Mùa khô.Từ trên trực thăng nhìn xuống, mùa nước đã qua, cánh đồng xanh ngắt một màu cỏ hoang. Chiếc trực thăng bay qua: cánh đồng đưng, lác xanh với màu xanh đậm, rừng đế bịt bùng với rừng hoa trắng, đầm sen, đầm bông súng, cánh đồng màu xanh mướt, những vạt tràm và đường mòn lẩn khuất trong cây cỏ, chằng chịt như bàn c
Giữa cánh đồng hoang vu ấy bỗng hiện lên màu xanh lạ. Chiếc trực thăng quần lại, hạ thấp và siết chặt vòng bay.
Trong cụm đế già bịt bùng, Sáu Xoa như trồi lên từ dưới lòng đất. Nhà của vợ chồng Sáu Xoa, một cái hầm rộng và sâu giữa rừng đế. Nóc nhà, là một cái mô đất với cụm đế già nhô cao. Nhà chị kín đáo đến nỗi không một ai có thể tìm thấy ngoài vợ chồng chị. Quanh nhà, không thấy có đường mòn. Sáu Xoa đứng lẫn trong đế, nhìn theo hướng trực thăng. Chị cúi xuống, nói vào cửa hầm:
- Mình ơi! Mình!
Ba Đô đang ngủ ngon. Thằng con trai đang bò quanh trên cái sạp đế, bên anh. Đang ngủ ngon, nghe tiếng gọi, thành một thói quen, vừa dậy, tay vừa chụp lấy cây CKC để bên cạnh, anh bò ra, ló đầu ra cửa hầm.
- Gì đó?
- Máy bay nó quần ngay đám ruộng!
Ba Đô đưa tay quẹt mắt, mặt tỉnh hẳn. Anh bước lên, đứng cạnh bên vợ:
- Nó phát hiện được rồi. Mẹ cha nó! Tối nay phải gặt thôi. Từ tiếng bay của trực thăng dội lên một loạt súng.
Anh nhìn về hướng trực thăng với đôi mắt căm giận, lo âu
*
* *
Chiếc trực thăng rà sát qua đồng lúa, cuốn theo những hạt lúa vàng bay xoáy theo. Hai chiếc trực thăng từ xa lại bay tới. Ba chiếc thay nhau rà sát xuống, quạt cánh. Những con rùa, rắn ẩn náu trong đế, bên đám ruộng bị động ổ, hốt hoảng, bò lổm ngổm.
Sau một lúc bắn dọn bãi, hai chiếc bay trên cao để yểm trợ, một chiếc hạ thấp, sựng lại, từ trên cửa trực thăng, một tên Mỹ thòng dây đổ xuống. Tên lính Mỹ đứng giữa đám ruộng, nhìn bốn bên, quan sát, cuối cùng nó quơ tay nhổ một bụi lúa còn đầy hạt chín vàng rực.
Từ trên trực thăng phăng dây, kéo hắn lên.
Ba chiếc lại rà, lại quạt.
Từ trên trực thăng nhìn xuống, bọn Mỹ thấy một con trăn dài đang bò theo một con đường mòn nhỏ.
Con trăn tuôn chạy nhưng vẫn bị ngọn gió của cánh quạt trực thăng đuổi theo. Vì
hoảng sợ hay vì phản ứng tự nhiên của loài vật, con trăn vươn mình, cất đầu nhìn lên.
Tên lái trực thăng giật mình choếc máy bay dựng ngược lên. Và như sợ con trăn hung dữ với cái đầu há hốc của nó, ba chiếc trực thăng bay thẳng về căn cứ.
*
* *
Anh Ba Đô một tay xách CKC, một tay cầm bao bố tời chạy ra đồng lúc trực thăng đã bay xa.
Qua cử chỉ của anh trong việc bắt rùa đủ biết anh là con người có nhiều kinh nghiệm. Những con rùa hoảng hốt vì sức gió của trực thăng hãy còn bò chạy tứ tung. Gặp rùa, Ba Đô không bắt vội. Anh cứ đưa tay hất nó nằm ngửa lên. Bốn chân bị lật ngửa con rùa không thể bò chạy đi đâu được nữa. Nằm ngửa, bốn cái chân của nó cứ thò ra, bơi bơi. Chạy chỗ này, chạy chỗ khác. Sau khi lật ngửa những con rùa, đoán là đã hết, anh mới đi nhặt từng con bỏ vào bố tời. Có hơn mười con rùa.
Quẩy bao bố tời lên vai, tay cầm súng, mặt hớn hở, anh trở về.
Đang đi, anh dừng lại, nhìn xuống. Anh cúi người mỗi lúc mỗi thấp, rồi anh đặt cái bao bố tời rùa xuống đất. Dưới mắt anh, phải là người quen thuộc, nhiều kinh nghiệm mới nhận thấy: đường trăn đi. Đường trăn đi, con đường như phết một chất nhờn, hay chất mỡ, trơn trơn. Nhìn kỹ, mặt rạng rỡ, anh kêu lên:
- Trăn !... - Và anh cười.
Theo con trăn đi, anh dò theo. Anh ngồi mà bước theo từng bước như con cóc khổng lồ. Từ đi ngồi đến đi lom khom, từ bộ điệu đi lom khom, anh đứng dậy mặt cúi xuống, đi theo. Anh vẹt đế, vẹt sậy, đi, đi mãi. Qua một khoảng trống cỏ lưa thưa, đến cái bụi đế dày, anh nhìn thấy cái đuôi của con trăn. Cử chỉ nhẹ nhàng và sành sỏi, anh đặt cây súng vào một chỗ khô ráo, anh đi lom khom, hai bàn tay xoa vào nhau cho nóng, anh bước từng bước nhẹ nhàng như con mèo, rồi bất thần anh ào tới, chụp lấy cái đuôi của con trăn. Con trăn giật mình, quay đầu lại
nhưng bị sậy đế chặn ngược lại, và cũng không thể nhanh bằng con người - anh Ba Đô, anh rút con trăn ra khỏi bụi đế, và anh dùng sức mạnh của hai tay, anh quay tròn.
Đàn chim lá rụng giật mình, ré lên, bay đầy cả bầu trời xanh ngắt với những đám mây đang trôi.
*
* *
Hình con trăn ngóc đầu mà trực thăng đã chụp được, đặt trên bàn dưới con mắt của tên thiếu tá Mỹ. Tên thiếu tá Mỹ nhìn với con mắt tò mò lạ lùng, rồi thốt lên:
- Một xứ sở kỳ lạ, không hiểu được. - Hắn hỏi tên trung úy lái trực thăng ngồi đối
diện với hắn. - Nó muốn mổ chiếc trực thăng của chúng ta phải không?
Tên trung úy lắc đầu, cười nhạt:
- Tôi không hiểu được. Phải hỏi các nhà sinh vật học. Thiếu tá Mỹ:
- Cho qua. Hắn đưa tay đẩy tấm hình con trăn ra, hắn kéo bụi lúa lại trước mắt:
- Trung úy đã phát hiện ra sự sống, nhưng cái con người trồng ra cây lúa này... - Hắn nhún vai, làm một cử chỉ chê bai tên trung úy.
Đoạn hắn lật tấm bản đồ quân sự với con đường mòn chi chít ẩn hiện trong cánh đồng hoang, hắn đưa tay chỉ một con đường:
- Không ai lạ: Chính kẻ trồng ra cây lúa này là người đưa quân qua những con đường mòn này.
Hắn cong bàn tay chụp xuống bản đồ:
- Phải diệt cho kỳ được. Một con người không làm nên được gì, nhưng hắn còn tồn tại là ý chí của ta thua. Bằng mọi cách, và mọi giá.
Hắn ngước mắt nhìn tên trung úy. Tên trung úy đứng nghiêm chào. Mặt của hắn, mặt của một người có lỗi.
Sau khi tên trung úy quay đi, tên thiếu tá lại kéo tấm hình con trăn lại xem. Cái đầu của con trăn cất lên như muốn đớp vào cái mũi dài nhọn của hắn.
*
* *
Một con dao đang xẻ bụng con trăn. Ba Đô làm con trăn trong cái gọi là cái bếp trong bụi đế, Sáu Xoa bồng con, ngồi cạnh bên, xem chồng làm trăn.
Anh Ba Đô đưa cái mật con trăn lên trước mặt vợ con:
- Cái mật này, ba đổi cho con một bộ quần áo, cho má con một cục xà bông thơm.
Anh cười, mặt tươi rói. Sau cùng, anh căng da trăn ra phơi, anh nói với con: - Ba sẽ làm mặt trống, cho con đánh tung tung, ăn Tết.
Anh hôn lên má của con. Đêm trăng. Trăng đêm bầu trời cao mênh mông. Là đêm
yên tĩnh nhưng vẫn nghe tiếng pháo nổ xa, tiếng bom rền, tiếng bay của các loại máy bay.
Hai vợ chồng Sáu Xoa ra đồng cắt lúa. Không thể để thằng con ở nhà một mình, Sáu Xoa phải địu con theo. Bên mí ruộng có hai cái hố cá nhân gần nhau nằm trong lùm đế, kín đáo.
Ba Đô xuống ruộng cắt trước, còn Sáu Xoa, chị lo sắp xếp chỗ ngủ cho con. Chị rãi rơm lót đất, trải tấm ni lông, chị đặt thằng con đang ngủ ngon vào ổ, song cẩn thận hơn, chị chặt những cây sậy già, cắm xuống đất, căng ni lông che sương đêm cho con. Chị ngồi quạt muỗi cho con một lúc, mới xuống ruộng cắt lúa. Chị cắt cái vạt lúa gần chỗ con. Còn anh Ba Đô, anh cắt từ đầu bên kia. Tiếng liềm ăn lúa nghe soàn soạt. Từng bó lúa được bó lại, mỗi lúc mỗi nhiều, vợ chồng mỗi lúc mỗi gần nhau.
Trực thăng đi soi đêm từ xa phực đèn, soi sáng. Hai vợ chồng chạy đến bên hầm, Sáu
Xoa bế con sẵn trên tay, ngồi bên miệng hầm.
Chiếc trực thăng chỉ bay qua, bay theo những con đường mòn đi dần xuống dòng
sông Cửu Long.
Nhìn theo trực thăng, Ba Đô nói với vợ:
- Nó theo con đường hành quân của mình đó. Đồ đui. Mình ở đây với con, tui đi gặt. Anh đi một lúc, thấy yên, Sáu Xoa đặt con vào ổ, lại xuống ruộng gặt tiếp chồng. Một chiếc Đakôta rè rè từ trên cao, đốt pháo sáng. Trời sáng rực.
Dưới ánh sáng của pháo sáng, bọn chúng không thể phát hiện được gì, hai vợ chồng vẫn bình tĩnh cắt lúa.
Từ trên chiếc Đakôta kêu xuống:
- Chiêu hồi... tử thần.
Tiếng kêu từ trên trời kêu xuống nghe như tiếng ma quái. Tiếng kêu nghe rùng rợn nhưng chẳng tác động đến ai, chỉ làm thằng nhỏ giật mình thức giấc, khóc ré lên. Sáu Xoa chạy lại bên con, ôm con, dỗ:
- Mẹ cha cái thằng Đakôta nó làm con tôi giật mình. Nín đi con. Nín đi, rồi má sẽ
đánh nó.
Thằng bé im tiếng khóc, rồi thở đều. Hai vợ chồng gặt xong một công lúa. Dưới ánh pháo sáng của chiếc Đakôta, hai vợ chồng ôm từng bó lúa, phân đi mỗi chỗ mỗi nơi trong sậy, trong đế.
Chiếc Đakôta vẫn quần đảo và thả pháo sáng.
Có một chiếc pháo lụi tắt, theo ngọn gió, dạt đi. Sáu Xoa kêu:
- Mình ơi! Dù trái sáng kìa.
Ba Đô buông bó lúa, vụt chạy đi. Chiếc dù pháo sáng trải ra trắng tinh nhè nhẹ đáp
xuống đám đế. Ba Đô chồm tới, kéo nó vào người.
*
* *
Sáu Xoa ngồi trong hầm của nhà, tháo chiếc dù pháo sáng đêm qua ra từng mảnh, rồi may cho con một chiếc áo.
*
* *
Chiếc trực thăng của tên trung úy có nhiệm vụ săn người đã bay đến - đến ruộng lúa. Cái đám ruộng đêm qua đã đổi màu. Tưởng mình bị lạc vào một nơi khác, nó lại bay đi, lại quần đảo. Nó bay lại ruộng, sà thấp, rồi lại bắn. Bắn dữ dội. Nó dừng lại và thả dây cho một tên xuống quan sát.
Tên lính Mỹ đứng giữa ruộng, nó nhìn những bụi lúa vừa mới cắt, mắt nó ngơ ngác. Chợt nhìn thấy một bó lúa đã bó, còn sót lại, nghĩ là có người đang còn ẩn nấp đâu đây, nó kêu lên một tiếng hoảng hốt. Và sợi dây đeo bên lưng vội vàng nhấc bổng nó lên. Chiếc trực thăng rầm rộ cất lên cao, bắn xuống xối xả.
Sáu Xoa may áo cho con xong, chị mặc áo mới cho con. Chị bồng con lên, áp mặt
vào má con vừa hôn vừa cười đùa với con.
*
* *
Ba Đô ngồi dưới bóng cây tràm lẻ loi giữa đồng, anh hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, chờ giao liên giao khách.
Anh chờ đến trời đâm mây ngang, anh giao liên trạm bên kia mới tới. Ba Đô cau có:
- Sao bây giờ mới tới?
Anh giao liên mặt hớn hở, đưa tay khoát rộng ra: - Một cánh quân lớn lắm.
Ba Đô vui theo: - Vậy
- Từ trên R mới xuống, bổ sung cho đồng bằng mình. - Quan trọng vậy mà sao đi chậm vậy?
- Hồi khuya, qua đồng chó ngáp bị trực thăng chặn bắn. Mấy “cha” mình lại không quen đi đồng lầy.
- Đâu hết rồi? Bây giờ mà cũng chưa tới sao?
- Sợ “ló lưng”, tôi cho tạt vô rừng tràm hết rồi. Đi! Tôi giao cho.
*
* *
Ba Đô đứng trước ban chỉ huy trung đoàn, anh hớn hở báo cáo:
- Thưa các đồng chí. Trạm này không phải là trạm nghỉ quân, nên trạm chúng tôi
không chuẩn bị. Không có hầm, cũng không có bếp nấu ăn.
Đồng chí chỉ huy:
- Đồng chí cho biết đặc điểm ở đây. Có điều gì dặn dò, xin đồng chí cho biết.
Ba Đô:
- Dạ, vùng này là vùng tự do oanh tạc. Địa hình bất lợi, chung quanh là đồng
trốngống giặc bằng thế bất ngờ. Trú quân không để sôi tiêm. Cần nhất là giữ gìn khói lửa.
Nói xong Ba Đô đưa tay chào kiểu quân sự.
Anh đi dài theo chỗ trú quân. Tăng võng của cả một trung đoàn treo đầy trong một khu rừng nhỏ lưa thưa. Anh em bộ đội mỗi người một cái hăng gô đang nhóm lửa nấu cơm. Mỗi nơi một cái bếp nhỏ, khói lên nghi ngút. Ba Đô sốt ruột.
- Các đồng chí ơi, khói!
Anh em bộ đội vừa mệt mỏi vừa đói, và cái việc nhắc nhở khói lửa của giao liên đã quá thường, nên chẳng ai chú ý. Thấy một cái bếp khói lên nhiều trong lúc có tiếng máy bay đang bay xa, sốt ruột, Ba Đô hét to:
- Khói!
Anh bộ đội ở cái bếp nhiều khói, quay lại nhìn anh: - Có lửa thì phải có khói chứ sao?
- Biết vậy, nhưng đánh Mỹ, có lửa mà không có khói mới thắng. Anh bộ đội có vẻ không vừa ý cái lối nói của anh, anh lẩm bẩm:
- Thằng này là lính, đừng có dạy khôn.
Ở một nơi khác, một bựng khói lại bay lên, anh hét to hơn:
- Trời ơi! Khói
Anh bộ đội nổi giận, đứng phắt dậy, quát lại anh:
- Anh làm gì mà hét to thế!
Ba Đô tức giận nhưng anh cố nhịn. Thấy khói bám trắng cả tàn cây tràm, anh vội
vàng leo lên, dùng hai tay rung cây tràm cho khói tan ra.
Xong anh tuột xuống, thấy một cây tràm cũng đầy khói, anh vội chạy lại, leo lên và rung cho khói bay đi.
Anh bộ đội B nhìn theo anh cảm động, anh bảo với đồng đội:
- Các đồng chí chú ý khói cho.
Một cán bộ chỉ huy thấy anh leo lên cây tràm thứ ba, anh ra lệnh cho chiến sĩ xung quanh anh:
- Các đồng chí! Cây tràm nào đóng khói thì các đồng chí hãy leo lên rung cho nó tan khói nhé!
Theo lệnh chỉ huy, nhiều anh leo lên những cây tràm đóng khói.
*
* *
Ba Đô hớn hở nói với v- Trận này to lắm nghe mình!
- Sao?
- Bộ đội về đông lắm.
- Hèn chi mình về trễ quá.
- Không, chưa đi. Đang đóng ở ngoài vạt tràm ấy.
Đang vui, anh bỗng thở dài.
- Nhưng mà khói lửa dữ quá. Mình la không xiết. Lôi thôi, nó ném bom bi chết hết.
- Phải nhắc mấy ảnh chớ.
- Sao không nhắc, nhắc mấy ảnh còn cự lại nữa. Thôi để con đây anh giữ. Tánh của mình ngọt ngào, mình ra ngoải nhắc chừng giùm mấy ảnh chút. Với lại ra mà coi súng ống - Anh đưa tay vỗ bắp vế. - Súng lớn lớn như vầy nè.
Sáu Xoa trao thằng con cho anh. Anh bế con, nói đả đớt: - Xong trận này, hai cha con mình về chợ chơi nghe con.
*
* *
Sáu Xoa choàng tấm vải dù bông, đi qua chỗ đóng quân. Chị ngắm nhìn từng cây súng lạ. Và anh em bộ đội cũng ngắm nh lại chị. Đến cái chỗ anh bộ đội A, anh này đang nấu nước uống trà, chị bước gần tới, giọng nhỏ nhẹ:
- Giữ khói nghe mấy anh. Máy bay ở đây nó tinh lắm.
Nói xong, chị ngồi xề xuống cái bếp nhìn khói, chị lấy một cái que củi khơi cái bếp
cho rộng ra, ngọn lửa bùng lên, và giọng của chị thật êm tai:
- Ông bà mình nói: Lòng người phải chặt, nhưng lòng bếp thì phải rộng mấy anh à. Anh bộ đội A vẻ hài lòng trước thái độ và giọng nói của Sáu Xoa, anh bắt chuyện làm
quen:
- Chị là giao liên ở trạm?
- Dạ phải.
- Chị có biết cái anh giao liên to to con không?
Sáu Xoa cười ngoẻn ngỏn:
- Dạ, anh ấy cùng ở một trạm với tôi.
- Giao liên phải ngọt ngào như chị vậy, có phải hơn không? Còn anh kia, ảnh la hét như là ông tướng.
- Anh ấy hiền lắm. Tại ảnh sốt ruột cho mấy anh đó thôi - Và chị lại cười, nụ cười
hiền hậu dễ thương.
*
* *
Hai vợ chồng nằm nghỉ trong hầm. Bỗng nghe tiếng trực thăng bắn mấy loạt ngoài chỗ đóng quân. Sáu Xoa chồm dậy, lo lắng.
- Trực thăng bắn chỗ anh em mình.
- Nó bắn vu vơ đó mà. Nó mà phát hiện được, nó ném bom bi, nó không bắn như vậy đâu!
- Biết vậy, nhưng anh em ở đặc lắm. Ra ngoài xem anh em có gì không. Ba Đô nghe lời vợ, chui ra khỏi cửa hầm.
*
* *
Ba Đô và một anh chiến sĩ cáng về một anh bị thương. Anh bộ đội bị thương chính là anh bộ đội A đã cáu gắt với anh Ba Đô và đã làm quen với chị. Anh bị thương, nhưng đạn xuyên qua bắp vế, ở phần mềm, nên vẫn bình tĩnh.
Dù đau anh vẫn trầm tĩnh hỏi Sáu Xoa, lúc Sáu Xoa băng bó cho anh:
- Nhà chị đây?
- Dà.
Sau đó chị soạn cho anh một chỗ nằm. Anh được nằm bìa. Khi anh Ba Đô cũng nằm ở đó, gần đứa nhỏ, anh bộ đội mới hiểu là hai vợ chồng. Anh nhìn anh Ba Đô vẻ bẽn lẽn:
- Hồi nãy tôi không biết anh. Ba Đô nói giả lả:
- Ở đây, đồng trống, máy bay nó phát hiện khói lửa từ xa lắm. - Vài hôm tôi khỏe, anh đưa theo đơn vị nhé.
- Dà. - Sáu Xoa nhổm đầu nói với qua. - Anh ở đây, thật lành mới được đi đó.
*
* *
Đêm trăng, trời nhiều sao. Ba Đô đưa một cánh quân lớn từ B về đồng bằng - cánh quân chuẩn bị cho mùa xuân 1968. Một cánh quân dài nhiều súng lớn, người nối người đi trên con đường mòn nhỏ xuyên qua cánh đồng. Ba Đô là người đi đầu. Đi đêm mà vẫn phải ngụy trang. Mỗi lần trực thăng rà tới thì tất cả dừng lại, trông như một đường cây xanh.
Nó bắn vu vơ, nhưng vẫn có một đồng chí bị thương. Ba Đô có mặt ngay chỗ đồng chí bị thương, anh xử trí thật gọn:
- Đề nghị Ban chỉ huy cho một đồng chí ở lại với đồng chí bị thương. Nghỉ tạm trong chòi hoang. Trở về tôi sẽ đón.
Bộ đội lại lên đường. Đến đường 4, Ba Đô lên trước, anh trải ni lông từ bên này qua bên kia lộ, và anh đứng sát bên đường.
Cả một cánh quân, nối nhau đi trên ni lông trải qua mặt đường.
Bộ đội đi đứt đuôi, còn lại một mình Ba Đô cuốn lại ni lông. Anh vừa thoát xuống ruộng thì thiết giáp tuần tra của Mỹ cũng vừa tới. Biết là nơi của đường dây giao liên vắt qua đoạn đường này, bọn Mỹ cho dừng xe. Nó rọi sáng mặt đường tìm dấu vết. Mặt đường vẫn sạch, vẫn trơn.
Trong lúc đó Ba Đô đang giặt ni lông trên một cái ao bông súng.
*
* *
Tên trung úy lái trực thăng đang cạo râu trong phòng tắm. Có một tên đồng đội gọi hắn, hắn quay ra. Tên đồng đội cầm một lá thư đưa lên. Hắn liền buông dao cạo râu, xô tới và lấy phong thư. Hắn vừa vừa nhảy dựng lên.
Hắn ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, hắn đưa lá thư lên môi hắn hôn, và nhảy đến mấy
vòng.
Hắn khui rượu ra đãi bạn bè. Cả bọn uống say, rồi mở nhạc và nhảy. Hắn nhảy hăng hơn tất cả.
Rồi hắn ra sân bay. Trước khi lên máy bay, hắn còn mở túi trên, rút phong thư ra
thăm chừng, như sợ mất rồi lại đút vào túi. Vui với tin nhà, hắn quên gài lại nút túi.
Chiếc trực thăng cất cánh. Chiếc trực thăng của hắn lái hôm nay bay cũng có khác, có vẻ phơi phới hơn. Hắn vừa bay vừa nói chuyện với mặt đất:
- Tôi đã nhìn thấy chỗ của nó từ hôm qua. Lần này nó không thoát khỏi tay tôi đâu. - Cám ơn. Chắc chắn tôi sẽ nhận được giấy phép.
Chiếc trực thăng cất lên cao, bay thẳng vào cánh đồng hoang. Cánh đồng hoang lại hiện dần ra dưới tầm tay của hắn.
*
* *
Dưới ánh nắng ban mai trên cánh đồng, Ba Đô đang cấy lúa. Anh cấy trên một khoảng đất nhỏ giữa cánh đồng đưng lác. Mùa lúa năm nay anh không làm chỗ cũ, và cũng không cấy hẳn một mảnh đất. Anh cấy từng lõm nhỏ, những cái lõm đất nằm lẫn trong cỏ hoang. Mỗi lõm rộng không quá một tầm.
Trong khi anh đi cấy thì ở nhà vợ anh, Sáu Xoa địu con đi bẻ cây điên điển khô để làm củi.
Những cây điên điển được chị bẻ từng khúc đều nhau, phơi dài trên một bãi cỏ lơ thơ. Đang bẻ, chị bỗng dừng tay ngẩng lên vì tiếng bay của trực thăng.
*
* *
Chiếc trực thăng từ trên cao bỗng hạ thấp, thấp đến đầu ngọn đế, nó rà sát, bay thẳng đến chỗ của anh Ba Đô. Đang lom khom cấy, anh không kịp chạy vào trong, anh ngồi bẹp xuống ruộng, đưa hai tay bốc bùn đất trát hết mặt mũi, và ngồi im như cục đất.
Trên thửa ruộng nhỏ ấy có mấy cái mô đất nhô lên như vậy. Từ trên trực thăng nhìn xuống, dưới con mắt của tên trung úy Mỹ, anh chẳng khác gì mô đất.
Chiếc trực thăng rà sát rồi dừng lại trên không, nó nghiêng cánh quạt mạnh, những cây mạ vừa mới cấy bị tróc lên, cuốn bay xoáy theo ngọn gió của cánh quạt. Và cả lớp bùn trát trên mặt trên mình của anh Ba Đô cũng tróc ra, bay theo.
Chiếc trực thăng cất lên, đảo qua, một loạt súng nổ ngay vào mất trước mặt anh. Cái mô đất tơi ra, nát vụn, và họng súng lại xoay qua một mô đất khác, cũng trước mặt anh. Cái mô đất lại tơi ra nát vụn.
Ba Đô biết thế nào nó cũng bắn cái mô đất chính là mình. Chiếc trực thăng vừa quần qua, anh vụt chạy từ sau đuôi nó. Anh chụp lấy cây CKC dựng bên bụi đế, nhảy xuống hầm, một cái hầm chữ L.
Chiếc trực thăng quần lại. Trước con mắt của tên trung úy lái, và tên lính giữ cò súng, cái mô đất ở giữa rừng đã biến mất.
Nó bắn một loạt dài, và giận dữ nó quay lại, dùng cánh quạt, quạt ngả nghiêng cả cụm đế.
Như con cá rô dừng lại để hửi mồi, dưới cánh quạt của nó, cụm đế vẹt ra, để lộ cái cửa hầm trước con mắt của hai tên Mỹ trên trực thăng.
Họng súng chĩa xuống miệng, nó nổ một loạt dài. Cái miệng hầm bị sụp lở.
Ba Đô ngồi nép trong một ngách, khói bụi phủ mờ cả mặt anh. Nhiều viên đạn ghim xuống vách hầm, trước mắt anh.
Tên Mỹ từ trên trực thăng bắc loa gọi hàng.
Chiếc trực thăng chồng chềnh lúc lắc trên không. Tên lính Mỹ rút trái lựu đạn ném
xuống lỗ. Liệng không chính xác, trái lựu đạn nổ trên miệng hầm.
Ba Đô nghe lựu đạn biết là mình không thể thoát được. Anh đưa nòng theo vách hầm, nổ liền ba phát.
*
* *
Sáu Xoa giật mình khi nghe tiếng súng CKC, mà chị nhận ra tiếng súng của chồng.
Hành động theo bản năng, chị thắt cái địu con chặt hơn.
Bác trạm trưởng vùng ra khỏi võng, và nhiều anh chị em giao liên theo bác, chạy ra mí vườn, nhìn về phía tiếng súng của trực thăng. Bác trạm trưởng, giọng lo lắng:
- Chắc nó phát hiện được vợ chồng thằng Ba Đô. Bác quay lại anh em:
- Phải tiếp nó, các đồng chí.
*
* *
Bác trạm trưởng và anh chị em giao liên mình lấy lá ngụy trang, tay ôm súng, chạy băng về hướng trực thăng.
Nghe tiếng súng bắn trả lại từ dưới miệng hầm, chiếc trực thăng liền cất cao tránh đạn.
Thừa cơ, Ba Đô vọt ra khỏi hầm, tuôn qua đám đế. Chiếc trực thăng quần lại, bắn xối xả. Đạn rãi trước mặt, sau lưng và hai bên hông anh. Sậy đế tả tơi phủ qua người anh. Khi nó quay đi, anh lại vùng dậy. Anh chạy ra cái hố bom, nay đã thành cái đìa cá, có nhiều bông súng và rau muống. Anh định đến đó để trầm mình dưới đáy nước. Chiếc trực thăng vẫn rà sát theo anh.
Anh Ba Đô vừa ra khỏi mí rừng đế, vừa đến bờ đìa thì một loạt súng nổ, trúng anh, anh quỵ xuống.
Qụy xuống, dồn hết sức còn lại, anh quay đầu lại, đưa họng súng ngay chiếc trực thăng. Tay anh vừa đụng cò súng thì sức của anh không còn nữa. Bàn tay đỡ cái nòng súng, rơi xuống.
*
* *
Sáu Xoa đang địu con đứng trên nóc cửa hầm nhà trong bụi đế, nghe tiếng CKC của chồng, chị đoán hầu chồng chị đang lâm nguy. Không đắn đo suy nghĩ, tình yêu chồng cuốn chị chạy đi. Chị choàng tấm vải dù vòng qua người, phủ kín đứa con sau lưng, chị lao về phía tiếng súng của chồng vừa nổ.
Chị, sau lưng là con, chị băng qua rừng đế, băng qua rừng lác, băng qua đồng cỏ lưa thưa, chị đến bờ đìa lúc chiếc trực thăng vừa đảo qua, không thể nhìn thấy chị.
Sáu Xoa lao đến xác chồng. Chị muốn gục đầu xuống lồng ngực to lớn và lạnh ngắt của chồng, nhưng trực thăng đã quần lại. Chị vội gỡ cây CKC ra khỏi tay chồng, ôm lấy súng, lùi sâu vào bụi đế, kéo cơ bấm. Chiếc trực thăng rà sát xuống, dừng lại bên xác anh Ba Đô. Tên trung úy muốn kéo xác anh đem về làm tang chứng để báo cáo với chỉ huy, nhưng nó vừa khựng lại thì từ trong bụi đế, máu căm thù dồn nghẹn cổ, căng thẳng đôi tay, Sáu Xoa đưa súng lên, nổ liền ba phát.
Tên lính Mỹ đứng bên cây súng máy ở cửa sổ bị trúng đạn, kêu rú lên một tiếng dài, máu từ trong lồng ngực trào ra.
Tiếng súng CKC từ tay Sáu Xoa lại nổ. Chiếc trực thăng bốc cháy. Nó lảo đảo bay đi. Sáu Xoa ngã xuống bên xác chồng. Chị chưa kịp khóc nhưng nước mắt lại trào ra. Nghe tiếng nổ của trực thăng, nhìn lại thấy một vầng lửa cháy, Sáu Xoa rời khỏi xác chồng, chạy lướt tới. Và chị bắn luôn nhiều phát.
Chiếc trực thăng cắm đầu xuống mặt ruộng và một tên Mỹ từ trong chiếc trực thăng văng ra.
Sáu Xoa cất súng bắn vào cái xác ấy - Cái xác của tên Mỹ chính là tên trung úy có nhiệm vụ săn một con người trên cánh đồng hoang ấy.
Hắn nằm dang hai tay, mặt nhìn trời, cái bầu trời mênh mông xa lạ đối với hắn.
Sáu Xoa ôm súng, sau lưng đứa con, trờ tới. Cái phong thư trong túi áo trên của hắn lòi ra.
Sáu Xoa cúi xuống, rút bao thư, và rút ra trong bao thư một tấm ảnh. Trên tay và trước mắt Sáu Xoa là người đàn bà Mỹ tay bồng đứa con nhỏ chừng một tuổi ra sau tấm ảnh là dòng chữ Anh: “Đêm ngày mong đợi anh - Vợ con anh”. Đọc không được dòng chữ Anh, chị lật lại gương mặt của người đàn bà Mỹ là gương mặt của người vợ đang đau khổ đợi tin chồng.
Từ tấm ảnh trong tay của Sáu Xoa hiện lên hình ảnh người đàn bà Mỹ, tay bế con đang bỏ thư vào thùng thư ở sở Bưu điện của một thành phố nào đó, của một bang nào đó của đất Mỹ xa xôi.
Và người đàn bà Mỹ ấy đang quỳ gối cầu kinh dưới tượng Chúa. Tấm hình bất động được trở lại trên tay của Sáu Xoa trên màn ảnh.
*
* *
Sáu Xoa tay bế con, đầu đội khăn tang cùng với anh chị giao liên đứng cúi đầu bên mộ anh Ba Đô. Một loạt súng nổ vang đưa anh về nơi an nghỉ.
Hoàng hôn xuống. Một đàn cò trắng đang bay về tổ.
*
* *
Sáu Xoa, sau lưng địu đứa con thơ, đi trên con đường mòn xuyên qua cánh đồng. Sau chị là một cánh quân. Một cánh quân dài, lặng lẽ đi.
Sáu Xoa đi, trước mặt chị là con đường mòn, con đường mòn dài và xa. Chị đi - từ
nơi xa của con đường là rặng cây, là chân trời đang rạng sáng.
10-1-1979