nước phải giải quyết sau chiến tranh chứ!

   Không phải chỉ trong lý luận. Trong cuộc sống thực em cũng thấy có cái gì không ổn so với cách nghĩ của em anh ạ. Trong này tụi em trước đây đã được nghe đến đấu tố trong cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc, rồi đến phong trào hợp tác xã, đến cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bây giờ thì em được biết loáng thoáng cải tạo xã hội chủ nghĩa ở trong này, đến sự vận hành của bộ máy chính quyền thành phố... Hai hôm nay ông Tư đã kể cho em nghe hết cả.

   Hay là vì nhà in của chú Học bị cải tạo mà cậu đặt ra cho mình câu hỏi đất nước này có còn là của mình hay không?

Lễ ướm đi ướm lại trong đầu ba, bốn câu trả lời, để xem câu trả lời nào đích thực là suy nghĩ trong tâm can mình. Lễ hiểu ngoài anh mình ra, không thể tìm được ai giúp mình đi tới những câu trả lời tin cậy cho những câu hỏi chính cuộc sống của Lễ đang đặt ra cho Lễ. Tách cà phê trong tay Lễ cứ xoay đi xoay lại mãi.

   Câu hỏi của anh làm em lúng túng phải không? – giọng Nghĩa đã dịu lại.

   Không phải thế anh ạ. Chữ nếu người ta dạy em ngày xưa ở nhà trường và chữ gắn anh vừa giảng cho em lúc nãy đều là hoang tưởng. Tất cả chỉ làm em thêm bế tắc. Em sợ là vấn đề còn nghiêm trọng hơn cái nhà in của chú Học. Em đã nói rồi, khi có dịp em sẽ cho ông Tư cái nhà này. Em không phải là người hẹp hòi. Vả lại cái nhà in của chú Học đâu có phải là của em!

   Thế cái gì là nghiêm trọng hơn hả Lễ? – Nghĩa cảm thấy lo vô cùng cho em mình.

   Nếu so sánh một bên là những gì đất nước chúng ta phải chịu đựng vì cuộc chiến tranh này và một bên là những cái gì chú Học mất mát, thì những người như chú Học, như em, phải nợ đất nước này nhiều lắm. Nợ không thể trả được. Em nghĩ như vậy, anh có chấp nhận không?

   Anh đồng ý với suy nghĩ này.
 

   Thế là xong một điều anh nhé. Điều nghiêm trọng hơn đối với em vẫn là còn nhiều câu hỏi không trả lời được, hay là trả lời đằng nào em cũng thấy bế tắc... – Lễ dừng lại, hai tay nắm lấy tay Nghĩa lắc mạnh như người cầu cứu: - Anh Nghĩa, anh nói thật đi! Em là một kẻ tội lỗi hay là một kẻ thua trận? Anh nói đi! Nói thật lòng!

   Anh hiểu tâm trạng em. Nhưng em phải tự trả lời những câu hỏi như vậy của mình, không ai làm thay được.
   Anh trốn tránh!

   Có chuyện đó. Nhưng anh muốn tự em phải làm quan toà của em!

   Trả lời như thế nào, em vẫn là kẻ tuyệt vọng, anh hiểu không? Em không thể nào chấp nhận lý tưởng của anh làm lẽ sống cho em được! Điều này là dứt khoát!..
   Cũng có nghĩa là không chấp nhận chế độ này?

   Không thể!.. Anh đã hiểu đúng... Hay là trong hoàn cảnh của em, kẻ tội lỗi và kẻ thua trận chỉ là một?.. Anh trả lời thế nào em cũng chịu được.
   Đấy chính là câu hỏi cậu phải tự trả lời!

   Thôi được... Anh Nghĩa ạ, điều sống chết đối với em là từ nay trở đi em còn chỗ đứng trong đất nước này không? Bây giờ thì anh phải trả lời, không được né tránh nữa!
   Em cần có thời gian trấn tĩnh lại. Trừ phi em tự mình cố ý, đất nước không bao giờ đánh mất ai cả.
   Không, đấy là anh nói lý! Anh vẫn tránh né câu hỏi của em! Chỗ này anh lại quên mất vấn đề giai cấp đích thực. Lại vẫn lẫn lộn cả với vấn đề nhân danh giai cấp nữa!
   Con người em đầy mâu thuẫn. Nói chuyện với em khó quá!

   Anh phải hiểu cho em. Chiến tranh khốc liệt và kéo dài, lại sống trong cái xã hội cá lớn nuốt cá bé, dần dần em trở thành con người không cần nghĩ đến ai trên đời này, em thú nhận như vậy. Đấy là chuyện của em. Cũng như anh theo cộng sản, đấy là chuyện của anh. Nhưng mọi đảo lộn vừa xảy ra thức tỉnh trong em người một con người khác, nhất là từ khi em được trở về cội nguồn gia đình của mình! Song ngay lập tức, chính sự ràng buộc của cội nguồn không gì phá vỡ nổi này buộc em phải tự hỏi mình em là ai. Cũng có nghĩa là ngay tức khắc con người mới trỗi dậy trong em tự hỏi: Đất nước sinh thành ra mình bây giờ còn là của mình không?! Anh hiểu không, đấy là câu hỏi em không trốn tránh được! Nếu anh là em, anh có thể trốn tránh được câu hỏi này không?

   Sao em lại hỏi như vậy? Nếu anh lại nói rằng đất nước này không tự mình đánh mất ai thì em nghĩ sao?
   Anh trả lời như thế thì đất nước này chưa hẳn là của em, nhưng cũng sẽ không thể là của
anh.

   Lễ! Thế đất nước này là của ai? - Nghĩa gằn lên gần như hét lớn.

   Đất nước này là của ai? Ha ha ha! Trời ơi câu hỏi hay quá!.. – lại giọng cười đầy chua chát của Lễ. - Anh ạ, xin anh nghe kỹ những lời em nói... Ngay lúc này, ngồi đối diện với anh, trong thâm tâm em vẫn tôn sùng Tuyên ngôn mùng Hai tháng Chín của Cụ Hồ. Ngồi trong trại B7, tự mình cật vấn lương tâm mình, em hiểu được một điều: Việt Nam ta không cần gì hơn bản Tuyên ngôn này, nhưng em không tin nó thực hiện được. Em không tin vào cái giai cấp, không tin vào cái gắn như anh nêu ra. Cái nếu và cái gắn chúng ta đang mường tượng tới thực ra chỉ là cái gì đó hư vô không bao giờ có trên đời này... Tốt thì đó là một khát vọng khó thực hiện, xấu thì đó chỉ là một chiêu bài. Em không có lòng tin này, nên theo em giữa xấu và tốt ở đây không xác định được ranh giới. Vì thế em không trả lời anh được.

   Chúng ta vẫn mỗi người một bên trận tuyến hay sao hả Lễ?

   Trận tuyến không tự nó mất đi được anh ạ. Em đã nói rồi, chỉ có cai trị và bị cai trị. Anh thuộc về bên chiến thắng. Hay chính vì lẽ này anh nghĩ rằng anh không cần đếm xỉa đến các câu hỏi như em đang phải tự hỏi mình?!. Bây giờ anh có tiếc là đã không bắn vào đầu em nữa không, dù chỉ là trong ý nghĩ?
 

- Lễ!

Tách chén rung lên. Một cốc nước trắng té nghiêng đổ nước xuống mặt bàn. Nghĩa hiểu phải tự kiềm chế mình, cố bình tĩnh:

- Anh chiến đấu là để giành lại đất nước này cơ mà!

Lễ nắm lấy cả hai tay Nghĩa, giọng chua xót, gần như hét lên:

   Chẳng lẽ đến nỗi là hai anh em như chúng mình mà cũng không làm nổi việc hoán vị cho nhau, dù chỉ là giây lát thôi, để hiểu hết lòng nhau? Chúng ta bị chia lìa khỏi nhau đến thế là cùng hả anh Nghĩa?!

   Anh cũng cần có thời gian!

   Cái khổ của em là thiếu đức tin, nhưng anh thì lại sùng bái ý thức hệ của mình như một tôn giáo. Anh em ta nhìn thấy nhau, tay trong tay đứng bên nhau, thế mà vẫn mỗi người một phía! Thế là thế nào hả anh Nghĩa? Trời ơi là trời! – Lễ gần như rít lên, lắc mạnh cả hai tay Nghĩa, mặt nhìn thẳng vào mặt Nghĩa.

Mãi Nghĩa mới nói được thành lời, nghẹn ngào:
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #13 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 11:00:58 am »

   Lễ, anh muốn hiểu em và hiểu anh kỹ hơn nữa... Trong tình anh em ruột thịt, anh đã từng hỏi anh là ai? Anh đã từng nghĩ dù anh là ai thì cũng không thể cầm súng bắn vào em được...

Anh đã quyết đem hết sức mình hàn gắn lại gia đình tan vỡ của chúng ta, em hiểu chưa! Anh không thể mất em được, Lễ ơi... Trời ơi, nếu em nhìn thấy mợ thỉnh thoảng ngồi khóc một mình! Dù tội lỗi thế nào, em vẫn là hòn máu của đại gia đình chúng ta!..

Nỗi đau quá lớn trong mỗi người làm câu chuyện chết lặng. Mãi một lúc sau Lễ mới nói tiếp:

   Những gì em được nghe ông Tư kể lại, phản bác sạch trơn những lời anh giảng giải cho em về lý tưởng của anh. Nỗi đau của gia đình mình càng giày vò em. Nghĩa là càng làm cho em hoang mang... Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, thời nào cũng có sự thống trị của những người giành được địa vị thống trị. Phải nói em thực sự hoang mang! Trong lòng em không muốn bào chữa bất kể điều gì cho mình. Em sẵn sàng chịu sự phán xét và nhận mọi hình phạt em đáng được nhận. Nỗi đau của gia đình ta quá lớn. Nhưng em không thể chấp nhận bất kể điều gì em thấy không thể chấp nhận được...

   Chiến tranh đã qua rồi, và bây giờ em muốn đoạn tuyệt với tương lai của dân tộc?

   Không! Anh Nghĩa! Dù là người chiến thắng, nhưng anh không có quyền và không được phép nghĩ như thế! – Lễ gần như quát lại anh mình.

Nghĩa ngạc nhiên nhìn em chằm chằm. Ông không thể hiểu nổi là mình đã xúc phạm Lễ, hay là nỗi đau quá lớn của Lễ biến thành giận dữ.

Nghĩa đứng yên, nhưng Lễ nhìn thấy trong mắt anh mình tất cả. Lễ tìm cách giải thích cho anh mình:

   Anh phải cố hiểu. Trong trại cải tạo người ta giảng giải cho bọn em chỉ thô thiển hơn anh một chút thôi, còn cốt lõi của suy nghĩ thì hệt như nhau: Đó là cách nghĩ của người chiến thắng anh ạ! Bản thân cách giảng giải như vậy đã giải phẫu cắt loại bọn em ra khỏi đất nước này! Thế mà em cứ tưởng...

   Người ta không giảng cho em về hòa hợp dân tộc?

   Vô ích anh ạ... – giọng Lễ đầy thất vọng. - Có giảng gì đi nữa thì cách nghĩ như vậy cũng xóa đi tất cả!..
   Hay là chỗ này giảng chưa thủng? – Nghĩa phân vân.

   Tụi em, hay ít nhất là em không cần giảng, anh ạ. Em tôn trọng chính kiến của người chiến thắng, có nghĩa là cả của anh nữa. Em chấp nhận luật pháp của người cầm quyền cai trị đất nước, vì thế em đã tự nguyện đến trại cải tạo. Song em không thể chấp nhận nhồi sọ cho em giáo lý của người chiến thắng, càng không thể chấp nhận chính kiến của người chiến thắng làm của mình, cho đến bây giờ là như vậy...

   Anh hiểu được... Cần có thời gian em ạ.
 

   Không phải thế! Em không thể chấp nhận được nhục hình về tinh thần, mặc dù chưa một lần nào em kêu ca những khổ sở thiếu thốn của cuộc sống vật chất! Khổ thế này, chứ khổ nữa em vẫn cam lòng chấp nhận. Nhưng làm nhục bọn em về tin thần, có lúc họ giảng giải cho tụi em mà cứ như là người lớn nói chuyện với con nít... Rồi còn dạy khôn bọn em nữa.., thì hoàn toàn quá sức chịu đựng của bọn em... Giảng như thế cũng có nghĩa là các anh đã tự xóa đi những gì người cộng sản các anh đã làm đúng!..

   Giữa học viên và giảng viên không bao giờ trao đổi với nhau đánh giá việc giảng, việc học à? – Nghĩa ngạc nhiên.
   Một lần nữa anh lại tự chứng minh mình là người chiến thắng! – Lễ cười gằn. - Anh tin là tụi sĩõ quan gọi là ngụy như chúng em có thể trao đổi thẳng thắn với các giảng viên à? Đừng quên tụi em là sỹ quan ngụy! – Lễ nhấn mạnh mấy từ này. - Thậm chí khó mà có một câu hỏi nào của bọn em được trả lời thẳng thắn, dứt khoát?

   Em định nhắc lại câu hỏi thời gian cải tạo sẽ là bao lâu?

   Đấy chỉ là một trong nhiều câu hỏi thôi anh ạ. Tại hội trường, học viên sợ bóng sợ vía ban chỉ huy trại nên mới chỉ nói như anh đã được nghe thôi. Còn nói với nhau thì tụi em cho rằng cải tạo không có thời hạn thế này chẳng khác tù chung thân bao nhiêu. Trong này tụi em từ lâu đã biết ngoài Bắc có những người phải đi cải tạo từ thời sau 1954 mãi đến gần đây mới được thả về!..

   Anh không muốn làm công việc nhồi sọ. Em cần có thời gian tự tìm lấy những câu trả lời cho mình... – Nghĩa hiểu là phải kiên nhẫn với Lễ nhiều hơn nữa.
   Em chỉ là một trong hàng triệu, hàng triệu chất liệu dựng lên bi kịch của nước ta mà thôi anh ạ. Trong mỗi chất liệu ấy là một phạm nhân và hai lần nạn nhân, anh biết không? Một phạm nhân là vì đã gây ra ra hoặc dính líu vào các tội ác chống lại đất nước. Hai lần nạn nhân, vì một là của chiến tranh và một là của sự chia lìa về cách nghĩ, lối nghĩ...

   Sự chia lìa về ý thức hệ?

   Anh nói thế cũng được. Một lần phạm nhận và hai lần nạn nhân.., tất cả trong một nhân cách, anh biết không?!
   Thế còn những kẻ chỉ tôn thờ một con đường chống lại đất nước thì sao? – Nghĩa vặn lại.

   Anh không biết những người như Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang... đã từng ăn gỏi chính bản thân em hay sao? Ít nhất trong con mắt em họ là như thế... Khi xảy ra các vụ nhà sư tự thiêu của phong trào Phật giáo, Lệ Xuân thản nhiên nói bằng tiếng Anh trước các nhà báo nước ngoài: Có thêm vài nhà sư tự nướng chả mình cũng chẳng hề hấn gì! Chắc phải uống máu người không tanh mới nói được câu như thế. Lệ Xuân đã nói lên được tính cách của nhóm người mà chính Lệ Xuân đại diện... Thế nhưng những người như Ngô Đình Diệm, Đỗ Mậu... lại là một một tuýp người khác. Họ có lý tưởng yêu nước theo cách nghĩ của họ và chống cộng từ trong xương tuỷ. Chẳng lẽ anh cho tất cả bọn họ, rồi cả em nữa vào chung một rọ với Lệ Xuân? Anh nghĩ như thế à?

   Em nói thế là rõ đấy.

   Nếu không có mấy chục năm chiến tranh và chia ly như vậy, biết đâu lẽ sống của anh và của em có thể chỉ là một! – Lễ dừng lại, nắm lấy tay anh lắc mạnh: - Bất kể thế nào, trời đất đổi dời thế nào, gia đình ta chỉ là một! Anh có hiểu không, anh Nghĩa!.. Anh không thể tưởng được chú thím Học, tất cả tụi em trong này phải chụm lại với nhau như thế nào để bảo vệ bằng được gia đình của mình, một cuộc chiến khác trong lòng chế độ xã hội Sài Gòn!.. Tất cả bố mẹ anh chị em con cháu chúng ta là của nhau! Chắc anh không thể nào hình dung nổi xã hội trong này khi các phố xá Sài Gòn nhan nhản các lính Mỹ, nhân viên quân sự Mỹ, nhân viên dân sự Mỹ!.. Thành phố là một cái nhà thổ khổng lồ với tất cả dịch bệnh lây lan của nó, anh hiểu không! – Lễ nói dằn từng tiếng vào mặt Nghĩa.

   Đã có một lần anh được nghe một nhà văn Nhật ví nước Nhật là cô gái điếm của lính Mỹ. Ông ta bị cả nước Nhật phê phán, nhưng rồi cả nước Nhật nhận ra đấy là lời cảnh cáo đúng đắn... Hôm nay anh hiểu thêm điều em vừa nói...
 

Nghĩa lặng người đi một lúc, mãi mới nói tiếp được:

   Đất nước bị chà đạp đến thế mà anh em chúng ta vẫn hai đường, hai ngả!.. Có lẽ em nói đúng, em đã được nhào nặn thành một con người như em hiện nay. Chẳng lẽ gia đình ta bị cướp mất em thật rồi hả Lễ?..

   Không! Phải nói cả nước ta bị cướp đi nhiều quá, anh ạ. Là em của anh, về phương diện này em có quyền nói em bị cướp đi nhiều hơn anh! Vì cậu mợ, các anh, họ hàng chúng ta... Tất cả cũng là của em chứ! Chính bản thân em cũng bị cướp đi rồi anh ơi! Tất cả chúng ta là của nhau!

   Trời ơi! – Nghĩa thốt lên.

Còn một điều nữa, ngồi trong trại bây giờ em mới tỉnh ngộ ra ... Cuộc chiến tranh của Mỹ trên đất nước ta tuy đã qua rồi, nhưng dư chấn của nó vẫn sẽ tiếp tục cướp đi những gì nó còn có thể cướp, sẽ còn phá đi những gì nó có thể phá! Không có cách gì cưỡng lại được đâu! Cuộc chiến tranh này ác quá anh ạ! Ai mà không ham sống hả anh? Thế mà nhiều lúc em mong thà chết như Mạnh còn hơn!.. Chắc chắn gia đình chúng ta không phải là nạn nhân duy nhất của sự cướp bóc còn tiếp diễn sau chiến tranh. Ngay từ bây giờ em đã linh cảm thấy như vậy. Rồi đấy anh xem! Cuộc chiến tranh này ác quá...

Hai anh em nắm lấy tay nhau, mãi không ai nói được gì nữa. Mãi một lúc sau, Nghĩa mới cất được lời hỏi Lễ:

- Điều gì làm em lo lắng đến như vậy?

Câu hỏi rơi thỏm vào tĩnh mịch của đêm khuya. Lễ hít một hơi thở mạnh như để lấy sức, rồi từ từ bỏ hai tay ôm đầu xuống:

   Ông trời tai ác quá anh Nghĩa ạ... Em vừa kính phục anh, vừa thương hại anh. Em vừa bác bỏ em, vừa không chịu khuất phục những điều anh tôn thờ! Em thật không biết mình phải sống như thế nào! Từ ngày vào trại cải tạo, nhiều lúc thực sự em không thiết sống, dù em xưa nay ích kỷ, nhút nhát và rất sợ chết! Bao nhiêu lần em trốn ra trận vì rất sợ chết! Anh chưa nhìn thấy hết hậu quả của cuộc chiến tranh này đâu! Nhất là từ phía em...

   Sao em lại dám cả quyết như vậy?

   Vì anh là người chiến thắng!.. Còn nhiều điều thuộc phần em buộc em phải suy nghĩ tiếp. Còn nhiều điều thuộc phần anh, anh cũng chưa thấy hết đâu.
   Em nói gì lạ thế?

Lễ không trả lời ngay, cố trấn tĩnh những sóng gió về những ngày trước và sau 30 Tháng Tư đang nổi loạn trong đầu rồi mới nói được:

   Anh ơi, có thấy cảnh Sài Gòn giãy chết trong những ngày cuối cùng trước giờ tận thế... Ôi có được chứng kiến những ngày này, mới có thể hiểu đúng được sự hồ hởi nồng nhiệt của dân Sài Gòn, mới hiểu được không khí thanh bình không thể tưởng tượng nổi sau đó anh ạ! Tiếc quá anh không được là nhân chứng của hai cảnh đời trái nghịch này! Chính sự trái nghịch này nói lên nhiều điều lắm, có lẽ người cộng sản các anh chưa thể hiểu hết đâu!.. – Lễ dừng lại, cảm nghĩ hôm nào đến giờ phút này vẫn còn choáng ngợp tâm trạng mình.

Nghĩa chăm chú nghe.

   ...Anh ạ, chính sự trái nghịch này làm bật lóe lên trong em cảm nhận mãnh liệt, dù chỉ là trong khoảnh khắc: ...Cuối cùng thì đất nước đã chiến thắng cuộc chiến tranh này!.. Ôi anh Nghĩa, chính cảm nhận này giục giã em tự trình diện và em tự nguyện xin vào trại cải tạo... Đất nước đã chiến thắng cuộc chiến tranh này! Thế mà...

   Ôi Lễ!

   Nhưng đến giờ phút này anh vẫn chưa thuyết phục được em. Nghĩa là đến hôm nay anh vẫn chưa chiến thắng được em, có phải thế không? – Lễ cố làm cho không khí anh em dịu lại.

Nghĩa lặng đi hồi lâu, cuối cùng rên rỉ:

   Hai anh em chúng ta cùng nhau hàn gắn vết thương dân tộc ngay trong gia đình mình, được không em?
 
   Vâng, em sẽ cố... Nhưng đừng làm cuộc chiến cưỡng ép chính kiến của anh nhé?

   Anh hứa...

   Tháng mười hai tới này là bốc mộ cho cậu và gia đình em Minh, sẽ đưa về quê.

   Sẽ đưa về quê nào hả anh?

   Về quê nội, Hoàng Đôi, Hưng Yên, nay là Hải Hưng em ạ.

   Em chưa biết quê mình thế nào, mặc dù chú Học thỉnh thoảng có kể cho nghe.

   Còn ở trong trại thế này, chắc em không ra kịp rồi.

   Anh thay mặt cho chúng em trong này thắp nén hương cúng cậu và gia đình em Minh. Nhưng...
   Nhưng gì nữa em?

   Chừng nào em còn sống, việc đầu tiên khi được ra khỏi trại là em sẽ đi thăm mợ và anh chị em chúng ta ngoài Bắc. Em cầu mong mợ khoẻ mạnh, cố chịu đựng. Sẽ có ngày em ra lạy mợ và thắp hương cho cậu và gia đình Minh...

Câu chuyện kéo dài mãi cho đến khi Huệ lên gác mời bác Nghĩa và ba Lễ xuống ăn sáng. Tín đã sửa soạn xong xe máy, buộc xong hành lý để đưa ba Lễ ra bến xe.
Trên đường bay trở ra Hà Nội, Nghĩa nhớ như in câu nói cuối cùng trước khi Lễ quay ra chào mọi người để trở về B7, từ giọng nói, đến vẻ mặt đau khổ, dáng điệu chán trường:

   Anh Nghĩa ạ, hiểu cho em... Em không thể... – Lễ thì thào vào tai Nghĩa, gần như mắc nghẹn. Ôi không biết chuyến đi này mình đã tìm được Lễ hay là mình đang mất Lễ thật rồi!

Tiếng bom đạn nổ ầm ầm, từng lúc xen vào những tiếng nổ cực lớn. Có lúc Nghĩa bị hất tung lên khỏi mặt đất. Lấy tay sờ đầu, sờ người, bàn tay ướt đẫm. Nghĩa cố giơ bàn tay lên gần mắt, nhưng chẳng nhìn thấy gì. Nghĩa liếm đi liếm lại bàn tay mình, chỉ thấy lạo xạo trong miệng và một mùi vị gì đó chát xít. Lại sờ hai chân, lại ráng hết sức bò tiếp trong mù mịt. Những tiếng nổ vùi Nghĩa sâu xuống đất, Nghĩa lại bới, lại gắng gượng lê lết. Một tiếng nổ lớn khác, nhưng lần này gần quá. Nghĩa thấy rõ thân thể mình bị chảy tan ra trong lửa. Nghĩa hiểu không thể bò tiếp được nữa, cố níu nhìn chân tay và thân thể mình đang bị biển lửa uống dần... Lại một tiếng nổ lớn nữa, trời đất tối sầm...

Choàng tỉnh dậy, Nghĩa chỉ thấy một màu tối xịt chung quanh mình.

Máy bay đang lao vào đám mây lớn, lắc dữ dội.

...Đất nước cuối cùng đã chiến thắng được cuộc chiến tranh này, nhưng anh vẫn chưa thắng được em!.. – Nghĩa cảm thấy các vết thương cũ lại tái phát dữ dội trên thân thể, miệng khô đắng. Nghĩa cố quờ quờ tay tìm nút ấn để yêu cầu tiếp viên mang đến cho mình cốc nước ...
 
7.

Ngày 24 tháng Hai năm 1979 xe ô- tô chở ông Đoàn Danh Tiến từ trong Nam ra đến Phủ Lý lại phải dừng. Những lần dừng trước vì chờ phà, vì tắc đường.., xe chỉ phải chờ vài ba tiếng đồng hồ là cùng. Nhưng lần này đến địa phận Phủ Lý, còn cách mấy cây số nữa mới tới cầu, xe của ông Tiến đã bị quân cảnh hạ lệnh tìm chỗ trú tạm bên đường một ngày. Tất cả các xe cộ dân sự đều bị cấm, nhường đường cho bộ binh, cơ giới, pháo binh... Tổng lực đang được điều lên mặt trận biên giới phía Bắc.
Không còn cách nào khác, khi người lái xe tìm được chỗ đỗ xe tại một làng ven đường, ông
Tiến xuống xe, tìm một nhà dân nghỉ nhờ. Đã ba ngày ròng rã lắc lư trong xe rồi còn gì nữa.
Người lái xe và chị nhân viên xí nghiệp in quốc doanh Tự Lực đi áp tải hàng cũng khuyên ông

Tiến như vậy.

Đi xe dường dài, chuyện phiếm chống buồn ngủ nhiều khi bỗ bã lắm. Cái thế giới trong cabin xe chỉ có ba người chẳng khác cái thế giới hồng hoang bao nhiêu, mọi chuyện đều là tự nhiên, chẳng có điều gì là kiêng cấm... Cái thế giới chỉ có ba người này thế mà có lúc tiếng cười tưởng như vỡ xe. Cậu lái xe thật là tài kể chuyện, cách nói dí dỏm, cùng với chị nhân viên bẻm mép ngồi giữa làm thành một cặp kẻ tung người hứng thật tuyệt vời.

Ông Tiến mô phạm là thế mà cũng bị hút vào các trận cười. Chuyến đi này làm cho ông lần đầu tiên trong đời tin rằng câu chuyện Một nghìn lẻ một đêm ông được xem trên tivi là có thật, ít nhất ông có cảm tưởng là nó có thật. Bởi vì ông tin rằng xe có ra tới Hà Nội, rồi lại quay về, rồi lại quay ra... cặp bài trùng này chắc không bao giờ hết chuyện tiếu lâm để nói! Chuyện gì thì chuyện, vẫn không thể vượt ra ngoài cái chuyện giữa đàn ông và đàn bà. Có khi cùng một chuyện thôi, thế mà cậu lái xe lại kể ra, dẫn dắt nó, mô phỏng lại nó, bố cục lại nó, thêm đầu bớt đuôi thành những chuyện mới. Có lúc cậu lái xe còn đi xa tới mức vận câu chuyện cả vào ông Tiến: “Bác ơi, theo em bác chịu khó rút kinh nghiệm nhé. Về đến Hà Nội bác nhớ dặn bác gái em mua cho bác năm hào rượu thôi, đừng mua một đồng. Năm hào là dứt khoát hay hơn một đồng đấy bác ạ!.. Năm hào như thế mà đi cho giống thì phải biết! Nói thật với bác nhé, đẻ ra chỉ có từ tiến sĩ hay giám đốc trở lên!..” – một ngón tay cái của người lái xe giơ lên trời. “Thế nhỡ chỉ là phó tiến sĩ thì sao?” – chị nhân viên vặn lại. “Thì đền thêm một tiến sĩ dự phòng nữa!...” tay người lái xe lại độp một cái vào cái chỗ kín của cô nhân viên...

Chuyện cứ thế không dứt. Có lúc người lái xe đặt tay lên đùi chị nhân viên áp tải một cách tự nhiên, di chuyển bàn tay trên đùi chị ta một cách tự nhiên, bất kể là ông Tiến đang lim dim hay đang thức...

Thật là chướng mắt quá!

...Ông Tiến mấy lần định cho anh chàng lái xe hư tay lắm mồm này một bài học về phép lịch sự tối thiểu, thậm chí có lần ông đã buột miệng mở đầu câu chuyện:

   Này tôi thấy anh có nhiều cử chỉ...

   Bác nói em có nhiều cái gì hả bác? – người lái xe bộp ngay, giọng đang vui mà gằn hẳn lên.

   À... - ông Tiến luống cuống một chút vì hoảng - ...Tôi thấy hình như anh có nhiều cử nhân rơi vãi trên mọi nẻo đường xe anh đi qua.
   Ôi, bác thế mà văn nghệ quá!..

...Chẳng gì nó cũng đang chở một đống hàng cho mình, để nó giở quẻ thì khốn đốn dọc đường với nó . ...Mặc xác chúng nó, mất quái gì của mình. Không nghe, không nhìn, không thấy là xong hết. Càng ngày mới thấy chỉ có mỗi Hai Hân là con người chí tình...

Ông Tiến lắc lư, mơ mơ ảo ảo nhớ lại:

- Trời ơi, sao anh mua ở đâu về lắm thứ cho tôi thế này! Tôi không mua đâu, làm gì có tiền. - ông giãy nảy lên khi Hai Hân đưa ông Tiến đến xem người ta xếp ra trước cửa kho xí nghiệp cho ông một đống hàng.

- Anh ơi, làm gì có chuyện mua bán ở đây. Biết anh kỳ này ra hẳn ngoài Bắc, chúng em với tư
 

cách là học trò của anh bảo nhau đi kiếm mấy thứ mà gia đình nào ngoài đó cũng cần. Em đã kiểm tra kỹ rồi, tuy cũ, nhưng tất cả còn tốt.

   Tôi đã bảo là không mua. Mà làm sao tôi khuân được hàng mấy tạ hàng thế này!..

   Chuyện vặt. Anh khỏi lo. Người lớn như anh để tâm trí lo việc lớn...

Cũng có lúc ông Tiến đầu lật bên nọ, lật bên kia trong xe, tuy không ngủ nhưng cũng giả vờ lim dim, hoặc nhìn thật xa về phía trước cho đỡ ngứa ngáy khó chịu trong người. Có lần ông tự nhiên ho sặc sụa, làm cho anh lái xe đang bá cổ cô bạn mà cũng phải giật mình rụt tay ra khỏi ngực cô...

Nhưng chuyện tiếu lâm trong xe rôm rả đến đâu chăng nữa cũng vẫn là cười trong chốc lát. Có là thánh thì cũng không thể cười suốt từ Sài Gòn ra đến Hà Nội không nghỉ được. Ông Tiến liên hệ đến những băng hình tạp hý “non stop program”, “gala program” của thời Mỹ- nguỵ ông được xem tại Ban nghiên cứu văn hoá của thành phố. Cả những băng hình này cũng không thể làm cho người ta cười mãi được ... Nhiều việc, nhiều suy nghĩ khác vẫn có thừa thời giờ rỉa rói, cấu xé ông Tiến trên đường trường ra Bắc.

Tối đến, dừng xe ngủ lại đâu là cặp bài trùng thu xếp cho ông Tiến xong rồi lại mất hút cho đến tận sáng hôm sau. Ông Tiến thừa biết họ đi làm cái chuyện tiếu lâm của họ, nhưng ông cũng chẳng còn tâm trí nào mà bận lòng. Hôm nay, giữa ban ngày ban mặt ở Phủ Lý cũng vậy, tìm được chỗ đỗ xe họ biến luôn.

- Sao mà nhanh như chớp thế!.. - ông Tiến thốt lên nhìn theo họ biến dần...

Chủ nhà cho ông Tiến nghỉ nhờ trên cái giường khá sạch sẽ, nhắc ông cố ngủ đi một giấc cho lại người. Ông Tiến cũng định bụng như vậy. Đặt lưng xuống, duỗi chân duỗi tay để thư giãn, song cái cảm giác khoan khoái quá ngắn ngủi, chưa chi mắt ông đã trân trân nhìn lên các kèo nhà và xà nhà ... Lúc đầu chính ông cũng tự lừa mình, cố nghĩ rằng kiểu làm nhà nông thôn ở vùng này đang thu hút mình. Khi ông phải tự thú nhận nó chẳng khác gì các nhà gỗ mái rạ vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì ngay lập tức các điều ông lo nghĩ lại ập tới. Trên đường đi mấy hôm trước, càng về gần Hà Nội ông càng cảm thấy khó ngủ.

Thật là trái ngược...

...Ông tính nhẩm, như thế là cách đây khoảng hơn một năm, ông phải xin nghỉ đột xuất để ra Hà Nội tổ chức lễ cưới hoả tốc cho Thắng, bây giờ con của Thắng đã gần một tuổi. Thư bà Hà kể thằng bé khá cứng cáp, lẫm chẫm biết đi rồi, vợ Thắng có bầu mới ... Thế mà hai đứa đang nhất quyết ly dị! Lửa tình bùng to tắt nhanh, người nọ đang ra sức đổ lỗi cho người kia không chung thuỷ. Còn Lợi, con gái ông, nhất quyết đòi lấy anh thương binh cụt một chân, là cán bộ quản lý của trường. Lợi báo cáo anh ta hơn mình đúng một giáp. Nhưng bà Hà xem mặt thì nghĩ bụng là già hơn, thư bà kể rành rọt như vậy. Ông Tiến thư đi thư về mà không sao cản được Lợi. Cô ta còn đòi cưới sớm nữa!..

Để tự giải toả, ông Tiến lại chuyển sang nghĩ chuyện của đất nước. Chưa kịp đón tin quân ta giải phóng Phnômpênh, tin chiến tranh đánh biên giới phía Bắc ập đến. Ngoài những điều được nghe trên phổ biến, ông Tiến chưa kip định thần để tự mình đánh giá các sự kiện. Nhất là đối với ông những sự kiện này xảy ra nhanh quá, bàng hoàng quá.

...Thế là mọi suy luận của mình về thời cuộc hoá ra chẳng đâu vào đâu! ...Cứ tưởng rằng đã thắng Mỹ rồi thì từ nay trở đi không ai dám đụng đến ta nữa!.. Còn hay không còn tình đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa anh em!?. Chẳng lẽ Lê Hải đúng và Phạm Trung Nghĩa không hữu khuynh?.. Cái tư tưởng cách mạng là tiến công liên tục bây giờ đặt nó vào đâu cho ổn? Cái chủ thuyết hai phe bốn mâu thuẫn phải cắt nghĩa ra sao đây?.. Đã bao nhiêu lần mình đi giảng như vậy ngoài Bắc trong Nam, lý lẽ chắc như cua gạch...

Hết tự đánh giá mình về lập trường tư tưởng, ông quay ra điểm lại các môn đệ của mình. Ông vẫn thường coi đấy là một trong những thước đo tin cậy đánh giá năng lực bản thân. Bởi lẽ vào lúc trăm mối tơ vò như thế này, ông cần có một cái gương để soi lại mình. Người mà ông có thể coi là môn đệ thực thụ cho đến nay chẳng lẽ độc nhất có anh chàng thất học nhưng ranh ma Hà Văn Hân?..
 

Ông đã đến chơi và ăn cơm với vợ chồng hai Hân mấy lần, đã ăn một Tết với vợ chồng Hai Hân vì lỡ Tết - chuyện tàu xe cuối năm quá tải. Vợ chồng Hai Hân cưới nhau đã lâu, nhưng chưa có con. Nhà cửa tuềnh toàng trong hẻm. Được cái cả vợ lẫn chồng đều là người hoạt bát. Càng sống với Hai Hân ông càng thấy đấy là loại người nghe một, hiểu hai, ba. Ông thừa nhận Hân quả là một tay có đầu óc, chỉ cần bồi dưỡng thêm lý luận và một ít văn hoá là có thể trở thành cán bộ có hạng. Loại này mà được học hành đến đầu đến đũa thì phải biết ... Vợ Hân, công nhân nhà máy sữa Nestlé, cũng tỏ ra xuất sắc trong khi tiến hành cải tạo nhà máy, tiếp thu nhanh những vấn đề chính trị ông trao đổi với hai Hân. Trong đời mình ông được học, được nghiên cứu, được đi thực tế để tìm hiểu giai cấp công nhân. Ông tự hào là đã tích luỹ được cho mình khá nhiều. Chính sự tích luỹ này là cái vốn căn bản cho quan điểm và lập trường giai cấp của ông. Nhưng phải chờ đến khi quen biết vợ chồng Hai Hân, ông mới hiểu rằng quan điểm và lập trường giai cấp mình có trong người không chỉ là một ý thức, một nhận thức trừu tượng, mà nó còn có một mối liên hệ với những người thật, cuộc sống thật. Dựa vào những điều đã tích luỹ được trong cả cuộc đời, ông nuôi tham vọng lúc nào đó sẽ viết một chuyên đề lớn về giai cấp công nhân Việt Nam, có những ví dụ thực, hình mẫu thực ...
...Một con người có năng lực tự thân như Hai Hân ca ngợi mình, suy tôn mình lên bậc thầy, thì hẳn chính mình cũng phải là một cái thá gì chứ! Anh ta hoàn toàn không phải loại người ăn theo nói leo, không phải là thiên lôi chỉ đâu đánh đấy!..

   ...Lý luận của anh em nghe sáng ra. Cứ chỗ nào bí là em lại dựa vào những điều anh giảng. Đúng là kim chỉ nam của hành động.
   Tôi thì lại phải dựa vào hành động thực tiễn của cậu để kiểm nghiệm, để phát huy thêm lý luận.
   Đã nhiều lần, vận lý của anh ra thế nào em cũng thắng! Hôm em nói cải tạo xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là đánh đổ giai cấp tư sản, mà còn phải nhằm đưa giai cấp công nhân lên nắm quyền lãnh đạo xí nghiệp. Hội nghị hoan hô rầm rầm! Anh và em không thể thiếu nhau được, có phải thế không anh?

...Thực là những lời tâm huyết của Hai Hân trong buổi tâm sự với mình đêm ba mươi Tết năm rồi!..
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #14 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 11:01:58 am »

Khi ông nhận được lệnh trở lại miền Bắc công tác, Hai Hân lo cho ông từng ly từng tý, lại bố trí một chuyến xe đưa ấn phẩm ra Bắc và nhận vật tư đem về cho xí nghiệp, để kết hợp đưa ông Tiến ra Hà Nội. Hai Hân đi thu thập các nơi đem về biếu ông Tiến một tủ lạnh Sanyo, một tivi National 21 inches, hai cây quạt Nhật và một xe Honda nam cũ. Tất cả đều là hàng tầm tầm nhưng còn dùng tốt - đây là lý do chính Hai Hân bố trí chuyến xe tải này.

“...Mong anh coi em như đệ tử ruột. Đường đời còn dài, chắc em còn phải nhờ anh giúp đỡ nhiều...” Lời chia tay của hai Hân đầy tình nghĩa. Tuy nhiên ông Tiến cũng hơi chột dạ khi Hai Hân nói:

   Bây giờ trong này xong cải tạo rồi. Sắp tới chủ yếu sẽ là các nhiệm vụ kinh tế. Trên điều anh ra ngoài Hà Nội em nghĩ cũng phải thôi.

Nghĩa là Hai Hân biết lý do vì sao trên điều mình ra Bắc?

... Thằng cha này ở sát lãnh đạo thành phố nên nhiều thông tin lắm. Khi Khmer đỏ đánh Tây Ninh lần thứ nhất, nó biết trước mình. Lần thứ hai nó cũng biết trước mình... Bây giờ nếu đúng như hắn nói thì có vấn đề ... Luận ra sẽ có nghĩa là trên cho rằng cái khả năng chính trị vạn năng của mình không còn vạn năng cho lắm! Vì thế phải trở ra Hà Nội?.. Nếu thế thì gay rồi, đại sự rồi...

... Hay là mình cả nghĩ quá thôi, sự thực có thể không đến nỗi bi đát như thế. Ngày 17 tháng Hai Trung Quốc đánh ta, ngày 19 tháng Hai ngoài Bắc điện mình ra gấp. Như thế chắc là ngoài Bắc cần mình là do tình hình mới? Làm gì có đại sự nào khác! Lập luận này có lý hơn. Ai không biết công tác tuyên huấn vào lúc nước sôi lửa bỏng này là cực kỳ quan trọng! Phải thấy rõ điều này để kịp thời chiếm lĩnh trận địa!.. Nghĩ theo hướng này, ông Tiến lục lọi trong trí nhớ mọi lời đồn đại về trưởng Ban. Sắp xếp lại các lời đồn đại với nhau, đo đếm, cân nhắc, ông thấy trưởng Ban hồi này bị chê nhiều hơn là được khen. Đáng chú ý là những lời đồn thay trưởng
 
Ban chẳng những ngày càng nhiều, có lời đồn còn nêu rõ ai sẽ được giao cho cái ghế này – chỉ có điều hơi lạ là cái tên Đoàn Danh Tiến tuyệt nhiên không một ai nhắc đến!..

...Dù có tên mình hay không có tên mình thì đồn đại cũng chỉ là đồn đại! Hai năm rõ mười là sức khoẻ của trưởng Ban đã quá Giáp Bát gần Văn Điển rồi! Lao hay ung thư, khu A hay khu B trong Văn Điển cũng thế thôi! Cỡ như ông ta có vào được Mai Dịch không nhỉ? Chưa hẳn, ông ta chỉ hơn mình có vài bước chân...
...Tôi đã bảo mà, ông thì đi dạy được thiên hạ, nhưng đối với hai con mình thì ông bất lực...

Không phải thế, tất cả là tại bà thôi. Ai bảo bà chiều chúng nó quá nên mới đổ đốn ra thế này...

Cuối cùng thì ông Tiến cũng thiếp đi được một giấc.

Tỉnh dậy, trời đã quá trưa. Ông Tiến tìm đường lững thững leo lên quốc lộ 1, vừa để tìm chỗ ăn trưa, vừa muốn quan sát tình hình. Ngồi trong một quán nhỏ, ăn xong hai bát bún riêu cua, ông Tiến mới quay ra nhìn ra nhìn lên đường. Các đoàn xe bộ đội ùn ùn nối đuôi nhau không dứt từ phía Nam kéo ra. Xen vào giữa những đoàn xe chở bộ đội là những đoàn xe kéo pháo, kéo tên lửa, các đoàn xe thiết giáp, các đoàn xe quân nhu, các đoàn xe chuyên dụng. Tiếng động cơ vang dền bất tận. Tiết trời đông sang xuân ẩm ướt, khói bụi của đoàn xe bất tận bị nén xuống thành một dải mây dài phủ kín con đường. Đây là lần đầu tiên trong đời ông Tiến được mục kích bộ đội ta hành quân ra chiến trường. Chưa bao giờ ông được thấy một cảnh tượng đầy khí thế lẫm liệt như vậy. Cách nửa tiếng, một tiếng, ông lại thấy một chuyến tàu hoả lúc chạy ngược lúc chạy xuôi trên tuyến đường sắt đi song song với quốc lộ 1. Tàu vào chở người đi sơ tán, các toa chật như nêm, thậm chí người người già trẻ lớn bé ngồi kín cả các toa đen chở hàng. Tàu ra toàn bộ đội, các toa chở xe tăng và các toa bọc bạt kín mít – chắc là hàng quân sự...

...Thế này thì chiến tranh to rồi, không nhầm vào đâu được. Quân đội mình hùng dũng quá! Hùng dũng quá!.

Ông Tiến cảm thấy bừng bừng trong người, bàn tay nọ đấm vào lòng bàn tay kia.

Tuy nhiên, khi nhìn các chuyến tàu hoả chở người đi sơ tán vào phía Nam, ông Tiến không thể tránh được cảm giác ngây dại - nỗi chua xót cho vận mệnh của đất nước. Cảm giác day dứt ấy làm cho ông Tiến phải thú thực trong thâm tâm: ...Hình như cho đến giờ phút này mình chỉ là người quan sát! Là người reo hò và đứng ngoài cuộc!..

...Nhưng mình đâu có trốn tránh nhiệm vụ nào? Số mệnh, hay là cuộc đời dun dủi thế nào đấy thôi, mình toàn lọt vào những vị trí trung gian, những thời điểm trung gian nằm giữa những hiểm nguy của đất nước. Hình như cả cuộc đời mình lọt vào các khoảng trống an toàn nằm giữa những vận động, nằm giữa những giai đoạn quyết liệt đất nước phải trải qua! Khi thanh niên cả nước ào ào lên đường chống Mỹ theo phong trào “ba sẵn sàng” thì mình đã là cán bộ. Những năm tháng đất nước chìm đắm trong chiến tranh mình ngồi trên mặt trận chính trị! Mình đâu có trực tiếp cầm súng hay đứng ở mặt trận như Lê Hải, như Phạm Trung Nghĩa...

Hay là chính vì thế mình hiểu cuộc sống của đất nước bằng con mắt và cách nghĩ của người quan sát?.. Mình không có những nỗi đau như họ, nên có lẽ mình tỉnh táo hơn họ. Đúng là biết tách mình ra khỏi sự vật luôn luôn là một lợi thế! Từ ngày rời ghế nhà trường mình đã hiểu ra điều này. Chính nhờ điều này mình luôn chiếm lĩnh được trận địa mới, luôn luôn mới! Từ ngày còn học trường làng cho đến con đường trưởng thành bây giờ là nhờ luôn luôn chiếm lĩnh được trận địa mới! Phạm Trung Nghĩa và Lê Hải chẳng qua sống quá sâu, bị đúc tạc quá sâu vào chính cuộc sống của các ông ấy, nên không dứt ra được, nó thành nếp mất rồi ... Họ không thay đổi được họ nữa. Họ thuộc về quá khứ, như một phương tiện, một công cụ đã làm xong chức năng được giao ... Họ không thể nhận biết diễn biến khách quan như ta, không thể như ta luôn luôn biết chiếm lĩnh những trận địa mới, không thể là người trong cuộc... Không bao giờ họ có thể là người trong cuộc...

...Còn ta? Ta quan sát? Hay ta đứng ngoài cuộc?.. Không! Số phận đưa đẩy như thế cơ mà!.. Ta đâu có phải là họ? Ta không quan sát! Ta không đứng ngoài! Lẽ sống của ta là phải trở thành người trong cuộc ... Sẽ như trưởng Ban... Như những người quyết định số phận những kẻ khác!..

Những cuộc tranh luận gay gắt với Lê Hải, với Phạm Trung Nghĩa bỗng nhiên sống lại dữ dội
 

trong tâm trí ông Tiến. ...Chỉ có một lần duy nhất Lê Hải thực sự khen ngợi mình. Một lần duy nhất mà thôi. Đấy là những lời khen mình thật lòng... Mình biết tỏng đi chứ!..

Một ngọn gió buốt ở đâu ập tới. Trong khoảnh khắc ông Tiến đột nhiên có cảm tưởng những gì mình đang thấy trước mắt là hiện thực sống của tất cả những gì đã được nói tới trong những cuộc tranh luận này. Song ông lại tự trấn an mình ngay: Phải biết tách mình ra khỏi sự vật, phải nhận biết diễn biến của nó để chiếm lĩnh trận địa mới!.. Cuộc đời là luôn luôn đi tiên phong chiếm lĩnh trận địa mới...

...Ừ, cứ cho là như thế đi... Thế thì chân lý là ở chỗ nào?.. - Một cảm nghĩ gì đó khó tả luồn lách vào tâm tư sâu kín nhất của ông Tiến. Ông lờ mờ như thoáng tự hỏi mình điều gì đấy, song lại phải tự mình át đi ngay. Ông nghiệm thấy bảo vệ cái chân lý phải luôn luôn đi tiên phong chiếm lĩnh trận địa mới nhiều lúc thật không đơn giản...

...Lẽ đời khôn sống mống chết! Đi tiên phong cũng có phải tuân thủ cái lẽ đời này. Thế mà mình đã trót một lần lỡ bút ca ngợi hai tay này hết lời. Ôi cái dại chết người!.. – ông Tiến nhớ đến bài viết của ông giới thiệu tập truyện ngắn của Lê Hải và Nghĩa... Trái hẳn với hôm chia tay Lê Hải, cách suy nghĩ này giờ đây đột nhiên dấy lên trong ông nỗi lo bút sa gà chết, nhất là vào thời buổi đất nước lại có chiến tranh như thế này... Chính ông cũng tự vặn vẹo mình: Tại sao mình lại có thể dại dột như thế được nhỉ? Xưa nay mình đâu có ham hố gì chuyện văn chương!.. Không biết việc mình bị gọi ra Bắc thế này có liên quan gì đến bài giới thiệu này không?.. Bằng này tuổi đầu rồi mà cuộc đời vẫn có lắm chỗ không biết đằng nào mà lường...

Tiếng loa của xe công an thông báo lệnh cấm đường chấm dứt. Tiếng loa của xe công an kéo ông Tiến trở về thực tại. Ông chạy vội về nhà nghỉ nhờ để cảm ơn gia chủ và để tìm cặp bài trùng tiếu lâm.

Nhưng tìm hai con người ôn vật này ở đâu bây giờ?..

Ông chạy loăng quăng một lúc rồi về đứng bên xe tải của mình:

- Đứng đây là chắc ăn nhất, đi tìm làm gì cho mệt xác!

Ông Tiến tự nói với mình như vậy, trong lòng cảm ơn trời Phật đã cho ông chút thời giờ ngẫm nghĩ sự đời trong khi đứng chờ cặp bài trùng. Cái quyết tâm trở thành người trong cuộc được nung nấu thêm, những nỗi lo mây lo gió về cái chuyện bị gọi ra Hà Nội lắng dịu đi...

Quả nhiên chỉ nửa giờ sau cặp bài trùng cũng đưa nhau về. Lại lên đường. Lại rôm rả. Trên chặng đường cuối cùng này riêng mình ông Tiến là người không biết nói.

Tối hôm đầu tiên nhà ông Tiến vui như hội. Nhà bây giờ thêm hai nhân khẩu là vợ và đứa con trai đầu lòng của Thắng. Anh con rể tương lai cũng đến chào ông Tiến mới đi công tác xa về. Cả nhà - trừ bà Hà - tự dưng biến thành các máy nói. Ai cũng vui vì đột nhiên ông Tiến mang về lắm thứ như vậy, mà toàn là những thứ được việc, được tiền, rất cần. Cô Lợi thì khen hàng Nhật cũ rồi mà vẫn còn đẹp, hiện đại hơn hàng Liên Xô, so sánh từng chi tiết cái tủ lạnh Sanyo với cái tủ lạnh Xa-ra-tốp, thạo đến mức người yêu cô Lợi phải ngạc nhiên.

   Nhà ta đã có tủ lạnh bao giờ chưa mà em cứ nói vanh vách từng chi tiết một như thế?

   Việc gì phải có mới biết! Thế mới tài chứ...

Vợ Thắng hết tham gia đề tài tủ lạnh lại tham gia đề tài quạt Nhật. Còn Thắng từ đầu đến cuối chỉ quan tâm đến cái xe Honda nam mầu đen, lôi cả em rể tương lai vào đàm luận. Gọi là em rể, nhưng hơn Thắng phải ngoài chục tuổi hoặc hơn nữa. Mô- kích, Pơ - giô, Vespa, Xolex, Minsk, Java... được đem ra so sánh tuốt. Thắng hết ngồi lên lại nhảy xuống, lăn thử xe trong nhà, bật đèn, bóp còi, nhấn phanh... Mấy lần Thắng định lôi xe ra đi thử nhưng không có xăng. Hai Hân cẩn thận đã bắt vặn hết xăng trước khi khuân lên xe tải. Động cơ chỉ bạch bạch một tý rồi im luôn, thế mà mùi khói xăng đã nồng nặc cả nhà. Bà Hà ngồi nguyên một chỗ mà cũng phải kêu toáng lên, vội vã lấy khăn tay bịt mũi cho cháu nội. Thắng định lôi xe ra đường đổ xăng của con phe, ông Tiến nhất định không cho:

   Không được, phải tập hẳn hoi. Chuyện vợ chồng cậu công an hộ tịch khu phố mình năm ngoái bị ô tô cán chết vì mới tập đi xe máy còn sờ sờ ra đấy!

Về tới Ban, ông Tiến thấy cấp trên và đồng nghiệp tuyệt nhiên không có một lời xì xèo nào
 

về khả năng chính trị vạn năng của mình. Những nỗi lo mây lo gió của ông qua đi nhanh chóng, nhường chỗ cho tâm trạng đầy phấn chấn. Trong khi đó ông đạt thêm một chiến tích lớn: công trình tổng kết về cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam và nhiều bài bình luận khác do ông là tác giả được in thành sách, với cái tên nổi bật “Tổng kết kinh nghiệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. ...Thật là bõ công mình vận động, lại được chính Nhà xuất bản của Ban ấn hành, thế mới oách chứ! Từ nay trong tay ta đã có những công trình được công bố! Rất xứng đáng kiếm một học vị nào đó cho có tên tuổi ... Hôm đến chào, ông trưởng Ban còn khen ông Tiến có những tìm tòi mới trong nghiên cứu lý luận, cho là những cố gắng của ông Tiến rất đáng khích lệ. Ông trưởng Ban cho biết mô hình của thời kỳ quá độ đang là vấn đề thời sự nóng hổi của cả nước, còn phải động não nhiều...

   Thưa anh, với công trình này tôi nghĩ rằng cơ bản lý luận khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã định hình... Các nước Liên Xô - Đông Âu đang lao đao là vì họ làm trái lý luận này!

   Nhưng vẫn phải tiếp tục động não.

   Mô hình này là chắt lọc từ cuộc sống đấy ạ!

   Tôi thừa nhận hai năm qua công tác trên lĩnh vực mới, anh tỏ ra rất nhạy cảm, cố bắt kịp nhịp thở của đất nước. Tuy nhiên nên đi sâu hơn nữa vào các giải pháp... Tôi hy vọng nhiều ở anh đấy...

Trừ cái câu Tuy nhiên... ra, còn lại những câu khác ông trưởng Ban làm cho ông Tiến thật là được lời như cởi tấm lòng...

Những câu chuyện hư hư thật thật ở hành lang còn cho ông Tiến biết trưởng Ban hồi này sức khoẻ gay go lắm. Có tin đồn trưởng Ban đang xin về hưu, trên đang lo người thay... Loáng thoáng chỗ này chỗ khác thì thào ông đã được coi như người kế vị trưởng Ban trên thực tế... Khấp khởi càng thêm khấp khởi...

Vốn là người nhanh nhạy với thời cơ, ngay lập tức ông Tiến ngầm góp phần mình làm cho cái tin đồn thay trưởng Ban loang rộng ra. Ông không quên thêu dệt thêm đôi ba điều để dư luận hiểu rằng người xứng đáng thay thế trưởng Ban là ông, chấm phá vài lời dèm pha khi cần... Cũng có khi ông bạo gan bắn tin, đại thể là cấp trên đã chọn mặt gửi vàng nhắm vào ông...

Không ít những giây phút ông lâng lâng bay bổng trong trí tưởng tượng của mình. Tất bật càng thêm tất bật, vì có khối việc để làm ...

...Bằng mọi giá, ta phải trở thành người trong cuộc!

Nhưng các buổi tối ở nhà, trong những bữa cơm chiều, không khí căng thẳng dần dần lại quen mui dồn về đầy ắp căn nhà ông Tiến. Lại vẫn những chuyện cũ rích...

...Chán bỏ mẹ, thà đi khuất cho rảnh mắt! Có lúc ông buột miệng nói ra như vậy, nhưng chỉ vừa đủ cho mình nghe.

Không có cách gì ngăn cản vợ chồng Thắng nằng nặc đòi ly hôn. Đêm đêm vợ Thắng đuổi chồng quầy quầy, bắt phải ra ngủ riêng trên cái giường bạt Liên Xô. ...Nghe vợ chồng chúng nó vặc nhau mà nẫu cả người! Đã thế cái con Lợi ranh con tối nào cũng dẫn xác cái thằng thương binh dê cụ về nhà, ngồi dai như đỉa đói. Sao chúng mày rỗi hơi thế!..

Tối tối ông bà Tiến thường chẳng còn chuyện gì để nói, nên ai làm việc nấy. Đến lúc cả nhà bắt đầu lục tục đi ngủ, anh thương binh mới đứng dậy đưa Lợi về ký túc xá. Khi ông Tiến tắt đèn, leo lên giường nằm cạnh bà Hà, lúc này không khí căng thẳng giữa hai ông bà bắt đầu. Ông Tiến để ý từ hôm về chưa thấy bà Hà hé một lời nào về các thứ mình khuân từ trong Nam ra. Mà chuyện trò với nhau thì câu trước câu sau đã ông chẳng bà chuộc.

...Hoá ra những năm tháng mình sống độc thân ở Sài Gòn lại là tuyệt trần đời!

Một đêm:

   ...Thì bà cũng nên lựa lời nói con vợ thằng Thắng một vừa hai phải cho êm cửa êm nhà một chút chứ.

Bà Hà nằm yên. Cái tâm trạng lơ đễnh đôi khi bất chợt len lỏi vào tình cảm của bà thường thường mang lại cho bà một cảm giác trống rỗng, bằng lặng. Nhưng giờ đây nó biến thành
 

những đợt sóng thần dữ dội trong lòng. Bà Hà môi mím chặt, hai bàn tay nắm lại. Bà cố nằm yên không nhúc nhích.

   Con nhà cán bộ có danh tiếng như nhà mình, mà nào là cưới chạy, nào là ly dị. Bà xem, thế còn ra cái thể thống gì nữa. Thiên hạ người ta cười vào mũi.

Bà Hà vẫn nằm yên.

   Ô hay, bà ngủ rồi à?

   Không tôi vẫn thức.

   Thế thì bà nghe tôi nói đây. Ngoài chuyện vợ chồng chúng nó, bà cũng nên tỉnh táo xem có chuyện mẹ chồng nàng dâu không? Lập trường của tôi là phải khách quan xem xét cả hai bên.

Lúc này bà Hà không kiềm chế mình được nữa. Tuy thế, bà cố hít vào thật sâu, lựa lời:

   Ông không ở nhà mà xem, lúc nào cũng khách quan với lại lập trường! Tôi hầu mẹ đẻ của tôi ngày trước cũng chưa bằng tôi hầu nó bây giờ. Còn ông muốn hầu nó nhiều hơn nữa thì xắn tay áo lên. Xin mời! Nhà này là nuôi cả hai mẹ con nó. Có cái gì bán được, tôi câm lặng bán hết rồi. Ông liệu xem bán đỡ hai cái quạt hay cái tivi đi mà trả nợ.

   Không được! Nếu thế thành chuyện tôi vào Nam đi buôn à! - Ông Tiến giãy lên. Song cũng chính lúc này ông mới chợt hiểu vì sao từ hôm về ông không thấy chiếc xe đạp pơ-giô cũ của bà Hà đâu nữa. Lúc vui vẻ, bà Hà thường kể chiếc xe đạp mẹ cho ấy là của hồi môn của bà khi về với cán bộ Tiến.

   Ông còn muốn lo cho gia đình thì hãy nghe lời tôi... – Bà Hà cố điềm đạm: - Tốt nhất là ông bán tất cả các thứ ông mang về đi, rồi cho vợ chồng nó ra ở riêng. Chúng nó chưa có nhà thì cho chúng nó hẳn một phòng riêng biệt trong căn nhà này. Cả hai đứa vừa mới ra trường, may là đã có công tác. Tự lập chúng nó sẽ nên người. Như thế còn hy vọng cứu được gia đình chúng nó khỏi tan vỡ. Để chúng nó mỗi đứa một nơi thì chỉ khổ cho các cháu nội của ông thôi. Ông nghe thủng chưa?

Ông Tiến im lặng, có lẽ đang cân nhắc những ý kiến của bà Hà.

   Nếu hai vợ chồng chúng nó còn son rỗi, tôi sẽ xử sự theo cách khác. Nhưng gia đình vợ chồng nó sắp sửa hai thành bốn rồi, nhất thiết phải bán các thứ đi, tạo dựng một gia đình nghiêm túc cho hai đứa cháu ông.

   Bà điên à? Như thế danh dự của tôi còn gì nữa!

Bà Hà không đáp lại, chỉ kéo gối ra xa chồng thêm chút nữa.

   Hỏi thật bà, có thể tôi nhầm. Bà xem cái Lợi đã to bụng chưa? Tôi thấy khang khác thế nào ấy. Nếu nó chưa làm sao cả, thì nhà mình vẫn còn tìm cách từ chối được. Thật chẳng khác gì hai bố con, rõ là ê mặt. Rồi trăm cái mồm của thiên hạ sẽ chõ vào!

Bà Hà lại nhích xa ra chút nữa, nằm yên. Ông Tiến quàng tay lên bà Hà, tay ông bị hất ra, bà Hà cũng nhích ra xa thêm. Ông Tiến biết là mình đã đi quá phần lãnh thổ của mình rồi, chỉ muốn biến thành một quả bom nổ tung cái nhà này lên.

...Chẳng lẽ vợ bây giờ cũng không còn là vợ nữa? Trời với đất!

Ông Tiến vùng vằng làm mình làm mẩy có dụng ý, mảnh giát giường cót két dưới lưng ông làm reo phản đối, thanh ở giữa giường trồi lên, cọ cọ vào xống lưng ông đau nhói. Ông Tiến hiểu bà Hà đã xê ra sát mép giường rồi, nhưng sự quẫn bách vẫn không buông tha ông. Ông rên hừ hừ, từng lúc thở dài thật to, cố cho bà Hà nghe thấy. Nhưng ông chỉ cảm thấy sự tĩnh lặng xa lắc xa lơ, ông cố nghe mà không thấy cả tiếng bà Hà thở nữa.
... Thế này thì chẳng còn ra cái thể thống gì! Đã thế ta phải dùng sức mạnh!
Như một bản năng, ông Tiến vung tay vồ lấy ngực bà Hà, kéo toạc áo bà ra. Ngay lập tức ông bị bà Hà du bắn trả lại:

- Ông có để cho tôi yên không?

Dứt lời, bà Hà rút ngay cái chiếu dưới chân giường, trải xuống đất nằm một mình.

Đêm khuya trở lại với yên tĩnh. Cái đồng hồ quả lắc trên tường tích tắc đều đều rồi điểm hai
 

giờ. Ông Tiến đối thoại trong đầu với những tiếng tích tắc và quyết không để cho bà Hà trút hết mọi trách nhiệm lên ông. Đắn đo mãi và dồn nén mọi nghị lực, đột nhiên ông gào lên:

- Chung quy chỉ tại cái giống nhà bà thôi!

Quả bom nổ tung lại là bà Hà. Bà bật đèn đứng sững giữa nhà, hay tay chống háng:

   Trời ơi!.. Ông nói cái giống nào? Ông có quyền gì mà xúc phạm gia đình tôi? Sao ông ăn nói thiếu học thức thế! Người không có học cũng không đến nỗi ăn nói như ông. Ơn nghĩa là như thế à?! Ông ơi là ông! Thế mà lại còn lên mặt đi dạy người khác! Cái giống ấy là giống nào hả? Ông nói đi! Là cái giống nào! – bà Hà rít lên vì giận.

   Thì cái giống nhà bà ấy, chứ còn giống nào nữa! Đừng có mà lăng loàn! - ông Tiến cũng không vừa, nhưng chỉ nằm giữa giường, không thèm ngồi dậy.
   Cái giống nhà tôi là cái giống nào hả? Giống công chức lưu dung à? Giống tiểu tư sản à? Biết thế sao còn rúc đầu vào? Thế còn cái giống nhà ông thì làm sao? Tôi nói cái giống nhà quê ra tỉnh ấy. Tôi nói cái giống lúc nào cũng lên mặt đạo đức, nhưng rỗng tuếch! Ông hiểu chưa?.. Ông lo gì cho con cho cháu ông nào? Ông cứ ngẫm lại xem đã lo gì cho con cho cháu ông? Ông chỉ lo cho danh giá của chính mình thì có. Một điều xưng xưng là cán bộ trung ương, hai điều xưng xưng là phải giữ thể diện cán bộ trung ương! Đấy là cái giống trưởng giả học làm sang! Ông đã biết rõ thân phận ông chưa? Thật ra ông chỉ là đạo đức giả. Đạo đức giả, ông có biết không!

Một sức mạnh nào đó dựng đứng ông Tiến lên giữa giường, tay ông chỉ vào mặt bà Hà:

   Bà đừng có quá quắt! Chỉ mình bà lo cho con cháu thôi à? Tôi mà không lo cho con trai bà thì bây giờ thằng Thắng không phải đi bộ đội đánh nhau trên biên giới thì cũng rũ xương ở Campuchia! Không thư từ chạy đủ các cửa thì vợ chồng thằng Thắng bây giờ cứ là đứng đường đứng chợ, là thất nghiệp, bà hiểu chưa? Như thế mà còn bảo là không lo gì cho con cháu à!

   À cái tài chạy vạy của ông thì tôi thua rồi, thua xa rồi!

   Này tôi cấm bà ăn nói lung tung! Tôi là tôi cấm! Tôi cấm!

   Bộ đội người ta vào Sài Gòn đánh giặc. Còn ông thì vào Sài Gòn dạy người và khuân về chiến lợi phẩm! Thế không là đạo đức giả thì là cái gì!? Bây giờ phải bổ sung thêm cái tài chạy vạy nữa! Vẽ ông lên như thế đẹp chưa?..

Đến đây ông Tiến cảm thấy thân thể ngay đơ như bị bấm huyệt! Cái miệng bị đóng hàm thiếc không nói được nữa. Cái đầu cũng bị một thứ gì đóng vào ù cả tai, không làm sao nghĩ ra được lý sự nào để trả đũa lại bà Hà.

Ức lắm!

Trong bụng nghĩ như vậy, ông Tiến thò tay tắt đèn rồi đổ vật xuống giường.

Đêm đen nặng nề đến nghẹt thở, ông Tiến vật vã, nhưng lần này là cho chính mình.

...Những ngày sau, chờ không khí giận dỗi giữa hai ông bà nhạt dần, bà Hà lại kiên trì thuyết phục ông Tiến phải tìm mọi cách ngăn cản mối nguy xảy đàn tan nghé trong cái gia đình con con của Thắng. Bà vẫn nuôi hy vọng: Có một gia đình riêng nghiêm túc, vợ chồng Thắng sẽ biết lo và sẽ gắn bó với nhau. Sở dĩ bà kiên trì chịu đựng mọi điều chướng tai gai mắt trong cách sống của vợ chồng Thắng là muốn chờ ông Tiến về giúp thêm một tay răn bảo chúng nó, không dè ông Tiến lại trút hết mọi ngang trái lên bà. Lại thêm vài ba trận ông bà cãi nhau. Lại căng thẳng. Lại dịu đi. Lại căng thẳng ...

Cực chẳng đã, bà Hà nhất quyết hành động một mình.

Một hôm bà nói đầy đủ ngọn ngành nhưng cực kỳ gay gắt với vợ chồng Thắng: Hoặc là tự lập xây dựng thành một gia đình riêng nghiêm túc, bà sẽ giúp đến cùng. Bằng không cuốn gói mang nhau đi đâu thì đi, muốn sống với nhau ra sao thì sống, phải ra khỏi nhà và coi như không có bà trên đời này.

May thay, sự quyết liệt của bà khiến vợ chồng Thắng xin bà giúp đỡ đến cùng. Ngay ngày hôm sau bà bảo Thắng đem bán cái xe máy và đôi quạt cây để trang trải nợ nần, phần còn lại lo cho vợ chồng Thắng một cuộc sống riêng. Cái tủ lạnh và cái tivi bà giữ lại cho cả nhà.
 

Khi thấy người lạ đến nhà dắt cái Honda và chất đôi quạt cây lên xích-lô, ông Tiến làm ầm lên. Nhưng bà Hà cứ lầm lỳ làm theo ý mình. Cái nhìn của bà như sẵn sàng nhai ông vụn ra. Ông Tiến chột dạ. Chợt nhớ đến lời đồn đại trên đang tìm người thay ông trưởng Ban, ông Tiến tự làm nguôi cơn thịnh nộ của mình: ...Trời, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa! Không thể khinh xuất được! Một ly một tý cũng không được!..

Cuộc hành trình của gia đình Tôn Thất Loan từ Thành phố Hồ Chí Minh đến California mất ngót nghét sáu tháng. Trước hết là qua các loại trại tập kết ở Bangkok, rồi đến các trại thẩm tra, thẩm định các nấc khác nhau ở Philippines, và gần 3 tháng trong các trại khác trên đảo Guam, vừa để chờ nhau, vừa để làm thủ tục nhập cư vào Mỹ. Sau đó cả gia đình Tôn Thất Loan được đưa vào trại Camp Dalton ở phía Bắc California, một trong những nơi tập trung những người di cư từ Việt mới sang.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #15 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 01:57:08 pm »

Vào trại Camp Dalton được vài tuần, viên sĩ quan Mỹ phụ trách nhập cảnh Mai- cơn Fốc (Michael Fox) mời gia đình Loan đến ăn cơm tối tại nhà riêng.

Bang California phát triển nhất nước Mỹ, nhưng trại Camp Dalton lại là vùng hoang vắng, vì chung quanh nó chỉ có rừng và núi bát ngát. Tiệc tùng mời mọc nhau là một thú vui thực sự của những bậc trưởng giả nửa tỉnh nửa quê ở vùng hoang vắng này. Đấy là dịp để thưởng thức rượu và thức ăn, để có dịp gặp nhau tán gẫu. Cũng có người lại coi Camp Dalton là thiên đường của tự nhiên vì môi trường thiên nhiên trong lành của nó. Vì quá hoang vắng, nên người ta thích bịa ra lý do này lý do khác để được cắt lượt mời mọc nhau, để thay đổi không khí trong nhà và sớm được đến lượt mình. Trong bữa cơm hôm ấy Fốc nói cho riêng mình Loan biết: Chiến tranh ngày một ngày hai sẽ lại đến thăm đất nước ông đấy!

Loan hiểu ngay Fốc nói gì.

Fốc cho Loan biết tin này, một phần vì để trả ơn sự giúp đỡ tận tình của Loan khi Fốc làm việc ở phái đoàn MAAG đầu những năm 1960, một phần vì muốn nói cho hả nỗi đau Mỹ thất trận ở Việt Nam. Nhưng còn một lý do khác thường nữa: Fốc muốn chứng tỏ với Loan mình bây giờ là nhân vật quan trọng, muốn vây vo chức vụ mới. Làm nghề này Fốc hiện vẫn mặc thường phục, nhưng bây giờ có học hàm tiến sĩ và quân hàm đại tá. Khi làm ở phái đoàn MAAG Fốc mới chỉ là một nhân viên quèn, còn Loan lúc bấy giờ đã là sĩ quan liên lạc, được Sài Gòn cử ra để làm việc với MAAG.

   Ngài muốn khoe với tôi một chiến công mới của CIA, có phải thế không ngài đại tá Fốc?

   Không, thưa đại tá Loan. Đây không phải là tin của CIA, càng không phải là nhận định của giới ngoại giao. Đó là tin được thông báo chính thức.
   Thời buổi hiện đại ngày nay làm chiến tranh không cần yếu tố bất ngờ hả ông Fốc?

   Có chứ, nhưng chỉ cần bất ngờ với Hà Nội thôi.

   Quả là sự bất ngờ này vượt quá trí tưởng tượng của tôi. - Loan thốt lên rồi im bặt.

Fốc nhìn bộ mặt ngây dại của Loan, rồi đổ cười ngặt nghẽo, mãi mới trả lời:

   Đại tá Loan, ông đúng là một con cáo già. Tôi phải tặng cái tên của họ tôi cho ông mới đúng. Ông có tài bắt tôi đã nói một thì phải nói hai. Đã đến lúc ai cũng phải cùng chúng tôi gánh vác trách nhiệm chứ!

   Tôi trả lại cái tên con cáo cho ông. Hình như ông bây giờ còn vất vả hơn thời chiến? - Loan trả đũa câu nói ẵm ờ của Fốc.
   Ông Loan tinh lắm. Chịu ông đấy. Con số người Việt nhập cư vào Mỹ lúc này gần một triệu rồi. Không may là số thuyền nhân bị chết vì gặp nạn và vì hải tặc không ít. Sao ở nước các ông có nhiều người không biết quý trọng mạng sống của mình thế, cứ đua nhau đến Mỹ.

   Loan nghĩ bụng: Thà rằng mày tát tao một cái còn hơn!

Xế trưa hôm sau Fốc đích thân đến tận nơi ở của Loan, cho biết quân Trung Quốc đã tấn công Lạng Sơn và các tỉnh biên giới khác của Việt Nam. Nói một thôi một hồi rồi mà Fốc vẫn còn hớt hải:

- Tôi thật không ngờ, mọi việc lại xảy ra theo tốc độ ánh sáng! Tối hôm qua tôi cho anh biết
 

tin này. Thế mà lời nói vừa mới bay ra khỏi miệng, súng đã nổ rồi!..

Tôn Thất Loan lúc này như bị điện giật.
   Nói chính xác, như thế phía Mỹ được báo trước mấy ngày? – Tôn Thất Loan kinh ngạc hỏi
lại.

   Khoảng 3 đến 4 ngày.

   Ngày nay làm chiến tranh không cần chuẩn bị?

   Đại tá Loan, ông luôn đưa ra những câu hỏi thông minh. Sao lại không? Phải vận động sắp xếp cả một thế giới đấy.

Tôn Thất Loan lặng người, điếu thuốc lá rơi khỏi tay xuống sàn nhà mà không biết, Fốc nhặt giúp lên đưa cho Loan.

Ngay lập tức đại tá Loan nhớ lại những ý kiến tiên đoán của trung tá Phạm Trung Nghĩa hôm nói chuyện tại trại cải tạo B7 về những khó khăn thách thức thời kỳ hậu chiến , nghĩ đến Lễ, em của Nghĩa, trong lòng ông lại rối lên những điều Lễ nhờ cậy. Đại tá Loan thừa nhận:

...Tình hình diễn ra thật là phức tạp gấp hàng chục hàng trăm lần so với những lo lắng của Nghĩa lúc bấy giờ. ...Dù sao trung tá Nghĩa quả là người nhìn xa trông rộng. Những điều ông ta nói ở trại B7 là chân thực.

...Tình hình gay cấn thế này thì lại thêm khó cho những người còn đang mắc lại trong trại cải tạo đây...

Khi ra về, Fốc nói vài câu xã giao:

   Tại bang California này, đại tá có thể gặp được nhiều bạn bè cũ đấy.

   Vâng tôi sẽ tính.

   Có lẽ bang này đông người Việt nhất nước Mỹ.

   Tôi sẽ nghĩ đến sau.

Câu trả lời vu vơ làm cho Fốc biết Loan chưa định thần, Fốc vỗ nhè nhẹ vào vai Loan:

   Lần trước đại tá là khách của tôi đêm Nô-en B52 dành cho Hà Nội, lần này đại tá là khách của tôi cũng đúng lúc, có phải không?. Chúng ta gặp nhau toàn vào những dịp xảy ra những sự kiện đáng ghi nhớ.

   Huh...

Ngay từ khi còn chưa rời Guam để định cư ở California, Tôn Thất Loan nhiều lần làm việc với Mai- cơn Fốc về trường hợp của Lễ, khẩn khoản yêu cầu Fốc giải quyết dứt điểm. Mai -cơn Fốc thừa nhận có sai sót, hứa sẽ đích thân đôn đốc việc này. Fốc còn cho Loan biết là hình như đã có lần gặp sĩ quan Phạm Trung Lễ ở đâu đó trong tổng hành dinh Sài Gòn năm nào...

Chân ướt chân ráo đến California, Tôn Thất Loan đi tìm ngay ông bà Phạm Trung Học và vợ chồng Hoài- Nhân, theo địa chỉ Lễ cho. Họ ở chung trong một khu biệt thự giản dị nhưng sang trọng ở San Jose. Riêng vợ Mạnh đã đi bước nữa, hiện đang sống ở Canada . Tuy tâm trạng còn đang ngổn ngang nhiều điều, song Tôn Thất Loan vẫn nhận thấy ngay ông già Học có vóc người cao lớn như anh em Lễ, chủ nhà có cuộc sống khá giả. Gặp người trong nước ra, lại là bạn thân của Lễ, thật là một dịp quý hiếm. Cả khách và chủ đều cởi mở. Riêng Tôn Thất Loan còn hy vọng cuộc gặp này sẽ thiết thực chuẩn bị cho cuộc sống lưu vong của mình ở đây.

Khi đại tá Tôn Thất Loan hỏi tin tức về Huệ, con của gái Lễ, trả lời của chủ nhà làm ông ta rụng rời: Huệ đã bị hải tặc giết trong khi vượt biển từ trại di tản ở Bangkok chạy sang đảo Guam. Hoài đã viết thư báo cho Lễ biết, nhưng chưa thấy hồi âm.

Tôn Thất Loan nhớ rất kỹ: Khi chia tay ở Bảo Lộc, Phạm Trung Lễ dặn đi dặn lại cố tìm bằng được tin tức về Huệ.

Chính người yêu của Huệ, đã tìm đến nhà Hoài để kể cho nghe thảm hoạ đã xảy ra.

   ...Cháu khổ quá, đau đớn cho Huệ quá, cô Hoài ơi... Tất cả là tại cháu cô ạ. Chúng cháu không chờ đợi lâu hơn nữa được...
 

Hoài thuật lại cho đại tá Tôn Thất Loan tỷ mỉ từng chi tiết những gì người em họ sống sót trong chuyến đi này đã kể cho mọi người...

...Đúng ra khó nhất phải là đoạn chạy từ Sài Gòn sang Bangkok, thế nhưng Huệ và người em họ lại đi lọt một cách dễ dàng. Đơn giản là hai người được đưa trốn xuống khoang hầm một tầu buôn lớn, qua một đêm đã tới Bangkok. Từ đây họ có thể đi công khai, miễn là có tiền. Huệ và người em họ sống lang thang hết trại này sang trại khác, mục đích là tìm cách nhập vào một đoàn lớn để vượt đại dương. Nhiều người bị đánh lừa, mất hết cả tiền nong, lại bị tống vào trại tỵ nạn để xét trả về Việt Nam! Cuối cùng thì Huệ và người em họ cũng ghi tên vào được một đoàn, được bảo đảm là có sự bảo lãnh của những người đáng tin cậy...

Tất cả chung tiền mua một thuyền lớn đủ sức chở khoảng một trăm người, mua luôn cả tốp thuỷ thủ. Phải chuẩn bị mất gần một tháng mới xong mọi việc. Thế nhưng vừa mới lênh đênh trên biển được một ngày một đêm, thuyền đã bị hai thuyền con của hải tặc áp sát, khoảng mười lăm mười sáu tên hải tặc nhảy lên thuyền di tản. Mọi chuyện xảy ra cứ như là được sắp xếp từ trước, đến mức nhiều người nghi rằng đám thuỷ thủ và các hải tặc cướp thuyền là cùng một bọn! ...Chuyện xảy ra đau lòng quá ... Huệ cũng nằm trong số các phụ nữ bị hiếp. Trước cảnh tượng này một số đông nam giới có đến khoảng hai chục người xông ra ngăn cản, bọn giặc xả tiểu liên bắn chết luôn một lúc sáu người. Số nam giới còn lại chạy dạt ra, mặt cắt không còn giọt máu... Khi bọn chúng buông Huệ ra, ném một mớ quần áo vào mặt Huệ, thì Huệ đã chết ngất. Hải tặc cướp tất cả tiền bạc của mọi người, đập phá động cơ, gỡ điện đài của thuyền, rồi bắt cả tốp thuỷ thủ đem đi. Còn lại tám chín chục con người già trẻ lớn bé lênh đênh giữa biển, trên một con thuyền chết, sàn thuyền đầy máu... Mọi người sợ hãi đến mức bọn cướp biển đã đi xa rồi mà ai chỗ nào vẫn ngồi nguyên chỗ nấy, không dám nhúc nhích! ...Khi Huệ tỉnh lại trên sàn thuyền, người em họ chạy đến cố dìu Huệ vào khoang, nhưng Huệ kiên quyết gạt đi, tự mặc lấy quần áo, rồi đưa hai tay bám lấy mạn thuyền, cố đứng dậy. Huệ tự trèo lên ngồi trên đống buồm, hết nhìn thuyền lại nhìn nước rất lâu, rồi đột nhiên nhảy xuống biển...

Hai ngày trôi dạt, mãi đến ngày thứ ba mới có một tàu buôn Australia đi ngang qua ứng cứu cái thuyền chết...

Bà Học lần nào ngồi nghe kể lại cũng sụt sùi nước mắt. Khi còn ở Sài Gòn bà Học rất quý Huệ, vì Huệ là đứa cháu nội đầu tiên của ông bà, lại rất mến bà. Có những lúc cả Lễ và Thảo đều quá bận, hai vợ chồng phải đem Huệ và Tín gửi bà hàng mấy tháng liền...

Ông Học trầm ngâm, tìm cách chuyển câu chuyện ra khỏi nỗi đau đớn về Huệ:

   Dân mình khổ quá, có phải không đại tá Loan? Chiến tranh liên miên đời này sang đời khác chẳng bao giờ dứt. Hạnh phúc của người dân bị huỷ diệt bằng mọi cách. Bây giờ lại phải đánh nhau với Khmer đỏ ở Campuchia, phải đánh cả Trung Cộng phía Bắc. Theo tôi đấy chỉ là đánh nhau với một địch thủ trên hai chiến trường mà thôi.

Cho đến giờ phút này ông bà Học và gia đình Hoài vẫn chưa biết Nam đang chiến đấu trên mặt trận Campuchia.

   Trời đất, sao bác có thể đi tới nhận xét táo bạo như vậy?

   Tôi dựa vào những hiểu biết của tôi về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, các tin báo chí, rồi luận ra như thế. Ông Loan ạ, tại đất nước tự do này có nhiều lời bình nghe nổi da gà luôn, không thể bỏ qua được.

   Tôi thật không ngờ bác lại quan tâm đến chính trị.

Nhận xét của Tôn Thất Loan làm ông già Học phải cải chính:

   Không phải thế đâu. Sài Gòn làm gì có chỉ số Dow Jones, làm gì có thị trường chứng khoán.., cho nên doanh nhân chúng tôi phải có cái mũi thính thay thế. Cứ làm miết như vậy, quan tâm đến thời cuộc trở thành thói quen từ đấy.

   Cung cách nói năng của bác cứ như là chính trị gia có hạng!

   Tôi nói gì thì cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ thôi. Đại tá thừa biết hơn tôi thế nào là Việt Nam hoá chiến tranh. Đại tá không xa lạ gì với các nhận định của ông Kít-xinh-giơ (Kissinger(*))[(*) Cố vấn của đối ngoại của Tổng thống Mỹ Nixon.] , của biết bao nhiêu người
 

chi tiền cho cuộc chiến tranh này: Người Trung quốc quyết tâm đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng... Từ đấy mới có câu chuyện Thượng Hải, chuyện tổng thống Nixon, rồi đến câu chuyện Oát- tơ Ghết (Watergate) ... Còn tôi thì đi đến cái quyết định chạy bán sới khỏi Sài Gòn trước khi quá muộn, vả lại lúc ấy tôi đã ngửi thấy... - ông già Học bỏ lửng câu nói của mình.

   Bác Học ạ, thực quả tôi không biết mình đang được nói chuyện với một doanh nhân hay một chính khách!- Thưa đại tá, sống ở Sài Gòn đối với tôi hai thứ người ấy chỉ là một. Khác chăng nghề của tôi chủ yếu là kiếm tiền, người làm chính trị kiếm cả quyền lẫn tiền! Nói chung họ ăn bẩn hơn cánh thương gia chúng tôi. Mỗi khi đứng ngồi một mình, tôi lại băn khoăn không sao cắt nghĩa được: Tại sao dân nước mình cứ bị dồn vào cái thế sinh ra hình như chỉ là để hứng chịu chiến tranh? Chẳng lẽ cái thế ấy là trời bắt thế hả đại tá Loan? Lại còn thêm cái chuyện giằng xé nhau không biết chán nữa chứ! Tại sao như thế, thưa đại tá?

   Thực tình là ông Nghĩa gợi ra cho tôi một cách nhìn về chiến tranh trên đất nước ta. Hôm nay bác lại cho tôi cách nhìn chiến tranh từ một khía cạnh khác nữa. Hoá ra cho đến nay tôi sống vô tâm đến mức không khác gì một con rối? Bác đang làm tôi quẩn trí.

   Thưa đại tá, tôi nói theo cách hiểu của tôi, mong đại tá đừng để bụng làm gì.

   Hiện nay tôi đang hoang mang bác ạ, không nghĩ được điều gì ra hồn. – Tôn Thất Loan giãi bày tâm trạng mình.
   Cảm nghĩ của tôi có thể sai. Có thể vì tôi xưa nay vốn bàng quan với thế sự, với nghĩa là chỉ thích tiền và ghét chính trị.
   Bác rất ghét chính trị ạ?

   Vâng, quả là như vậy. Nhưng bây giờ không bàng quan được nữa. Con tôi chết trong chiến tranh. Ba anh em trai tôi và ba cháu tôi ngoài Bắc chết trong chiến tranh. Gần đây lại thêm cháu tôi chết trong dư chấn của chiến tranh... Rồi tôi nhìn ra cả nước ta, suốt gần nửa thế kỷ nay, kể từ khi Lễ và Hoài mắc kẹt trong Sài Gòn không trở về được với cha mẹ mình... Vì thế tôi đánh vật một mình: Chẳng lẽ tất cả những diễn biến ấy là định mệnh, là dòng lũ lớn cuốn phăng tất cả... Thực tình bao nhiêu năm nay tôi cố tìm một chỗ đứng ngoài cuộc mà cũng không được...

   Gia đình bác mất mát nhiều quá. Nhờ trời đất phù hộ, gia đình tôi toàn vẹn. Đành rằng thất trận thì có cái nhục của thất trận bác ạ.
   Đa tạ sự thông cảm của đại tá. Đại tá nghĩ như vậy cũng được.

   Bác nói thế là bác nghĩ khác tôi ạ?

   Thưa vâng.

   Thôi chết, tôi làm bác phật lòng?

   Không đâu. Đại tá chỉ nghĩ khác tôi thôi. Tạm gạt chuyện Tây Tàu sang một bên, tôi muốn diễn đạt thế này: Chiến tranh của các anh các cháu tôi, tôi cũng mất. Chiến tranh của đại tá, của con tôi, của Lễ – cứ tạm gọi như thế đi, tôi cũng mất! Hay là đại tá không mất mát gì nên nghĩ khác tôi? Cũng có thể đại tá đứng hẳn về một bên nên chỉ nghĩ đến chuyện thất trận? Phía bên kia chắc cũng có cách nghĩ một bên như vậy, bên của người thắng trận.

   Vâng, có lẽ bác có lý.

   Có thể tôi là người cố tình đứng ngoài cuộc, hoặc chỉ là dân, nên tôi nghĩ khác đại tá? Cảm nhận của tôi về mất mát cũng khác với cảm nhận của đại tá? Nhìn theo phía nào tôi cũng mất! Đại tá có thấu hiểu điều này không?

   Trời ơi, bác Học!

   Đại tá ơi, là thị dân, nói nôm na là dân buôn, tôi còn nghĩ rằng nhiều nước loanh quanh làm giàu là nhờ chiến tranh trên đất Việt ta!

- Bác đã bộc bạch như vậy, tôi cũng xin thưa: Ngoài năm mươi tuổi rồi, nghĩa là đã quá nửa đời người, nhiều khi tôi vẫn phải tự hỏi mình còn là người Việt không?.. Tôi luôn cố tìm cách khẳng định điều này, nhất là trên đường chạy sang đây...
 

   Tôi ngoài bảy mươi mà nhiều lúc vẫn còn phải tự hỏi mình câu ấy, đâu riêng mình đại tá. Cuộc đời người dân Việt ta mỗi người mỗi cảnh, nhưng có lẽ đa phần là nhiều nỗi gian truân. Chiến tranh đâu có biệt đãi vùng cấm nào...
   Đấy là lời an ủi quý hoá của bác đối với tôi.

   Ông xem, cả hai cuộc chiến tranh, thực lòng là tôi tìm cách đứng ngoài. Nhưng đến cuộc chiến tranh của Mỹ thì tôi không thoát. Cuộc đời lăn lộn trong kinh doanh rèn luyện cho tôi có cái mũi thính. Tôi đã nhìn thấy trước kết cục cuộc chiến tranh này sẽ như thế nào, dứt khoát bỏ cơ nghiệp, bỏ Sài Gòn sang đây từ đầu năm 1973. Bạn bè gọi tôi là thỏ đế, mặc. Tôi nghĩ và tôi làm theo suy nghĩ của tôi. Bình sinh tôi vốn ương ngạnh như vậy, cho nên học xong thành chung tôi bỏ ra đi buôn. Bắt đầu từ đi làm thuê cho các hãng buôn.

   Bác có tin vào số mệnh không?

   Thực lòng tôi không biết. Tôi chỉ tin vào đồng tiền tôi làm ra và tin vào đức Phật. Khi đã có được đồng tiền trong tay thì cầm chắc nó là của mình. Tôi tâm tâm niệm niệm không bao giờ làm điều gì ác, chỉ mong ở hiền gặp lành. Thế mà tai hoạ vẫn giáng vào gia đình tôi. Đất nước không yên, khác nào chạy trời sao khỏi nắng... Tôi ghét chế độ Sài Gòn, nhưng không thể chấp nhận cộng sản. Vì vậy tôi quay lưng lại với đất nước mình, cốt mong được yên thân! Thế mà vẫn phải chịu đựng bao nhiêu mất mát!

   Bác có ở lại Sài Gòn thì vài năm sau bác cũng phải chạy sang đây thôi! Xin chịu con mắt nhìn đời của bác. – Tôn Thất Loan thán phục.
   Đời tôi đã chứng kiến cuộc giáo dân di cư từ Bắc vào Nam. Bây giờ chúng tôi phiêu dạt sang đây, trước tiên là từ đây nhận tin con trai tôi chết trận, rồi ngồi đây chứng kiến các dòng người di tản nước ta đổ vào Mỹ... Rồi đến các tin đau đớn từ miền Bắc, đến cái chết của cháu gái tôi!.. Tất cả càng làm cho tôi xót xa về câu hỏi có hay không có định mệnh! Ông còn chưa biết cái mùi tha hương là gì đâu, ông đại tá ạ.

   Vâng, thú thật là tôi vẫn chưa ra khỏi cái trớn của cuộc tháo chạy trước ngày 30 tháng Tư.

   Tôi sống ở đây bảy năm rồi. Có thể nói cuộc sống của chúng tôi sung túc. Nhưng càng về già tôi mới càng hiểu câu nói cáo chết ba năm quay đầu về núi! Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào hiểu nổi là tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh chị em con cháu tôi ở Hà Nội được nữa! Cha mẹ tôi sinh hạ ra bốn anh em tôi, nhưng giờ chỉ còn một mình tôi sống sót, đang sống cuộc đời tha hương ở Mỹ! Ông có thể hình dung nổi không? Thật là số phận trôi giạt...

   Nhưng dù sao bác cũng làm chủ được đời mình và thành đạt lớn trong kinh doanh.

   Không hẳn như thế đâu ông Loan ạ. Đời tôi cũng phong ba bão táp nhiều lắm. Tôi nghiệm ra là cả nước bị nạn thì không ai được yên lành! Chính vì thế tôi cố bám lấy hai đức tin: Tin vào đồng tiền tôi làm ra và tin vào lẽ sống trong đạo Phật!

   Thưa bác, tôi bây giờ hoàn toàn bế tắc. Cũng chẳng có cái gì để mà tin. Nếu ai hỏi tôi bây giờ phải làm gì, tôi xin chịu, bác ạ. Không thể tìm được câu trả lời nào cả! Những điều bác nói làm tôi nhớ đến ông Phạm Trung Nghĩa, dù là tôi chỉ gặp ông ấy một lần.

   Cháu tôi là cộng sản, còn ông thì chống cộng. Ông tâm đắc với cháu tôi điều gì? Ông và cháu tôi là bất cộng đới thiên cơ mà!
   Đúng là bất cộng đới thiên như bác nói. Thực tình là như vậy.

   Chúng tôi có quan hệ máu mủ ràng buộc, nhưng ông với cháu tôi lại là người dưng nước
lã...

   Vâng chính vì thế mà tôi càng suy nghĩ bác ạ. Có điều gì đó tôi tán thành ông Nghĩa, khâm phục ông Nghĩa, rồi cùng một lúc tôi lại không chấp nhận những điều tôi hiểu được qua tiếp xúc với ông Nghĩa! Tôi đã nói với ông Nghĩa, dù có được đổi đời tôi vẫn không chọn con đường của ông ấy. Con đường tôi đi, tôi đã đi gần hết cuộc đời...

   Các ông khá thẳng thắn với nhau đấy.

   Đúng thế ạ. Ấy thế mà nhiều lần tôi còn nghi vấn mình đến mức phải tự hỏi: Hay là trong trại cải tạo tôi chơi thân với Lễ nên chịu ảnh hưởng của ông Nghĩa.
 
   Ông là bạn thân của Lễ. Xin coi chúng tôi như chỗ thân quen, ông cứ nói đi. Chẳng mấy khi được hầu chuyện ông.

   Thưa bác tôi không dám. Tôi nghĩ... Có lẽ tâm trạng lo lắng hiện nay ở mỗi người là cái gì đó chung nhất còn có được trong mỗi chúng ta. Đây là cái gì đó để còn có thể bấu víu vào nhau, cho dù bác, anh Lễ, tôi và ông Nghĩa mỗi người lo một điều khác nhau, vì những lý do khác nhau. Mong là như thế...

   Lạy trời tất cả chúng ta còn có chút chút tâm trạng lo lắng chung này thật. Mong manh quá có phải không đại tá?
   Vâng, rất mong manh. Thưa bác, bà con người Việt mình sống với nhau ở đây thế nào ạ?

   Tha hương đã buồn, nhìn vào cộng đồng người Việt ta, tôi càng buồn. Vì thế tôi tìm cách lẩn tránh tất cả...
   Tại người Việt mình vốn có truyền thống đố kỵ nhau, có phải thế không bác?

   Người Việt sống với nhau ở Sài Gòn như thế nào, sang đây vẫn y nguyên thế! Kỳ lạ đến như vậy là cùng! Bây giờ còn thêm một chuyện nữa để cãi vã nhau: Người nọ đổ tội cho người kia đã gây nên thất bại trong chiến tranh chống Việt cộng!

   Có lẽ vì còn thiếu cái chút chút lo chung như bác nói. Bác có cho là như vậy không ạ?

   Rồi ra sống ở đây ông sẽ tự đánh giá lấy. Tôi không muốn áp đặt nhận xét của mình...

   Những gia đình ở đây có bà con họ hàng ruột thịt là Việt cộng có bị làm rầy rà gì không ạ?

   Về phía Mỹ đến nay tôi chưa thấy, nhưng ta làm rầy rà ta thì nhiều đấy.

   Thế nhà ta có làm sao không ạ?

   Con trai tôi Việt cộng giết, nhà in của tôi Việt cộng tịch thu. Tôi lại chơi thân với mấy ông đương kim nghị sĩ ở bang này từ khi họ chưa được bầu. Bây giờ thân thế gia đình tôi lại ghi thêm việc đau buồn nữa là cháu nội tôi bị hải tặc giết trên biển trong khi bỏ trốn khỏi chế độ Việt cộng! Tôi hỏi ngay vào mặt những người đến vận động tôi: Có ai trong các anh đây dám đứng ra so sánh với tôi xem ai mất mát nhiều hơn ai vì Việt cộng không? Thế là bọn họ chào tôi lễ phép rồi lủi đi! - Ông Học nói đên đây dừng lại, chợt nhớ ra điều gì: -...Cách đây ít hôm họ đến chỗ chúng tôi quyên tiền lập nghĩa binh cứu quốc, cử về nước đánh Việt cộng. Họ cho rằng đánh Hà Nội lúc này là tốt nhất, cần lập Mặt trận cứu quốc.... Thế nào họ cũng mời ông tham gia đấy. Ông định thế nào? Họ nói rõ với tôi là ai không tham gia sẽ bị ghi sổ!

   Thế bác trả lời họ ra sao ạ?

   Là một đại tá, ông có nghĩ rằng việc làm ấy có một ý tưởng nghiêm túc không? – Cho dù người mưu đồ việc này điên cuồng chống Hà Nội đến thế nào chăng nữa...

Tôn Thất Loan suy nghĩ một lúc:

   Bác đặt câu hỏi như vậy là bác đã nhìn thấu câu chuyện. Tôi xin bái phục. Nhưng dù sao bác cũng phải nói với họ oui hay non chứ ạ?
   Tôi không cần oui, mà cũng chẳng cần non với họ. Tôi diễn lại cái trò lấy thân thế mình ra doạ lại như tôi vừa mới kể cho ông nghe. Họ yên và cút mất!
   Rõ thật là tôi đang nói chuyện với một con hổ. – Tôn Thất Loan chắp cả hai tay lên vái ông già Học. - ...Bác có lời khuyên nào cho tôi không ạ?
   Chết chết, xin ông đừng làm thế. - ông già Học xua tay, - Xin đừng làm tôi mang tiếng là nhồi sọ cho đại tá. Ông có thể gặp tướng Minh lớn, tướng Mậu... Nhà binh các ông bảo nhau dễ hơn. Nhưng... có lẽ đại tá cũng nên có một lời cảm ơn big Minh... - ông Học bỏ lửng câu nói.

   Thưa bác vì lẽ gì ạ?

   Tôi nghĩ... - ông Học ngập ngừng: ...Dù sao đi nữa quyết định đầu hàng của ông ta đã tránh cho Sài Gòn khỏi tan nát và tránh được đổ máu lớn cho bao nhiêu sinh mạng, trong đó có gia đình ông, có gia đình con cháu tôi...

   Vâng, bác có lý lắm.
 
   Thực ra trong tình thế đó, đấy là một quyết định đầy khó khăn, khó khăn lắm! Dù cho là ông ta có vì sợ chết đi chăng nữa, ông ta đã làm đúng. Đất nước nên ghi nhận cho ông ta điều này!
   Ôi bác Học!

Câu chuyện gián đoạn một lúc. Tôn Thất Loan trầm ngâm vì phân vân: ...Không hiểu ông già này còn dè chừng điều gì với mình hay là người rất có bản lĩnh? Một con người như thế chắc là có thừa chín chắn thì đúng hơn... Tôn Thất Loan kể lại tỉ mỉ tình hình gia đình Lễ và mình đã làm việc với Mai-cơn Fốc về chuyện của Lễ như thế nào.

   Thưa đại tá, ông có chắc gia đình anh Lễ tôi sẽ được nhập cư vào đây không ạ? – Hoài yên lặng ngồi nghe suốt buổi, chỉ chờ dịp hỏi câu này.
   Vợ chồng tôi coi Lễ là con trưởng trong nhà, mong Lễ lắm. Cả nhà vẫn gọi lui là Hai Lễ.., Thảo - con dâu tôi ốm đau đã khổ, bây giờ lại càng khổ... – giọng nói ông già Học thấp hẳn xuống, gần như nói chỉ để cho mình nghe.

Trên đường trở về nhà, một ý nghĩ hầu như chẳng có liên quan gì đến buổi gặp gỡ gia đình ông Học xâm chiếm tâm trạng Tôn Thất Loan: Mình làm mọi việc để mong đến California sớm ngày nào hay ngày ấy. Bây giờ đến nơi rồi lại thấy ngán ngẩm ...
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #16 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 01:57:45 pm »

8.

Cả nước rục rịch bước vào Tết Canh Thân(*) [(*) 1980] , thời tiết rất thuận. Song những nỗi lo chồng chất hàng ngày của mỗi gia đình và của cả đất nước khiến cho nhiều người cảm thấy Tết này chỉ còn lại một ý niệm thời gian để tưởng nhớ đến tổ tiên nhiều hơn là dịp hân hoan đón mừng năm mới. Có người còn nói, năm Thân là năm khỉ, nghĩa là cả năm sẽ có nhiều điều nhăn nhó...

Tuy vậy, thời kỳ hung dữ của chiến tranh Campuchia và chiến tranh trên biên giới phía Bắc hình như đã qua, để chuyển sang thời kỳ giành giật căng thẳng kéo dài. Dù sao thì chiến sự cũng lắng đi nhiều. Tại Campuchia hầu như không còn những trận đánh lớn, trừ một số cuộc phản công của Khmer đỏ ở Kôkông, Battambang, Siêmriệp... do tổng hành dinh đóng ở Pailin chỉ huy. Nhưng chiến tranh du kích của Khmer đỏ vẫn giữ nguyên cường độ và gây cho quân ta nhiều thương vong. Đến thời điểm này lực lượng vũ trang của Campuchia Nhân dân vẫn còn non yếu lắm. Trên mặt trận phía Bắc, những tháng gần Tết chiến sự ác liệt thêm vài tuần nữa rồi quân đội Trung Quốc rút về chốt giữ các điểm cao chiếm được trên đường biên giới hoặc nằm sâu bên trong lãnh thổ nước ta. Ngày 5 tháng 3 năm 1979 Trung Quốc tuyên bố rút quân. Không còn có các cuộc tấn công ào ạt của Giải phóng quân Trung Quốc, nhưng thay vào đó là các trận nã pháo như mưa tầm tã vào trận địa quân ta, có trận kéo dài hết đêm. Có tin nói Trung Quốc muốn thải hết cơ số đạn cũ. Từ cuối tháng 4-1979 hai bên bắt đầu thương lượng, phập phù lúc thông lúc tắc. Các cuộc đánh nhau lẻ tẻ, các sự việc nhổ cột mốc rồi cắm lấn sang đất phía ta, bên ta đưa người ra cắm lại, giành lại đất... trở thành những chuyện cơm bữa quanh năm...

Dù sao kể từ khi khi rục rịch vào Tết Canh Thân, không khí cũng dễ thở hơn một chút.

Hẹn đi hẹn lại mãi, cuối cùng thì bà già Mão, thím của Lê Hải, năm nay chịu ra ăn Tết với vợ chồng Lê Hải. Bà già đem từ quê ra cho một đôi gà. Bà Hậu bàn với chồng đem một con biếu gia đình Nghĩa, tướng Lê Hải ôm chầm lấy vợ:

   Anh chỉ muốn bế bổng em lên hoan hô.

   Không biết xấu hổ! Cứ làm như là còn trai tráng ở tuổi hai mươi ấy!..

   Hôm nay không có gà thì anh vẫn phải đi gặp anh Nghĩa. Anh đang có nhiều chuyện gay cấn quá.
   Buông em ra đi, thím Mão nhìn thấy thế này thì chết!

   Không chết đâu!..

   Anh làm sao mà mấy tuần nay lúc nào cũng đứng ngồi không yên thế?
 

- Chuyện dài lắm em ạ...

Chiều 23 Tết vợ chồng tướng Lê Hải xách gà đến thăm gia đình Nghĩa. Đây cũng là dịp để bà Hậu hỏi thêm bà Nguyệt về một vài vấn đề sư phạm, dạy học sinh Hà Nội có nhiều điều khác với ở quê. Rời Vĩnh Bảo ra Hà Nội sống với chồng được ít lâu, bà Hậu dạy học theo hợp đồng và học bổ túc để thi tuyển thành giáo viên chính thức. Từ niên học trước bà là giáo viên chính thức của trường trung học phổ thông cơ sở “10 Tháng 10”, dạy cấp II, các môn toán - lý - hoá.

Sau một lúc chuyện trò, bà Nguyệt và bà Hậu kéo nhau sang phòng bên, vì biết các ông chồng của mình hễ gặp nhau thì không thể không bàn những chuyện thế gian đại sự, nghe mệt cả người...

Chờ hai bà sang phòng bên rồi, Lê Hải vào chuyện luôn:

   Anh Nghĩa ơi, hôm qua chúng tôi có cuộc chia tay lớn. Vợ chồng anh Hai Phong chuyển hẳn vào Sài Gòn ở với má Sáu Nhơn. Cả hai anh chị ấy đều nhận sổ hưu từ lâu rồi. Anh chị tôi còn nói thu xếp xong mọi việc trong ấy sẽ đưa nốt hai gia đình con trai và con gái vào. –

   Chắc là khí hậu ngoài này không hợp với bệnh hen của anh Hai Phong?

   Không phải. Đấy là hồi kết của cuộc đấu tranh gay gắt một năm ròng giữa bốn anh em trai, tôi là con rể nên không được lôi vào cuộc.
   Anh vẫn còn bị phân biệt đối xử à?

   Không. Tại câu chuyện quá tế nhị thôi. Má tôi bây giờ sống một mình. Giữa năm ngoái gia đình các anh vợ tôi là Ba Tước, Tư Quang và Năm Thịnh đi di tản hết rồi. Đi trót lọt mới kinh chứ!

   Chết, lại có chuyện ấy nữa à?– Nghĩa sửng sốt.

   Anh Hai Phong và tôi ra sức can mà không được. Nghe tin là đã đến Mỹ ngót nghét tháng nay rồi!
   Nhưng gia đình các anh ấy đều là cơ sở cách mạng cũ của ta cơ mà?

   Thấy chưa, ngay anh cũng phải hỏi câu này! Anh em Năm Thịnh ra đi cái chính lại là cay cú với Hai Hân, thế mới tệ hại chứ. Bảy Dự đã kể cho anh Hai Phong nghe hết mọi chuyện. Lúc đầu chính Bảy Dự ra sức cản ba anh em Năm Thịnh mà không ăn thua. Sau đó Bảy Dự mời anh Hai Phong mấy lần vào tiếp sức nhưng cũng không buộc chân họ lại được. Tôi phụ vào cũng chẳng ăn thua! Không ngờ Hai Hân ngày càng tệ quá!

   Mọi chuyện khác sẽ hay. Nhưng dứt khoát không thể để bác Sáu sống một mình. Anh Hai Phong đã làm đúng!
   Vâng, chính vì thế vợ chồng anh Hai Phong bây giờ phải vào sống với má tôi. Bà già nhất định không chịu ra Hà Nội.
   Các anh phải thông cảm với bác Sáu.

   Vợ chồng tôi mời bà mãi cũng không được. Các anh ấy muốn cả má tôi đi cùng. Nhưng bà già khăng khăng: “Còn mộ ba các con, mộ hai mẹ con út Thạnh ở đây, má không đi đâu hết. Đây là đất nước của má, sống ở đây, chết ở đây!..” Nhưng các anh ấy vẫn quyết đi.

   Vì tức bị cải tạo tư sản? Hay là đoạn tuyệt với chế độ hả anh Hải?

   Còn hơn thế anh Nghĩa ạ. Anh Năm Thịnh đã mắng thẳng vào mặt anh Hai Phong: “Em bị lừa có mấy năm mà chịu không nổi! Anh bị lừa suốt cả một đời mà không tỉnh ra! Sao mà ngu lâu thế hả anh Hai!..” Sự thể đến nỗi má tôi phải quát lên: “Năm Thịnh, con không được nói anh Hai con như thế!”

Ông Nghĩa ngồi yên nhăn nhó, khiến tướng Lê Hải cũng phải dừng câu chuyện. Sau khoảnh khắc, giọng ông Nghĩa đầy tư lự:

   Ôi anh Hải, tôi nghĩ rằng câu nói ấy tát thẳng vào mặt chúng ta!

   Trời đất, cảm ơn sự chân thật của anh! – Lê Hải nắm lấy tay Nghĩa lắc mạnh. - ...Tôi đang tâm trạng lúng túng khó tả... Anh nói ra được như vậy làm tôi nhẹ cả người. Thế là anh thông cảm với tôi... Nhiều lúc tôi nghĩ cứ như là chính mình đã phản bội lại họ hàng ruột thịt của
 
mình có chết không anh...

   Tôi đã được đọc công trình tổng kết của anh Tiến về cải tạo xã hội chủ nghĩa. Những chuyện đại loại như của anh Năm Thịnh có thể xếp vào cái mà anh Tiến gọi là phản ứng giai cấp.

   Cứ cho là thế đi. Có lẽ anh và tôi đều có họ hàng thân thiết là tư sản, nên tình cảm và cách nhìn của chúng ta bệnh hoạn. Mất lập trường sạch trơn rồi phải không?
   Đừng vội tự quy chụp thế, anh Hải.

   Mấy tháng nay tôi tự nhủ phải trung thực suy xét câu Năm Thịnh mắng anh Hai Phong. Tự nhủ như thế nhưng chưa dám thổ lộ với ai, kể cả với Hậu.
   Câu mắng ấy thẳng thắn và thực lòng. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi là như vậy. Anh có nghĩ thế không hả anh Hải?
   Thật không ngờ, mình đánh Đông dẹp Bắc cả đời không sao. Nhưng chỉ một câu nói tự bật ra trong hoàn cảnh như thế buộc mình day dứt... thế mới chết người chứ anh Nghĩa!
   Tôi hiểu được anh Hải ạ, ...Hơn nữa anh Hai Phong lại là người có uy tín cao nhất bên nhà.

   Hay là tôi không vững vàng? Một câu nói mình chỉ được nghe thuật lại, đâu có phải là câu nói trực tiếp với mình, thế mà xáo động tình cảm và lý trí của mình!
   Anh trung thực với chính mình như thế là phải. Cũng như tôi đã có lần phải tự hỏi: Giả thử đụng độ với nhau trên chiến trường, liệu có dám nhằm vào đầu em mình mà bắn không!? Lễ kêu lên: Đất nước đã chiến thắng cuộc chiến tranh này, nhưng anh chưa thắng được em!.. Thế có đau lòng không, anh Hải?

   Hai chúng ta lâm vào cảnh ngộ trớ trêu, có phải không anh Nghĩa?

   Hình như còn nhiều chuyện chúng ta chưa tỉnh ra anh ạ. Những băn khoăn của Lễ khi đụng chạm đến chuyện cải tạo tư sản, tôi đã kể anh nghe rồi. Nhưng qua câu chuyện bên nhà, tôi thấy phản ứng của anh Năm Thịnh quyết liệt hơn nhiều.

   Tôi biết không ít những người tham gia cách mạng rồi phản bội, những người tham gia nửa chừng rồi bỏ dở... Tôi biết những người chỉ có thể đi với chúng ta một đoạn đường nào thôi, không chống chúng ta, nhưng không theo đến cùng được... Nhưng đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy bị tát vào mặt như anh cũng thú nhận...

   Anh Hải ơi, khi tâm tình với Lễ, em trai tôi cũng hỏi tôi những câu hỏi buộc tôi phải nhìn nhận lại nhiều điều, nhìn lại bản thân, kể cả sự cả tin và ngộ nhận.
   Anh đã đi đến cùng của câu chuyện rồi đấy...

   Tôi cho là không thể nói anh Hai Phong, anh, hay tôi bị lầm lạc hay bị lừa được anh Hải ạ. Cũng không có chuyện chúng ta phản bội lại những người đứng về phía chúng ta. Nhưng nếu để cho những người cùng đi với chúng ta cảm thấy là họ bị chúng ta lừa gạt, thì ắt hẳn đã xảy ra điều gì đại sự.

Mặt mày Lê Hải vui vẻ hẳn lên vì trút được gánh nặng tâm tư:

   Tốt lắm, như thế là cảm nghĩ của tôi không chỉ được anh thông cảm, mà còn được kiểm nghiệm qua tính trung thực của anh!
   Một phản xạ tự nhiên thôi, anh Hải ạ... Tôi không thể nào nghĩ khác được về câu mắng của anh Năm Thịnh.
   Ai không muốn đưa cách mạng tiếp tục tiến lên! Ai không muốn thiết lập những quan hệ sản xuất ngày một tiến bộ hơn. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng quyết sách của chúng ta có gì đó chưa ổn. Trong trường hợp này chí ít cũng nên có cách đối xử dành riêng cho một số tư sản có công với cách mạng.

   Đây lại đánh tuốt đồng loạt. Ông chú Học bên nhà tôi và gia đình bác Sáu bên nhà anh rõ ràng là hai trường hợp khác nhau.
   Tôi nghe nói hình như ở miền Bắc sau 1954 đã có chuyện này rồi, sao lại để tái diễn nhỉ?
 

   Anh và tôi đều dốt về kinh tế, nên chúng ta hiểu vấn đề này lơ mơ quá. Cũng có thể vì chúng ta không nghiêm túc tổng kết. Việc thì khó, cái đích tổng kết không đúng thì tổng kết lại cũng sai nốt.
   Đúng thế, cái khó có lẽ là chỗ này anh Nghĩa ạ. Cả về tâm, về tri thức, về nhận thức. Tôi lại nhớ đến các công trình tổng kết của anh, mặc dù còn điều này điều khác anh chưa thuyết phục được tôi. Có gan khách quan trong tổng kết thật là khó anh ạ.

   Rõ ràng cải tạo để thiết lập quan hệ sản xuất mới là việc có thể làm được. Vì nói cho cùng quyền lực trong tay làm gì cũng được. Pôn-pốt còn xoá được cả tiền, cả chợ búa cơ mà. Nhưng sau đó làm sao đạt được năng suất lao động cao hơn và đưa kinh tế đi lên thì ta đang mò chưa ra.

   Tôi đang lo bị cái lăng kính của tình cảm làm thiên lệch cách nhìn của mình. Nhưng anh đã cất hộ tôi nỗi lo này. - Lê Hải thở phào nhẹ nhõm.

-Anh khôn quá, anh chỉ lợi dụng tôi để giải toả bế tắc trong tâm tư anh thôi. Nhưng đừng tưởng bở. Tôi chưa nói hết suy nghĩ của tôi đâu.

   Tuỳ anh thôi, tôi không quan tâm. Câu chuyện của chúng ta dẫn tôi đi đến một vấn đề khác.

   Anh đã tự khai ra như thế thì anh nói trước đi. - Nghĩa rót thêm chè vào chén của Lê Hải.

   Tôi xin giả thiết như thế này nhé. Cứ tạm coi việc di tản của anh em NĂM Thịnh là phản ứng giai cấp đi, việc này chúng ta bàn sau. Cũng tạm cho là chính sách cải tạo tư sản là hoàn toàn đúng đi. Vậy sự yếu kém trong thực hiện chính sách cải tạo tội lỗi đâu đến đâu? Sự hư hỏng của cán bộ tác hại đến mức nào?.. Tôi nghĩ rằng tách bóc ra như thế không dễ dàng.

   Anh muốn nói sai lầm và hư hỏng dễ đồng loã với nhau làm một?

   Thế anh không thường được nghe giải thích, đại thể: Chủ trương chính sách này đúng, chỉ sai sót trong thực hiện! Cán bộ A kia phẩm chất rất tốt, chỉ có năng lực yếu kém một chút, hoàn cảnh không cho phép anh ta được đào tạo đến đầu đến đũa!.. Anh không được nghe những loại giải thích như thế bao giờ hả anh Nghĩa?

   Có chứ. Đấy là cách giải thích thông dụng đưa trâu qua rào mà.

   Thế mà anh bàng quan. Chuyện của thế giới bên kia chắc?

   Tôi bàng quan hay không, rồi anh sẽ biết. Nhưng tôi muốn hỏi anh trước: Tại sao anh không bàng quan?
   Tại sao à? Tại vì cái sai sẽ được một cái sai khác biện hộ thành tốt. Tại vì cái xấu, cái bất cập sẽ được một cái yếu kém khác thanh minh cho nhẹ bớt đi!
   Vâng, nói thế thì tôi đồng tình. Và chung cuộc là có nguy cơ cái sai, cái xấu sẽ được bỏ qua, thậm chí sẽ lấn lướt mọi thứ khác! Anh có đi tới cái lô-gích này không, anh Hải?
   Nói về xu thế hay nguy cơ, thì đúng là như anh đang mường tượng đấy anh Nghĩa ạ. Trong chiến tranh tôi nhớ lại một nguyên tắc: Được phép mắc sai lầm trong những nhiệm vụ mới mẻ phức tạp, nhưng trước sau phải minh bạch rõ ràng. Còn đúng sai biện hộ lẫn lộn cho nhau thì dứt khoát không được!

   Tôi cảm thấy câu chuyện Năm Thịnh có khía cạnh nghiêm trọng hơn chúng ta nghĩ anh Hải
ạ.

   Hình như những chuyện éo le trong gia đình anh và gia đình tôi khiến chúng ta sống không hời hợt được.
   Muốn hời hợt cũng không được anh Hải ạ.

   Chuyện của Năm Thịnh làm cho tôi gần đây hay nghĩ đến cái chết của ông bố Hậu trong cải cách ruộng đất. Hậu truy hỏi tôi nhiều lần, có những lần gay gắt lắm. Hậu thương xót bố mình quá, có đêm sụt sùi khóc một mình.

   Nhân dân ta độ lượng quá, phải không anh?

   Bây giờ đảng viên chúng ta ai cũng có nỗi lo riêng của mình, nên ít nhiều quên nghĩ đến trách nhiệm đối với những niềm tin đã được gửi gắm vào Đảng. Nhất là niềm tin của những
 

người đã khuất... Tính hay quên đang dần dần trở thành sự vô cảm...

   Hình như hôm nay anh hơi ác khẩu, có phải thế không anh Hải? Hai chữ vô cảm của anh xói vào óc tôi!
   Đúng là những chuyện nhức nhối làm tôi xúc động. Những hy sinh của dân tộc ta lớn lao quá, tôi không thể chịu đựng nổi một sự phản bội nào, dù là nhỏ nhất!
   Anh nói thế nhưng mà là nói ai mới được chứ?

   Đương nhiên không có chuyện dân lại tự phản bội lại dân được.

   Trời anh Hải, anh làm tôi bi quan đấy. Chẳng lẽ đấu tranh và phản bội cứ luân phiên nhau chiến thắng trong bất kỳ một chế độ xã hội nào? Một thứ biện chứng hay một chu kỳ luẩn quẩn ma quái không một hệ thống chính trị nào thoát được à?

   Tôi nghĩ câu chuyện của chúng ta là thế này, khi còn chiến tranh thì trận tuyến khá rõ ràng, những mầm mống xấu khó có đất sống, xuất hiện là bị diệt ngay tức khắc.
   Nói như anh thì phải đề phòng mối nguy chiến sỹ cách mạng trở thành quan cách mạng, người giải phóng trở thành kẻ cai trị?
   Hẳn là thế!

   Quả là khi chiến tranh kết thúc thì trận tuyến rạch ròi giữa đúng và sai chỉ còn là cái biên giới mong manh, dễ bị vi phạm, dễ bị xoá bỏ.
   Hồ Chủ tịch từ lâu đã nói đến nguy cơ “quan cách mạng”.

   Vâng, Bác là người đầu tiên cảnh cáo chúng ta nguy cơ này.

   Anh Nghĩa ơi, mối lo này không phải do tôi tưởng tượng ra trong đầu. Cuộc sống tự nó đặt ra như thế từ ngàn đời nay. Nó trở thành quán tính của lịch sử. Đâu phải chỉ là những gì xảy ra riêng trong gia đình anh và gia đình tôi! Quán tính của lịch sử, anh hiểu không? Đừng mù với nó.

   Vâng, tôi hiểu. Anh nói năng thế nào mà làm tôi lại nhớ đến câu hỏi của đại tá nguỵ Quách Minh Châu.
   Này, ông cho tôi vào một rọ với đại tá nguỵ từ bao giờ thế? Ăn nói với thủ trưởng mà lộn xộn thế hả? – Lê Hải cười, nhưng lại cố làm ra vẻ giận dữ, khiến Nghĩa cũng phải cười theo.
   Tôi kể cho anh nghe rồi đấy, hôm ấy Châu hỏi tôi chế độ lý tưởng của chúng ta liệu có thoát khỏi tham nhũng không. Anh thử đối chiếu câu hỏi của Quách Minh Châu với mối lo bây giờ của anh về cái quán tính của lịch sử xem sao.

   Có lý. Có lý... Theo tôi, trong cuộc sống đã bắt đầu lấp ló các hiện tượng bệnh hoạn. – giọng Lê Hải đầy ưu tư. - Anh không thấy những kiểu người như Đoàn Danh Tiến, Hai Hân... bắt đầu lên sân khấu rồi à?

   Bên cạnh tính danh của anh là nhà lý luận quân sự, có cần tôi phải tặng thêm cho anh tính danh là nhà đạo đức học nữa không anh Hải?
   Đừng có nhà với cửa gì cả. Anh dửng dưng với mối nguy này hay sao?

   Không. Tôi thừa nhận trong thời bình, lại giành được quyền lực, hiển nhiên chúng ta đang cần những giá trị mới đủ sức chống lại cái mà anh gọi là quán tính của lịch sử.
   Tôi nói rồi, tôi không thể chịu đựng được sự phản bội, dù là nhỏ nhất. Do đó tôi không muốn niềm tin của những người thân thiết của tôi bị phản bội. Lại càng không muốn những điều tốt đẹp nhất tạo ra niềm tin này cuối cùng hoá thân thành những công cụ thực hiện sự phản bội. Anh có hiểu tôi không anh Nghĩa?

   Vâng, tôi thông cảm sự day dứt của anh. Đó cũng là tâm trạng của tôi.

   Kháng chiến thành công rồi, đây là cái điều đáng lo nhất trong thời bình. Anh không thấy vậy à?
   Khi chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, có ai bàn thấu đáo chuyện này không anh Hải nhỉ?

   Không rõ. Hiện nay là cái sảy nảy cái ung. Sài Gòn vẫn chưa hết xôn xao vì một hai năm nay
 

nhiều người đi di tản quá. Những người ra đi vì miếng sống thì không nói làm gì. Nguồn gốc gây ra xôn xao lại là một số người theo ta hoặc đã từng tham gia kháng chiến cũng bỏ đi di tản. Một vài người trong số này trước đây là các nhân vật có tên tuổi trong lực lượng thứ ba, đã từng tham gia Mặt trận Giải phóng của ta. Ba gia đình anh em Năm Thịnh nhà tôi cũng góp phần vào không khí xôn xao này.

   Thực tình là tôi không hình dung nổi một thời kỳ hậu chiến phức tạp như thế này, mặc dù tôi đã tự chuẩn bị tư tưởng, đã tự răn đe mình rất nhiều.
   Lúc nãy anh nói còn giấu tôi điều gì chưa khai báo ra hết. Nói đi anh Nghĩa!

   Anh muốn nghe thì tôi sẵn sàng. Nhưng nói thế nào cho anh dễ hiểu nhỉ... Thôi được, tôi diễn đạt thế này: Suy cho cùng trong mỗi chúng ta đều có một một Lê Hải, một Năm Thịnh, một Đoàn Danh Tiến, một Hai Hân, một vân vân...

   Anh là môn đệ của cái lý thuyết chiết trung từ bao giờ thế?

   Không chiết trung đâu. Tội lỗi chỉ tại vì cái biên giới mong manh trong mỗi con người chúng ta thôi anh Hải ạ. Hôm nay tôi là Lê Hải, mai tôi có thể biến thành Đoàn Danh Tiến, ngày kia tôi có thể là một ông quan thực sự, nghĩa là kẻ phản bội thực sự.., hay là vào một thời điểm nào đó tôi biến thành Năm Thịnh...

   Nhưng cái gì thôi thúc hay xô đẩy con người đổi vai như thế?

   Anh Hải ạ, chúng ta học phép biện chứng, học Mác, nhưng đây là điểm chúng ta thích quên nhất: Sự tha hoá! Sự tha hoá ngay trong mỗi con người. Anh gọi nó là quán tính của lịch sử thì hơi đao to búa lớn, nhưng nội dung sự vật thì na ná như vậy.

   Tôi hỏi nhé, một khi tha hoá vượt ra khỏi một con người riêng lẻ, trở thành một hiện tượng, một xu thế dịch bệnh trong xã hội, một sự vận động trong một chế độ chính trị, thì anh gọi nó là cái gì?

   Anh quả là con người cảnh giác. Vâng, đó là hứa hẹn sự tiêu vong những thành quả cách mạng của dân tộc ta!
   Có thế chứ, không thì anh cứ quanh co mơn trớn tôi mãi! Như vậy con người chẳng lẽ chỉ có một số phận là chịu để cho tha hoá khuất phục?

Tôi không đến nỗi bi quan như thế, ít nhất cho đến giờ phút này. Con người có khả năng chống tha hoá chứ! Tuỳ lúc nó có thể còn có cả khả năng phủ định chính nó nữa cơ mà. Điều chắc chắn là tha hoá tự nó không bao giờ buông tha con người. Tha hoá cầm chắc chiến thắng trong tay khi nó không được nhận dạng anh Hải ạ.

   A ha, thấy chưa! Như thế là cái tính bi quan nằm sẵn trong máu anh rồi, thế mà lại đổ riệt cho tôi!
   Nó nằm ngủ trong máu tôi, nhưng anh đánh thức nó!

   Vậy hả? Nếu thế phải nghe thêm chuyện này nữa cho tỉnh ra. Tại cuộc họp liên tịch vừa rồi bàn về an ninh, di tản trở thành vấn đề chính. Ông Tiến thay mặt ngành tuyên huấn phát biểu găng lắm. Nêu đích danh cả ba gia đình anh em Năm Thịnh làm ví dụ, phê phán lãnh đạo địa phương là hữu khuynh. Quan điểm của ông Tiến được nhiều người trong hội nghị hoan nghênh. Ông Tiến còn biết tôi và anh đều có họ hàng là tư sản bị cải tạo.

   Thế tại cuộc họp anh Tiến có quy kết chúng mình là những phần tử có liên quan không anh?
   Chưa đến mức ấy, nhưng khi gặp riêng tôi, ông Tiến tỏ ý tiếc là ảnh hưởng của chúng ta đối với họ hàng ít quá. Tiến đem đến hội nghị một báo cáo mật của Ban dân vận thành phố để làm tài liệu tham khảo, do Hà Văn Hân ký tên. Báo cáo sặc mùi tính cách của anh ta, đúng như ông Tư Cương kể cho tôi nghe trong những lần tôi vào thăm má Sáu. Anh Hai Phong, rồi đến tôi, rồi đến anh được lần lượt nêu đích danh trong báo cáo này, bằng chứng rất thuyết phục về vai trò yếu kém của đảng viên chúng ta đối với những vấn đề hệ trọng trong gia đình họ mạc của mình.

   Biết làm thế nào được, anh Hải. Cháu gái tôi, con của Lễ, cũng đi di tản, cả nhà tôi muốn giữ
 
cháu ở lại lắm chứ. Chúng tôi mới nhận được thư báo từ Mỹ là cháu bị hải tặc giết rồi, thật đau lòng quá. Vợ chồng Lễ sống dở chết dở! Tất cả chúng tôi đều giấu mẹ tôi chuyện này.

   Chết, lại đến nông nỗi ấy cơ à? Sao không thấy anh nói gì với tôi. – Tướng Lê Hải ngơ ngác.

   Chúng tôi muốn giữ kín với mọi người. Chuyện xảy ra rồi, biết làm thế nào được nữa...

   Người như Đoàn Danh Tiến cần phải biết cả chuyện này nữa mới phải, để xem ông ta sẽ phê phán như thế nào! – giọng Lê Hải đầy chì chiết. - Tiến còn nhắc lại cả cuộc nói chuyện của anh năm nảo năm nào ở trại B7, chuyện anh xin giải ngũ. Sao lại có con người cái gì cũng biết và nhớ dai đến thế! Chỉ còn thiếu một điều là ông ta chưa đứng lên giữa hội trường vạch mặt chúng ta là những kẻ bạc nhược, những kẻ thoái hoá mất tính Đảng...

   Nói cho công bằng hai chúng ta ít nhất đã được ông ấy một lần ca ngợi tít lên mây xanh đấy chứ.
   Vâng, tôi nhớ. Một lần duy nhất nhưng không thể nào quên! Anh định lấy chuyện đó làm dẫn chứng cho cái lý thuyết biên giới mong manh có phải không anh Nghĩa? Hay ông ta là con người hai mặt?

Thôi, càng nói càng bực mình, quên ông ta đi anh Hải ạ. Tôi đang lo canh cánh Nhà nước năm nào cũng đề ra chỉ tiêu kế hoạch năm nay cố phấn đấu bằng năm trước! Anh nhìn kia kìa, toàn là thùng, can, chai, túi, lọ... Nhà biến thành cái kho. – Nghĩa chỉ tay vào các gầm bàn, gầm tủ. - ...Anh tính, lĩnh lương về là nhà tôi đem tiền và tem phiếu mua bằng hết. Cái gì tem phiếu được mua là mua tuốt. Dùng đến hay không dùng đến không thành vấn đề! Chuyện này mới đáng lo hơn!

   Bao cấp mà. Nhà nước thu mua để phân phối thì như cướp, đem bán theo tem phiếu thì như cho. Dân người ta nói toạc ra như thế đấy. Một Phó thủ tướng dám nhắc lại nguyên xi như thế trong cuộc họp Chính phủ.

   Chúng ta rất cần những lời nói thẳng như thế.

   Nhưng ông ấy bị phang đến nơi đến chốn vì tội này. Kể ra không oan và oan anh Nghĩa ạ! Nhờ tem phiếu mà ta thắng Mỹ. Bây giờ thay tem phiếu bằng cái gì thì chúng ta chưa biết! Ngẫm nghĩ mãi, tôi thấy bên cạnh cái nghèo còn có cái khó của tư tưởng bình quân, một di sản lâu bền của chiến tranh.

   Về nhiều phương diện anh đúng là người trung thành với cái thuyết quán tính của lịch sử.

   Nếu giỏi thì bác bỏ đi! – Lê Hải thách.

   Hãy đợi đấy. Tuy nhiên, tôi có lãng mạn đến mấy cũng phải đồng tình với Xuân Diệu thôi. Chuyện cơm áo không đùa với tất cả chúng ta•(*) [(*) Ý thơ của Xuân Diệu, trong câu: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt, Cơm áo không đùa với khách thơ”...].

-Tưởng là người đã từng viết được cái đơn xin giải ngũ thì chỉ cần sống bằng hương hoa thôi chứ?

   Anh muốn rủa tôi chóng chết có phải không?..

   ...

   Trời ơi, hai ông định hun chết hai chị em tôi hay sao thế này. – Bà Hậu không chờ được nữa, một tay vừa kéo bà Nguyệt, một tay xua khói thuốc lá từ buồng bên bước vào nơi hai ông đang ngồi nói chuyện.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #17 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 01:58:33 pm »

   Chết thật, có hai người mà nghi ngút như khói tàu hoả thế này! Chị em chúng tôi vào giải thoát cho hai ông đây. – bà Nguyệt nói theo bà Hậu.
   Chúng ta phải tạ ơn các bà đi. - ông Hải hiểu là phải dừng câu chuyện ở đây. - Chị Nguyệt năm nay có cần xông đất cho nhà ta không ạ, phải đăng ký từ bây giờ đấy!
   Vâng xin đăng ký ngay ạ.

   Nhưng tôi có rơ-moóc, không đi xông đất một mình được.

   Anh Hải ơi, em không biết là ai “rơ-moóc” ai. – bà Hậu phản ứng ngay.
 

   Anh anh em em dịu dàng thế này thì cả hai ông bà “rơ-moóc” nhau vậy. – Nghĩa đỡ lời cho Lê Hải.

   Mời cả chị Hậu đi cùng càng vui chứ sao ạ. Anh chị đi hái lộc rồi đem lộc về cho gia đình tôi thì còn gì bằng!
   Chị Nguyệt rất hiện đại, không kiêng phụ nữ đến xông nhà. – Bà Hậu khen.

   Năm nay nhà chúng tôi được anh chị xông đất, chắc sẽ có nhiều tin vui. Chúng tôi đang rất nóng tin về cháu Nam...
   Có phải là Nam bác sỹ quân y đang ở Campuchia không chị?

   Vâng. Thấm thoắt đã hơn một năm rồi đấy chị Hậu ạ. Bà cháu và anh chị Chính tôi mong ngày mong đêm. Trong số các cháu nhà họ Phạm chúng tôi, cháu Nam là chững chạc nhất...

Tuy đang không khí vào Tết, nhưng khi chia tay vợ chồng Nghĩa, tướng Lê Hải thấy trong lòng nặng trĩu. Gửi xong xe đạp để vào chợ hoa, Lê Hải lẽo đẽo đi theo vợ, đi giữa rừng hoa nhưng chẳng nhìn thấy gì cả. Nỗi lo của ông về cái quán tính của lịch sử càng trĩu xuống vì cái biên giới mong manh mà Nghĩa đã nêu và cả “cái tát” nhoéng lửa của Năm Thịnh nữa.

- Năm nay không cắm bích đào, mà cắm đào phai. Em chọn mãi... Cành này được không anh?

Hậu nói xong nhưng ngoảnh lại chẳng thấy chồng mình đâu cả. Tõi mãi bốn chung quanh bà mới nhìn thấy ông đang đứng xa đến cả chục bước.

Trong tay vợ kéo đi, Lê Hải thanh minh:

   Chợ hoa đông quá, bộ đội không dám chen bật nhân dân!

   Mau lên anh, không có người ta mua mất cành đào phai em đã chọn!

...Thật là cầu được ước thấy. Hay là nhờ đêm giao thừa cả hai vợ chồng ông Hải đến xông đất.., trung uý quân y Phạm Trung Nam được nghỉ phép mười ngày. Nam phải lo trực đêm ba mươi và ngày mùng một Tết. Nam về đến nhà mùng bốn Tết, trong sự vui mừng đến ngỡ ngàng của mọi người. Điều này có nghĩa các gia đình họ Phạm có một cái Tết kéo dài đến giữa tháng giêng và vui gấp nhiều nhiều lần các Tết khác!

   Cháu ở nhà ngày nào là bà có Tết ngày ấy. – cụ Tuyên bà nói đi nói lại với Nam câu này không biết chán.

Rõ ràng là có Nam, cụ lanh lẹn hẳn lên, đã bắt đầu đi bộ được loanh quanh các phòng trong nhà. Mỗi bữa cụ ăn được một bát cháo, thỉnh thoảng dùng một muôi cơm. Quà của Nam đem từ Campuchia về biếu bà là hai hộp sữa đặc Liên Xô. Bận gì thì bận, Nam luôn luôn có chuyện này chuyện khác hay một câu nói gì đó làm bà vui, có lúc nhắc lại những chuyện cũ quấn quít giữa hai bà cháu...

Tối mùng sáu Tết, ông bà Chính đến xin bố mẹ Yến cho tổ chức lễ cưới. Lời cầu xin được chấp thuận ngay, vì đấy cũng là nguyện vọng của bố mẹ Yến.

Tại Siêmriệp, khi nhận được lệnh trên cho về nghỉ phép, thủ trưởng và anh em trong đơn vị vừa khuyên vừa trêu trọc Nam:

   Được nghỉ những mười ngày, cưới vợ quách đi cho xong!

   Ra tiền tuyến phải có một du kích ở nhà giữ người yêu cho yên tâm chứ!

   Có một ngày tớ còn lấy được vợ, cậu những mười ngày!..

Nam nghĩ rất nhiều đến chuyện cưới, trong lòng khao khát lắm. Ấy thế mà khi đeo ba-lô lên vai chia tay mọi người trong đơn vị, Nam vẫn chưa dám đi đến quyết định dứt khoát. Suốt một năm qua Nam chưa có một lá thư nào dám đề cập đến chuyện này, dù là thư viết cho Yến, viết cho bố mẹ, hoặc là cho em gái. Đấy là sự do dự có thể hiểu được, vì hạnh phúc phía trước lớn quá, gắn với thân phận quá mong manh của người lính trên chiến trường ma quỷ này. Càng thấy tình yêu của mình thiết tha bao nhiêu, Nam càng cảm thấy mình hạnh phúc bấy nhiêu, song lo lắng.. – hay là nỗi do dự khó tả xiết – càng tăng lên theo...

Ai lường trước được điều gì trên cái chiến trường ma quỷ này?..

Cứ mỗi khi nghĩ đến Yến, Nam lại vấp phải ngay câu hỏi này... Chẳng bao giờ nhìn thấy kẻ
 

thù, nhưng kẻ thù có ở khắp mọi nơi, ngay trước mặt, ngay bên cạnh... Kẻ thù đến thăm bất kỳ giờ phút nào, kẻ thù làm bất kỳ điều gì nó thích!.. Nam thừa nhận đối phó với chiến tranh du kích Khmer đỏ hoàn toàn không đơn giản, mặc dù trạm xá của Nam bây giờ được đặt trong vùng hậu cứ an toàn, có lực lượng bảo vệ khá mạnh. Khi ở cái thế phải bỏ sử dụng chiến thuật du kích thì dù quân đội ta có là bậc thầy của chiến tranh du kích cũng thế thôi ...

Song cuối cùng, Yến mới là người thực sự xua tan mọi do dự cuối cùng của Nam, ngay buổi tối đầu tiên Nam đến chào bố mẹ Yến:

   Anh đã giữ được lời hứa chờ đến khi em tốt nghiệp. Bây giờ em đã là cán bộ dự bị của nhà nước rồi! Anh xem em có oai không?
   Oai.

   Oai thật chứ?

   Thật mà. Có bao giờ anh nói dối em đâu.

   Thế anh chê không tiếp nhận cán bộ dự bị à?

   Em bảo anh tiếp nhận thế nào?

   Chúng mình xin hai bên bố mẹ cho làm lễ cưới.

Dù là mong đợi điều này, Nam vẫn như trên trời rơi xuống đất:

   Ôi! Nên bao giờ hả em?

   Ngay bây giờ.

   Ngay trong lúc chúng mình đang ngồi ăn kem với nhau như thế này, có phải không? – Nam cố lấy lại bình tĩnh.
   Anh hiểu như thế cũng được. – cùng với cốc kem, Nam được ăn thêm một cái béo tai.

   ...

Rời tiệm kem Bốn Mùa tối hôm ấy, đôi trai gái về thưa với các bậc bố mẹ của mình nguyện vọng xin làm lễ cưới.

Tối mùng sáu Tết ông bà Chính sang nhà Yến.

Trong một ngày không thể kiếm đâu ra trầu cau để chia cho hai họ, nhất là vào thời buổi mọi thứ của cuộc sống chỉ tập trung vào những gì có liên quan đến tem phiếu. Hơn nữa bây giờ là ngoài Tết. Nhờ bao nhiêu người giúp sức, cuối cùng thím Cúc cũng mua được một buồng cau đẹp và mấy tệp trầu không để tượng trưng cho lễ cưới. Thím Cúc nổi tiếng là đảm đang trong cả họ, buồng cau và một gói trầu không rất khó kiếm này lại càng làm cho thím nổi tiếng.

Ông Chính thưa với bố mẹ Yến:

   Mong anh chị thông cảm cho, may quá là thím Cúc cháu còn kịp tìm được buồng cau và những tệp trầu không này.
   Phải nhờ đến các học trò của các thầy cô giáo cùng dạy học với thím Cúc cháu đấy ạ. – bà Chính nói thêm vào.
   Chúng tôi xin nhận, có được lá trầu quả cau làm tượng trưng là chúng tôi mãn nguyện rồi. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn anh chị. Xin anh chị chuyển lời cảm ơn của chúng tôi đến chị Cúc...

Câu chuyện trầu cau mau chóng chuyển thành cuộc bàn bạc giữa hai bên bố mẹ về những việc cụ thể cho lễ cưới, ấn định ngày mùng tám.

Người có công nhất trong đám cưới của Nam và Yến lại là bộ phận hậu cần của K8, đơn vị cử trạm quân y dã chiến của Nam đi chiến trường Campuchia. Nói là K8 tổ chức đám cưới cho Nam cũng không có gì là quá lời. Cũng phải lâu lâu rồi bây giờ mọi người mới thấy một đám cưới tiệc trà đẹp và nhiều bánh kẹo ngon như vậy.

Trong tiệc cưới, điều làm mọi người trầm trồ là cô dâu có cái áo dài đẹp quá. Thời tem phiếu áo dài hiếm lắm, đúng là chỉ thấy nhiều nhất trong ngày tết và trong các đám cưới. Áo dài cưới của Yến đã đẹp vì thế lại càng đẹp.
 

Mấy chị bác sĩ, y tá khéo tay của K8 mất trọn một ngày may bằng xong cho Yến cái áo dài rất mốt, chắc chắn cả Hà Nội không ai có. Cổ áo được may cao và cắt lượn sâu rất đẹp, cánh tay áo xoè dưới cổ tay đính theo đăng -ten thành hai bông hoa sang trọng, thân áo lưng ong cao hẳn lên, hai tà áo thướt tha một cách trang nghiêm, tà áo sau hơi xoè ra một chút ... Không biết các chị ấy tìm được ở đâu ra mảnh gấm trắng ánh bạc đẹp quá, tự sáng tạo ra mẫu áo, do hoạ sỹ nghiệp dư Phạm Trung Nam – nghĩa là chính chú rể – vẽ kiểu. Yến cũng bị “nhốt” trọn một ngày, đứng cho các chị đo áo, đi đi lại lại trong các tư thế để cho các chị ngắm nghía từ mọi phía, sửa đi sửa lại mấy lần... Đấy là công việc duy nhất và bận nhất của Yến trước lễ cưới. Mọi việc khác của Yến đã có mẹ Yến, Loan, các bạn của Yến và hậu cần của K8 lo hết.
Nam vốn đẹp trai, nhờ cái gien đẹp trai của họ Phạm, trong tiệc cưới lại càng bảnh bao. Ngày thường giản dị trong bộ quân phục, tại lễ cưới trong bộ xi-mô - kinh (smoking) đen rất đúng mốt của chú Kiệt tặng, thắt nơ bạc, nhiều người ngỡ ngàng không nhận ra Nam nữa.

Hội trường của K8 được trọn làm phòng cưới, hoa và đèn lộng lẫy. Hoa ở Hà Nội về mùa này đẹp nhất trong năm. Từ màu sắc cho đến dáng hoa, mỗi hoa mỗi vẻ, hình như cái hoa nào cũng biết cười biết nói! Do hoa đẹp hay do biệt tài của những bàn tay cắm hoa, đến phòng cưới mọi người có cảm tưởng đang từ cuộc sống nhiều chuyện cam go hàng ngày bước vào một thế giới thanh thản và đầy ắp yêu thương. Ai cũng cảm thấy ấm lòng, vì vui mừng cô dâu chú rể đẹp đôi, vì tình cảm ruột thịt chan hoà, vì sự thương yêu nhau giữa những con người quý trọng yêu thương...

Cuối tiệc cưới, bố của Yến được ông Chính mời thay mặt hai họ nói mấy lời cảm ơn. Ông nói mấy câu ngắn gọn, giọng ông đầy xúc động.

   Hai cháu có hạnh phúc lớn, là ngoài tình yêu thương của gia đình hai bên bố mẹ, hai cháu còn được K8 yêu thương hết lòng. Sự chăm sóc của tất cả các bác, các cô các chú, các anh các chị trong K8 dành cho hai cháu nói lên điều này. Chúng tôi xin ghi lòng tạc dạ... Xin cảm ơn tất cả...

Tiếng vỗ tay rào rào...

   Thật ra đơn vị chúng tôi mới phải là người đứng ra cảm ơn hai họ. – đại tá thủ trưởng đơn vị K8 lên bục mi-crô đáp lời. - ...Nhất là chúng tôi phải cảm ơn bố mẹ cô dâu, bố mẹ chú rể đã cho đơn vị chúng tôi một đôi trai gái tuyệt vời. Hôm nay là ngày cưới của hai cháu, song cũng coi như là ngày đơn vị K8 chúng tôi làm lễ nhận Nguyễn Thị Bạch Yến và Phạm Trung Nam là con của đơn vị chúng tôi. Đại gia đình K8 chúng tôi nhiều năm liền là lá cờ đầu của ngành quân y. Tôi mong hai cháu sẽ góp sức cùng chúng tôi phát huy truyền thống của đơn vị. Xin cho phép tôi nhân cơ hội có mặt đông đủ như thế này, trân trọng công bố quyết định của Cục Quân Y do thiếu tướng Cục trưởng ký, nội dung như sau...

Hội trường im phắc, ngỡ ngàng, mọi người không hiểu quyết định gì mà lại đem ra công bố giữa lễ cưới như thế này. Đại tá thủ trưởng K8 dừng thêm một chút nữa, rồi lấy giọng:
   Tôi xin đọc: Xét đơn xin nhập ngũ của dược sĩ Nguyễn Thị Bạch Yến và kết quả thực tập tại

K8 từ khi ra trường, xét kiến nghị của tập thể ban chỉ huy K8, Cục Quân Y quyết định, điều 1: tuyển dược sĩ Nguyễn Thị Bạch Yến vào đơn vị K8, phong quân hàm thiếu uý; điều 2: Ban chỉ huy K8 và thiếu uý Nguyễn Thị Bạch Yến chịu trách nhiệm thi hành quyết định này... Xin thưa với tất cả, ngày ký quyết định cũng là ngày cưới hôm nay của hai cháu Yến Nam đấy ạ!

Tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô, niềm hân hoan, những lời chúc mừng... Cả hội trường hướng về phía cô dâu chú rể. Nhiều bà, trong đó có bà Chính, mẹ Yến, thím Cúc, bà Nguyệt..., nước mắt vòng quanh, vì quá cảm kích về quyết định đầy tình nghĩa yêu thương của Quân đội dành cho con cháu mình, vì thấy mình hạnh phúc lây hạnh phúc của Yến và Nam...

Sau khi tạm biệt cô dâu chú rể, tướng Lê Hải và nhiều bạn bè thân thiết khác là quân nhân chụm lại một chỗ để chuyện trò thêm một lúc nữa với đại tá Nghĩa. Niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt từng người.

   Quyết định của thiếu tướng cục trưởng tuyệt vời quá, đúng lúc quá! Ôi, Quân đội ta! – bố Yến là người đầu tiên thốt lên.
 

   Một đám cưới đẹp. Cô dâu chú rể thật là đẹp đôi! Ôi... - bà Hậu xúc động ôm lấy bà Nguyệt, bỏ dở câu nói.

   Nhờ anh Nghĩa chuyển lời chúc mừng nhiệt liệt của chúng tôi đến hai họ.

...

Nhìn thấy tướng Lê Hải, ông Chính chạy đi kéo bố Yến đến chỗ đám quân nhân già:

   Xin giới thiệu với anh Lê Hải, đây là bố của cô dâu ạ.

   Hai họ chúng tôi, trước hết là tôi, xin có lời cảm ơn anh đã giới thiệu cháu Yến với Cục Quân Y, vì vậy mới có cái quyết định đầy thương yêu đối với cả hai họ chúng tôi.
   Hai anh chu đáo quá, có gì đâu mà cảm ơn... – tướng Lê Hải đáp lại. - ...Đúng ra hai anh phải cảm ơn anh Nghĩa. Chủ mưu việc này là anh Nghĩa, tôi chỉ là người thực hiện thôi ạ.

Anh Hải khiêm tốn quá.

   Thực là như vậy. Tôi không biết cháu Yến lắm, nhưng qua anh Nghĩa tôi tin rằng họ Phạm không nhầm khi chọn con dâu cho mình!
   Anh Hải cho họ Phạm chúng tôi vinh dự lớn quá! Xin cảm ơn anh. – Cả hai tay ông Chính nắm lấy bàn tay ông Lê Hải.

Đại tá Nghĩa tập tễnh rảo bước, loáng một cái biến đâu mất nhưng rồi quay lại ngay, đi theo ông là một thiếu phụ và một cháu gái quàng khăn đỏ. Mẹ cháu đón cháu ở trường rồi đến thẳng đám cưới.

   Xin giới thiệu với các anh, đây là cô Trang, vợ liệt sỹ Lâm, người đã cứu sống tôi ở mặt trận Quảng Trị. Đây là con gái anh chị Lâm.
   Em chào các anh ạ. Con chào các bác đi... – Trang, vợ liệt sĩ Lâm, kìm nước mắt, cố gượng cười. -...Em thấy cô dâu chú rể đẹp đôi quá các anh ạ. Hai cháu hạnh phúc quá, em mừng cho hai cháu...

Mọi người xúm xít hỏi thăm cuộc sống của gia đình chị Lâm hiện nay, về học hành của con chị.

   Anh chị Chính, anh chị Nghĩa coi em như em ruột trong nhà. Kỳ giỗ bác Tuyên em năm nào các anh các chị cũng mời mẹ con em đến dự... Các anh các chị an ủi em nhiều...

Câu nói của chị Lâm làm tướng Lê Hải nhẹ lòng.
Khách ra về đã vãn. Các chiến sĩ trực ban đã bắt đầu vào thu dọn các bàn tiệc. Vợ chồng

Nghĩa và vợ chồng Lê Hải đứng với nhau một lúc nữa. Bà giáo Hậu thốt lên:

   Hôm nay thật ấm tình người, ôi làm sao giữ mãi được niềm hạnh phúc này...

Nhiều ngày sau, đám cưới này còn là chủ đề của biết bao nhiêu câu chuyện.

Trong những ngày ngọt ngào của tuần trăng mật hầu như không bước chân ra khỏi nhà, vợ chồng Nam không rời nhau lấy nửa bước. Mãi đến lúc này họ mới có chút thời giờ giành cho nghệ thuật, niềm đam mê lớn nhất của họ.

...Nam kéo rèm cửa sổ sang hai bên cho phòng sáng thêm rồi ngồi bình tiếp với Yến các sáng tác trong thời gian ở Campuchia, chủ yếu là ở Siêmriệp. Cuối cùng Nam lấy từ đáy ba-lô ra một quyển sổ to bìa cứng. Ông Chính cho Nam quyển sổ này hôm Nam lên đường.

   Tất cả các tranh em vừa xem anh không thích bằng quyển sổ này. – Nam chỉ cho Yến xem các mô-típ mình ghi lại bằng bất kể thứ bút gì vớ được trong tay...

Yến lật các trang trong quyển sổ. Có những trang xem đi xem lại, vừa xem vừa nói với Nam:

   Anh viết nhật ký bằng tranh? Trong những tranh em vừa xem có một số mô-típ hình như lấy từ trong quyển sổ này?
   Em nói đúng. Anh dồn tất cả nỗi nhớ nhung vào quyển sổ này. Chưa bao giờ anh vẽ nhiều về cái chết đến như vậy... Có lẽ những dãy phố chết, những cái chợ xiêu vẹo, những dãy phố cháy trụi, những con đường chết, những cánh đồng chết... đã gây cho anh những ấn tượng sâu sắc... Em xem, nói cho đúng hơn anh vẽ cuộc sống bị giết như thế nào... Càng nhớ em, nhớ nhà
 
vô cùng ... Xem tiếp trang này nữa... Đây là một phụ nữ bị giết, không thể biết là bao nhiêu tuổi, xác quắt khô, không biết bị giết từ bao giờ, chỉ còn vài sợi tóc dài chưa rụng hết bên cạnh một cái lõm đen trên đầu, quần áo đã tan lả tả, trên ngực hai vú khô đét chảy dài kiệt sức sống ... hai cánh tay chới với như còn đang cố giữ lấy cái gì đó chưa chịu buông ra hay như đang van xin điều gì, hai chân vừa như quỳ cầu nguyện vừa như đang co quắp giãy giụa ... Em xem kỹ đôi mắt: ...hai hố mắt lõm sâu hẳn như đang cố giấu cả thế giới vào bên trong, hay là đang cố níu kéo lấy cuộc sống bằng cái nhìn vô tận... Anh loay hoay mất mấy tuần chỉ để vẽ đôi mắt này, đôi mắt của người còn sống nhưng đã bị giết ... Từ miệng người phụ nữ vang xa lời gào thét hay lời cầu cứu thảm thiết... Em xem cái cuốc đen này vấy đầy máu, không biết từ đâu rơi xuống rồi nằm lại bên bờ sông Xtungxtreng, con sông vẫn chảy hiền hoà, phía trên... đây là những núi xương người những cây thốt nốt giang tay nhau bảo vệ bầu trời đầy nắng... Nhìn kỹ, em thấy xa xăm mờ mờ ảo ảo đền Angkor Vat ...

   Trời ơi! Một tiếng kêu gào khác của Guernica?..

   Có lẽ như vậy em ạ. Anh vốn hâm mộ Picasso, nhưng có lẽ qua những cảnh tượng đối nghịch nhau như nước với lửa ở Campuchia, cái sống và cái chết không đội trời chung với nhau, anh mới hiểu thêm Guernica!..

   Trang này nữa... Sao anh đang vẽ lại bỏ giở?

   Đây là một bàn tay gầy guộc, bị chặt rời khỏi cánh tay nhưng vẫn còn trong tư thế như đang nâng niu một cái gì đó... Đây nữa... Trang này... Trang này nữa... Anh vẽ bằng bột mầu, bút chì, hết bút chì thì bằng bút dạ, có khi bằng cả bút bi đang có trong tay, bằng những đêm trực ban mà cái chết lúc nào cũng đang đánh vật với các thương binh... Cái chết lúc nào cũng rình mò chung quanh... Anh vẽ cả bằng nỗi nhớ xé lòng... Yến ạ, chưa bao giờ anh có một ước ao mãnh liệt đến thế, ước ao khi hoàn thành nghĩa vụ ở Campuchia về anh sẽ đi khắp mọi nơi, chỉ để vẽ...

Ôi nếu được như thế! Đến lúc ấy em sẽ địu con đi theo anh cùng trời cuối đất...

   Không còn khát khao nào bằng em ạ. Tình yêu của em đem lại cho anh đấy...

   Em hiểu, đúng là không thể lời nào nói lên hết được cảm xúc của những trang sổ này! Anh để quyển sổ này ở nhà cho em nhé. Em sẽ tặng nó một cái tên xứng đáng.
   Tên gì vậy em?

   Nhật ký tình yêu cuộc sống!

Nam ôm hôn vợ tha thiết. Trong vòng tay mình, Nam nói với Yến:

   Cảm ơn em...

   ...Cậu mợ vừa mua cho anh một quyển sổ mới. Quyển này đẹp hơn, giấy tốt hơn và khổ cũng rộng hơn. Anh sẽ mang quyển mới đi... Không hiểu cậu mợ lùng đâu ra được một quyển sổ chuyên nghiệp đẹp quá em ạ. Em xem đây này...

   ...Vâng, đúng là quyển sổ để các thợ vẽ ghi lại các phác hoạ và cảm xúc của mình... Anh ơi, nhưng quyển sổ này không phải là loại bán sẵn. Có lẽ cậu mợ đi mua giấy vẽ rồi đưa đi thuê đóng thành sổ nên mới đẹp như thế này... Đúng rồi! ...Cửa hàng đóng sách 35 Cửa Nam... Đây này, có cả dấu của cửa hàng nữa anh ạ... Em hiểu thêm tấm lòng của cậu mợ...

   Em biết không, ra đi lần trước nếu cậu không chuẩn bị cho anh ít đồ vẽ thì có lẽ không có những tranh này, không có Nhật ký Tình yêu cuộc sống.
   Em hiểu. Lần ấy anh còn không có cả thời giờ để buồn khi chia tay em cơ mà!

   Em thù anh dai quá! Chúng mình còn hai ngày nữa để em tha hồ trả thù anh chuyện cũ!

   Thù anh thì không bao giờ hết được, hơn một năm đằng đẵng chờ đợi! Mấy ngày nay chúng mình nói với nhau bao nhiêu chuyện mà vẫn không hết. Còn bao nhiêu chuyện phải lo sẽ tính dần.

   Thời gian sao cứ đi vùn vụt!

   Em xấu hổ quá, ai lại ngày nào cũng để cho cả nhà chờ cơm! Hàng xóm mà biết người ta
 

cười cho.

   Về cái tội mấy ngày liền chúng mình không ra khỏi phòng?

   Chứ còn gì nữa!

   Anh mong mọi người sẽ thông cảm. Chỉ khổ Loan mấy ngày nay phải leo gác giục chúng mình xuống nhà ăn cơm. Anh vẫn thích nhất chuyện em xin nhập ngũ.
   Anh đã cảm ơn chú Nghĩa chưa? Sáng kiến của chú Nghĩa đấy.

   Em yêu Quân đội đến thế à?

   Anh hiểu thế cũng được. Em chỉ có một nguyện vọng duy nhất là được gần anh thôi. Chú Nghĩa khuyên: Nếu thế thì nên xin vào K8. Em thực hiện ngay.

Chú Nghĩa của chúng mình thật tuyệt vời em ạ. Khi ấy nhờ chú, anh vững dạ lên đường. Không đơn giản chút nào khi phải xa tất cả những người thân thương của mình để đi vào nơi lửa đạn, nhất là trong thời bình. Là bộ đội, anh rất tự hào về chú mình.

   Thì anh vẫn ra đi đấy thôi!..

   Hôm ấy ngồi trên tàu, khi mọi sự hối hả lắng xuống trên đường dài, anh mới có thời giờ tự hỏi mình nhiều điều... Nhiều lúc tâm trạng thật khó tả em ạ. Có lúc anh cảm thấy bừng bừng giận dữ, có lúc lại không thiết sống, nhưng ngay sau đó lại ham muốn cuộc sống da diết!.. Chỗ bấu víu còn lại cho anh là em và những lời dặn dò của chú Nghĩa.

   Anh !..

   Cứu vớt anh lúc ấy là một chút lãng mạn, một chút ý thức... Chính chú Nghĩa đã giúp anh rất nhiều. Chú nói đơn giản: Hãy chân thành thử thách mình đi...
   Thú thực là nhiều lúc em rất sợ...

   Anh cũng thế, đến bây giờ vẫn chưa hết sợ! Sợ đến nỗi khi đã đặt chân về đến Hà Nội rồi mà vẫn chưa dám dứt khoát việc xin cưới em!
   Được ăn béo tai là đáng lắm!

   Không oan em ạ! Trong khi đó chung quanh anh lúc này lúc khác vẫn xảy ra chuyện đào ngũ. Ngay trong đơn vị anh cũng có một chuẩn uý y sĩ đào ngũ. Cậu này được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ quân sự bị thương nặng về Sài Gòn. Xong việc cậu ta bỏ trốn luôn.

Anh có phỉ báng họ không?

   Có lẽ... thông cảm và thương nhiều hơn là thương hại. Phỉ báng thì không... Hình như phải nằm ở chiến trường Campuchia thì mới có được tình cảm này em ạ, ngồi nhà không hình dung nổi đâu! Trên chiến trường nước người, xót thương đồng đội mình lắm...

   Anh đi rồi, về nhà em khóc mãi. Trước sau chỉ một khát khao đơn giản vô cùng: Không được sống bên anh thì làm sao được ở gần anh nhất vậy.
   Điều kỳ lạ là mỗi khi cầm bút vẽ, nhất là mỗi khi vẽ được cái gì đó, anh hiểu được sâu sắc hơn cuộc sống chung quanh mình. Anh thấy những việc mình phải làm dần dần trở nên có ý nghĩa hơn.

   Xem nhật ký vẽ của anh, em cũng cảm thấy anh được cất cánh, từ nỗi buồn cô quạnh ban đầu dần dần đi tới những cảm xúc lớn, quyết liệt... Anh không yếu đuối, nên em thấy mình cứng cáp lên đôi chút.

   Người ta bảo nghệ thuật là sự sống. Có lẽ là như thế. Vì những ngày tháng vừa qua anh sống bằng chính sự sống ấy!
   Lần này ra đi có vững dạ không anh?

   Lần này thì anh có đủ thời giờ để buồn khi chia tay em!

   Em không chơi thế! Chỉ được cái tài đánh trống lảng!

   Vững dạ, nhưng lo nhiều hơn, day dứt nhiều hơn.

   Hãy giữ anh cho em!.. - Yến ôm ghì lấy chồng, nước mắt rưng rức...
 

Nam đi được ít hôm, nỗi buồn vắng cháu của cụ Tuyên bà được đền đáp bằng một sự việc hệ trọng khác trong gia đình họ Phạm: Vợ chồng Lễ và cháu Tín từ trong Nam ra thăm cụ trước khi sang Mỹ nhập cư. Mặc dù tiền ông Học gửi về khá dư dật, vợ chồng Lễ vẫn quyết định đi tàu hoả, vừa là để biết đất nước bây giờ ra sao, vừa là để từ biệt đất nước.

Không sao tả xiết những ấn tượng xô đẩy nhau dồn dập vào tâm trí Lễ suốt chiều dài đất nước. Ngồi bên khung cửa sổ toa tàu, nhiều lúc những cảm xúc ập tới làm cho Lễ tức thở. Những cảnh quan hai bên đường đập vào mắt, những chặng đường đã đi qua, ký ức mấy chục năm xa xưa bật sống trở lại.

Mình đang đi ngược trở lại dòng đời của chính mình?

...Mình đang trên đường trở về tuổi ấu thơ? Đang lặn ngụp qua bao nhiêu quá khứ đau khổ? ...Chính con đường này - nhưng khác chiều, đã bứt mình ra khỏi cái nôi sinh thành, đã xô đẩy mình vào một thế giới đối nghịch với thế giới nơi mình sinh ra. Con đường này giờ đây lại đưa mình trở về cội nguồn... Cậu mất rồi, Minh không còn nữa... Huệ ơi, sao con không đi cùng ba má về thăm bà, các bác, các anh chị... Trời ơi đất nước mình đẹp quá, nhưng xơ xác quá!.. Đôi lúc Lễ đưa tay gạt vội giọt nước mắt ở đâu tự dưng lăn xuống trên má. Năm sáu năm chiến tranh đã đi qua rồi mà vẫn nham nhở các dấu vết bom đạn... Cũng có lúc Lễ cố xua đuổi cảm giác như nhìn thấy dấu ấn chính tay mình trên các mảng nham nhở ấy... Lúc nấc lên, lúc nghẹn ngào, có lúc rít lên xuýt xoa… Lễ khóc thầm và không hiểu vì sao mình khóc…
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #18 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 01:59:41 pm »

Tiếng bánh xe đoàn tàu xiết trên đường ray đều đều, xen giữa là những tiếng va đập đều đều theo nhịp, nhưng đanh và mạnh. Đôi khi Lễ cảm thấy mình như đang luồn chạy giữa muôn vàn tiếng nổ của bom đạn. Có lúc Lễ lại thấy như chính thân thể mình, số phận mình đang bị nghiền cán không thương tiếc trên con đường này. Cũng có lúc Lễ thấy thân phận mình bị xô giạt, ném sang bên này, quăng sang bên kia theo ý thích của con tàu. Ký ức những năm tháng chiến tranh sống lại. Những năm tháng cỗ máy chiến tranh tác yêu tác quái trỗi dậy, những quãng đời nhục nhã ... Những ngày trong trại giam đặc biệt ở Thủ Đức... Những cơn dằn vặt trong trại cải tạo B7... Đêm tranh luận vô tận với anh trai... Những lúc vật lộn với bệnh tật của Thảo ... Tâm trạng nghi vấn trong những ngày bị bỏ rơi ở Bảo Lộc... Bao nhiêu nỗi đau càng làm cho nỗi đau mất Huệ khía mãi vào ruột gan...

Đến nước Mỹ rồi đây mình sẽ sống ra sao? Lại bắt đầu một chu kỳ mới của cái vòng luẩn quẩn?

Thảo và Tín cũng có lúc bỡ ngỡ, xuýt xoa trước những cảnh quan chưa bao giờ được thấy. Riêng Thảo đôi lúc còn ngắm nhìn Lễ, hiểu rất rõ tâm trạng của Lễ ... Có lúc Thảo kéo Tín sang ngồi với mình, cùng xem phong cảnh, cùng trò chuyện, để cho Lễ được hoàn toàn một mình trong cái thế giới riêng của mình. Câu chuyện nào với con Thảo cũng kéo Huệ vào, trong lòng vừa nóng ruột đến Hà Nội, lại vừa mong sớm đến Mỹ để hiểu tường tận về cái chết của con gái mình.

Có lúc cả hai mẹ con Thảo hoàn toàn bị những cảm xúc chưa hề biết đến bao giờ xâm chiếm.

Cuộc sống thanh bình của đất nước ngay trước mặt, lòng dạ xốn xang lần đầu tiên sẽ được gặp những người thân thương, ao ước được đến thăm thủ đô của nước mình, cảm nghĩ rồi đây sẽ phải xa những người thân, xa đất nước, những câu hỏi về tương lai...

Không hiếm những lúc cả khoang tàu của gia đình Lễ yên lặng, vì mỗi người theo đuổi những suy nghĩ của riêng mình, trong lúc con tàu cứ dập dình lắc lư theo nhịp riêng của nó... Tuy vô tư hơn cha mẹ mình, song Tín hiểu được và biết tôn trọng tâm trạng của cha mẹ.

Thảo đôi lúc cảm thấy ngực đau nhói, phần nào vì bệnh tim cố hữu trong chuyến đi dài, nhưng phần nhiều hơn vì câu hỏi xé lòng: Vì sao một nước, một nhà rồi mà vẫn người còn người mất, vẫn sẽ phải mỗi người một nơi một ngả?..

Cùng với những năm tháng nặng nề vì cảnh ngộ gia đình mình, Thảo đã bao lần trả lời câu hỏi này mỗi lúc một cách khác nhau, nhưng cùng chung kết cục là không trả lời được!... Hay là chính bản thân mình đã trở thành sợi dây của trận kéo co bất tận không phân thắng bại?.. Con tàu chạy ra Hà Nội, nhưng không ít giây phút ý nghĩ của Thảo hướng về ba má anh chị em mình tại phương xa nơi nước người...
 

Thảo cố giữ trong lòng câu hỏi không trả lời được cho riêng mình...

...Bước xuống ga Hàng Cỏ, Lễ nghẹn ngào nấc lên không thành lời trong vòng tay của Chính:

   ...Anh ơi, trên sân ga này, cậu mợ, anh, anh Nghĩa đã tiễn chú thím Học, tiễn Mạnh, em và Hoài. Bây giờ cậu không còn nữa, Minh không còn nữa, Mạnh không còn nữa...

Niềm vui đoàn tụ bắt đầu bằng nước mắt.

Sự ân cần của ông bà Chính, ông bà Nghĩa, các cháu Mai và Tân ngay lập tức làm cho Thảo và Tín cảm thấy mình đang trở về nhà. Nỗi xúc động ban đầu lắng dần. Đi được vài bước ra đến cửa nhà ga, Lễ nhìn quanh rồi kêu lên:

   Ôi! Nhà ga ngày xưa không còn nữa các anh các chị ạ!..

   Nhà ga cũ bị bom Mỹ phá hỏng rồi em ạ...

Mấy cái xích lô đưa anh em con cháu họ Phạm về nhà. Thảo và Tín ngơ ngác nhìn đường phố đã đành. Mắt Lễ cũng như dán vào hai bên đường, nói nói chỉ chỉ, lúc nói một mình, lúc nói với người đạp xích lô, gần như suốt dọc đường:

   ...Bên này là nhà của Công ty đường sắt Vân Nam thì đây phải là khu nhà Đấu xảo, sao lại khác thế này nhỉ? Cái nhà lớn này hồi đó không có...

Phố Hàng Bông Nhuộm đằng kia kìa!
Bên kia là Toà án này, mình hãy còn nhận ra, đã có lần ra tận đây bắn chim, pô-lít thu mất

súng cao su...

Đường này ra Tràng Thi, đến Thư Viện Quốc Gia...
Đường này đi đến cửa hiệu Gô-đa(*)[(*) Godar - siêu thị Hà Nội Plaza ngày nay.], thỉnh

thoảng mình được cậu mợ dắt đến đấy... Đúng lối này ra Nhà hát Lớn, Nhà hát Lớn đằng kia...

   Bác ngày xưa chắc đẻ ở Hà Nội... – người đạp xích lô vừa bắt chuyện, vừa nói thêm cho Lễ biết nhiều tên phố đã thay đổi, bắt đầu từ nhà ga là phố Hàng Lọng...

Ngó nghiêng mấy lần, thấy đoàn xe xích lô đến cổng, Loan chạy vào đỡ bà. Cụ Tuyên bà nhờ cháu đưa ra tận bậc thềm nhà để đón con cháu. Yến phải trực ban, đến tối mới về, nên không được chứng kiến những giây phút đáng ghi nhớ này.

Nhìn thấy cụ, Lễ nhảy bổ từ xe xích lô xuống, chạy lại ôm chầm lấy mẹ, ông Chính và Nghĩa cũng chạy vội lên đỡ lấy hai người.

Cả hai mẹ con Lễ lặng đi hồi lâu, nước mắt sụt sùi, chẳng ai nói được câu nào, mọi người chung quanh nín lặng, trời đất như tụt xuống…

Một lúc sau bỗng dưng Lễ quỳ thụp xuống ôm lấy chân mẹ, nức nở, trước sau chỉ một điều:

- Con lạy mợ! Con lạy mợ… Con xin mợ tha tội…

Ông bà Chính, Thảo, Loan và Tín đều lặng đi. Bao nhiêu xót thương thầm kín lâu nay như bùng lên xâm chiếm nỗi lòng mọi người. Thảo thấy người mình hẫng hụt lảo đảo, phải bám vào Loan và Tín để khỏi ngã và cũng bật lên khóc theo chồng...

   ...Ôi mợ già đi nhiều quá, nhưng con vẫn nhận ra mợ. Mợ ơi, mợ có nhận ra con không mợ? Mợ nhận ra con chứ ạ? Cậu mợ tha thứ cho con chứ ạ?.. Con lạy cậu mợ…

Cụ Tuyên bà nghẹn ngào không nói được, Lễ càng giục:

   Mợ nhận ra con chứ ạ? Con của mợ! Con là Lễ của mợ đây ạ!

   Ôi Lễ con!.. – mãi cụ Tuyên bà mới thều thào được, nước mắt ròng ròng...

Ông Chính phải dìu cụ Tuyên bà ngồi vào ghế, Lễ bước theo vào quỳ dưới chân mẹ. Cụ Tuyên bà rẽ hai mái tóc của Lễ, vừa gạt nước mắt trên mặt Lễ vừa rên rỉ:

-...Ôi Lễ! Sao trông con lại già hơn cả anh Nghĩa con?

Chờ cho mẹ mình nguôi đi, Lễ mới đứng dậy dắt Thảo và Tín ra trước mặt:

   Thưa mợ, đây là Thảo ạ, con dâu của mợ ạ. Cháu là Tín, cháu nội của mợ đấy ạ. Em và con chào bà đi.
 

   Con lạy mợ ạ. – Thảo quỳ phục xuống chân cụ Tuyên.

   Cháu lạy bà ạ. – Tín cũng quỳ theo mẹ.

   Thế Huệ đâu? Sao lại không thấy Huệ? – cụ Tuyên bà ngó kỹ xem còn sót ai rồi mới hỏi. Chưa ai nói được câu gì, tiếng khóc tự bật ra. Thảo chắp hay tay trước ngực nức nở:

   Chúng con lạy mợ. Chúng con có lỗi với mợ. Chúng con đã không giữ được cháu... – Thảo gần như ngã rụi xuống, Tín phải đỡ vội lấy mẹ.
   Mợ ơi, Huệ mất rồi, chúng con khổ quá mợ ơi!..

Cụ Tuyên bà hai tay phải bám lấy Lễ để ngồi cho vững, giọng run lên, nói không ra hơi:

   Trời ơi! Thế là thế nào? Cả nhà nói đi! Thế là thế nào?! Sao không ai nói gì với mợ?.. Trời đất ơi, cháu tôi...

Nói đến đây hai tay cụ Tuyên bà buông thõng, đầu ngoẹo sang một bên. Ông Chính bà Hương phải đỡ vội lấy cụ.

   Con có lỗi với mợ. - ông Chính tìm cách an ủi cụ Tuyên bà. - Lẽ ra con phải kể cho mợ biết từ lâu, nhưng hồi này mợ yếu quá... Chúng con sẽ kể mợ nghe... - ông Chính quay sang bà Hương: - Em đỡ mợ đi nghỉ đi. Kiếm ghế cho Thảo ngồi nghỉ tạm một lúc...

Mọi người làm theo lời ông Chính, rồi tất cả lại quây quần chung quanh cụ Tuyên bà. Lúc này ông Chính mới kể lại cho mẹ nghe mấy bức thư của chú thím Học và của Hoài về cái chết thê thảm của Huệ. Mọi người thấy rõ cụ Tuyên bà cố gắng chịu đựng. Cụ không hỏi nhiều, không tự nói điều gì, nhưng thỉnh thoảng thở dài, tay gạt nước mắt ...

- …Trời đất ơi… Khổ thân cháu tôi!

Khi Thảo kể lại trước khi ra đi Huệ nhờ bố mẹ chào bà, chào các bác các anh chị ngoài này, cụ Tuyên bà nấc lên.

... Tối hôm ấy các gia đình họ Phạm có mặt đông đủ tại nhà ông Chính. Có không biết bao nhiêu chuyện để nói, để khóc, để hỏi thâu đêm... Thời gian và không gian hầu như không giữ được cái trật tự vốn có. Quá khứ và hiện tại hòa quyện vào nhau, đuổi bắt nhau... Câu chuyện cứ tự nó dẫn dắt mọi người đi suốt từ Bắc vào Nam rồi lại từ Nam ra Bắc, khắp các chiến trường, các vùng quê thời tản cư, thời sơ tán, hết chuyện Hà Nội lại đến chuyện Sài Gòn, sang cả Mỹ, cả Pháp... Nhưng mỗi khi câu chuyện mon men đến gần trại cải tạo Bảo Lộc thì Lễ là người đầu tiên lái nó đi hướng khác ... Có lúc câu chuyện vô tình đụng chạm đến trại cải tạo, thậm chí có khi chỉ đụng chạm đến chuyện cải tạo nói chung, Lễ không làm sao chịu nổi sự dị ứng nhức nhối, phải khẩn khoản xin mọi người nói chuyện khác...

Bao trùm lên tất cả là Lễ, Thảo, Tín đều chung một cảm nghĩ: Đây thực sự là đại gia đình của mình, được đối xử nồng ấm như những đứa con lưu lạc đâu xa mới về... Đó là gia đình của mình!.. Nỗi đau đớn mất Huệ được bù đắp phần nào...

Ngay tối hôm ấy, Lễ,Thảo,Tín thắp hương vái cụ giáo Tuyên và gia đình Minh. Trong lời khấn Thảo cũng nhắc đến Huệ...

Theo nguyện vọng của Lễ đã báo trước ra ngoài này, ngày hôm sau vợ chồng ông Chính và vợ chồng ông Nghĩa đưa gia đình Lễ về quê viếng mộ cha và các mộ của gia đình Minh.

Đây là lần đầu tiên trong đời Lễ được đặt chân lên vùng đất sinh thành ra họ tộc mình, trong lòng xốn xang một cảm nghĩ khó tả.

...Anh Nghĩa đã cố nhồi nhét hết nhẽ cho mình, thế nhưng mình không tài nào xua đuổi được tâm trạng ghẻ lạnh lẩn quất đâu đó trong tâm khảm. ...Con đường mình đi đã đi gần hết đời người... Hay là trên đời này vẫn tồn tại một bức tường chắn, mình không bao giờ có thể vượt qua? Hình như chỉ có tình cảm máu mủ ruột thịt từng lúc, từng lúc xua đuổi được sự ghẻ lạnh này trong con người mình. Từng lúc từng lúc xoay ngược được tất cả... Từ ngày hôm qua lại càng như thế. Ta có thể thắng, có thể khuất phục được sự ghẻ lạnh này không?.. Ôi những kỷ niệm xa xưa mẹ kể lại đêm qua, những lời dạy dỗ của cha, cái áo mẹ đưa anh Nghĩa cầm vào...

Chân bước đi, nhưng Lễ không làm sao phân biệt được mình đang trên đường về quê hay đang trở lại quá khứ thời thơ ấu bị đánh mất... Phong cảnh đồng quê ngoài Bắc hàm chứa một
 

điều gì đó sao mà thân thương hiền hoà, sao mà sâu lặng! Mỗi bước đi một ngỡ ngàng...

- Làng ta kia kìa, chỗ cây gạo đỏ ấy!

Lễ, Thảo và Tín hướng nhìn theo cánh tay của ông Chính.

Lễ nhận ra ngay cây hoa gạo chói lên mầu đỏ rực rỡ xa xa trước mặt. Mầu đỏ ấy hướng mắt Lễ vào một cổng tam quan lừng lững giữa rặng tre xanh thẫm. Dưới cây đa như kín cả mảng trời là một mái đình lấp ló...

...Anh Chính nói đúng, từ xa cũng có thể nhận ra làng mình...

   Đến đời ông nội chúng ta là cụ Phạm Trung Trực là đời thứ năm làm ăn sinh sống ở quê. Cậu là thế hệ đầu tiên rời quê nhà ra sống ở thành thị, cái chính là vì nghề dạy học...

Lễ nhớ từng lời ông Phạm Trung Chính ngày hôm qua giảng giải về gia phả họ tộc của mình. Họ Phạm Trung ở làng Hoàng Đôi có một người vào kinh làm đô uý là Phạm Trung Trực. Khi theo Tôn Thất Thuyết đánh Tây để phò vua Hàm Nghi bị bại, đô úy Phạm Trung Trực phải bỏ trốn nhiều năm mới chạy về được tới quê nhà. Cụ giáo Tuyên vẫn thường kể cho con cháu nghe: khi đô uý Phạm Trung Trực trở về ẩn náu ở làng, được dân làng che giấu, nuôi nấng, sau này làng cấp đất cho và giúp việc gây lập gia đình... Lúc đầu đô uý được dân làng thu xếp ở tạm trong đình, giao cho giữ chân trương tuần để tránh né mọi truy nã... Cổng tam quan, đình làng, cây đa, cây gạo đầu làng đã có ít nhất từ thời đó...

Lễ nhớ lại những lời ông Chính kể. ...Những ngày u ám, những ngày làng quê rực nắng, rồi mưa gió, dông bão, cảnh làng tiêu điều trong trận đói năm 1945, rồi chiến tranh, lại chiến tranh... Tất cả đã đến. Tất cả đã đi... Nhưng làng mình, cổng tam quan kia, mái đình kia, rặng tre kia và cả cây đa cây gạo kia vẫn đứng mãi, nhẫn nại chịu đựng mọi biến cố, nhẫn nại đo đếm mọi thời gian...

Mỗi bước đi càng gần đến làng, Lễ cảm thấy mình như đang thức tỉnh điều gì...

Khi đi qua con đường dẫn vào cổng tam quan trước đình làng, Lễ dừng lại, thốt lên:

   Ôi cội nguồn là đây! – một luồng sinh khí ập vào, lan tỏa, chiếm ngự tâm hồn Lễ. Mọi người dừng lại theo. Một lát sau ông Chính mới giục:

   Chúng ta đi thăm mộ trước rồi vào làng cho thuận đường.

Đến khi đứng trước mộ cha và ba ngôi mộ gia đình Minh, Lễ cảm thấy một điều gì thiêng liêng vô cùng.

Thắp xong nén hương cắm lên mộ cha, Lễ quỳ phục mặt xuống đất, lặng đi hồi lâu, nước mắt giàn giụa.

Chỉ có tiếng gió thì thào nhẹ lướt trên ngọn cỏ.

Ông Chính và tất cả mọi người cùng đi đứng yên chờ đợi. Họ thông cảm với tâm trạng của Lễ lúc này.

Mãi cho đến lúc Lễ ngồi dậy, Chính và Nghĩa mới chạy lại đỡ Lễ đứng lên. Lúc này Lễ không cầm lòng được nữa, ôm lấy hai anh, mặt hướng về tấm bia trên mộ cha, nghẹn ngào:

- Con lạy cậu! Con muôn vàn lần lạy cậu! Xin cậu tha thứ cho con!

Khi đi thắp hương cho ba ngôi mộ của gia đình Minh, Lễ vẫn nước mắt ròng ròng...

Sau viếng mộ, gia đình Lễ được dắt trở về thắp hương trong đình, đi chào họ hàng ... Hai vợ chồng Lễ và Tín đều không ngờ đến đâu cũng được chào đón chân tình, dù là mới gặp nhau lần đầu. Con cháu họ Phạm Trung hiện là chi đông nhất làng... Nhưng điều làm cho Lễ ngạc nhiên nhất là không ai hỏi Lễ về chiến tranh, về quá khứ...

Tại nhà thờ tổ của họ Phạm, Lễ gặp một cụ mà tất cả các anh chị mình đều phải gọi bằng chú. Chính tự tay cụ thắp cả một bó hương, tẽ ra ba thẻ rồi đưa cho Lễ trước:

   Con đi xa về, hôm nay là lần đầu tiên đến nhà thờ Tổ, con lễ các cụ trước đi. – nói đoạn, ông cụ ra hiệu cho mọi người lui lại một bước, để một mình Lễ lễ trước.

Sau khi Lễ sụt sùi khấn vái xong, ông cụ mới chia hương tiếp cho mọi người làm lễ.
 

Khi ngồi vào bàn uống nước, câu đầu tiên ông cụ hỏi cũng nhằm vào Lễ:

   Mộ cháu Mạnh trong ấy có được ai trong gia đình thỉnh thoảng đến sửa sang hương khói không? Cũng nên tính chuyện lâu dài các cháu ạ…

Lễ không tin vào tai mình, chỉ muốn quỳ xuống đất lạy cụ, trong lòng vừa chết lặng vì áy náy, vừa tràn đầy ơn nghĩa về sự bao dung máu mủ ruột thịt mà Lễ quá bất ngờ.

   Thưa chú... Dạ thưa… – Lễ ấp úng không nói nên lời.

   Cháu còn điều gì ngại ngần phải không? – ông cụ điềm tĩnh hỏi lại.

   Dạ… - Lễ tắc nghẹn, mặt cúi gằm xuống đất, hai tay buông thõng...

Ông bà Chính, ông bà Nghĩa hết ngỡ ngàng lại phân vân, đưa mắt nhìn ông cụ rồi lại nhìn Lễ, trong lòng không biết nên nói gì lúc này, lại càng lo cho sự lúng túng của Lễ. Cả gian nhà rơi vào chân không của sự im lặng. Câu chuyện gián đoạn mất một lúc mãi tới khi ông cụ lại chậm rãi nói tiếp:

   Chú hiểu được sự phân vân của các cháu… Ngay từ sau Bảy nhăm (1975), khi đất nước đã hòa bình thống nhất, các cụ làng này hàng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy lại mời sư về chùa làng làm lễ cầu siêu cho mọi vong linh… Mấy chục năm chiến tranh dân mình chết nhiều quá… Dân mình phải hy sinh nhiều quá có phải không các cháu?!. … Con cháu làng này người chết cho cả hai bên không ít đâu… Nhưng… Nhưng dù sao thì vẫn là giọt máu đào hơn ao nước lã các cháu ạ… Để chú sẽ có lời thưa thốt với làng… Cháu Mạnh không phải là trường hợp đầu tiên

   làng này…

   Cháu xin tạ ơn chú. – ông Chính chắp hai tay lại trước ngực, rồi cả hai tay nắm lấy tay cụ. Ông cúi gập người xuống gần như quỳ bên cạnh cụ.

Lễ lảo đảo, không tin vào tai mình, mãi mới nói được mấy câu không đâu vào đâu:

   Dạ thưa chú… ...Cháu thì đi cải tạo ạ, vợ cháu ốm ạ... Hôm anh Nghĩa đến thăm cháu, xin phép cho cháu được về thăm nhà mấy hôm… Trên đường đi Anh Nghĩa bảo cháu đưa đi thăm mộ của em Mạnh, đấy là lần đầu tiên sau chiến tranh mộ em Mạnh mới được thắp hương ạ...

   Cho đến hôm nay chúng cháu vẫn chưa đi thăm lại được ạ... – bà Chính đỡ lời cho Lễ.

   Ông cụ ngồi im, chỉ nghe, không nói.

   …

Ông Chính tìm cách chuyển câu chuyện bằng cách giảng giải cho Lễ nghe về gia phả họ Phạm. Lần lần Lễ hiểu ra ông cụ là chú họ rất gần. Bố của ông cụ và ông nội của anh em Lễ là hai anh em ruột... Bây giờ ông cụ là trưởng tộc họ Phạm nhà... Thi thoảng ông cụ mới thêm một hai câu giúp cho ông Chính giải thích được mạch lạc các chi trong họ...

Khi ông Chính đứng dậy thay mặt mọi người xin phép ra về, ông cụ nói gọn lỏn:

   Các cháu cố thu xếp... Chú cũng sẽ cố… Thế nào rồi cũng phải đưa mộ cháu Mạnh về quê nhà...
   Vâng chúng cháu xin hứa ạ.

   ...

Khi rời làng, Lễ thốt lên với hai anh:

   Ôi các anh các chị ơi… Giọt máu đào hơn ao nước lã!.. - Lễ phải vịn vào vai hai anh mình đi hai bên, cả hai chân chùn lại nơi đầu làng như không muốn bước tiếp.
   Anh bây giờ vẫn chưa hết bàng hoàng hai em ạ… - ông Chính gần như chỉ nói cho mình.

   Hôm nay em lại càng hiểu thêm thế nào là quê cha đất tổ… - ông Nghĩa chia sẻ suy nghĩ của mình.

Cả ba anh em đi bên nhau trong tâm tư như vậy, mọi người khác lặng lẽ theo sau. Khi ra khỏi làng được một quãng khá xa, Lễ mới nói tiếp được:
   Từ nhà về quê, dọc đường em thấy làng nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ. Họ hàng nhà mình

   quê mất mát trong cuộc chiến tranh này nhiều quá hai anh ạ.
 

   Vào trong các nhà, cứ vài nhà cháu lại thấy bàn thờ liệt sĩ các bác ạ! - Tín cùng chung ý nghĩ với bố mình.

   Em thấy công lao nhân dân miền Bắc hy sinh cho đất nước độc lập thống nhất to lớn quá...
– Lễ tiếp tục nói lên những cảm xúc của mình suốt đường về.

... Những hôm sau, ngoài việc đi chào họ hàng, gia đình Lễ được Chính và Nghĩa bố trí đi thăm một vài nơi: Hạ Long, Lạng Sơn, Bắc Ninh... Riêng Tín rất thiết tha đi thăm chùa Hương. Nguyện vọng được đáp ứng ngay, vả lại đám thanh niên họ Phạm cũng đã lâu chưa có một cuộc đi chơi dã ngoại. Tốp đi chùa Hương do Yến chỉ huy, rất đúng với vai trò chị dâu trưởng họ! Thường ngày từ kinh nghiệm của bản thân mình, Chính, Nghĩa, Kiệt và Cúc rất quan tâm làm cho bọn trẻ không phải chỉ coi trọng tình máu mủ, mà còn làm cho chúng chơi thân với nhau. Riêng ông Chính, vào những dịp thích hợp, thường chủ tâm dùng những cụm từ: Họ Phạm chúng ta.., anh chị em nhà họ Phạm.., con cháu ông bà Phạm Trung Tuyên chúng ta... Trong những ngày ở Hà Nội, đã có lần Lễ nói với anh cả mình:

   Anh Chính ạ, anh thật xứng đáng là con cả của cậu mợ và đầu tàu của dòng họ ở ngoài này.

   Gia đình là gốc rễ, phải gìn giữ em ạ.

Nước mắt và những buồn tủi của biết bao nhiêu đau khổ mất mát rồi cũng nguôi ngoai đi, dần dần nhường chỗ cho niềm hân hoan sum vầy. Cuộc sống trong các gia đình họ Phạm lại chan hoà niềm vui, tiếng cười. Thảo, Lễ và Tín ít nhiều gạt sang được một bên những tâm tư dày vò trong lòng. Yến được bố chồng giao cho nhiệm vụ “điều khiển” toàn bộ chương trình trong thời gian ở Hà Nội của gia đình chú thím Lễ. Thời giờ thì ít, chương trình lại tham, còn phải chiếu cố sức khoẻ của thím Lễ... – có thể nói Yến khá bận rộn. Nào là sắp đặt cho chú thím đi thăm ba bốn nơi để biết thêm đất nước, nào là đi lễ các chùa chiền, thăm các phố phường Hà Nội, các chú thím khác mời cơm, rồi còn phải dành đủ thời giờ cho chú thím Lễ kể mọi chuyện cho bà nghe. Bà có trí nhớ tốt nên hỏi nhiều ơi là nhiều... Cả họ Phạm, nhất là Lễ và Thảo khen lấy khen để tài sắp xếp và sự chu tất của Yến.

   Thím thấy cháu có năng khiếu một nhà quản lý rồi đấy, Yến ạ. Trước khi thi đi làm luật sư, thím đã tốt nghiệp về môn này, nên rất để ý đến cách làm việc của cháu. - Đấy là nhận xét của Thảo.

Hai thím cháu hợp nhau, nên Thảo cảm thấy rất gắn bó với Yến. Có lúc hai thím cháu ngồi nói chuyện với nhau hàng giờ về đủ các thứ chuyện. Tuy không có Nam ở nhà, nhưng qua đứa cháu dâu của mình, xem các tranh Nam vẽ, Thảo có thể hình dung và hiểu rất rõ đứa cháu đích tôn của họ Phạm, trong lòng vừa mừng, vừa âm thầm mối lo khó tả dành cho cặp vợ chồng trẻ này.

   Hai cháu rất xứng đáng với nhau, rất xứng đáng với hạnh phúc của hai cháu, thím mừng lắm. Ba Chính và mẹ Hương dạy các con giỏi quá. Trời ơi, nếu còn em Huệ, cháu sẽ là tấm gương tốt cho em Huệ về nhiều mặt...

Một hôm khác, Lễ nói với anh cả:

   Anh Chính ạ, em thấy Nam và Yến chọn nghề chưa ổn. Nam phải quăng ống nghe, dao kéo, ống tiêm đi để tập trung vào vẽ. Còn Yến phải đi làm thêm cái master về quản trị kinh doanh để về làm quản lý ngành mình học. Đấy mới là thực tài của hai cháu! – Lễ nói với anh trai như vậy.

Ông Chính thừa nhận Lễ có lý.
Một việc bất ngờ xảy ra đối với anh em ba gia đình họ Phạm: Nhân sinh nhật của Hậu, đồng
thời cũng là kỷ niệm 9 năm ngày cưới, vợ chồng tướng Lê Hải mời vợ chồng Chính, vợ chồng
Nghĩa và vợ chồng Thảo đến ăn cơm tối.
Nhận được lời mời, Nghĩa rất thận trọng:

   Rất cảm ơn nhã ý của anh chị. Xin hỏi kỹ một chút, ở cương vị anh mời cả vợ chồng Lễ dự có tiện cho anh không?
   Trước anh, Hậu đã hỏi tôi câu này. Vì Hậu là chủ tiệc mà! Chúng ta chỉ góp miệng ăn và tán gẫu thôi.
 

   Tôi hy vọng không bị anh đánh giá thấp vì câu hỏi bị ế vừa rồi.

   Không. Ngược lại! Hỏi như thế mới là Nghĩa!

Ông Nghĩa chỉ còn cách bắt tay cảm ơn bạn...

Vợ chồng Lễ rất ngạc nhiên khi Nghĩa chuyển lời mời của Lê Hải. Nghĩa nói cho vợ chồng Lễ biết qua về chủ nhà và cũng thuật lại câu hỏi ế của mình.

   Thôi, anh Nghĩa nói với anh chị Lê Hải cho tụi em ở nhà đi. Trong Sài Gòn em đã hiểu sự cách biệt giữa nguỵ và không nguỵ lắm. Nói là sự cách biệt giữa cách mạng và phản cách mạng thì nghe nặng nề quá. Sống trong Sài Gòn tụi em biết... Tụi em đến dự sẽ phiền cho anh chị Lê Hải sau này đó. – Thảo năn nỉ.

   Thảo nói đúng đấy anh Nghĩa ạ. Anh nên làm theo ý Thảo. – Lễ tán thành ý kiến vợ. - ...Tụi em ở nhà không sao đâu, lại được thêm thời giờ kể chuyện mợ nghe.
   Nếu thế em và Thảo làm phiền anh Chính và tôi nhiều hơn. Nói như vậy hai em nghe được không?
   Anh sai rồi ạ, chúng mình là anh em một nhà thì câu chuyện lại khác. Đằng này tướng Lê Hải không họ hàng, lại giữ cương vị cao nữa! Câu chuyện khác lắm... – Thảo phản bác lại.
   Nhờ có anh Lê Hải giúp, anh mới đựơc đến thăm Lễ trong trại cải tạo. Hai em từ chối lời mời này, anh Lê Hải sẽ cho hai em là vô ơn đấy!.. Thôi.., cho anh quyết định nhé: Tất cả chúng ta nhận lời mời!

Lễ và Thảo không còn gì để nói.

...Thảo được vinh dự cầm bó hoa của ba gia đình anh em họ Phạm tặng Hậu:

   Tôi được các anh các chị tôi trao cho vinh dự thay mặt các anh các chị tôi chúc mừng sinh nhật chị, chúc mừng ngày cưới của anh chị. Riêng vợ chồng tôi xin chân thành cảm ơn anh chị, nhất là cảm ơn anh Lê Hải đã giúp đỡ rất nhiều cho sự đoàn tụ trong gia đình lớn của chúng tôi...

Hậu đỡ bó hoa, ôm Thảo thắm thiết.

   Cảm ơn chị Thảo. Xin cảm ơn tất cả các anh các chị! Vợ chồng tôi biết thế nào các anh các chị cũng đến đông đủ, thế mà cả buổi chiều nay tôi cứ thấp thỏm...

Cả chủ và khách là tám người. Tám mảnh đời đi từ những chặng đời riêng khác nhau, ràng bện với nhau bằng những lẽ sống hoà đồng được với nhau, bằng tình cảm anh em, tình cảm vợ chồng, tình cảm bạn hữu... Xúc động nhất là vợ chồng Lễ, vì lần đầu tiên trong đời được sống trong một khung cảnh khó tả như vậy: vừa là gia đình anh em, vừa là bạn hữu quen biết, vừa là đồng sự cấp trên cấp dưới, vừa là xa lạ mới gặp lần đầu, song chân thật, không có gì khuôn sáo...
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #19 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2019, 02:01:09 pm »

Mọi người chuyện trò thăm hỏi nhau khá lâu rồi mới ngồi vào bàn ăn. Thảo và Lễ được chú

   nhất.

   Xin mời nâng cốc khai vị, chúc người đẹp nhất trong ngày là cô giáo của tôi! – Lê Hải mời mọi người. – ...Xin chúc mừng chị Thảo anh Lễ lần đầu tiên cả hai vợ chồng ra Hà Nội. Xin chúc sức khoẻ anh chị Chính, anh chị Nghĩa!.. Hôm nay chúng ta được thưởng thức rượu mơ do bàn tay khéo léo nhất Vĩnh Bảo làm đấy ạ!

   Xin chúc mừng...

   Xin chúc mừng... Rượu vừa thơm vừa dịu. Chị Hậu vừa khéo tay ngâm rượu, vừa giỏi tay buộc chặt anh Lê Hải vào quê mình. Cả nhà có đồng ý nhận xét này không ạ? – ông Chính nâng cốc rượu về phía mọi người.

   Phải thưởng anh cốc này thật đầy... – Lê Hải đáp lại.

Mấy ông mày râu không tiếc lời xuýt xoa khen rượu thơm và uống được quá. Riêng Lễ vô cùng ngạc nhiên lại có thứ rượu ngon đến như vậy. Lễ cảm nhận ngay được điều này, vì xưa nay vốn là người sành rượu trong văn phòng Bộ tổng tham mưu.., hay là vì lâu quá rồi không có rượu ngon để uống...
 

   Xin bái phục chị Hậu đấy! Thực tình lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức một ly rượu ngon như thế này!.. – Lễ chân thật.

   Tất cả chỉ là cây nhà lá vườn thôi anh Lễ ạ. – Hậu vui vẻ đáp lại.

Khi chúc tụng xong, mọi người bắt đầu vừa thưởng thức vừa bình các món ăn, Hậu lên tiếng:

   Anh Hải ơi, lúc nãy anh nói hôm nay em đẹp nhất, chắc ngày mai em đẹp nhì, ngày kia em chỉ còn đẹp thứ ba... Vậy ai là người đẹp nhất của anh trong những ngày sắp tới này?
   Các anh các chị xem, cô giáo của tôi xét nét lắm. Vì tế nhị tôi không dùng chữ ghen thôi! Hậu ơi, em thừa biết ngày nào đối với anh em cũng là đẹp nhất mà! – cả bàn cùng cười.
   Chị Hậu, hôm nay tôi thừa nhận thủ trưởng của tôi có biệt tài vừa đấu vừa xoa, chị phải cảnh giác đấy...
   ...Các anh các chị ạ, - giọng Lê Hải vẫn ấm áp, nhưng thấp xuống - Nhà chúng tôi, đi làm về chỉ có hai vợ chồng lộc cộc, lúc nào cũng phải trêu chọc nhau một tý cho vui. Ngày nào cũng thế, thành thói quen... Vài hôm trước còn có bà thím tôi. Hết Tết bà cụ nhất định về quê, giữ thế nào cũng không được!

Câu chuyện trên bàn ăn chẳng có một chủ đề nào cả, tự nó đi đây đi đó, lúc đầu là cách ngâm rượu mơ, rồi đến chùa Hương, ra Quảng Ninh, vào Sài Gòn... sang cả Mỹ...

Khi đụng vào đề tài chiến tranh.

- Một đất nước kỳ lạ. Bao nhiêu kẻ nhòm ngó, hơn một thế kỷ nay chẳng lúc nào được yên. - Bà Hương thốt lên, ruột gan như thắt lại vì nhớ con.

   Các anh các chị xem Suisse và Luxemburg (Thảo không quen nói tên tiếng Việt) là hai nước nhỏ, thậm chí Luxemburg nhỏ xíu. Những nước lớn kề bên cạnh đều là sư tử, là hổ, là sói, thế mà không đụng vào được mấy anh tý hon này.

   Thảo nhớ là hai anh tý hon này cũng phải giữ quan hệ láng giềng tốt với các hàng xóm hổ sói của mình! – Lễ nói thêm vào ý kiến của vợ cho rõ nhẽ.
   Vâng, em tán thành. Hồi học ở Sorbonne em vẫn sang Genève, đi đi về về dễ như đi chợ. Gần nước ta có Thái Lan, chưa một lần bị làm thuộc địa! Các anh các chị cắt nghĩa thế nào ạ. Chỉ có một điều hơi khó là...

Mọi người không tránh khỏi ngạc nhiên về câu hỏi của Thảo.
   Những điều em nêu ra đáng suy nghĩ lắm Thảo ạ. – Nghĩa chỉ chăm chú nghe, bây giờ mới
nói.

Thảo nghĩ kỹ xem, anh thấy so sánh các nước tý hon châu Âu với nước ta khó lắm... – ông Chính muốn nghe Thảo giải thích. - Trình độ phát triển kinh tế của họ nếu không hơn thì cũng không kém các con hổ con sói chung quanh họ.

   Em thấy như thế thì nêu lên như thế. Có nhiều lý do chính trị, lý do lịch sử, văn hóa... em chưa lý giải được các anh các chị ạ. Nhưng việc này rất đáng để chúng ta ngẫm nghĩ..
   Mấy con hùm con sói loanh quanh chờn vờn mấy con cừu tý hon mà không ăn thịt thì thật là kỳ lạ! Theo tôi, dù Thảo chưa lý giải được, nhưng cũng là một gợi ý, cả nhà có thấy như vậy không ạ. – Nghĩa đồng tình với suy nghĩ của Thảo.

   Hay đấy là cái thế các hùm sói muốn ăn thịt cũng không ăn nổi, dù đấy chỉ là nước trung lập bé tẹo, có phải thế không hả chị Thảo? – Lê Hải băn khoăn.
   Vâng, có lẽ câu chuyện là như vậy ạ. Đơn giản là không có con thú nào chê mồi cả. – Thảo đáp lại.

Câu trả lời của Thảo làm cho Lê Hải và Nghĩa nhìn nhau hồi lâu. Một lúc sau Lê Hải mới nói tiếp:

   Tôi cho rằng cái khác lớn nhất, khó nhất so với Thuỵ Sĩ và Luxemburg, là nước ta có trình độ kinh tế chậm phát triển, quá lạc hậu, nên dễ bị bắt nạt. Có lẽ đây là gốc gác nguyên thuỷ nhất của mọi chuyện... Hơn nữa ngày nay địa chính trị và địa kinh tế châu Âu rất khác so với châu Á, lịch sử và văn hóa lại càng khác. Nhưng dù sao vẫn có nhiều điều phải suy nghĩ tiếp...
 

   Anh Hải có lý đấy. – Nghĩa đồng tình. - ...Vì thế khi nói đến giàu hay nghèo, yếu hay mạnh là phải luôn luôn so sánh hàng ngang, đặt mình trong mối tương quan với chung quanh... Rất đáng phải nghĩ về cái thế này để thiên hạ dù có muốn ăn thịt mình cũng không được có phải thế không ạ? Có lẽ đấy mới thật là cái gốc của mọi câu chuyện.

   Chú Nghĩa cứ nghĩ tiếp đi. – bà Chính xen vào - ...Từ hôm cháu Nam ra mặt trận, hơn một năm trời nay tôi ngày đêm cứ tự căn vặn mình: Tại sao dân ta phải khổ mãi như vậy? Là mẹ, tôi chẳng bao giờ thích đưa con mình ra trận cả! Ruột đứt từng khúc... – ông Chính phải nắm lấy tay bà Hương trên bàn để giữ cho vợ mình đừng xúc động quá.

   Chị Hương ơi, so với hiểu biết của chúng ta, vấn đề Campuchia phức tạp hơn nhiều. – Nghĩa cũng tìm cách làm vợi nỗi đau của chị dâu.

Không khí vui vẻ trong bữa cơm bỗng tụt hẳn xuống.

Nỗi xót xa của chị dâu đưa Nghĩa trở lại buổi tâm sự hôm nào với Nam trước ngày lên đường. Nghĩa còn nhớ rất rõ cảm giác tim mình thót lại, đất dưới chân mình bỗng dưng sụt hẫng đi đâu mất khi Nam cho biết được lệnh đi chiến đấu ở Campuchia. Nghĩa vừa phải động viên cháu lên đường, vừa xót cháu mình. ... Mình cả đời lăn lộn với bom đạn như thế vẫn chưa đủ ư? Bây giờ lại đến lượt cháu mình, những người thuộc thế hệ cháu mình nữa... Mọi thương đau như lại tấy lên, như lại ứa máu... Những thương đau Nghĩa trải qua, những thương đau Nghĩa là nhân chứng trên đường chinh chiến, những thương đau ngay trong đại gia đình của mình... Ôi đất nước tôi!.. Nghĩa nắm chặt ly rượu để không thốt ra lời...

Khi mọi người ra xa-lông ngồi ăn tráng miệng, câu chuyện chuyển sang hỏi thăm dự định cho cuộc sống tương lai của gia đình Lễ ở Mỹ.

   Mệt mỏi, chị ạ. Tâm trạng bọn tôi bây giờ là mệt mỏi, là không thiết gì nữa, nhưng có lẽ bây giờ le lói hy vọng... – Thảo trả lời Hậu.
   Nhà tôi còn có thêm chuyện sức khoẻ nữa anh Hải chị Hậu ạ. – Lễ bổ sung cho ý của Thảo. - Đã có lần nhà tôi nghĩ đến lập một ngôi chùa nhỏ trong nhà để tu tại gia. Tôi gạt đi. Nhưng cả hai chúng tôi muốn an phận thủ thường, may ra có được những ngày thanh thản cuối đời.

   Nhưng anh chị cũng nên thỉnh thoảng về Việt Nam thăm gia đình lớn của mình chứ. Tôi nghĩ rằng rồi chuyện đi đi về về sẽ dễ dàng chứ không như bây giờ. Rồi còn để cho cháu Tín không quên anh chị em của cháu... - Lê Hải ngồi cạnh cùng góp chuyện.

   Vâng, lúc nãy Thảo nói bắt đầu hy vọng là như vậy anh Hải ạ. Ra ngoài này vợ chồng tôi cứ khen mãi anh Chính trong việc dạy dỗ các cháu giữ nề nếp họ Phạm. Tôi hy vọng đấy là sợi dây liên kết bền chặt.

   Anh Lễ ạ, trong cuộc đời người ta, có điều ý thức được, có điều không ý thức được, lại có cả những điều số phận đưa đẩy không cưỡng lại được. Bây giờ anh chị khát khao sự thanh thản, tôi hiểu được và thông cảm. Tôi thấy cũng nên như vậy. Tôi còn hy vọng trong thanh thản anh chị sẽ tìm lại được mình. ...Rồi thời gian có thể sẽ đem lại nhiều ý nghĩa hơn cho cuộc sống...

Anh em họ Phạm nhà anh chị là những người nhiều nghị lực...

Lễ đặt tay mình lên tay Lê Hải:

   Vợ chồng tôi rất cảm ơn lời động viên chí tình của anh. Anh nói đúng, có những điều không sao cưỡng lại được, có lẽ số phận gia đình tôi là như vậy. Anh làm cho tôi hy vọng vào thời gian.

   Tôi hiểu, tôi đã được nghe anh Nghĩa thuật lại cho nghe tất cả, ...cả câu chuyện tâm sự bất tận giữa anh và anh Nghĩa đêm nào...
   Chuyến đi Hà Nội lần này là chuyến trở về nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Nhờ chuyến đi này, rồi buổi tối hôm nay ở nhà anh chị nữa, gia đình chúng tôi sẽ ra đi trong ít nhiều hy vọng.
   Sự thông cảm của các anh các chị tôi, của anh chị hôm nay, làm chúng tôi cảm thấy nhẹ lòng... – Thảo nói thêm vào. - Năm sáu năm trời nay, bây giờ chúng tôi mới được sống với cảm giác nhẹ nhõm thế này...

Vợ chồng Chính và vợ chồng Nghĩa ngồi nghe, trong lòng thầm cảm ơn Lê Hải. Không thể tìm đâu được những lời động viên vợ chồng Lễ hiệu quả hơn thế...
 
Nhân lúc mọi người xúm lại chỗ tủ chè để nghe bà Hậu giới thiệu cách ngâm rượu mơ rất độc đáo, chỉ còn Lê Hải và Lễ ngồi lại với nhau chỗ xa-lông vì đang dở dang câu chuyện, Lê Hải ghé sát vào tai Lễ:

   Tôi hỏi anh thực lòng, trong trại cải tạo các anh có được đối xử tốt không? Đang vui vẻ mà mặt Lễ bốc lên đỏ dừ, chết lặng.

Lê Hải hiểu được. Ngồi im chờ một lúc, Lê Hải lựa lời:

   Anh không muốn trả lời là tôi đã hiểu câu trả lời của anh rồi... Trời đất! Biết làm thế nào!.. – mấy tiếng cuối cùng Lê Hải nói gần như rên lên.

Như là người được thoát nạn, Lễ vồ lấy tay Lê Hải, nắm chặt:

   Xin chân thành cảm ơn sự thông cảm của anh. Nhưng tôi cảm ơn anh gấp nhiều lần vì đã không ép tôi phải nói ra những điều tôi không muốn nói, những điều tôi đang muốn quên...
   Chiến tranh đã qua rồi mà cái bóng của nó vẫn tiếp tục cướp bóc chúng ta nhiều quá anh Lễ ạ... Không biết đến bao giờ...

Từ hôm vợ chồng Lễ ra ngoài này, cụ Tuyên bà nhanh nhẹn thêm một chút. Song cũng chỉ được vài ngày. Cái yếu của tuổi già và bệnh tật, nhất là bệnh huyết áp cao, vẫn ngày một lấn át mọi cố gắng của cụ. Mấy ngày gần đây cụ không đi lại được nữa. Thảo giành lấy mọi việc nâng đỡ chăm sóc vệ sinh cho cụ, trong thâm tâm nhói lên ý nghĩ không biết rồi đây mình có còn cơ hội thực hiện bổn phận con dâu đối với mẹ chồng nữa hay không…

   Sang bên ấy hai con cố nài chú thím Học về chơi, cho cả gia đình Hoài về.

   Cầu trời được như vậy mợ ạ.

   Mợ sẽ cố sống để chào đón chú thím, vợ chồng Hoài, các cháu...

   Có dịp, chúng con cũng sẽ cố gắng về thăm mợ.

   Nhớ đưa cho Hoài cái áo len mặc hồi còn bé.

   Dạ, nhà con đã gói cẩn thận và cho vào va-li rồi ạ. ...Mợ nghỉ một lúc đi cho đỡ mệt. Con bóp chân cho mợ nhé.
   Ừ, hai chân hôm nay làm sao đau lắm, lại trở trời rồi, bắt đầu đau lên hai vai... Kể chuyện tiếp đi... Sao Huệ đã thế mà hai con không làm lễ cưới sớm cho cháu?..
   ...

Thảo vừa lau nước mắt, vừa kể lại chuyện cũ cho mẹ chồng nghe.

Một ngày trước hôm bay trở vào Sài Gòn, vợ chồng Lễ không đi đâu nữa, suốt ngày chỉ luẩn quẩn bên cụ Tuyên bà. Không dám nói ra, nhưng vợ chồng Lễ lo lắng không biết có còn dịp nào được gặp lại mẹ nữa không. Một điều biết trước dường như là cầm chắc như thế mà không sao chịu đựng nổi!..

Nhân lúc cả nhà đi vắng hết, Thảo đang bận bịu dưới bếp, Lễ ngồi tâm sự với mẹ về tâm trạng chán chường của mình, được vài câu Lễ gục vào lòng mẹ, nghẹn ngào, nước mắt giàn giụa:

   Mợ ơi, con khổ quá! Con được sống với cậu mợ ít quá. Cả như bây giờ con cũng không ở lại với mợ được nữa!.. Khi con chờ anh Nghĩa vào trại cải tạo thăm con, đã có lúc con hy vọng chiến tranh qua rồi, gia đình mình sẽ đoàn tụ... Con đã bao phen đắm chìm để bảo vệ bằng được gia đình bé nhỏ của mình... Nhưng rồi con đã không giữ được Huệ, rồi cuối cùng gia đình con sẽ phải ra đi không sao cưỡng lại được, con lại bắt đầu phải sống xa mợ!.. Con là như thế...

Con không tự thay đổi được mình nữa! Con khổ quá mợ ơi...
 

9.

Hai Hân ghi thêm một chiến tích mới: Nêu gương tiến công vào tâm lý hữu khuynh của một số cán bộ trong thành phố. Người bị Hai Hân nêu ra làm tiêu biểu là Bảy Dự. Hai Hân bỏ qua Ba Khang, vì đằng nào Ba Khang cũng xếp vào loại xế chiều về tuổi tác. Còn trình độ mọi mặt thì lại càng kém, không thể so với Bảy Dự. Gần đây chính Ba Khang có đơn xin nghỉ công tác, với lý do trình độ hạn chế.

...Bây giờ mình phải làm cho mọi người tâm phục khẩu phục bác bỏ Bảy Dự, nhất là bác bỏ sự mê tín vào cái trí thức quèn của anh ta... Giáo viên trung học, chứ có là cái gì ghê gớm đâu...

Dân trong thành phố không ít người cứ chê bai cán bộ này là nông dân, cán bộ kia là công nhân nông trường... Họ còn nói điều hành công việc của thành phố thời bình phải là những người có học, có văn hoá... Ta sẽ chứng minh đấy không phải là lãnh địa riêng, là đặc quyền của các người!..

Sự bận rộn ngày đêm hình như chỉ mang lại cho hai Hân nhiều điều phấn khích. Cuộc đời phấn đấu từ một công nhân lam lũ trở thành giám đốc, lại phó Ban Dân vận, rồi đây chắc sẽ còn tiến xa nữa.., Hai Hân rút ra chân lý: Càng ngày mình càng hiểu, đời là nối tiếp các cuộc chinh phục không ngừng! Khi mình phiêu bạt giang hồ cũng thế, bây giờ cũng thế. Cảm ơn trời đất, mấy năm gần đây bệnh tật cũng êm êm, mình không biết mệt mỏi là gì...

Trong Thành phố: ...Nào là vấn đề nuôi sống mấy triệu người. Nào là yêu cầu trật tự trị an. Ngay trước mắt cần trấn áp cả một thiên la địa võng các băng đảng ác ôn du thử du thực chăng rải khắp Thành phố – không ít các băng đảng này trước đây là những móc xích của CIA, của nguỵ quyền và của các tổ chức chính trị phản động. Nào là các tệ nạn văn hoá, xã hội khác. Nào là vấn đề chi viện cho Campuchia ... Chưa nói gì đến những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố, chuyện học hành của học sinh...

Bây giờ lại thêm những hậu quả tích tụ ngày một nhiều của tình hình di tản. Lác đác có một số hiện tượng đáng ngại về an ninh chính trị. Lãnh đạo Thành phố đòi hỏi phải thận trọng trong xử lý mọi công việc, không thể lẫn lộn các sự việc hình sự, kinh tế và chính trị...

Phụ trách công việc giữ gìn trật tự trị an cho dân cư của quận mình, Bảy Dự ý thức được yêu cầu nghiêm ngặt này. Mong muốn thì đúng đắn như vậy, song cuộc sống nhiều khi là con ngựa bất kham. Cách đây hơn một năm trong thành phố xảy ra vụ một số cán bộ ăn tiền của người di tản, móc ngoặc với bên ngoài tổ chức một mẻ di tản lớn trót lọt. Mẻ di tản lớn này cho đến nay vẫn gây xôn xao trong Thành phố, vì trong những người ra đi có ba gia đình anh em Năm Thịnh và một số người trước đây đã tham gia lực lượng thứ ba trong Mặt Trận. Quận của Bảy Dự có hai người tham gia vào vụ bê bối này. Hai Hân đặt tên cho vụ này là vụ Năm Thịnh. Sau vụ này số người trong quận của Bảy Dự di tản không thành tốp lớn nữa, nhưng số lượng không giảm…

Trong việc truy tìm những đầu mối của các mẻ di tản sau, người ta tìm thấy khá nhiều tài liệu thật giả lẫn lộn, đủ mọi loại nguồn gốc, hầu hết là photo copy. Nào là bản hướng dẫn làm thủ tục khai báo với cơ quan nhập cư Mỹ, mẫu đơn xin tị nạn chính trị, bản tôn chỉ mục đích của Hội đoàn tụ gia đình - địa chỉ ...CA- USA, địa chỉ liên lạc của Hội cựu chiến binh Báo đen -

...Texas - USA, lời kêu gọi của hội này gây bạo loạn lật đổ chế độ Hà Nội, thủ tục thỉnh cầu sự can thiệp của Cao uỷ tị nạn quốc tế UNHCR, đường dây dịch vụ chuyển tiền, “10 điều khuyên trong thời gian sống ở trại tị nạn”, địa chỉ các thành viên Uỷ ban Nhân quyền phụ trách Việt Nam, Điều lệ Việt Nam Cứu Quốc Hội – các địa chỉ liên lạc tại Mỹ, Philippines, Thái Lan, Campuchia.., hiệp hội “Những người Mỹ vì Việt Nam tự do” – trong danh sách lãnh đạo của tổ chức này người ta thấy tên một số nhân viên CIA loại trùm sỏ ở Sài Gòn trước đây như J. Polgarier, M. Colbie ... Tại quận của Bảy Dự người ta còn tìm được hai bản photo copy gồm các đoạn trích trong những bài báo tiếng Việt và tiếng Anh ở nước ngoài. Những đoạn trích này lấy ra từ các bài báo có chủ đề chính cho rằng sự đàn áp ở Việt Nam làm bùng nổ các làn sóng di tản; những bài này in chung dưới tiêu đề lớn “Tố cáo chế độ Hà Nội vi phạm nhân quyền...”. Ngoài ra có bốn thư tay của người di tản sống ở Mỹ gửi về cho gia đình. Trong các thư có một thư nêu địa chỉ liên lạc với thiếu tá nguỵ Lý Lam. Một thư khác là của đại tá nguỵ Quách Minh
 

Châu gửi cho em vợ, thư về đến nơi thì người nhận đã đi di tản trước đó một tháng. Thư này kể nhiều chuyện về cộng đồng người Việt ở California. Châu không ngờ đến đây gặp lại một số bạn cũ trong Ban thư ký Tổng tham mưu ngày xưa, lại có thêm bạn mới. Trong thư người ta đọc được một số tên như Tôn Thất Loan, Phạm Trung Lễ, Năm Lửa – tức Năm Thịnh.., trước đây là chủ khách sạn Eden ở Sài Gòn...

Bảy Dự không một chút nghi ngờ các hoạt động vừa ăn cướp vừa la làng trong việc lôi kéo di tản, gây hoang mang và tạo cơ hội diễn biến hoà bình, lật đổ chính quyền cách mạng. Song nếu coi tất cả mọi người đi di tản là vì động cơ chính trị thì không thể chấp nhận được. Bảy Dự và Hai Hân đã nhiều lần tranh luận với nhau tới số, song chưa ai chịu ai. Cho đến nay các cuộc họp đều nhấn mạnh không thể coi thường sự can thiệp ngày càng trắng trợn từ bên ngoài, phê phán quyết liệt các nhận thức mơ hồ, hữu khuynh...

Cuộc họp hôm nay bàn về đối sách với những người đã đi di tản trong quận của Bảy Dự. Hai Hân tham gia với tư cách là đại diện ban dân vận của thành phố, ngầm hiểu là trên Bảy Dự một cấp.

Bảy Dự trình bày, giải thích khá dài, nhưng tựu trung lại có hai điểm mấu chốt nhất: Một là đối sử với gia đình hay thân nhân của những người di tản còn ở lại theo pháp luật, bình đẳng như các công dân khác, hai là nếu những người di tản có tài sản để lại, nhất là bất động sản, thì nhất thiết không được đụng đến. Lập luận của Bảy Dự là phải bám vào quan điểm chỉ đạo của thành phố là không nên làm cho tình hình rối rắm thêm.

Người nổ phát súng đầu tiên vẫn là Hai Hân:

   Quan điểm của lãnh đạo Thành phố là để chỉ đạo, còn đi vào thực hiện phải cụ thể hoá từng trường hợp. Theo anh Bảy thì sự ra đi của Năm Thịnh có phải là phản động không.
   Tôi cho là không.

   Nếu không hiểu hành động của Năm Thịnh là chống đối cải tạo tư sản, là chống đối đường lối chính sách của Đảng, thì hiểu nó là cái gì?
   Trước sau vẫn là bất mãn. Chúng ta không nên đã mất người lại còn biến họ thành thù.

   Bất mãn, bỏ cách mạng, bây giờ sống trong lòng địch và bè lũ phản động người Việt ở nước ngoài, thế không phải là phản động à? Bất mãn bỏ nước ra đi có khác gì lắm với chống chế độ? Anh có chắc rồi đây Năm Thịnh không quay về chống ta không?

   Hỏi thế làm sao trả lời được, nhưng Năm Thịnh ra đi là vì bất mãn.

Anh Bảy chỉ xem xét Năm Thịnh lúc ra đi, không nhìn vào diễn biến của sự việc, lại càng không để ý đến những tài liệu ta bắt được. Sao lại có thể nhìn nhận sự việc tĩnh tại thế, cũng không để ý đến môi trường Năm Thịnh đang sống bây giờ!

   Tôi không tán thành cách suy diễn như vậy. – Bảy Dự kiên quyết bác lại.

   Sai lầm là ở chỗ này! Cả hội nghị nghĩ xem, tình hình di tản trước khi ba anh em nhà Năm Thịnh ra đi như thế nào, bây giờ như thế nào? Tình hình chung trước đây phức tạp hơn, hay là sau vụ Năm Thịnh phức tạp hơn? Đối phó với tình hình hiện nay bằng cách suy nghĩ cầu an như của anh Bảy có được không?..

Cuộc tranh luận tay đôi chuyển sang cuộc thảo luận của cả hội nghị. Nhiều ý kiến thừa nhận điều rành rành là tình hình bây giờ phức tạp hơn nhiều. Nhiều ý kiến đồng tình không thể nhìn sự việc tách rời với những diễn biến chung quanh đang xảy ra. Một số ý kiến còn đi xa hơn, phê phán Bảy Dự là mơ hồ, mất cảnh giác...

Sau khi đa số dự hội nghị tán thành ý kiến của Hai Hân, cuộc thảo luận vấp phải vấn đề khó hơn: Các biện pháp xử lý. Quan điểm chỉ đạo của Thành phố luôn được nhắc đến, nhưng đi vào các trường hợp cụ thể của quận thì không dễ chút nào.

Trường hợp di tản của em vợ Quách Minh Châu dính dáng đến việc cuỗm một số tiền khá lớn của những người muốn di tản đang bị kẹt lại. Có những chứng cứ cho thấy chính hắn ta đứng ra tổ chức đường dây này và dụ dỗ nhiều người tham gia. Chỉ có khoảng một phần ba số người đóng tiền đi được trót lọt. Nhà của hắn ta lại là nhà đi thuê, do người vợ cả và một đứa
 

con trai cả đang ở, những tài sản khác hắn bán tống bán tháo hết trước khi bỏ trốn ra nước ngoài, nghĩa là chẳng có gì để bồi hoàn cho những người bị lừa... Dựa vào thế lực hay tổ chức chính trị nào hắn ta làm được việc này? Xử lý thế nào đây? Không xử lý được thì vô hình chung khuyến khích các đường dây mới...

Đã thế có một số người không đi được trót lọt, quá tiếc của… Một số người trong đám họ vốn là họ hàng ruột thịt với Bảy Dự, nhờ ảnh giúp tìm cách đòi lại tiền. Bảy Dự không sao thoái thác được. Có lúc Bảy Dự hết cả kiên nhẫn:

   Bác làm việc phạm pháp như thế lẽ ra phải bắt giam đấy!

   Thôi… Bỏ qua đi… Bác nghe người ta xui dại mà…

   Tại sao khi đóng tiền đi di tản bác không đến báo cho chính quyền biết. Bây giờ mất tiền bác lại nhờ chính quyền đứng ra đòi hộ?
   Thì có tin chính quyền mới nhờ chính quyền đứng ra đòi chớ! Thế chính quyền không bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân à?.. Cháu giúp bác đi…
   Đành là thế, nhưng bây giờ người nhận tiền của bác cao chạy xa bay rồi. Vì sao hồi ấy bác lại phải tìm cách cho gia đình di cư bất hợp pháp như thế. Nhà ta có làm điều gì sai không mà phải đi lén?

   Chỉ có buôn bán thôi mà, có làm gì đâu… Cháu biết quá đi rồi. Chính phủ ta thì không có chủ trương cho đi, mà nơi đến cũng dứt khoát không nhận. Vậy không đi lén thì đi bằng cách nào?

   Biết thế mà bác vẫn liều?..

   Người thì nói bây giờ cái gì cũng quốc doanh hết, sống thế nào được! Người khác lại nói bên ấy làm ăn dễ lắm, thế thì tội gì không đi! Ai biết đâu bị mắc lừa như thế này!..

Bảy Dự hiểu thêm ra nhiều điều.

Trong quận của Bảy Dự có hai người tham gia vào vụ bê bối Năm Thịnh, một cán bộ phường và một cán bộ quận, hơn một năm rồi vẫn chưa giải quyết xong. Hai cán bộ này đã buộc phải thôi việc và bị xử lý theo pháp luật về tội tham nhũng. Nhưng câu hỏi chưa làm rõ được là: Vụ bê bối này chỉ đơn thuần là chuyện sa đoạ của cán bộ hay còn nguyên do gì khác? Nếu có vấn đề chính trị thì càng không đơn giản chút nào. Bảy Dự vẫn còn nợ trên câu trả lời và cũng tự cảm thấy tín nhiệm của mình ngày một giảm sút. Ngay trong cuộc họp này Bảy Dự cũng thấy ý kiến của mình không được coi trọng như trước nữa... Trong khi đó ý kiến của Hai Hân ngày càng được vì nể, nhất là khi Hai Hân phê phán quan điểm hữu khuynh của Bảy Dự...

Hai Hân toàn thắng trong việc bác bỏ ý kiến Bảy Dự, nhưng hội nghị không toàn thắng trong việc thông qua những giải pháp ổn định tình hình và kiểm soát tình trạng di tản. Đại thể vẫn là những quyết sách chung chung: nắm vững phương châm chỉ đạo của Thành phố, tăng cường giải thích chính sách và học tập chính trị trong các cụm dân cư, phổ biến những thông tin về tội ác dã man của hải tặc để răn đe...

Là phó Ban Dân vận của Thành phố, trong thâm tâm Hai Hân thừa nhận những biện pháp đã thông qua không tác động được bao nhiêu vào những nguyên nhân gốc rễ của vấn đề di tản.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM