Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:03:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trong chiến hào Xta-lin-gơ-rát  (Đọc 12339 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 09 Tháng Bảy, 2019, 09:08:28 pm »

        
10

        Thành phố Xta-lin-gơ-rát đón chúng tôi bằng những bóng râm dài, mát và ánh mặt trời mới ló ra khòi mái nhà.

        Chiếc xe tải vui vẻ kêu cọc cạch trên nền đường lát bằng đá tảng. Những chiếc tàu điện cũ kỹ tróc cả sơn, vừa chạy về phía chúng tôi, vừa kêu leng keng. Những đoàn xe «xtu-đê-béc-ke» mũi tròn chở những hòm đạn «ca-chi-u-sa1». dài, giống như những cỗ quan tài. Trong các vườn hoa rụng lá, chằng chịt những chiến hào: những khẩu pháo cao xạ cảnh giác chĩa lên trời. Ở trong chợ thì hàng đống cà chua và dưa chuột. Những chiếc chai to lớn đựng sữa đã cô lại màu vàng. Thấp thoáng những áo vét-tông, mũ cát-két và thậm chí cả cà-vạt nữa. Đã lâu tôi không thấy cảnh tượng đó. Cũng như trước, phụ nữ vẫn đánh môi son.

        Qua tù kính bày hàng, trông rõ người thợ cắt tóc mặc áo choàng trắng đang quét xà phòng vào râu người nào đấy. Ở rạp chiều bóng chiếu phim Ăng-tôn I-va-nô-vích nổi giận. Các buổi chiếu vào lúc mười hai, hai, bốn và sáu giờ. Người quét đường hót phân trong cái xẻng to. Từ trong ống loa đen ngòm treo trên cột tàu điện, có người nào đấy, không rõ là ai, đàn ông hay đàn bà, đang rất cảm động kể lại chuyện cậu bé Van-ca Giu-cốp2 lên chín trong đêm Nô-en đã viết thư cho ông của cậu ở nông thôn...

        Và trên tất cả những cái đó, là bầu trời xanh lam. Và bụi... Và những cây keo mảnh khảnh, và những ngôi nhà bằng gỗ có hình con gà trống bằng ván cắt, và tấm biển «Chó dữ, đừng vào». Còn bên cạnh là những tòa nhà to bằng đá có những hình phụ nữ đang nâng cái gì đấy ở phía chính diện. Văn phòng «Hợp tác xã mua bán Hạ Vôn-ga», xưởng «Chữa giày cao su», «Sửa chữa bếp dầu», phòng «ủy viên công tố khu phố Lê-nin»...

        Đường phố rẽ ngoặt về tay phải và đi về phía cẩu ở bên dưới. Cầu rộng có đèn. Dưới cầu không còn sông. Con sông có một tên rất lộng lẫy: Hoàng hậu. Trông rõ một đoạn sông Vôn-ga: những bến tàu, sà-lan và bè mảng dài vô tận. Chúng tôi còn rẽ về tay phải nữa và lên núi. Chúng tôi đi đến nhà bà chị của đại đội trưởng trước đây của I-go ở trung đoàn hậu bị. «Rồi các cậu sẽ thấy, chị ta là vàng mười đấy».

        Chúng tôi dừng lại bên một ngôi nhà một tầng bằng đá, vôi vữa trát tường bị bong ra và cửa sổ thi dán chéo dọc ngang những dải giấy. Một con mèo trắng mắt to nằm trên bậc thềm và không hài lòng nhìn chúng tôi.

        I-go biến mất sau cánh cồng. Một phút sau anh hiện ra vui vẻ, đầu trần, chỉ mặc áo mai-ô.

        — Xê-đức, nào, cho vào đây! — Và nói vào tai tôi: — Đâu vào đấy cả rồi. Vừa vặn đến đúng bữa ăn sáng.

        Một cái sân con bé nhỏ mà ấm cúng. Mái hiên lắp kính có dăng những sợi dây, trên dây có treo cái gì đấy màu xanh. Một cái thùng đặt dưới ống máng. Áo quần đang phoi khô. Một con ngỗng bị buộc chân vào tay vịn. Và lại con mèo, nhưng lần này là con đen đang ngồi lấy’chân rửa mặt. Đó là điểm báo chúng tôi đến.

        Sau đó, chúng tôi ngồi dưới mái hiên, cạnh chiếc bàn phù khăn và ăn canh đậu ngon tuyệt. Chúng tôi có bốn người, nhưng chừ nhà cứ múc thêm mãi cho chúng tôi. Bà Ma-ri-a Cu-dơ-mi- nít-sna có đôi tay thô, bị nứt nẻ vì làm bếp, nhưng tạp-dề bà mặc thì trắng tinh, còn bếp dầu và các chậu thau treo trên tường đề nấu mứt thì có lẽ bà lau chùi hàng ngày. Trên đỉnh đầu của bà là một búi tóc bạc, kính đeo ở gốc mũi có quấn bông.

        Ăn canh xong, chúng tôi uống trà và biết rằng chồng bà, ông Ni-cô-lai Ni-cô-lai-ê-vích, gần bữa ăn trưa sẽ về, ông làm việc ở kho vật liệu ô-tô; rằng con ngỗng là do người em gứi cho bà — anh ta vẫn ở trung đoàn dự bị. Rằng sau khi đi đường, nếu chúng tôi muốn tắm thật sự, thì ở ngoài sân có vòi hoa sen, chỉ cần phải lầy nước đồ vào thùng, còn áo quần của chúng tôi thì hôm nay bà sẽ giặt, việc đó đối với bà chằng khó khăn gì cả.

        Chúng tôi uống mỗi người ba cốc trà, rồi múc nước đồ vào thùng và vừa cười ha hả, vừa khoác nước tẳm trong góc hẹp được ngăn bằng những tấm ván. Thật khó mà tả được sự sung sướng ấy lớn lao đến thế nào.

        Gần bữa ăn trưa thì Ni-cô-lai Ni-cô-lai-ê-vích đi về. Ông ta, người nhỏ nhắn, hói đầu, mặc chiếc áo vét-tông tuýt-xo cũ rích, có bộ mặt cực kỳ linh hoạt và luôn luôn lấy ngón tay gõ bàn hoặc mân mê cái gì đấy trong tay.

-------------------
       1. Tên gọi dân gian của một loại súng cối phản lực, không nòng. — ND.

        2. Truyện ngẳn của A.P.Sê-khốp (1860—1904) nhan đề là Van-ca Giu-cốp. — ND.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2019, 10:06:03 pm »

     
        Ông muốn biết về mọi việc. Hỏi chúng tôi về tình hình ngoài mặt trận, về việc ăn uống của chúng tôi ở ngoài ấy, về việc Soóc- sin nó nghĩ cái gì mà không chịu mở mặt trận thứ hai, — «cái đó thì tệ quá chừng, tự các anh cũng thầy thế chứ», — và theo các anh, bọn Đức có tiến đến Xta-lin-gơ-rát được hay không, và nếu chúng đến thì quân ta có đủ sức phòng ngự không. Bây giờ mọi người đều đi đào chiến hào. Và ông cũng đã đi hai lần, và ở đấy có đại úy nào đầy nói với ông rằng chung quanh Xta- lin-gơ-rát có đèn ba vòng hay như ông ta gọi là ba vành đai. Cái đó có lẽ là tuyệt lắm. Đại úy đã gây cho ông ấn tượng của một người đứng đắn. Người như thế thì chẳng «ba hoa» đâu.

        Sau khi uống trà xong, Ni-cô-lai Ni-cô-lai-ê-vích chỉ cho chúng tôi xem tấm bản đồ mà ông đã đánh dấu mặt trận bằng những lá cờ con nhỏ xíu. Ông lấy thước bằng kim loại đo khoảng cách từ Ca-lát và Cô-ten-ni-cô-vô đến Xta-lin-gơ-rát, và vừa thở dài, vừa lắc đầu. Ông không thích những tin tức gần đây. Ông đọc báo rất chăm chỉ, — ông mua không những báo Sự thật Xta-lin-ga-rát, mà cả báo Sự thật xuất bản ở Mát-xcơ-va nữa. Báo được xếp thành hai chồng để trên tủ, và nếu bà vợ cần gói cá mòi muối thì phải chạy sang nhà hàng xóm xin, chứ không được động đến những chồng báo ấy.

        Sau đó, chúng tôi ngủ ở ngoài sân dưới bóng cây keo, lấy khăn đắp mặt để ruồi không bâu.

        Buổi chiều, chúng tôi sửa soạn đi xem ca hài kịch Cái nịt tất của Boóc-gi-a. Chúng tôi đánh ủng ở ngoài sân bằng nước bọt.

        Ở bậc thềm nhà đối diện, có một cô gái ngồi uống sữa trong cái cốc dày có nhiều cạnh. Cô tên là Li-u-xi-a và là bác sĩ. Bà Ma-ri-a Cu-dơ-mi-nít~sna đã nói cho chúng tôi biết về điều đó. Cô gái có đôi mắt đen, sáng, như hai hạt huyền, cặp lông mày đen và mớ tóc vàng rực, cắt theo kiều con trai. Cô mặc xa-ra- phan1 bằng vải hoa. Tay và cổ rám nắng, màu da bồ quân. I-go quay lại để nhìn cô dễ hơn.

        — Này I-u-ri, cặp chân khá lắm, hả? Và nói chung...

        Anh rán sức nhổ nước bọt vào bàn chải.

        Cô gái uống sữa, nhìn xem chúng tôi đánh ủng, rồi đặt cốc trên bậc thềm, đi vào phòng và trở ra với một hộp xi đánh giày.

        — Xi này tốt đấy, của Ềt-tô-ni. Có lẽ là tốt hơn nước bọt, — và cô chia hộp xi ra.

        Chúng tôi cảm ơn và lấy xi. Quả là nó tốt hơn nước bọt thật. Những chiếc ủng bóng lộn như mới. Bây giờ thì vào nhà hát cũng không xấu hồ. Cô hỏi chúng tôi có phải sửa soạn đi xem hát không? Vâng, đi xem hát, vồ. Cái nịt tất của Boóc-gi-a2. Hay là cô cùng đi với chúng tôi chăng? Không, cô không thích xem ca hài kịch, mà ca kịch thì ở Xta-lin-gơ-rát không có. Lẽ nào không có? Không có thật. Mà cô thích ca kịch à? Vâng, đặc biệt là vở Ép-ghê-ni ơ-nê-ghin3, Tơ-ra-vi-a-ta... và Con đầm pích4. I-go khoải trá vô cùng. Thì ra Li-u-xi-a đã học ở trường âm nhạc, — đó là trước khi vào học ở học viện cơ, — và cô có chiếc đàn dương cầm. Thế là việc đi xem ca hài kịch hoãn lại lần khác.

        — Mời các anh đến nhà chúng tôi, mẹ tôi sẽ dọn trà.

        — Ố, vui lòng lắm, đã lâu không được ngồi uống trà trong nhà, chúng tôi đã quên cả rồi.

        Ngồi trong phòng khách trên những chiếc ghế bành có chân uốn cong, chúng tôi chỉ sợ là chúng ngã khuỵu dưới sức nặng của chúng tôi: những chiếc ghè mảnh khảnh và trang nhã làm sao, còn chúng tôi thì thô kệch và vụng về. Trên tường treo bức tranh Hòn đảo của những người chết của Bi-ô-clin. Chiếc dương cầm với bức tượng bán thân của Bét-tô-ven. Li-u-xi-a đánh bài Căm-pa-nen-la của Li-xtơ.

        Hai ngọn nến to từ từ nhỏ giọt trên giá đèn. Chiếc đi-văng mềm mại và tiện lợi với lưng tựa thoai thoải. Tôi kê chiếc gối thêu hạt cườm dưới lưng và duỗi dài chân ra.

        Sau gáy của Li-u-xi-a, tóc cắt rất cần thận. Những ngón tay của cô thoăn thoắt chạy trên các phím đàn; chắc là ở trường nhạc bao giờ cô cũng được điểm «ưu» vì sự nhanh nhẹn đó. Tôi lắng nghe Căm-pa-nen-la, ngắm nhìn bức tranh của Bi-ô-clin, bức tượng thạch cao của Bét-tô-ven, một chuỗi voi con bằng đá U-ran đang đứng nối đuôi nhau trên tù buy-phét, nhưng chằng hiểu vì sao tất cả những cái đó đối với tôi xa lạ như phù một lớp sương mù.

--------------------
        1. Một loại áo dài phụ nữ, không có tay áo. — ND.

        2. Ca kịch của Trai-cốp-xki. — ND.

        3. Ca kịch của Véc-đi. — ND.

        4. Ca kịch của Trai-cốp-xki. — ND.

« Sửa lần cuối: 11 Tháng Bảy, 2019, 08:09:22 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 08:09:48 pm »

 
        Ở ngoài mặt trận, bao nhiêu lần tôi mơ ước những phút như thế này, khi chung quanh không có tiếng súng bắn, tiếng đạn nổ, và được ngồi trên chiếc đi-văng, và được nghe âm nhạc, và bên cạnh có một thièu nữ xinh đẹp. Và giờ đây tôi được ngồi trên chiếc đi-văng, lắng nghe âm nhạc... Nhưng chẳng hiểu vì sao giờ đây tôi thấy không thích. Vi sao? Tôi không biết.. Tôi chỉ biết là từ giờ phút mà chúng tôi rời khỏi sông Ô-xcôn, — không, muộn hơn, sau việc xảy ra ở túp nhà kho, — luôn luôn trong lòng tôi có một nỗi buồn khó chịu. Thực ra, tôi không phải là tên đào ngũ, tên nhát gan, tên đạo đức giả, nhưng tôi có cảm giác dường như tôi vừa là tên thứ nhất, vừa là tên thứ hai, vừa là tên thứ ba.

        Mấy hôm trước, ở chỗ nào đấy gần Các-pốp-ca thì phải, tôi ngồi với I-go bên lề đường và hút thuốc. Va-lê-ga và Xê-đức nấu ăn bữa tối bên đống lửa. Một đơn vị pháo binh đi qua, đơn vị mới toanh, ra mặt trận. Các chiến sĩ trẻ, vui, mặt mày đỏ ửng vì rám nắng. Họ ngồi lắc lư ở trong những xe kéo pháo chạy trên con con đường đầy bụi, vừa cười, vừa nói với nhau những câu bông phèng. Và một người nào đấy trong bọn, chẳng ra trung sĩ, chẳng ra chiến sĩ thường, cưỡi trên lưng con ngựa tía, vui vẻ cất cao giọng, như giọng những người hát đầu:

        — Kìa, các ngài quân nhân, rúc vào hầm sâu tài thật. Chằng có viên đạn, chẳng có mảnh bom nào trúng được...

        Và mọi người cười hô hố quanh anh ta, còn anh chàng khuấy nhộn nhất của khấu đội ấy đệm thêm:

        — Giá có được cái ấm xa-mô-va và mứt nữa thì tuyệt...

        Và mọi người lại cười rộ lên.

        Tôi hiểu là không phải anh ta, không phải các chiến sĩ cười vang kia muốn xúc phạm chúng tôi, nhưng nói thật là những lời bông phèng đó làm cho chúng tôi không hài lòng. Thậm chí Va-lê-ga còn văng tục và lầu bầu cái gì đấy, hình như là: «Rồi sẽ xem, chừng hai tuần thì chúng mày sẽ hát cái gì đây...»

        Quả thật, cái đáng sợ nhất trong chiến tranh, không phải là bom đạn, có thể quen được với tất cả những thứ ấy; cái đáng sợ nhất chính là sự không hoạt động, sự vô định, sự thiếu mục tiêu trực tiếp. Ngồi trong chiến hào ở chỗ lộ thiên giữa trận ném bom đáng sợ hơn nhiều so với khi xông vào tấn công. Mà chính ở trong chiến hào thì khó bị chết hơn khi xông vào tấn công. Nhưng khi tấn công thì có mục tiêu, có nhiệm vụ, còn khi ở chiến hào thì chỉ có việc đếm bom và chờ xem nó có rơi trúng hay không trúng. Li-u-xi-a đứng dậy khỏi dương cầm.

        — Mời các anh đi uống trà. Chắc là ấm xa-mô-va đã sôi rồi. Bàn được phủ một chiếc khăn kêu sột soạt có những nếp là hình vuông. Trong những đĩa con bằng pha lê là mứt anh đào đã lấy hạt — đó là thứ mứt mà tôi thích nhất. Chúng tôi uổng trà trong những cốc mỏng mảnh và không biết để bàn tay của mình ở đâu, những bàn tay thô kệch, không được rửa sạch, có những vềt bầm tím và những vết quào sây sát, có những tua xơ ở ống tay áo và chúng tôi sợ làm vương vãi mứt trên chiếc khăn trải bàn. Mẹ của Li-u-xi-a, một người đàn bà ẻo lả, đeo kính gọng đồi mồi, có những cổ áo dựng lên, như các bà giám thị ở các lớp. Bà lấy mứt cho chúng tôi và luôn luôn thở dài.

        — Các anh xơi đi, xơi nữa đi. Ở ngoài mặt trận thì các anh chằng được nuông chiểu đâu. Ở ngoài mặt trận thi gay go lắm. Tôi biết mà, nhà tôi chiến đấu trong cuộc chiến tranh trước đã kể lại, — và lại thở dài. — Thế hệ này thật là bất hạnh, thế hệ bất hạnh...

        Chúng tôi từ chối cốc thứ ba. Chúng tôi ngồi thêm chừng năm phút cho có vẻ lịch sự, rồi, cáo từ ra về.

        — Các anh cứ ghé lại nữa, ghé lại nữa nhé. Các anh đến, bao giờ chúng tôi cũng vui mừng cả.

        Sau đó, chúng tôi nằm dưới gốc cây keo bụi bặm và nằm mãi hồi lâu không ngủ được. Xê-đức ngủ cạnh tôi. Trong giấc mơ cậu chép miệng và gác tay lên người tôi, I-go nằm trằn trọc mãi.

        — I-u-ri, cậu không ngủ à?

        — Không.

        — Nghĩ gì thế?

        — Thế thôi... Chẳng nghĩ quái gì cả...

        Trong tối I-go tìm thuốc lá.

        — Có gì hút không, hả?

        — Xem trong ủng, trong túi con.

        I-go sờ soạn trong chiếc ủng, lấy túi con và vần một điếu.

        — I-u-ri này, chán ngấy tất cả rồi.

        — Tất cả cái gì?

        — Cái cảnh lang thang không việc nảy. Lang thang như chó dái...

        — Thì sao, ngày mai thôi không lang thang nữa. Chúng mình sẽ đến ban cán bộ. Từ sáng sớm, trước bữa ăn sáng.

        — Ban cán bộ cũng thế thôi, hạnh phúc cái gì. Lại nhét vào đơn vị hậu bị nào đấy và lại tập đi đều bước, tập chào. Hay là vào trung đoàn dự bị thì lại càng xấu.

        — Tớ chẳng vào trung đoàn dự bị đâu.

        — Cậu không vào à? Thế đi học cũng không đi à? Đi An- ma A-ta hay là Phơ-run-dê? Nghe nói các trung úy và thượng úy đều phái đến trường cả.

        — Thì cứ để người ta phái. Dù sao tớ cũng chẳng đi đâu.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2019, 11:05:52 pm »


        Chúng tôi lặng thinh một lát. I-go hút điếu thuốc lập lòe sáng.

        — Chúng mình sẽ làm gì với các cậu kia?

        — Các cậu nào? Va-lê-ga và Xê-đức, hả?

        — Phải đưa hai cậu đó đến nơi phiên chế lại.

        — Chúng chẳng đi đâu. Chúng mình sẽ nộp xe tải và ngựa. Còn các cậu đó tớ chẳng trả đâu. Tớ và Va-lê-ga đã cùng nhau chiến đấu chín tháng rồi. Và chúng mình sẽ ở cùng nhau cho đến hết chiến tranh, nếu một trong hai đứa chưa bị chết.

        I-go cười.

        — Va-lê-ga của cậu buồn cười thật, Hôm qua, nó và Xê-đức cãi nhau đấy, Nấu khoai tây thế nào, Xê-đức muốn luộc khoai cả vỏ, còn Va-lê-ga thì không chịu, Nó bảo rằng trung úy — tức là cậu đấy — không thích bóc vỏ khoai, mà thích ăn sạch cơ. Chúng tranh cãi nhau chừng mươi phút,

        — Hừ, thì sao, thế là cần vụ chân chính đây, — tôi nói và trở mình. — Ngủ đi, mai phải dậy sớm.

        I-go ngáp dài, nhổ nước bọt và dụi điều thuốc xuống đất.

        Ở đâu đấy rất xa, có tiếng súng cao xạ bắn, ánh chiếc đèn chiếu di động quét trên bầu trời, và Va-lê-ga thở dài trong giấc mơ. Cậu nằm cách tôi hai bước, nằm cuộn tròn, lấy tay che mặt. Bao giờ cậu cũng nằm ngủ như thể.

        Va-lê-ga nhỏ bé, mặt tròn của tôi oi! Trong những tháng qua mình với cậu đã đi bao nhiêu rồi, đã ăn chung bao nhiêu cháo trong một cà-mèn, đã bao nhiêu đêm cùng ngủ nằm cuộn trong một chiếc áo mưa vải bạt... Mà trước đây cậu không muốn đến làm cần vụ cho mình. Phải khuyên nhủ ba ngày. Cậu cứ đứng gằm mặt và ậm ừ nói cái gì đấy không rõ — nói là tôi không biết, tôi không quen. Cậu xấu hổ vì rời khỏi đồng đội. Cùng với họ lê bước khắp tiền duyên, cùng với họ chia sẻ ngọt bùi, đẳng cay, thế mà bỗng đi làm liên lạc viên cho thủ trưởng. Ớ chỗ «giường êm nệm ấm». Thế thì tôi không biết chiến đấu hay sao, tồi hơn những người khác à?

        Mình quen với cậu lắm rồi, cậu bé tai vểnh kia ơi, quen hơi bén tiếng vô cùng... Không, không phải là quen. Đó không phải là quen, mà đó là cái gì đấy khác hẳn, to lớn hơn. Không bao giờ mình nghĩ về điều đó. Chỉ vì không có thì giờ thôi.

        Thực ra cả trước đây tôi cũng có bạn. Có nhiều bạn. Cùng học, cùng làm việc, cùng uống rượu, cùng cãi nhau về nghệ thuật và những vấn đề cao siêu khác... Nhưng tất cả những cái đó có đủ không? Có đủ không, những lần ăn uống, những lần bàn cãi, những cái gọi là lợi ích chung, văn hóa chung?

        Va-đim Ca-xtrit-ki là một thanh niên thông minh, có tài và tế nhị. Với cậu ta bao giờ tôi cũng thích và tôi học được nhiều ở cậu. Mà thử hỏi giá tôi bị thương, cậu có khiêng tôi từ chiến trường về hay không? Điều đó trước đây tôi không quan tâm đến. Nhưng bây giờ thì quan tâm. Còn Va-lê-ga thì nhất định sẽ khiêng về. Điều đó thì tôi biết... Hay là Xéc-gây Vê-lét-nít-xki. Thử hỏi cậu ta có đi trinh sát cùng tôi không? Tôi không rõ. Còn Va-lê-ga thì sẵn sàng đi với tôi đến bất cứ nơi nào, dù cho đến tận cùng của thế giới đi nữa.

        Trong chiến tranh, ta hiểu biết con người một cách thật sự. Giờ đây điểu đó đối với tôi hoàn toàn rõ. Chiến tranh cũng như một tờ giấy quỳ, cũng như một thứ thuốc hiện hình đặc biệt nào đấy. Va-lê-ga kia, khi đọc còn đánh vần, làm tính chia còn nhầm lẫn, không biết tám lần bảy là bao nhiêu, và cứ thử hỏi cậu ta chù nghĩa xã hội hay là Tồ quốc là gì, thì xin nói thật là cậu ta chẳng có thể nói ra đầu ra đuôi được: xác định bằng từ những khái niệm đối với cậu là quá khó. Nhưng vì Tổ quốc này — vì tôi, vì I-go, vì các đồng đội của mình trong trung đoàn, vì ngôi nhà nhỏ xiêu vẹo của mình ở đâu đấy vùng An-tai, vì Xta-lin mà cậu không hề thấy, nhưng đối với cậu đó là tượng trưng của tất cả cái gì tốt và đúng, — thì cậu sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Và nếu hết đạn thì sẽ dùng nắm tay, dùng răng... Đấy, con người Nga như thế đấy. Ngồi trong chiến hào, cậu sẽ chửi rủa chuẩn úy nhiều hơn bọn Đức, còn đi vào việc thì cậu sẽ tò ra rất xứng đáng. Còn làm tính chia, tính nhân và đọc trôi chảy thì cậu sẽ học được, miễn là có thì giờ và ý muốn...

        Va-lê-ga lầu bầu cái gì đấy trong giấc mơ, nằm trở mình và lại co người, kéo đẩu gối lên đến cằm.

        Ngù đi, ngủ đi, chú bé tai vểnh kia ơi... Chằng bao lâu lại chiến hào, lại những đêm thức trắng. Va-lê-ga, đến đây! Va-lê- ga, đến đằng kia! Bây giờ thì cứ ngủ đi. Còn khi hết chiến tranh, nếu còn sổng, thì chúng ta sẽ nghĩ ra cái gì đấy để khắc phục nhược điểm trên.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 13 Tháng Bảy, 2019, 03:06:34 pm »


11

        Buổi sáng ở ban cán bộ, chúng tôi chạm trán với Ca-lút-xki, mặt mày tươi rói, râu ria cạo nhẵn và hình như có béo thêm ra một chút nữa.

        — Ồ, các cậu... Mạnh khỏe chứ? Đi đâu đấy? — Cậu ta đưa bàn tay ấm và ươn ướt của mình ra.

        — Đến chỗ mà cậu vừa đến.

        — Đợi một tí. Chớ vội vã. Các cậu có thuốc không?

        — Có.

        — Cần phải hút. Và nhân thể để cho đầu óc suy nghĩ một tí. Kìa, cái ghế kia tốt đấy.

        Cậu ta kéo chúng tôi đến cái ghề dài ba chân ở trong vườn hoa bụi bặm.

        — Đừng quyết định vội, khi chưa tính toán kỹ. Các cậu có hiểu không? Ớ đây, công việc giản đơn lẳm. Hoặc là hậu bị, hoặc là tiền duyên. Pằng, pằng — thế là các cậu đi đời.

        — Thì sao?

        — Cái đó thích hợp với các cậu lắm, hả? — cặp lông mày gọt tỉa của cậu ta rướn lên. — Có biết ở tiền duyên bây giờ thế nào không? Tệ lắm rồi... Từ bốn phương tập hợp đến. Hôm nay tớ đã nói chuyện với một trung úy bị thương. Hôm qua vừa Ca-lát. Cán bộ chỉ huy hầu như đã hết rồi. Người ta đưa vào bất cứ chỗ nào. Đây này, người cho anh đây, tuyền phòng ngự đây, và cố thủ đi. Các cậu hiểu chứ? «Méc-xe» thì cứ quần trên đầu. Tóm lại...

        Cậu ta. đưa ngón tay to mập, ngắn cũn vạch trong không cái dấu chữ thập.

        — Còn hậu bị thì thế nào? Cháo kê, bánh mì, cứng như đất sét. Mà có thể có cá mòi muối nữa. Và tập luyện từ sáng đến tối, nào là điều lệnh, điều lệnh chiến đấu bộ binh, trung liên... Có ăn hạt quỳ không?

        Không đợi trả lời, cậu đồ vào lòng bàn tay chúng tôi những hạt quỳ nhỏ, rang cháy.

        — Bây giờ nói tiếp... — Cậu ta hơi cúi xuống và nói thì thẩm một cách bí ẩn. — Tớ gặp một đại úy ở đây, tớ sẽ giới thiệu các cậu với ông ấy. Một người tốt lắm. Đã làm phó chỉ huy trinh sát ở ban tham mưu một sư đoàn. Tâm sự với nhau. Hóa ra là có những người quen chung. Tóm lại, chừng năm, sáu ngày nữa, mươi ngày là cùng, sẽ có trung tá Su-răn-xki đến đây. Các cậu có biết ông ta là ai không? Vàng mười đấy! Tớ xưng hô với ông ta là «cậu, tớ». Đã từng đánh chén với nhau cơ mà. Thế thì chính Su-răn-xki sẽ thu xếp chu cả thôi. Bây giờ ông ta đang đi công tác ở Mát-xcơ-va. Một tuần nữa có mặt ở đây. Nói chung là tớ khuyên các cậu quay gót trở lại. Các cậu có chỗ nào để ở chứ? Còn tớ sẽ cho các cậu biết tình hình.

        Và bỗng cậu ta đứng lên và bỏ hạt quỳ vào túi.

        — Đợi một tí nhé. Các cậu đợi nhé. Muốn nói vài lời với thiếu tá kia kìa...

        Và chữa lại cái mũ lưỡi trai, cậu ta đi khuất sau góc nhà.

        Chúng tôi vào ngôi nhà có những cửa sổ bẩn. Một trung úy xoàng xĩnh đi ủng mới đánh xi, cho biết rằng ban công binh ở đường phố Tuốc-kéc-xtăn-xcai-a và ở đấy đang kiểm kê tất cả các công binh. Còn những ngành chuyên môn khác — xạ thủ, bắn súng cối, pháo binh, — thì ở phòng thứ năm từ mười một đến năm giờ.

        Chúng tôi đi trên đường phố Tuốc-kéc-xtăn-xcai-a. I-go giả làm công binh.

        — Mẹ kiếp! Những cái mặt nạ chống hơi độc này. Chán ngấy. Trong ba ngày cậu sẽ dạy được cho mình mọi điều mưu mẹo.

        Ờ đường phố Tuốc-kéc-xtămxcai-a lại gặp một trung úy khác, chỉ có khác là tóc đen và đi ủng bằng vải bạt. Sau đó gặp thiếu tá. Sau đó là năm bảng kê khai và — mười giờ sáng ngày mai các anh hãy đến».

        Ngày hôm sau, lúc mười giờ. chúng tôi điền thêm vào những tấm phiếu gì đấy và nhận mệt giấy giới thiệu — «Kính gửi thiếu tá Da-báp-ni-cốp, xin ghi vào hậu bị» — chúng tôi đi đến đường U-dơ-bếch-xcai-a, nhà số 16.

        Ở đấy, chừng hai mươi người là cán bộ chỉ huy công binh. Họ ngồi trên bệ cửa số, uống trà, hút thuốc và chửi rùa hậu bị. Thiếu tá không có. Một lúc sau, ông đi đến. Người nhỏ nhắn, cáu kỉnh, xanh xao, có đôi mắt kèm nhèm. Lại hỏi: người nào, cái gì, ở đâu đến. Thời gian biểu: từ chín đến một giờ, học tập, rồi ăn trưa, từ ba đến tám giờ, lại học tập. Chúng tòi ghi tên vào một đại đội thủy công nào đấy để có khẩu phần ăn. Và đi về nhà.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 13 Tháng Bảy, 2019, 03:07:19 pm »


        Buổi chiều, tôi cùng với Li-u-xi-a thẩn thơ đi chơi trên đường bờ sông. Bầu trời đỏ rực như báo điểm dữ. Trên chân trời một đám mây giông như khói đen đặc. Dòng sông Vôn-ga gợn sóng vì cơn gió thổi, mặt nước không lấp lánh tí nào. Và bè mảng, bè mảng vô tận. Những chiếc tàu kéo quấn đầy cành lá xanh, giống như hôm nay là ngày hội mùa xuân «trôi-ít-xa». Ở bờ bên kia là những ngôi nhà nhỏ, một tòa nhà thờ và những cần múc nước trong mỗi sân.

        Chúng tôi cầm tay nhau đi, thỉnh thoảng đừng lại cạnh lan can bằng đá, chống khuỷu tay lên đấy và nhìn ra xa. Và Li-u-xi-a nói cái gì đấy, hình như về hai nhà thơ Blốc và Ê-xê-nin, và hỏi tôi cái gì đấy, và tôi đáp lại, và chằng hiểu vì sao trong lòng tôi không yên, tôi không muốn nói gì cả về Blốc lẫn Ê-xê-nin.

        Những cái đó trước đây đã làm tôi quan tâm và xúc động, còn bây giờ đã rời xa tôi, xa lắm... Kiên trúc, hội họa, văn học... . Trong suốt thời gian chiến tranh, tôi chằng đọc một cuốn sách nào. Và không muốn. Không khao khát.

        Tất cả những cái đó để sau này, sau này...

        Mà ngày mai thì lại cái món hậu bị ấy, cứ hằng chục lần tháo ra, lắp vào khẩu súng máy «đéc-chia-rép». Và ngày kia, và ngày kìa. Và lại ông thiếu tá Da-báp-ni-cốp cáu kỉnh, mắt kèm nhèm ấy sẽ nói với chúng tôi rằng phải đợi, rằng khi nào có lệnh thì sẽ gửi ra mặt trận, rằng có những người để lo nghĩ về việc ấy, và cứ nói, nói nữa, nói mãi...

        Chúng tôi đi ngang qua bức tượng Anh hùng Liên-xô Khôn- du-nốp. Thật xấu hổ, tôi không biết người anh hùng đó đã làm gì. Bằng đồng, nặng nề, mặc áo da, Khôn-du-nốp đứng vững vàng, tin tưởng và chẳng nhìn ai cả. Chúng tôi đọc dòng chữ đề, nhìn bức phù điêu ở chân tượng.

        Chúng tôi đi ra quảng trường trung tâm. Một chiếc máy bay «hây-nơ-ken» méo mó, màu xám, có những dấu chữ thập đen và con sư tử thời trung cổ trên cái khiên của quân hiệu, nằm ở đấy. Nó giống một con chim dữ tợn bị thương, rơi xuống đất và dùng vuốt bám chặt vào đất. Những cậu bé con leo lên những cánh bị gãy tan, bò vào ca-bin, sờ mó các máy móc. Những người lớn cau có và chăm chú nhìn qua những sợi dây chăng dài, những mô-tơ bị vỡ và những khấu súng máy lòi ra.

        — Đồ chó đẻ, bọc thép cả...

        — Ừ, chúng chẳng tiếc kim khí đâu.

        — Thế mà máy bay bằng gỗ dán đánh nó sao nổi.

        — Nó có mấy súng máy?

        — Hai. Và hai đại bác.

        — Còn bom?

        — Hai tấn bom.

        — Hai tấn?

        Li-u-xi-a kéo tay áo tôi.

        — Ta đi thôi. Tôi nhìn nó chán rồi. Ta đi đến đồi Ma-ma-ép.

        .— Đi đâu?

        — Đền đồi Ma-ma-ép. Từ trên đồi trông ra cả Xta-lin-gơ- rát như trong lòng bàn tay. Cả Vôn-ga lẫn bờ bên kia sông đều trông rõ rất xa. Ở đấy thích lắm. Thật đấy.

        Chúng tôi đi đến đồi Ma-ma-ép.

        Đồi không cao và không đẹp. Những cây con trồng thành hàng. Li-u-xi-a nói rằng ở đây định làm công viên văn hóa. Có thế là sau này ở đây sẽ đẹp, nhưng bây giờ chẳng có gì hấp dẫn lắm. Có những tháp nước gì đấy, cỏ khô cằn và các khóm cây gai, thưa thớt.

        Nhưng phong cảnh nhìn từ đây thì tuyệt thật.

        Thành phố lớn ôm lấy dòng sông. Những tòa nhà mới, đồ sộ bằng đá nổi bật lên trên những nhà cửa bằng gỗ vây kín thành phố khắp tứ phía. Những nhà gỗ xiêu vẹo, nhỏ bé, ẩn mình dọc theo các mương xói, bò ra đến tận sông, leo lên cao và đứng chen chúc,giữa những tòa nhà máy bằng bê-tông cốt sắt. Những nhà máy to lớn phun khói, những cần trục ầm ĩ, những tiếng còi đầu máy xe lửa. Nhà máy «Tháng Mươi Đỏ», «Chiến lũy» và xa mãi tận chân trời là tòa nhà máy Máy kéo. Ở đấy có những khu công nhân của nhà máy ấy: những tòa nhà trắng, cân đối và những biệt thự nhỏ cỏ mái phủ lớp nhựa bóng loáng.

        Và sau tất cả những cái đó là dòng sông Vôn-ga bình thản, phẳng lỳ, rộng rải và hiền hòa, và những đám cây xanh ở bờ bên kia, và những ngôi nhà nhỏ nhô ra ngoài đám cây xanh ấy, và xa xa là một màu tím nhạt, và có thằng ngốc nào đấy bắn lên không trung một chiếc pháo sáng tung ra những tia lửa màu xanh đỏ đẹp,
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2019, 05:50:01 pm »


        Chúng tôi ngồi ở mép mương xói uốn quanh và trơ trụi, và nhìn xem chiếc tàu lửa đang chạy ở bên dưới, Chiếc tàu dài lắm, trên những toa không mui có cái gì đấy che vải bạt, chắc là xe tăng, Chiếc đầu máy có ống khói ngắn, như phồng lên, nặng nề và bực bội thỏ. phì phì, Nó phun khói ra dữ dội và chậm chạp kéo với một sự kiên trì đặc biệt giống như con trâu kéo đã từng quen với các vật nặng,

        — Anh nghĩ gì thế? — Li-u-xi-a hỏi,

        — Nghĩ đến súng máy, Ớ đây là địa điểm đặt súng máy rất tốt,

        — I-u-ri... Sao anh có thể?

        — Còn một khẩu nữa đặt ở đằng kia kìa, Nó sẽ bắn vào phía kia mương xói tuyệt lắm,

        — Phải chăng anh chưa chán những thứ ấy sao?

        — «Thứ ấy» là gì?

        — Chiến tranh, súng máy...

        — Chán ngấy,

        — Thế thì anh nói đến những thứ ấy làm gì? Nếu như có điều kiện không nói đến, thì nói để làm gì„,

        — Chỉ là thói quen thôi, Bây giờ thi cả khi nhìn lên mặt trăng tôi cũng nghĩ đến sự ích lợi của nó, Một bà bác sĩ chữa răng nói với tôi là khi nghe nói về một người nào đấy, bà ta trước tiên nhớ đến răng, đến lỗ sâu răng, đến răng đã đổ chì của người ấy,

        — Còn tôi, khi không ở bệnh viện, thì tôi cố quên tất cả những chân, tay bị cưa cụt, những cảnh khoan, đục xương và những điều kinh khùng khác,

        — Đó chỉ vì chị làm việc ở bệnh viện chưa lâu, thế thôi,

        — Tháng thứ hai rồi đấy,

        — Còn tôi thì năm thứ hai rồi, Mà một năm chiến đấu thì bằng ba năm hòa bình cơ đấy, Có khi bằng năm năm,

        Li-u-xi-a chống tay vào đầu gối tôi và nhìn vào mắt tôi, Cô ta có một nốt ruồi nhỏ ở mắt trái và lông mi — cũng giống như của Xê-đức — dài và cong lên.

        — I-u-ri, trước chiến tranh anh là người như thế nào?

        Biết trả lời với cô sao đây? Cũng là người như bây giờ, chỉ có hơi khác một chút thôi. Trước chiến tranh tôi thích ngắm mặt trăng, thích kẹo sô-cô-la nữa, thích ngồi ở dãy ghề thứ ba trước sân khấu nữa, thích hoa tử đinh hương nữa, thích uống rượu với các bạn nữa.

        Chúng tôi ngồi im một lúc, lặng ngắm bờ sông đối diện.

        — Đẹp, hả? — Li-u-xi-a nói.

        — Đẹp, — tôi đáp lại.

        — Anh có thích ngồi nhìn thế này không?

        — Thích.

        — Ở Ki-ép chắc anh cũng đã ngồi với ai đấy trên bờ sông Đơ-nhi-ép buổi tối và nhìn chứ gì?

        — Vâng, đã ngồi nhìn.

        — Vợ anh ở đấy, ở Ki-ép à?

        — Không. Tôi chưa có vợ.

        — Thế thì anh ngồi với ai ?

        — Với Li-u-xi-a.

        — Cũng là Li-u-xi-a à? Buồn cười thật, cũng là Li-u-xi-a.

        — Cũng là Li-u-xi-a. Và cô ta cũng như chị, tóc cắt ngắn. Nhưng không chơi dương cầm được.

        — Bây giờ chị ấy đâu rồi?

        — Tôi không biết. Cô bị ở lại vùng bọn Đức chiếm. Nhiều người ở lại như thế. Bố mẹ tôi cũng thế.

        — Anh có ảnh chị ấy không?

        — Có.

        — Có thể xem được không?

        Tôi lấy tầm ảnh trong ví ra. Tôi và Li-u-xi-a cùng chụp. Tấm ảnh chụp xấu, hầu như đã bạc màu. Li-u-xi-a cầm ảnh và cúi đẩu thấp đến nỗi những sợi tóc của cô chạm vào mặt tôi. Từ tóc phảng phất mùi xà phòng thơm dễ chịu.

        — Mặt Li-u-xi-a của anh không cân đối. Anh không nhận thấy à?

        — Không, không nhận thấy.

        — Anh có yêu chị ấy không? Hay là chỉ thế thôi.

        — Tôi cảm thấy hình như có. Dù sao thì tôi cũng nhớ.

        — Nhiều không?

        — Có lẽ là nhiều.

        — Sao lại có lẽ?

        — Thế thì rất nhớ.

        Li-u-xi-a nhìn xuống.

        Và bỗng mặt cô đỏ lên. Thậm chí hai tai nhỏ nhắn, có lỗ xâu để đeo hoa tai cũng đỏ ửng.

        Ở dưới thấp, một chiếc tàu lửa nữa chạy qua, cũng dài dằng dặc và thở phì phì như chiếc trước. Chiếc tàu điện kêu leng keng ở đâu đấy, nhưng không trông thấy. Trên nền trời, những ngôi sao nhợt nhạt và e lệ xuất hiện.

        Tôi nhìn sao, nhìn tai hồng và nhỏ có cái lỗ xâu con, nhìn bàn tay mảnh khảnh của Li-u-xi-a, nhìn chiếc nhẫn có gắn viên đá xanh đeo ở ngón tay út. Li-u-xi-a thật dễ thương, và giờ đây ngồi với cô tôi cảm thấy dễ chịu: còn một vài ngày nữa chúng tôi sẽ xa nhau và không bao giờ gặp lại nhau nữa. Và tôi còn sẽ gặp những Li-u-xi-a khác nữa trong suốt thời gian chiến tranh, và có thể là sẽ ngồi cùng với họ như thế, và rồi cả những cô đó sẽ đi xa đâu đấy, và tôi sẽ quên mặt, quên tên của họ, và họ hòa lại với nhau thành một cái gì duy nhất, lớn lao, mờ ảo, dễ chịu, tạo nên một ảo ảnh của cái gì đã trôi qua, xa xăm và quyến rũ như thế.

        Và tôi cho cô địa chỉ của người bạn tôi ở Mát-xcơ-va, để sau khi chiến tranh chấm dứt, nếu cô muốn thì có thể viết thư cho tôi theo địa chỉ đó. Cô ghi địa chỉ vào một cuốn sổ tay bé tí và nói rằng nhất định thế nào cô cũng sẽ viết.

        Một giờ sau, chúng tôi ra đi. Li-u-xi-a lặng thinh, hai tay nắm chặt tôi và tôi cảm thấy tim của cô đập khẽ, và đôi tay của cô ấm áp, mềm mại, và toàn thân cô có cái gì dễ chịu và cảm động.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 15 Tháng Bảy, 2019, 05:35:30 pm »


12

        Chúng tôi được giao công tác. Tôi, I-go và hai trung úy ở hậu bị nữa. Chúng tôi lập thành một nhóm đặc công. Thủ trưởng của chúng tôi là thiếu tá Gôn-stáp rất có vẻ trí thức, đầu hói và cận thị. Trưởng nhóm là đại úy Xa-môi-len-cô, cau có, khịt khịt mũi luôn, và trước cũng ở quân hậu bị.

        Công tác chẳng có gì phức tạp. Để phòng xa, phải chuẩn bị phá hoại các cơ sở công nghiệp. Phải lập bản đồ phân phối thuốc nổ, tính toán lượng thuốc nổ cần thiết, quyết định phương pháp làm nổ và hướng dẫn những đội phá hoại được tổ chức riêng biệt ở trong nhà máy. Chỉ có thế thôi.

        Tôi được giao phụ trách nhà máy thịt, kho ướp lạnh, nhà máy xay số bốn và nhà máy làm bánh mì. I-go thì nhà máy bia, một nhà máy xay khác và nhà máy «Vật phẩm kim loại».

        Chúng tôi dọn đến căn nhà mới to lớn, trống trải, không tiện lợi và có ban-công trông ra quảng trường gần ga. Hầu như chằng có đồ đạc gì cả. Một chiếc bàn, bốn cái ghế, ba cái giường đã bị võng xuống và một cái que điện xoắn ốc để đun nước sôi mà người nào đấy đã bỏ quên.

        Tôi và I-go chiếm hai giường, đặt áo ca-pốt lên trên giường. Giường thứ ba của thượng tá có cái họ nghe rất lạ tai Pen-gau-nít, chắc là người Lát-vi-a. Người thứ tư là Sa-pi-rô nằm trên các ghế xếp lại. Va-lê-ga và Xê-đức nằm trên sàn phòng bên cạnh. Còn đại úy cau có thì ở trong căn nhà tư ở đâu đấy. Mỗi ngày một lần, ông ta đi đến, khịt khịt mũi, hỏi chúng tôi đã làm gì, hút thuốc, rồi ra đi.

        Ở các nhà máy, các giám đốc đều lúng túng, vung tay lên, nói rằng không có ai đề lập các đội: chỉ rặt toàn phụ nữ ở lại thôi. Công nhân thì gườm gườm: chẳng biết mấy tay quân nhân này cứ đến mãi làm cái quái gì. Tôi đóng vai chuyên viên cứu hỏa: sờ mó các bình cứu hỏa.

        Ở kho ướp lạnh, người ta đãi chúng tôi ăn kem đựng trong những chiếc đĩa to. Ở nhà máy thịt thì giò chả và xúc-xích.

        Ban ngày sáng sủa và nóng nực, ban đêm ngột ngạt.

        Bà Ma-ri-a Cu-dơ-mi-nít-sna than phiền là ở ngoài chợ vật giá đều tăng, cả sữa lẫn bơ không thể nào mua được. Còn ông chồng thi cứ thở dài cạnh tấm bản đồ. Các bản thông cáo chẳng đem lại tin gì phấn khởi cả. Thành phố Mai-cốp và Cơ-rát-xnô- đa bị chiếm.

        Trong thành phố rất nhiều thương binh. Mỗi ngày một nhiều hơn. Râu ria xồm xoàm, mặt mày xanh xao, họ đi từng đoàn dài đến sông Vôn-ga, những dải băng trắng nổi bật lên trên bộ quân phục đẫm máu và bụi bặm của họ. Các bệnh viện tản cư. Các đội tuần tiễu đi khắp các khu phố và thành phố kiểm tra giấy chứng minh. Các đường đi Ca-lát và Cô-ten-ni-cô-vô chật ních xe cộ. Trong tất cả các sân đều tích cực đào thêm chiến hào và những cái hầm thật to và sâu, — người ta nói là để đựng nước cứu hỏa. Thỉnh thoảng những chiếc «gioong-ke» bay đến, ném vài ba quả bom ở đâu đấy ngoài rìa thành phố và bay đi. Pháo cao xạ trong thành phổ nhiều.

        Soóc-sin đáp máy bay đến Mát-xcơ-va. Bản thông cáo chung chằng dứt khoát gì cả.

        Đánh nhau ở đâu, chúng tôi cũng không biết rõ. Trong các bản thông cáo mập mờ đưa tin: «vùng đông bắc Cô-ten-ni-cô- vô», «cung sông Đông»... Nghe nói rằng Áp-ga-nê-rô-vô đã ở trong tay bọn Đức. Thành phố đó chỉ cách đây sáu mươi lăm cây số thôi. Chợ là trung tâm chủ yếu truyền tin, bà Ma-ri-a Cu-dơ-mi-nít-sna nghe nói rằng quân ta đã bỏ Ca-lát và lùi đến Các-pốp-ca. Thương binh chủ yếu là từ Ca-lát đến. Họ vung tay lên: «xe tăng... máy bay... thì làm sao..»

        Chưa có lệnh tản cư, nhưng những người láng giềng của Li-u-xi-a, ông bác sĩ chữa răng cùng vợ và hai con, hôm qua đã đi đến Lê-nin-xcơ, nói là «đi thăm người chị».

        Còn ở nhà hát ca hài kịch thì diễn Xin-va, Ma-ri-xa, Rô-dơ Ma-ri. Ớ các căng-tin, ngoài nước suối Vôn-ga — một cốc năm cô-pếch — chằng có gì cả. Trên các sân khấu thì mũ hình trụ, yếm sơ-mi, những nụ cười gạ gẫm, những câu bông phèng tối nghĩa.

        Trong vườn bách thú, vẫn như trước, con voi đứng rầu rĩ, những con khỉ lồng lộn, con trăn to và lười nằm ngủ mơ màng trong góc chuồng trên rơm cũ.

        Trong thư viện thành phổ có ban-công trông thẳng ra sông Vôn-ga, bà cụ dễ thương có mái tóc theo kiểu những năm tám mươi thế ký trước, cho mượn sách của Ban-dẳc và yêu cầu không gập các trang sách. Các cậu bé dùng ná cao su bắn chim sẻ và giả làm «quân ta» và «bọn phát-xít» đánh nhau. Các cô bé nhảy cò cò, đánh tàu bay.

        Ở Nhà Hồng quân thường xuyên treo báo Tin tức và Sự thật Xta-lin-gơ-rát trong tủ kính bên. trên có dăng tấm lưới sắt.

        Tháng tám chậm chạp trôi qua, ngột ngạt, bụi bặm và không mây.

        Có một bận, tôi gặp Ca-lút-xki mặc áo va-rơi mới toanh và đội mũ lưỡi trai vành đỏ. Cậu ta đã thu xếp vào làm phụ trách cung cấp thực phẩm ở một bệnh viện. Bây giờ bệnh viện đang tản cư đến A-xtơ-ra-khan, và cậu có nhiều việc lắm: thương binh nhiều vô kể, xe cộ không có, nói tóm lại, ngoài mặt trận tốt hơn, thật đấy... Nhân thế nói thêm là nếu tôi cần đường thì cậu ta có thể nhượng lại mười ki-lô: cũng thế thôi, chẳng làm sao đưa hết đi được, đành phải giao cho mặt trận.

        Tôi biết là Va-lê-ga sẽ mắng tôi, nhưng tôi nói là tôi không có thì giờ. Câu chuyện đến đây chấm dứt. Vui vẻ vẫy tay, cậu ta đi trên chiếc «com-măng-ca» chất đầy thịt cừu chạy về phía sông Von-ga. Tôi đưa mắt nhìn theo cậu và ghé vào bưu điện, may ra có «thư lưu lại bưu cục» chăng.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2019, 05:33:46 pm »


13

        Ngày chủ nhật tôi thức giấc sớm hơn mọi ngày. Chẳng biết những con bọ chó từ đâu ra, và tôi không tài nào ngủ lại được nữa. I-go và hai anh kia còn ngủ.

        Tôi dậy và đi vào bếp. Xê-đức làm bánh xèo trên bếp dầu. Va-lê-ga cắm cúi bên cái loa truyền thanh, từ lâu cậu mơ ước chiếc máy thu thanh.

        Bức tường nhà đối diện và mảnh trời nhợt nhạt như bị phai màu vì nóng quá, phản chiếu ánh nắng chói lọi qua cửa sổ. Hôm nay tôi không đến nhà máy : sơ đồ đã làm xong, lượng thuốc nổ đã tính xong, việc hướng dẫn cho công nhân cứ bị hoãn đi hoãn lại ngày này đến ngày khác, đến bây giờ các đội phá hoại vẫn chưa lập xong.

        Tôi kéo áo ca-pốt của I-gơ

        — Dậy nào! Chúng mình ra sông Vôn-ga tắm đi.

        Anh ta nhăn mặt không bằng lòng, cố kéo áo ca-pốt đắp mặt, càu nhàu, nhưng rồi cũng dậy. Đôi mắt ngái ngủ nhấp nháy.

        Xê-đức mang bánh đến, bánh còn kêu xèo xèo ở trong xanh.

        — Sáng hôm nay, quân ta lại hạ một thằng. — Cậu đặt xanh trên một viên gạch. — Chính tôi thấy. Lúc đầu bốc khói lên, phun ra một cái đuôi đen và dài lắm, rồi bắt đầu chúi mũi xuống, mỗi lúc một chúi thẳng đứng và rơi ở đâu đấy ngoài thành phố. Chắc là trúng vào mô-tơ.

        — Trong thành phố nhiều pháo cao xạ, — Sa-pi-rô nói và rời khỏi những cái ghế của mình, — chừng hai mươi lăm khẩu đội.

        Anh rất thích con số và đủ mọi thứ tính toán.

        — Nếu chúng đồng thời khai hỏa thì cứ một phút bắn ít nhất bảy trăm năm mươi viên đạn.

        — Thế bọn Đức có bao nhiêu máy bay? — I-go hồi. I-go bao giờ cũng chế giễu anh ta, nhưng Sa-pi-rô không để ý.

        — Lúc sắp chiến tranh có gần một vạn. Bây giờ chắc là nhiều hơn.

        — Vì sao?

        — Dễ hiểu thôi. Nếu tính rằng chúng có một trăm nhà máy sản xuất máy bay và mỗi nhà máy làm mỗi ngày một chiếc, tớ nói ít nhất đấy, thì mỗi tháng có ba nghìn chiếc. Con số bị thiệt của chúng chẳng đến như thế đâu. Tức là...

        — Cậu đi tắm không? — I-go ngắt lời.

        — Không. Mình có nhọt. Đó là cái nhọt thứ sáu trong tháng này rồi đấy. Và trúng vào chỗ bất tiện nhất.

        Bãi bơi ở Xta-lin-gơ-rát không có. Từ những chiếc bè, chúng tôi nhảy xuống những đợt sóng đầy dầu mỡ, loang loáng màu ngũ sắc như xà cừ. Nước ấm như đã đun.

        Rồi chúng tôi nằm trên những súc gỗ và nheo mắt nhìn sông Vôn-ga. Dòng sông sáng loáng chói lòa. Nó không giống sông Đơ-nhi-ép. Hoàn toàn không giống. Lần cuối cùng tôi thấy sông Đơ-nhi-ép vài ngày trước chiến tranh. Nó nhẹ nhàng và vui vẻ hơn. Bãi bơi dô ra như một cái lưỡi lớn, đầy những thân hình trần truồng, rám nắng, những tai nấm bằng gỗ, những quán hàng và những nhà cho thuê thuyền diêm dúa chạm lộng. Và vô số thuyền: thuyền thoi, sà-lúp, ca-nô, thuyền đua cân đối, xuồng và những chiếc thuyền buồm trắng phau phóng rất nhanh. Tất cả những cái đó chạy qua chạy lại, cử động, thấp thoáng màu trắng, màu vàng và màu xanh, rung động dưới ánh nắng gay gắt ban trưa.

        Ở đây, không như thế. Ở đây, chăm chỉ và nghiêm trang hơn. Ở đây, bè mảng và sà-lan, những chiếc ca-nô ám khói, bận rộn, và những chiếc tàu kéo rúc còi trầm trầm như giọng bị cảm, đập dây cáp vào nước. Trước chiến tranh, ở đây chắc cũng thể, có cả thuyền buồm, cả sà-lúp, nhưng trước chiến tranh thì tôi chưa ở đây. Còn giờ đây là một dòng nước dồi dào rộng rãi, sáng loáng, dăng đầy bè mảng, ở hai bên bờ có nhiều chiếc cần trục vươn cao và những nhà kho dài dằng dặc và tẻ ngắt, làm nhớ lại phân xưởng của một nhà máy nào đấy rất đặc biệt, không giống những nhà máy khác.

        Nhưng dù sao vẫn là sông Vôn-ga. Có thế hàng giờ nằm sấp như thế này và nhìn những bè mảng trôi xuôi dòng, nhìn những vết dầu loang bóng loáng nồi trên mặt nước, nhìn chiếc tàu thủy nhỏ cũ kỹ, quá thời, ỳ ạch quay những bánh xe, chạy ngược dòng. Tôi nằm nhìn, còn I-go nói cái gì đấy rằng anh ta đã chán ngấy cái cảnh ăn không ngồi rồi, chán ngấy Sa-pi- rô với những đinh nhọt của anh ta và Pen-gau-nít hàng ngày giặt và phơi cổ áo giả ngoài ban-công, chán ngấy những ông giám đốc các nhà máy và tất cả cái công việc giấy tờ này.

        Tôi lơ đễnh nghe anh nói và nhìn chiếc ca-nô phì phạch ghé vào bờ bên kia, và cố không nghĩ đến điều có thể một hay hai tuần nữa, ở đây sẽ là mặt trận và bọn Đức sẽ đến chỗ chúng tôi đang nằm, còn chỗ đằng kia, nơi có đám cây xanh ở bờ bên kia là quân ta, và bom sẽ nổ rền vang và dựng lên những cột nước trắng xóa, và những xác phình to bập bềnh trôi xuôi dòng trên mặt nước sáng loáng này đến A-xtơ-ra-khan, đến biển Cát-xpiên. I-go thẳng cánh vỗ vào lưng tôi.

        — Xuống nước đi... Kìa, tàu thủy đang chạy.

        Anh lấy đà, đạp trên súc gỗ to và trơn, lao xuống nước. Trong vài giây không thấy anh. Rồi anh nhô đầu lên ở xa bờ và thở phì phì. Bằng những sải mạnh và ngắn, anh bơi đón chiếc tàu, hầu như cả cái lưng lộ rõ trên mặt nước, đầu úp xuống nước. Chỉ thỉnh thoảng đầu ngóc lên từ dưới tay để lấy hơi. Anh bơi giỏi. Li-u-xi-a cũng bơi như thế. Không mạnh bằng, nhưng cũng giỏi.

        Kiểu bơi đó gọi là cơ-run. Tôi chưa bơi được kiểu đó. Thở chưa được ổn và chân thì mỏi. Chân phải đập luôn, mạnh và đều.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2019, 05:26:32 pm »


        Chiếc tàu thủy chạy qua, nó thấp, có những ống khói dài và cả một cái đuôi sà-lan dài ở đằng sau. I-go quay trở lại, thở hồng hộc.

        — Tim đập dữ quá. Mình già rồi. Mà nói chung chằng phải là sông, mà chỉ là bể chứa dầu thôi. — Toàn thân anh sáng bóng và loang lồ vết dầu. — Ta đi đến thư viện đi.

        Tôi không phản đối. Nằm mãi trên súc gỗ nên lưng đau.

        Ở thư viện, I-go tận hưởng tạp chí A-pô-lông năm 1911. Còn tôi thì khoái trá thưởng thức những truyện ngắn của Peru trong tạp chí Văn học quốc tế. Ghế bành đan thật là tiện lợi. Trong phòng ấm cúng và yên lặng. Các chân dung của Tuốc-ghê- nép, Chút-sép và của người nào đấy nữa có ria và kim cài ở cà- vạt. Đồng hồ treo tường to du dương đánh từng khắc một. Hai cậu bé sặc sụa cười trước những tranh vẽ minh họa của Đô-rê ở cuốn sách Mun-khơ-hau-den1. Trước đây, tôi cũng có cuốn này, bìa đỏ viết chữ vàng và cũng những tranh vẽ như thế. Tôi có thể xem sách một ngày hàng chục lần cũng được. Đặc biệt tôi thích nhất bức vẽ nam tước cầm mớ tóc đuôi sam của mình để tự kéo mình ra khỏi đầm lầy. Và một bức vẽ khác: những cánh cổng cắt đôi con ngựa ra, mà nó vẫn đứng bình tĩnh uống nước ở vòi phun, còn ở sau thì cả một thác nước ào ào chảy.

        . Tức là cuốn Phiêu lưu kỷ của nam tước Mun-khơ-hau-den. — ND

        Chúng tôi ngồi mãi cho đến khi bà trông thư viện nói cạnh nói bóng rằng: đúng sáu giờ thì thư viện đóng cửa. Nhân viên của thư viện bây giờ chỉ làm một kíp, và họ làm việc từ mười hai cho đến sáu giờ.

        — Ngày mai các anh hãy đến. Từ mười hai đến sáu giờ, thư viện bao giờ cũng mở cửa. Còn A-pô-lông thì có cả những năm một nghìn chín trăm mười hai và một nghìn chín trăm mười bảy nữa cơ đấy.

        Chúng tôi từ biệt và đi ra. Chắc là Va-lê-ga đã càu nhàu rồi: thức ăn nguội cả.

        Ớ cạnh cửa vào ga một cái loa phóng thanh vuông và đen rè rè nói:

        — Hỡi đồng bào! Trong thành phố báo động máy bay. Đồng bào chú ý trong thành phố báo...

        Những ngày gần đây, hàng ngày ba bốn lần báo động. Chẳng còn ai đề ý đến những lần báo động nữa. Quân ta bắn, bắn mãi, mà chẳng thấy máy bay đâu và lại báo yên.

        Va-lê-ga đón chúng tôi, vẻ mặt cau có lườm.

        — Các đồng chí cũng biết là chúng ta không có bếp lo. Hai lần đã phải hâm thức ăn rồi đấy. Khoai tây thì mềm nhũn đi rồi, còn canh cũ cải đỏ thì hoàn toàn... — Cậu chán nản gạt tay, rồi mở nồi canh bọc trong áo ca-pốt. Ở đâu đấy sau ga, các khẩu pháo cao xạ bắt đầu nổ.

        Canh cũ cải đỏ nấu với thịt trộn thêm cơ-rem sữa quả là ngon tuyệt. Và chằng biết kiếm đâu ra mà có cả những đĩa nữa, đĩa đẹp có những bông hoa màu hồng.

        — Chẳng khác gì ở hiệu cao lâu cả, — I-go cười, — chỉ có thiếu cái để đế dao và cốc đựng khăn lau mồm hình tam giác nữa thôi.

        Và bỗng nhiên, mọi cái bay tung lên. Đĩa, thìa, kính, cái loa truyền thanh treo trên tường.

        Cái khỉ gì thế này!

        Từ phía sau nhà ga, những chiếc máy bay lướt tới, chậm rãi, đàng hoàng, giống như trong buổi lễ diễu binh. Tôi chưa bao giờ thấy một số lượng nhiều như thế. Chúng nhiều đến nỗi khó phân biệt được chúng từ đâu bay đến, Chúng bay từng đàn, bình tĩnh, đen ngòm, đáng ghét, ở những độ cao khác nhau. Các khấu pháo cao xạ khạc đạn khắp trời.

        Chúng tôi đứng trên ban-công, nhìn trời. Tôi, I-go, Va-lê- ga và Xê-đức. Không thể nào rời mắt được.

        Bọn Đức bay thằng về phía chúng tôi. Chúng bay theo hình tam giác, như những đàn ngỗng trời. Chúng bay thấp trông rõ những mút cánh vàng, những chữ thập viền trắng, những chân bánh xe máy bay, giống như những vuốt thò ra. Mười... mười hai... mười lăm... mười tám chiếc... Chúng bay theo hàng dọc Vừa vặn trước mặt chúng tôi. Chiếc đi đầu lật ngửa ra, bánh xe lên trên. Nó đâm nhào xuống. Tôi không rời mắt khỏi nó. Nó có những bánh xe đỏ và cái đầu máy đỏ. Chúng bấm còi. Từ dưới cánh những chấm đen rơi xuống. Một... hai... ba... bốn... mười... hai mươi... Chấm cuối cùng trắng và tơ Theo bản năng, tôi nhắm mắt lại và bám chặt vào tay vịn. Không còn đất để đào và trốn trong đó. Thế thì phải làm gì đây. Nghe rõ chiếc máy bay rít lên, khi đâm bổ nhào xuống. Sau đó thì không còn phân biệt được gì nữa.

        Những tiếng nổ ầm ầm, dồn dập. Tất cả đều rung lên rất khó chịu. Tôi mở mắt trong giây lát. Chẳng thấy gì hết cả. Chẳng ra bụi, chẳng ra khói. Tất cả đều bao phù bởi một cái gì dày đặc, mờ ảo. Bom lại rít lên, lại nổ ầm ầm. Tôi vẫn bám chắc ở tay vịn. Có người nào đấy nắm chặt lấy tay tôi, như ê-tô, ở phía trên khuỷu. Mặt của Va-lê-ga đờ ra, như khi có tia chớp sấm sét, trắng trẻo, có mắt tròn và mồm há hốc. Rồi biến mất.

        Việc đó kéo dài bao lâu? Một giờ, hai giờ hay là mười lăm phút? Chẳng có thời gian, chẳng có không gian. Chỉ có cái gì mờ mịt và tay vịn ở ban-công xù xì và lạnh ngắt. Ngoài ra chẳng có gì nữa.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM