Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 04:00:22 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hàng không dân dụng Việt Nam - Những chặng đường lịch sử  (Đọc 11814 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #20 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2019, 09:38:42 pm »

Ngoài các công việc trên, Trung đoàn 919 còn được giao nhiệm vụ bay chụp ảnh địa hình để xây dựng bộ bản đồ địa hình miền Bắc, bay thăm dò địa chất... Bay thăm dò khảo sát địa chất đòi hỏi phải bay thật thấp, yêu cầu người lái tập trung cao độ và phải nắm thật vững địa hình ở khu vực đang bay. Chỉ cần một sơ suất nhỏ là dẫn tới mất an toàn, đe dọa tới tính mạng và máy bay. Công tác chuẩn bị trước khi cất cánh đòi hỏi rất chu đáo.


Những chiếc AN-2 với tính năng ưu việt, kiên trì, nhẫn nại ngày này qua ngày khác, "cõng trên lưng" các cán bộ địa chất đã bay trên tất cả các vùng có địa hình khác nhau: đồng bằng, trung du, miền núi, duyên hải... Ngành địa chất yêu cầu, các tổ bay hàng không dân dụng - không quân vận tải sẵn sàng đáp ứng ngay.


Trong việc bay chụp bản đồ lại có yêu cầu khác với bay khảo sát địa chất; phải nhận biết chuẩn xác đặc điểm địa hình đang bay là đòi hỏi cao với người lái. Có như vậy mới lập được những "đường bừa" trên không thật thẳng trong khu vực đá được xác định. Mỗi đường bay phải giữ đúng khoảng cách quy định, nếu đường nọ cách đường kia quá xa, ảnh chụp sẽ bỏ sót địa hình, hoặc các đường chồng lên nhau sẽ gây tốn kém, không đạt hiệu quả. Mặt khác, bay chụp ảnh phải chọn những lúc trời thật quang, không có mây. Những cánh bay của ngành hàng không đã chụp được nhiều khu vực giúp ngành bản đồ phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và củng cố quốc phòng. Trong đó, đặc biệt phải kể đến việc bay chụp ảnh sông Đà (năm 1964) phục vụ nhiệm vụ khảo sát xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình.


Bay chuyên cơ và phục vụ khách chuyên cơ là một nhiệm vụ đặc biệt được Đảng và Nhà nước tin cậy giao phần lớn nhiệm vụ này cho lực lượng hàng không dân dụng - không quân vận tải đảm nhiệm, nhất là phục vụ cho Bác Hồ. Tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng Bác lại luôn luôn đi sát các địa phương, quan tâm chỉ đạo sản xuất, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và thăm viếng đồng bào. Hàng không dân dụng phải luôn luôn đảm bảo máy bay tốt, tổ lái giỏi để phục vụ tuyệt đối an toàn cho Bác và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội. Sau những chuyến bay chuyên cơ đưa Bác đi thăm các địa phương về đến sân bay, Bác thường ghé vào thăm chỗ ăn, ở của đơn vị. Có một lần, đi Lạng Sơn về, Bác ghé vào thăm nơi ăn ở của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Không quân vận tải 919. Bác căn dặn cán bộ: yêu cầu bay của các nước rất cao, còn ta mới thành lập, lực lượng và cơ sở vật chất còn non trẻ, lãnh đạo cần qaan tâm đến đời sống của anh em. Bác đi thăm nhà ăn, nơi ở, khen tốt, dù rằng còn nghèo. Riêng về nhà vệ sinh, Bác phê bình còn bẩn và lộn xộn.


Một lần khác, trên đường đi công tác bằng trực thăng Mi-4 VN50D về tới sân bay Gia Lâm, Bác đã tới thăm và nói chuyện với Hội nghị mừng công của Cục không quân - hàng không dân dụng. Bác khen ngợi tinh thần quyết tâm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay, tinh thần học tập, rèn luyện làm chủ khoa học kỹ thuật, phương tiện hiện đại... của các cán bộ, chiến sĩ. Đồng thời, Bác căn dặn cán bộ chiến sĩ phải luôn luôn khiêm tốn, không tự mãn. Đất nước ta còn nghèo, máy móc, xăng dầu còn thiếu, vì thế phải biết giữ gìn thật tốt và tiết kiệm. Đó chính là lòng yêu nước, thương dân.


Bác căn dặn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cần quan tâm đến các chiến sĩ lái máy bay, vì họ là những người lao động đặc biệt. Họ không phải chỉ cầm súng, cầm lái, đấu tranh với địch, với thiên nhiên và kỹ thuật mà còn phải làm việc đó trên trời cao, đòi hỏi tiêu hao nhiều sức lực. Muốn lái máy bay tốt, an toàn, phải có máy móc tốt, nghĩa là các chiến sĩ thợ máy phải làm việc giỏi, lại phải có người chỉ huy tài, vạch đường chỉ hướng đúng đắn, có người báo tin tức, thông báo thời tiết chính xác, lại còn phải có sân bay sạch sẽ, đường băng quang quẻ, vững chắc... "Vậy là, tất cả các cô, các chú phải biết đoàn kết, thương yêu nhau, cùng nhau đồng lòng, góp sức làm tốt mọi nhiệm vụ".


Buổi đến thăm của Bác tuy ngắn ngủi, nhưng tình cảm thương yêụ của Bác, sự quan tâm tận tình và những lời dạy của Người đã để lại trong cán bộ, chiến sĩ không quân vận tải - hàng không dân dụng những tình cảm và suy nghĩ mới, sức mạnh mới trên chặng đường xây dựng và phát triển của mình.


Mùa xuân 1961, chuyên cơ trực thăng Mi-4 VN50D do cơ trưởng Trần Ngọc Bích điều kiển đã đưa Bác Hồ về thăm lại Chiến khu Tân Trào. Mùa hè cùng năm đó, cũng chiếc chuyên cơ này lại đưa Bác ra thăm nhân dân và bộ đội đảo Cô Tô (Quảng Ninh). Cuối năm 1961, chuyên cơ IL-14 VN482 đưa Bác đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII. Khi từ Bắc Kinh trở về, thời tiết quá xấu, máy bay đã phải hạ cánh xuống Trình Châu (Trung Quốc). Máy bay và tổ lái buộc phải ở lại, các đồng chí Trung Quốc tổ chức đưa Bác đi xe lửa về Nam Ninh nghỉ chờ ở đó. Sau vài ngày, thời tiết tốt, máy bay lại bay về Nam Ninh để đón Bác. Kết thúc chuyến bay, toàn tố lái và chiêu đãi viên Lê Kim Thu được Bác thưởng huy hiệu của Người.


Trong những năm đầu của thập kỷ 60, uy tín của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng mở rộng, các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, các tổ chức xã hội tới thăm và làm việc với nước ta ngày một nhiều. Phòng đối ngoại của Cục hàng không dân dụng Việt Nam đã phối hợp với Bộ Ngoại giao, các đơn vị hữu quan đế triển khai việc tiếp đón các đoàn khách quốc tế ở sân bay Gia Lâm bảo đảm an toàn, chu đáo, góp phần nâng cao uy tín của hàng không dân dụng Việt Nam.


Mở đầu công tác này là việc chỉ huy an toàn máy bay chở các Đoàn đại biêu Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế đến dự Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III. Tiếp đó, trong những năm từ 1960 đến 1964, sân bay Gia Lâm đã đón nhiều đoàn đến như: phục vụ máy bay TU-104 chở phi công vũ trụ Giécman Titốp sang thăm nước ta hạ cánh an toàn xuống sân bay Cát Bi, sau đó, máy bay của Hàng không Việt Nam đưa đoàn từ sân bay Cát Bi về Gia Lâm; đón các Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Anh, Mỹ, Pháp,...; đón Đội bóng đá Rumani sang thăm và thi đấu ở nước ta...


Tính từ 1954 đến 1964, cán bộ chiến sĩ hàng không dân dụng - không quân đã phục vụ các đoàn khách quốc tế đến thăm và làm việc tại nước ta gồm:

- 12 đoàn mà Trưởng đoàn là cấp nguyên thủ quốc gia.

- 37 đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa.

- 81 đoàn các tổ chức quốc tế, các tổ chức yêu nước và các nước phe xã hội chủ nghĩa.

- Nhiều đoàn chuyên gia, đoàn nghệ thuật các nước xã hội chủ nghĩa.


Từ năm 1960 đến năm 1963, có những đoàn khách rất đặc biệt được Bác Hồ ra tận sân bay Gia Lâm đón và tiễn, như: gia đình Luật sư Lôdơbai sang thăm nước ta theo lời mời của Bác (ngày 2-2-1960); Đoàn đại biểu Chính phủ Ghinê do Tổng thống Xêcu Turê dẫn đầu; Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô (1962); Đoàn Đại biểu Ban thư ký thường trực Hội đông đoàn kết nhân dân Á - Phi; Đoàn đại biểu Xô viết tối cao Liên Xô (1963); Đồng chí Antônin Nôvốtny, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc; Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cu Ba do đồng chí Đoócticốt dẫn dầu...


Từ ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân vào miền Bắc nước ta. Các sân bay trên miền Bắc bị uy hiếp nghiêm trọng, đặc biệt là sân bay quốc tế Gia Lâm. Trong hoàn cảnh đó, hàng không dân dụng Việt Nam vẫn tổ chức tốt việc chỉ huy cho máy bay chuyên cơ của các Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Vênêduêla, Đoàn đại biểu quân sự nước Cộng hòa Inđônêxia, Đoàn đại biểu Chính phủ Mali sang thăm chính thức nước ta. Cục trưởng Cục hàng không dân dụng và các nhân viên đối ngoại của Cục trực tiếp ra sân bay chỉ huy và làm các công việc phục vụ máy bay.


Quan hệ đối ngoại của hàng không dân dụng Việt Nam trong thời kỳ 1954 - 1964 với các nước, chủ   yếu là các nước xã hội chủ nghĩa, ngày một tăng. Năm 1961, Nhà nước cử một đoàn học viên, trong đó có một số đồng chí là cán bộ lãnh đạo các cấp của Cục hàng không dân dụng đi đào tạo về nghiệp vụ hàng không dân dụng ở Liên Xô. Đoàn có các đồng chí Nguyễn Văn Giáo (nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân vận tải 919) học về quản lý chỉ huy sân bay; Nguyễn Đàm (nguyên là Chính ủy Trung đoàn Không quân vận tải 919) học về xây dựng và quản lý xí nghiệp sửa chữa máy bay; Nguyễn Bá Di, Đoàn Mạnh Nghi học về quản lý bay, Nguyễn Hữu Thần học về thương mại hàng không. Đoàn còn có một số anh em chiến sĩ trẻ như Lê Sỹ Diên, Trần Xuân Thiêm (học về khí tượng); Nguyễn Xuân Đại (học về xây dựng sân bay)... Đoàn học ở Học viện Hàng không dân dụng thuộc Bộ Hàng không dân dụng Liên Xô đến năm 1964 thì về nước. Để đẩy mạnh quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước Đông Dương, các Hiệp định Hàng không giữa Việt Nam với Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia đã được ký kết trong năm 1962. Cục trưởng Nguyễn Văn Tiên cùng với Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Phan Trọng Tuệ thay mặt Chính phủ ta ký Hiệp định Hàng không giữa hai nước Việt Nam - Campuchia, mở tuyến bay Hà Nội - Phnompênh - Thượng Hải (Trung Quốc).


Năm 1962, đồng chí Hoàng Thế Thiện dẫn đầu Đoàn cán bộ hàng không Việt Nam sang Bắc Kinh làm việc với Cục hàng không dân dụng Trung Quốc về thể thức thanh toán sửa chữa máy bay Việt Nam tại các xưởng sửa chữa của Trung Quốc. Năm 1963, Hiệp định Hàng không dân dụng giữa Việt Nam và Vương quốc Lào đã được ký chính thức tại Viêng Chăn. Sau khi ký kết, đại diện của hàng không dân dụng Vương quốc Lào đã sang thăm và làm việc với hàng không dân dụng Việt Nam.


Mặc dù Hàng không Việt Nam chưa có điều kiện bay kinh doanh theo Hiệp định Hàng không đã ký kết với các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng năm 1963, Việt Nam đã tham gia các Hiệp định về hàng không dân dụng của các nước xã hội chủ nghĩa (Hiệp định EAPT - EAGT về giá vé hành khách, cước hàng hóa, hành lý và bưu kiện) và hàng năm đều có cử đại diện dự các cuộc họp thường kỳ do các nước hội viên đăng cai tổ chức. Đồng chí Nguyễn Đức Chính là đại biểu đầu tiên của Hàng không dân dụng Việt Nam tham dự các kỳ họp này. Tiếp theo là đồng chí Nguyễn Văn Giáo, Cục phó Cục hàng không dân dụng Việt Nam. Trong nhiều năm tham gia Hiệp định giá cước, hàng không dân dụng Việt Nam là hội viên duy nhất chưa tổ chức bay kinh doanh. Vì vậy, trong các lần họp, đại biểu ta đã đấu tranh để hạn chế bớt việc tăng giá cước trên các tuyến chủ yếu mà khách Việt Nam đi nhiều. Trong quan hệ hàng không với các nước, Cục hàng không dân dụng Việt Nam đã làm đại lý bán vé cho các Hãng hàng không của Trung Quốc, Liên Xô, Tiệp Khắc... Hàng năm thu được một số ngoại tệ cho Nhà nước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #21 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2019, 09:40:24 pm »

IV. HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG THAM GIA LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ VỚI CÁCH MẠNG LÀO


Những tháng cuối năm 1960, tình hình nước Lào có nhiều diễn biến mới, phức tạp. Theo yêu cầu của Mặt trận Lào yêu nước, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam được cử sang phối hợp chiến đấu với quấn đội Pathét Lào. Trung đoàn Không quân vận tải 919 - hàng không dân dụng được giao nhiệm vụ sử dụng các loại máy bay hiện có (IL-14, Li-2, AN-2 và Mi-4) vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực, quân trang quân dụng, chuyển quân, đưa thương binh về tuyến sau, bay trinh sát, liên lạc, cấp cứu phục vụ các lực lượng vũ trang bạn và bộ đội tình nguyện Việt Nam chiến đấu. Phương thức hoạt động chính là thả dù, thả hàng và hạ cánh trên các sân bay, các bãi dã chiến ở địa hình rừng núi.


Thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Lào, Liên Xô đã lập cầu hàng không Liên Xô - Việt Nam - Lào, cùng không quân vận tải Việt Nam giúp đỡ nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng Lào.


Tháng 10 năm 1960, đoàn không quân vận tải Liên Xô gồm một số tổ bay có kinh nghiêm và 44 máy bay vận tải các loại1 (Gồm 20 chiếc Li-2, 14 chiếc IL-14, 10 chiếc trực thăng Mi-1 và Mi-4) đã đến Việt Nam. Cục không quân được Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ bảo đảm vật chất, kỹ thuật cho Không quân vận tải Liên Xô và phối hợp hoạt động với bạn.


Hai sân bay Gia Lâm, Cát Bi là những căn cứ xuất phát chính của Không quân Liên Xô và Việt Nam. Các căn cứ này đã được trang bị thêm một số thiết bị kỹ thuật để có thể bảo đảm bay đêm. Sân bay Cát Bi được lấy làm sân bay đầu cầu đón nhận hàng viện trợ của Liên Xô, đã tiếp nhận các máy bay lớn như IL-18. AN-12 mà các sân bay khác chưa đủ điều kiện đón. Từ đây, các máy bay Li-2, IL-14 tiếp tục đưa hàng về sân bay Gia Lâm hoặc bay thẳng sang Lào.


Các sân bay Vinh, Nà Sản, Điện Biên Phủ được bổ sung quân số và trang bị. Hai sân bay Kép, Chũ được sửa chữa gấp để có thể nhanh chóng đưa vào sử dụng. Một số thiết bị hàng không và hàng chục nghìn chiếc dù do Liên Xô, Trung Quốc viện trợ được chở gấp đến các sân bay, sẵn sàng phục vụ các đơn vị bay nhiệm vụ. Chỉ huy điều hành tất cả các lực lượng trên là từ Sở chỉ huy của Hàng không Việt Nam. Sau chuyến bay, mở đường thành công xuống sân bay Sầm Nưa đầy nguy hiểm, các máy bay Li-2 của Liên Xô và Việt Nam từ Gia Lâm bay lên Điện Biên Phủ và từ đây đã thực hiện 184 chuyến bay sang Sầm Nưa an toàn, hoàn thành nhiệm vụ cơ động lực lượng và vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm đúng thời gian quy định. Cùng thời gian trên, các tổ bay IL-14, AN-2 liên tục cất cánh thả dù và hàng ở một số khu vực khác như Buôn Hồng, Văng Viềng, Mường Pồn, Xalaphu Khum...


Được Không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam và Liên Xô cơ động lực lượng và tiếp tế kịp thời, lực lượng vũ trang cách mạng Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam nhanh chóng phát triển tiến công trên các hướng, đánh bại nhiều đợt phản kích của địch, giành lại vùng giải phóng đá bị địch lấn chiếm thuộc hai tỉnh Sầm Nưa, Phong Sa Lỳ và giải phóng phần lớn tỉnh Xiêng Khoảng, trong đó có địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum (1-1-1961). Tiếp sau đó, một số máy bay Li-2, AN-2, IL-14 của Trung đoàn 919 đã hạ cánh xuống sân bay Cánh Đồng Chum - một sân bay mà quân địch vừa rút chạy, để kịp thời cung cấp vũ khí, lương thực, thực phẩm cho bộ đội và nhân dân vùng giải phóng. Cuối tháng 4-1961, Liên quân Lào - Việt đập tan tuyến phòng thủ của địch trên đường số 9 dài 100km, giải phóng một địa bàn chiến lược rộng lớn ở Nam Lào, trong đó có hai thị trấn quan trọng là Mường Phin và Sê Pôn. Ngày 3-5-1961, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Ngày 17-5-1961, Trung đoàn 919 được giao nhiệm vụ mở đường bay xuống phía Nam. Đoàn đã bố trí một chiếc Li-2, cất cánh từ Gia Lâm bay thẳng về phía Nam, hạ cánh ở sân bay Sê Pôn, nằm phía Tây thị xã Quảng Trị 90 km, sát đường 9 Trung Lào. Sau chuyến bay mở đường này, đại đội Li-2 của Trung đoàn 919 đã bay tiếp hàng trăm chuyến, trong điều kiện thời tiết phức tạp và bị địch uy hiếp, đem đến cho quân và dân Lào vùng mới giải phóng vũ khí, lương thực thực phẩm... góp phần củng cố vững chắc vùng đất mới được giải phóng.


Mùa xuân 1962, Không quân vận tải - hàng không dân dụng được giao nhiệm vụ phục vụ Liên quân Lào - Việt trong chiến dịch Nậm Thà mở rộng vùng giải phóng của bạn ở Thượng Lào. So với hai chiến địch trước, nhiệm vụ lần này khẩn trương, phạm vi hoạt động rộng, yêu cầu tổ chức hiệp đồng phức tạp hơn, nhưng có thuận lợi là đã rút được kinh nghiệm và lực lượng bay đã được tăng cường với trình độ bay khá đồng đều. Do chuẩn bị tốt và có kinh nghiệm, chỉ trong một ngày, các tổ bay Li-2 và AN-2 đã hoàn thành cơ động 2 tiểu đoàn bộ binh tới Mường Sài. Nhiều máy bay khác bay đến khu vực chiến đấu, qua các vùng có địa hình hiểm trở và hỏa lực địch, thả hàng xuống Na Mo, Ta Gá, kịp thời cung cấp lương thực, súng đạn cho các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pathét Lào phát triển tiến công.
Trong suốt những năm tháng phục vụ cách mạng Lào, với tinh thần quốc tế cao cả của Liên không quân - Hàng không dân dụng (Việt Nam - Liên Xô), các lực lượng phục vụ mặt đất tại các sân bay, nhất là ở sân bay Gia Lâm đã đóng góp công lao to lớn bảo đảm cung ứng kịp thời xăng dầu, bốc dỡ hàng hóa, gấp dù... Hàng chục cán bộ, chiến sĩ đã được cử sang đất bạn, trực tiếp tổ chức điều hành các sân bay nằm trong vùng giải phóng của bạn như Sầm Nưa, Cánh Đồng Chum, Vang Viêng, Mường Sài, Sê Pôn..., trong đó Cánh Đồng Chum là căn cứ lớn nhất.


Sau khi chiến dịch kết thúc thắng lợi, Trung đoàn 919 tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyên phục vụ quân và dân nước bạn chiến đấu đánh địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng, giúp bạn xây dựng các căn cứ sân bay, một số cơ sở vật chất kỹ thuật hàng không, đào tạo giúp bạn 5 tổ bay AN-2 và một số cán bộ, nhân viên kỹ thuật không quân.


Hoạt động một thời gian dài trên chiến trường nước bạn, tham gia nhiều chiến dịch trên các địa hình khác nhau, điều kiện làm việc, sinh hoạt của cán bộ, nhân viên kỹ thuật hàng không của ta gặp rất nhiều khó khăn. Việc chỉ huy và đảm bảo mặt đất có nhiều trở ngại, phần lớn các sân bay thiếu hệ thông bảo đảm phục vụ, kể cả lực lượng bốc xếp hàng. Mỗi lần máy bay hạ cánh, các thành viên tổ bay và cán bộ, nhân viên phục vụ mặt đất đều phải tham gia bốc hàng; trường hợp máy bay không kịp cất cánh, phải thay nhau canh gác suốt đêm để bảo vệ máy bay và hàng hóa.


Tổng kết chiến dịch làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường nước bạn Lào trong 3 năm 1960, 1961, 1962, Không quân vận tải - hàng không dân dụng và Liên quân Hàng không "Liên Xô - Việt Nam" đã thực hiện 3.821 chuyến bay với 7.572 giờ, vận chuyển 9.419 lượt bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 chiếc dù hàng và gói hàng. Đã hạ cánh xuống 10 sân bay, thả dù và thả hàng ở 20 điểm khác nhau trong vùng mới giải phóng. Trong chiến công của những cánh bay giai đoạn này có sự đóng góp to lớn của các lực lượng mặt đất ở các sân bay Gia Lâm, Nà Sản, Điện Biên, Vinh... Qua chiến dịch này, các lực lượng mặt đất của hàng không Việt Nam đã trưởng thành thêm một bước.


Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Nậm Thà, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã chuyển lời khen của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đến các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam. Đồng chí nói: "Không quân vận tải của quân đội ta tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ nhưng rất mưu trí, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến trường, góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi chung cho toàn chiến dịch"1 (Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam (1955-1977) - Nxb Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội - 1993, tr.66).


Ngoài những chiến công hoạt động trên chiến trường được Đảng, Nhà nước và Quân đội đánh giá cao, trong những năm dầu thập kỷ 60, Cục hàng không dân dụng - Trung đoàn Không quẫn vận tải 919 còn hoàn thành xuất sắc một số nhiệm vụ chính trị trong những hoàn cảnh đặc biệt, góp phần tạo thế và lực thuận lợi cho cách mạng của nhân dân 3 nước Đông Dương.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #22 vào lúc: 24 Tháng Sáu, 2019, 09:41:31 pm »

Ngày 15-12-1960, Cục không quân được lệnh chuẩn bị một máy bay trực thăng Mi-4 làm nhiệm vụ đặc biệt. Đại tướng Vố Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp gặp đồng chí Hoàng Thế Thiện, Chính ủy Cục không quân hàng không dân dụng và tổ trưởng tổ bay Phạm Đình Cường, giao nhiệm vụ đón một đồng chí lãnh đạo Mặt trận yêu nước Lào ở Sen Sủn, một địa điểm cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái Lan. Tổ bay có 4 người: Phạm Đình Cường (lái chính), Hoàng Trọng Khai (lái phụ), Lương Nhật Nguyễn (dẫn đường), Lê Văn Lạo (thợ máy), và một cán bộ sân đường. Ngoài ra, trên máy bay còn có 5 cán bộ của Bộ Tổng tham mưu đi nắm tình hình mặt trận. Để giữ bí mật, chiếc trực thăng Mi-4 được xóa phù hiệu, số hiệu. Theo kế hoạch, máy bay cất cánh từ sân bay Gia Lâm và hạ cánh tại Sầm Nưa để tiếp dầu sau đó bay tiếp đến địa điểm đón khách đã được quy định theo tín hiệu từ mặt đất. Phục vụ cho chuyến bay này, một chiếc IL-14 của Trung đoàn 919 đã bay tới Sầm Nưa, đưa đến đây xăng dầu tiếp cho chiếc trực thăng.


Ngày 16-12-1960 thời tiết xấu, đến 11 giờ 30 phút, máy bay mới cất cánh từ Gia Lâm và 14 giờ 30   phút cùng ngày đến Sầm Nưa. Thời tiết vẫn rất xấu, lại không có thiết bị mặt đất hỗ trợ, nhưng vì không thể chậm trễ, nên sau khi kiểm tra và tiếp dầu, máy bay vẫn tiếp tục bay theo kế hoạch. Máy bay phải bay với độ cao trên 3000m trong điều kiện khí tượng phức tạp trên mây và trong mây. Do không có đài dẫn đường mặt đất, cự ly bay vượt ra ngoài tầm thông tin liên lạc, hướng gió trên cao thay đổi không đúng như dự đoán ban đầu, tổ bay đã không phát hiện được sai lệch trong khi bay nên máy bay đã bị lạc. Trời về chiều, nhiên liệu cạn, máy bay bắt buộc phải hạ cánh xuống một vùng đất lạ. Tổ bay đã kịp thời điện báo về Sở chỉ huy để có phương án xử lý. Sở chỉ huy không liên lạc được. Sau đó tổ bay và các cán bộ cùng đi hủy máy bay để giữ bí mật và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu tìm đường trở về đơn vị1 (Sau khi phát hiện chiếc Mi-4 bị tai nạn, tổ bay AN-2 do lái trưởng Phan Như Cẩn điều khiển đã thay thế, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên).


Sau 17 ngày gian khổ, đói ăn và thiếu thốn, lại bị kẻ địch truy lùng, một số đồng chí cán bộ của Bộ   Tổng tham mưu đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh, nhưng với lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, tổ bay trực thăng không số và các cán bộ đi làm nhiệm vụ đặc biệt, đã về trong vòng tay của đồng đội. Cả 2 tổ bay Mi-4 và AN-2 đều được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.  


Ngày 23-2-1961, Trung đoàn Không quân vận tải - hàng không dân dụng 919 nhận lệnh thực hiện gấp chuyến bay bí mật trong đêm tới Phnompênh làm nhiệm vụ đặc biệt đưa Hoàng thân Xuvana Phuma đang cư trú ở đây về Khang Khay để cùng với Hoàng thân Xuphanuvông kêu gọi thành lập Chính phủ Liên hiệp (3 phái) Lào. Sự có mặt của Hoàng thân Phuma ở đất nước và lời kêu gọi của Ông lúc bấy giờ có ảnh hưởng lớn tới thời cuộc và làm cho các lực lượng chống đối phản động thân Mỹ tan rã. Vì vậy, bằng mọi cách phải hoàn thành nhiệm vụ. Trung đoàn Không quân vận tải - hàng không dân dụng 919 đã sử dụng chiếc IL-14 mang ký hiệu của hàng không dân dụng Việt Nam với tổ bay và chiêu đãi viên Lê Kim Thu đi làm nhiệm vụ. Hôm đó trời mưa, mây mịt mù. Đài dẫn đường không có, tổ bay phải định vị theo đài phát thanh Sài Gòn và Phnompênh để xác định điểm đến. Trên đường bay lại phải luôn luôn cảnh giác với máy bay của Mỹ tuần tiễu trên trời. Sau nhiều cố gắng, đêm đó, tổ bay đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Việc Hoàng thân Phuma bất ngờ xuất hiện ở Tổ quốc và ra lời kêu gọi 3 phái Lào đoàn kết vì một nước Lào độc lập đã là một đòn chính trị gây choáng váng cho đế quốc Mỹ và bọn tay sai.


Vào tháng 5-1961, trước sự lớn mạnh và phát triển nhanh chóng của cách mạng Lào, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động buộc phải chấp nhận ngừng bắn để họp Hội nghị Giơnevơ về Lào. Thời gian rất gấp, phải thực hiện chuyến bay trong đêm nhằm kịp đưa vị Bộ trưởng Bộ ngoại giao Lào tới Bắc Kinh để gặp gỡ với đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam và các bên hữu quan trước khi tới Giơnevơ. Tổ bay của Không quân vận tải - hàng không dân dụng trong đó có chiêu đãi viên Lê Kim Thu gấp rút lên đường. Sau một đêm trường vất vả, chuyến bay đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Trong nửa đầu thập kỷ 60, không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ cách mạng Lào. Bất cứ trong hoàn cảnh khó khãn và phức tạp đến đâu, nhưng khi được Đảng và Nhà nước Việt Nam giao nhiệm vụ, được Mặt trận yêu nước Lào yêu cầu thì không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam đều có mặt và đã dũng cảm, mưu trí tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ được giao.


Phải nói thêm rằng, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào của không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam, còn có sự giúp đỡ tận tình của Hàng không Liên Xô. Các phi công, thợ máy của Hàng không Liên Xô đã đồng cam cộng khổ với các tổ bay Việt Nam để vận chuyển, tiếp tế kịp thời cho bạn.


Năm 1964, ở miền Nam, "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai đã gặp nhiều khó khăn và liên tiếp chịu thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị lẫn ngoại giao. Chiến lược "nhanh chóng bình định hóa miền Nam” của chúng bị phá sản. Kế hoạch Xtalây - Taylo bị thất bại thảm hại. Để tỏ rõ bản chất ngoan cố và hiếu chiến của mình, đế quốc Mỹ đã cam kết sẽ tăng số quân Mỹ lên đến 2 vạn tên, cố vực dậy nửa triệu quân ngụy đã bị quân và dân miền Nam đánh bại.


Ở miền Bắc, với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, quân và dân ta đã làm thất bại nặng nề âm mưu phá hoại bằng gián điệp, biệt kích của Mỹ - ngụy tung ra miền Bắc. Trong thành tích đó có sự đóng góp đặc biệt xuất sắc của lực lượng không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam mà chiến công đầu là vào đêm 14 rạng sáng ngày 15-2-1964, phi công Nguyễn Văn Ba1 (Được Đảng và Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 1995)) và Lê Tiến Phước thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 919 đã dùng máy bay T-282 (Máy bay Mỹ sản xuất do một hàng binh bay sang hàng Việt Nam) bắn rơi máy bay C-123 của Mỹ - ngụy khi bay ra miền Bắc thả biệt kích. Chiến công của tổ bay Nguyễn Văn Ba, Lê Tiến Phước bắn rơi máy bay địch đã mở đầu thắng lợi trên mặt trận KHÔNG ĐỐI KHÔNG của không quân nhân dân Việt Nam. Để cứu vãn tình thế, tháng 3-1964, đế quốc Mỹ cho ra kế hoạch mới: Kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng 2 năm (1964 - 1965) và tăng cường hoạt động chống phá miền Bắc để chuẩn bị cho những phiêu lưu quân sự mới. Đế quốc Mỹ ráo riết dùng không quân đánh phá vào tuyến hành lang vận chuyển chi viện miền Nam ở biên giới Việt - Lào và đưa các tàu khu trục vào Vịnh Bắc Bộ thực hiện kế hoạch "DESOTO" để khống chế và đánh phá vùng biển, bờ biển miền Bắc.


Trước tình hình đó, trong hai ngày 27 và 28-3-1964, Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập đã diễn ra tại Hà Nội nhằm tăng cường hơn nữa khối đoàn kết nhất trí trong toàn dân trước âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Tại Hội nghị, để tỏ rõ thái độ của nhân dân ta trước âm mưu xâm phạm miền Bắc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, Hồ Chủ tịch đã tuyên bố: "Nếu chúng động đến miền Bắc thì chúng nhất định sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh bại chúng. Vì nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết lòng ủng hộ chúng ta, vì nhân dân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cúng sẽ phản đối chúng". Hồ Chủ tịch kêu gọi quân và dân miền Bắc phải nêu cao chí khí phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, củng cố quốc phòng, luôn luôn cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi hành động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ. Đồng thời, Hồ Chủ tịch kêu gọi: "Mỗi người phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt".


Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã cổ vũ quân và dân hai miền đất nước. Khắp mọi nơi, người người phấn khởi, tin tưởng, nỗ lực vươn lên đưa sự nghiệp cách mạng cả nước tiến lên những bước mới.


Một cao trào thi đua mới được dấy lên mạnh mẽ trong khắp các ngành, các địa phương, biểu thị ý chí sắt đá, đoàn kết nhất trí, quyết tâm bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc, sát cánh cùng quân và dân miền Nam đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Hòa cùng khí thế thi đua của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, cán bộ chiến sĩ ngành hàng không Việt Nam nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ bay chở khách, bay chuyên cơ và các nhiệm vụ bay khác, đồng thời nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng ra sức huấn luyện nâng cao sức chiến đấu và luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.


Ngày 1-6-1964, các lực lượng vũ trang miền Bắc đã nhận được lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu. Cán bộ chiến sĩ không quân - hàng không dân dụng thường trực trên các sân bay, chuyển các chế độ huấn luyện, làm việc sang chế độ thời chiến... Tại các sân bay, các tổ bay và lực lượng đảm bảo mặt đất luân phiên trực chiến ngày đêm. Ngày 2 và ngày 4-8-1964, đế quốc Mỹ dựng lên "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ", lấy cớ tiến công miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ đã ném bom tàn phá cơ sở kinh tế và giết hại nhân dân ta ở sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh) mở đầu cho cuộc chiến tranh đẫm máu chồng chất tội ác với nhân dân miền Bắc. Trong tình hình cả nước có chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ không quân vận tải - hàng không, dân dụng vừa làm nhiệm vụ quân sự, vừa làm nhiệm vụ bay dân dụng. Trung đoàn Không quân vận tải 919, ngoài nhiệm vụ bay dân dụng, đã thực hiện nhiều chuyến bay cơ động lực lượng, đưa các đoàn cán bộ đi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị, vận chuyển vũ khí, khí tài phục vụ các đơn vị trong Quân chủng Phòng không - Không quân và nhiệm vụ bay đột xuất theo yêu cầu của công tác sẵn sàng chiến đấu.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #23 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:25:41 pm »

V. HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1965 - 1975)


Cùng với việc liều lĩnh đưa quân Mỹ vào miền Nam tiến hành "chiến tranh cục bộ" bằng chính lực lượng viễn chinh Mỹ và chư hầu hòng cứu nguy cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ đồng thời tiến hành mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, nhằm ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam, "đẩy lùi Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá".


Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 11, khẳng định: "Từ tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình, đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam". Trong tình hình đó, nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc là: "Tiếp tục xây dựng miền Bắc kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch... ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào”.


Dưới ánh sáng Nghị quyết của Trung ương Đảng, các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Bắc ngày đêm lao động sản xuất và chiến đấu với khẩu hiệu: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "Tất cả cho Độc lập, Tự do và Thống nhất Tổ quốc".


1. Hàng không dân dụng trong nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và góp phần đánh bại "chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1965 - 1968)

Cũng như các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, ngành hàng không dân dụng bước vào thực hiện các nhiệm vụ trong thời kỳ này gặp rất nhiều khó khăn do chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ gây ra. Đây là một loại hình chiến tranh chưa từng có và tự nó đặt ra cho quân và dân ta ở miền Bắc những thử thách rất quyết liệt, đa dạng.


Kẻ địch đánh phá ngày đêm, căng thẳng và ác liệt. Cuộc chiến tranh này diễn ra rất phức tạp; lúc tập trung đánh phá cấp tập, lúc lại đột ngột ngừng bắn, rồi sau đó lại tiếp tục với quy mô lớn hơn, tàn khốc hơn, kéo dài hơn... Tính chất tàn bạo, ác liệt của cuộc chiến tranh này luôn luôn thể hiện rõ, dù là ngay cả lúc bọn chúng phải ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào (tháng 4-1968), hay khi chúng buộc phải chấm dứt không điều kiện ném bom bắn phá miền Bắc (tháng 11-1968). Các mục tiêu mang tính chất chiến lược quan trọng trên miền Bắc về kinh tế, chính trị, quốc phòng đã trở thành mục tiêu oanh tạc thường xuyên, chủ yếu của chúng, đặc biệt là hệ thống sân bay và phương tiện máy bay.


Trách nhiệm tổ chức quản lý và hoạt động của ngành hàng không dân dụng thời kỳ này đặt trên vai Cục hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Phủ Thủ tướng. Nhưng trên thực tế, Cục hàng không dân dụng vẫn nằm trong Bộ Quốc phòng, chịu sự chỉ huy trực tiếp của Quân chủng Phòng không - Không quân. Thượng tá Nguyễn Văn Tiên, Tư lệnh Không quân kiêm giữ chức Cục trưởng Cục hàng không dân dụng Việt Nam. Trong việc chỉ đạo công tác hàng không dân dụng, đồng chí tập trung vào những chủ trương lớn như: tổ chức ký kết các Hiệp định về hàng không dân dụng, đàm phán với nước ngoài, vấn đề sử dụng lực lượng, phương tiện hàng không dân dụng phục vụ cho chiến đấu, cơ động lực lượng, đảm bảo chuyên cơ... còn việc quản lý hàng ngày về hàng không dân dụng do đồng chí Cục phó Cục hàng không dân dụng Nguyễn Văn Giáo chịu trách nhiệm.


Về tổ chức, Cục hàng không dân dụng Việt Nam thời kỳ này đã có sự thay đổi một bước quan trọng là việc hình thành các bộ phận: phòng đối ngoại, phòng vận chuyển, phòng tài chính - thanh toán quốc tế, ban hành chính quản trị, phòng thương vụ, bộ phận quản lý bay, phòng kế hoạch, mặc dù biên chế của Cục chỉ có 36 người. Khi chiến tranh phá hoại ác liệt, một số cán bộ điều phái có trình độ chuyên môn giỏi ở sân bay Gia Lâm được điều động đi lập Sở chỉ huy Không quân phối hợp với bộ đội radar, Hải quân, Phòng không ở bờ biển Khu IV để đánh tàu biệt kích Mỹ. Khối cơ quan của Cục hàng không dân dụng có lúc chỉ còn lại 19 người đảm đương toàn bộ công việc và duy trì hoạt động về hàng không dân dụng. Còn đại bộ phận lực lượng, phương tiện và hạ tầng cơ sở được sử dụng chung với Không quân như: hệ thống sân bay ở miền Bắc lúc đó chủ yếu dùng cho hoạt động quân sự, kể cả sân bay quốc tế Gia Lâm. Lực lượng và phương tiện hoạt động về hàng không dân dụng cũng là lực lượng và phương tiện hoạt động của Không quân. Ở các sân bay có hoạt động thường xuyên như Gia Lâm, Nà Sản, Điện Biên, Vinh, Đồng Hới vẫn có một số cán bộ của hàng không dân dụng (ở các sân bay nhỏ thường chỉ có 3 người) do một sĩ quan phụ trách với nhiệm vụ là bán vé, chỉ huy điều hành bay, cân hành lý, hàng hóa, đón khách đi, đưa khách về, đại diện thương vụ. Cũng có khi khách ít và thất thường, các chiêu đãi viên đi cùng máy bay đến các sân bay nhỏ kiêm cả việc bán vé cho hành khách.


Các máy bay mang ký hiệu của Hàng không dân dụng Việt Nam do Trung đoàn Không quân vận tải 919 trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng Không quân quản lý và điều hành, thực hiện cả nhiệm vụ dân dụng và quân sự.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #24 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:28:55 pm »

Để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã trang bị thêm cho Không quân và hàng không dân dụng một số máy bay hiện đại của Liên Xô như trực thăng Mi-61 (Lớp đi học bay trực thăng Mi-6 đầu tiên ở Liên Xô do đồng chí Lê Đình Kỳ phụ trách. Đây là loại trực thăng hạng nặng, bay được xa, có thể mang trong bụng hoặc cẩu bên ngoài hàng chục tấn hàng), AN-24, IL-18... Để làm chủ các phương tiện mới, Không quân và hàng không dân dụng đã lần lượt cử các đoàn cán bộ đi Liên Xô học bay và kỹ thuật. Đây là một bước phát triển quan trọng về kỹ thuật của ngành.
Trung đoàn Không quân vận tải 919, Trung đoàn trưởng Khúc Đình Bính, Chính ủy Hồ Văn Luật cùng với phi công, thợ máy, cán bộ cơ quan toàn Trung đoàn tập trung hoàn thành hai chức năng quân sự và dân dụng. Trong hoàn cảnh chiến tranh, nhiều khi các tổ lái vừa bay nhiệm vụ quân sự về còn vương mùi thuốc súng của trận chiến đấu, ngay lập tức các anh đã lên đường làm nhiệm vụ của hàng không dân dụng. Cũng có khi, các tổ lái đi bay làm nhiệm vụ của hàng không dân dụng về, chưa kịp nghỉ ngơi, đã cùng đồng đội ngồi vào buồng lái, lao lên bầu trời làm nhiệm vụ quân sự.


Trong thời kỳ 1965 - 1968, lực lượng và phương tiện của Trung đoàn Không quân vận tải 919 không ngừng tăng lên. Về máy bay, đã được trang bị thêm những loại máy bay vận tải quân sự và chở khách, sức chở lớn và hiện đại hơn (năm 1965 được trang bị máy bay trực thăng Mi-6. Năm 1966, được trang bị máy bay AN-24, IL-18, Mi-6). Về số lượng, qua huấn luyện, bồi dưỡng, Trung đoàn đâ tăng lên được 61 tổ bay các loại gồm: IL-14, Li-2, AN-2, Mi-4, IL-18, Mi-6 và AN-24. Từ chỗ lực lượng bay của Trung đoàn mới phân ra các trung đội bay, nay đã tổ chức thành 6 tiểu đoàn:

- Tiểu đoàn 1: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay IL-14.

- Tiểu đoàn 2: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay Li-2.

- Tiểu đoàn 3: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay AN-2.

- Tiểu đoàn 4: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay Mi-4.

- Tiểu đoàn 5: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay Mi-6.

- Tiểu đoàn 6: gồm các tổ bay, thợ máy và máy bay AN-24 và IL-18.


Mỗi tiểu đoàn tổ chức thành hai đội bay và một đội thợ máy mặt đất. Ngoài ra, Trung đoàn còn có một đội gồm các tổ lái IL-18, AN-24 làm nhiệm vụ chuyên cơ và kết hợp làm các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Thời kỳ từ tháng 2-1965 đến 23-12-1965, địch mở chiến dịch "sấm rền", tập trung đánh phá mạnh các tỉnh Khu IV, trong đó có các sân bay (ngày 30-3-1965, đánh sân bay Đồng Hới - Quảng Bình; 8-5, đánh phá sân bay Vinh - Nghệ An). Đường hàng không dân dụng Hà Nội - Vinh - Đồng Hới và ngược lại có lúc phải tạm thời đóng cửa.


Ngày 2-7-1965, địch cho 16 lần chiếc cường kích ném 34 tấn bom phá hoại sân bay Điện Biên Phủ, vì vậy, tuyến bay chở khách Hà Nội - Nà Sản - Điện Biên Phủ cũng tạm thời đóng cửa.

Các máy bay của hàng không dân dụng do Trung đoàn Không quân vận tải 919 quản lý trong thời gian này, ngoài việc thực hiện các chuyến bay chuyên cơ, các chuyến bay đột xuất phục vụ các yêu cầu chính trị... đã được huy động vào việc chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


Nhiệm vụ bay chuyên cơ trong thời gian này gần như là hoạt động chủ yếu, là nhiệm vụ thường trực của Trung đoàn 919. Trung đoàn đã thực hiện hơn 200 chuyến chuyên cơ an toàn, phần lớn các chuyến bay thường cất, hạ cánh vào ban đêm, trong đó có nhiều chuyến đi nước ngoài (Trung Quốc, Lào...). Đặc biệt, Trung đoàn đã thực hiện nhiều chuyến chuyên cơ đưa các vị lãnh đạo cao cấp của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và của Đảng, Chính phủ, quân đội đi vào Khu IV, nơi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đang diễn ra ác liệt nhất, để bảo đảm thời gian và sức khỏe. Từ đó, các đồng chí đi tiếp vào chiến trường miền Nam bằng đường mòn Hồ Chí Minh. 


Tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế với các nước bạn Lào và Campuchia, Trung đoàn đã hoàn thành tốt các chuyến bay chuyên cơ, chở các nhà lánh đạo Lào, Campuchia khi có yêu cầu.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #25 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:30:12 pm »

Với quyết tâm "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", Bộ Tư lệnh Không quân và Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ đạo Không quân vận tải - hàng không dân dụng nghiên cứu cải tiến trang bị và cách đánh, cải tiến máy bay vận tải hiện có để làm hai chức năng: vừa vận tải vừa trực tiếp chiến đấu.
Quán triệt chỉ thị của cấp trên, Trung đoàn 919 đã triển khai công tác chuẩn bị các điều kiện bảo đảm vật chất kỹ thuật và chỉ huy, cải tiến máy bay và tổ chức huấn luyện... Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, tiêu biểu là các đồng chí Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thọ Sanh, Huỳnh Ngọc Ân... ngày đêm miệt mài nghiên cứu cải tiến những chiếc máy bay AN-2 "lắm càng nhiều cánh", vốn là loại máy bay khi chế tạo người ta chỉ dùng vào công việc vận chuyên, phục vụ nông nghiệp và săn cá voi thành máy bay vũ trang để đánh giặc.


Trung đoàn đã thành lập một phân đội đi vào huấn luyện đánh phá những mục tiêu của địch ở mặt đất, mặt nước để nhằm tham gia chiến đấu vào những thời điểm, mục tiêu cần thiết theo lệnh của Quân chủng. Phân đội được trang bị loại máy bay do đơn vị tự đặt là kiểu T-12, vốn là máy bay AN-2 đã được lắp thêm súng cối 120 ly và 2 thùng đạn rốc két, đồng chí Phan Như Cẩn, một phi công đã được thử thách, rèn luyện qua nhiều chuyến bay ở chiến trường Lào, đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ đặc biệt, được giao phụ trách phân đội này. Nhiệm vụ mới hết sức phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt vấn đề về tổ chức, chỉ huy, nghiên cứu tình hình địch, bảo đảm radar hiệp đồng với các đơn vị bạn... Khó khăn nhất vẫn là tổ chức huấn luyện bay trên biển, một khoa mục mới nhưng đơn vị lại chưa có giáo viên. Sau một thời gian khẩn trương huấn luyện và hợp đồng chiến đấu, vào 23 giờ 7 phút ngày 7-3-1966, được tin tàu địch hoạt động ở vùng biển Sầm Sơn (Thanh Hóa), Sở Chỉ huy lệnh cho hai chiếc AN-2 số hiệu 670 và 671 xuất kích. Đại đội trưởng Phan Như Cẩn và Đào Hữu Ngoan là lái chính của hai tổ bay. Sau khi rời khỏi sân bay Gia Lâm, được Sở chỉ huy Không quân và radar Hải quân dẫn đường, hai máy bay nối đuôi nhau, bay ở độ cao 100m trên mặt biển. Trời sáng trăng, mặt biển sáng trắng giúp cho các tổ bay nhìn rõ hai tàu biệt kích đang tăng tốc độ chạy vào hướng đất liền... chúng hoàn toàn bị bất ngờ khi máy bay ta xuất hiện. Được máy bay 671 yểm hộ, tổ bay Phan Như Cẩn nhanh chóng chọn góc công kích có lợi, bổ nhào, phóng rốc két. Đến lần công kích thứ 2, tàu địch trúng đạn bốc cháy.


Trong ánh lửa soi sáng một vùng biển, tổ bay T-12 thấy rõ chiếc tàu biệt kích địch chìm dần. Chiếc thứ hai hốt hoảng bỏ chạy sau khi bắn vu vơ một vài loạt đạn lúc hai máy bay của ta đã vào tới gần bờ.


Chiến công của phân đội Phan Như Cẩn là chiến công mở đầu thắng lợi trên mặt trận KHÔNG ĐỐI BIỂN trong lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam. Trung đoàn rút kinh nghiệm và tiếp tục chuẩn bị kỹ để trận sau chiến đấu đạt hiệu suất cao hơn.


Nối tiếp chiến công, vào lúc 22 giờ 15 phút ngày 13-6-1966, biên đội Phan Như Cẩn và Hoàng Chúc lại lập tiếp chiến công bắn cháy một tàu biệt kích của Mỹ - ngụy trên vùng biển Thanh Hóa.

Những trận thắng tiêu diệt tàu biệt kích địch của phân đội T-12 không những có ý nghĩa về mặt tiêu diệt địch, góp phần hạn chế những hoạt động phá hoại của tàu biệt kích mà còn có một ý nghĩa quan trọng khác: Từ đây, Trung đoàn 919 đã có những cơ sở cần thiết về lý thuyết và thực tiễn để chuyển toàn đơn vị sang làm hai nhiệm vụ: vận chuyển đường không và trực tiếp chiến đấu tiêu diệt địch, góp phần cùng quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.


Trước sự leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc ngày càng khốc liệt của không quân và hải quân Mỹ, ngày 17-7-1966, tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Bác Hồ đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại này của chúng: "...Giặc Mỹ có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợi Không có gì quý hơn dộc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Lời tuyên bố bất hủ đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nguồn động viên lớn lao cho toàn Đảng, toàn dân tộc ta. Lúc này, nhiệm vụ chủ yếu của Không quân và hàng không dân dụng là chuẩn bị chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


Vào lễ Nôen năm 1966, tận dụng thời cơ lúc Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, Bộ Tổng tham mưu đã giao cho không quân vận tải - hàng không dân dụng nhiệm vụ vận chuyên gấp vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ. Sân bay Điện Biên Phủ đã bị ném bom, đường băng chỉ còn khoảng 400m, máy bay không thể hạ cánh được. Vì vậy, Trung đoàn quyết định dùng máy bay IL-14, Li-2, AN-2 thả dù hàng. Liên tục ba ngày, ba đêm, tất cả các tổ bay được phân công nhiệm vụ cùng các lực lượng phục vụ bảo đảm mặt đất của không quân vận tải - hàng không dân dụng đã tập trung làm nhiệm vụ với cường độ cao, thả hàng trăm tấn hàng xuống khu vực sân bay Điện Biên Phủ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Không vận tải - hàng không dân dụng 919 nghiên cứu cải tiến hàng loạt máy bay cánh quạt hiện có để tham gia đánh địch. Những chiếc máy bay IL-141 (Được gọi là "T-14 tiến công") trước đây vẫn thường xuất hiện trên đường bay Gia Lâm - Nà Sản - Điện Biên Phủ hoặc Gia Lâm - Đồng Hới phục vụ cho cán bộ, bộ đội và nhân dân, nay được thiết kế, cải tiến lắp thêm giá treo bom và giàn phóng cối. Những chiếc AN-2 đã được lắp rốc két, pháo sáng đi đánh tàu biệt kích cũng được cải tiến. Trước kia, giàn rôckét chỉ phóng được một loạt, nay có thể phóng được từng loạt 4 hoặc 8 quả đạn. Giá treo bom được cải tiến lắp thêm để mang được nhiều hơn. Ngoài ra, còn khoét một lỗ ở bụng máy bay đế lắp thêm một dàn cối 120 ly. Máy bay trực thăng Mi-4 cũng được lắp thêm súng máy.


Bộ Tổng tư lệnh đã có quyết định táo bạo giao cho Trung đoàn Không quân vận tải 919 tiêu diệt căn cứ radar Pathí của Mỹ. Đỉnh núi Pathí cao 1688m nằm trên đất Lào, chỉ cách Thủ đô Hà Nội hơn 200km (đường chim bay). Radar đặt trên một đỉnh núi cao như vậy có thể kiểm soát cả vùng trời miền Bắc Việt Nam, đồng thời hướng dẫn cho máy bay bay vào đánh phá miền Bắc Việt Nam, tổ chức cứu giặc lái khi bị quân và dân Việt Nam bắn rơi. Trạm radar Pathí là một căn cứ nguy hiểm, quân giải phóng Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã tổ chức đánh nhiều lần, song do địa hình hiểm trở, dốc cao dựng đứng, bộ binh không thể triển khai lực lượng tiếp cận được nên nhiệm vụ chưa hoàn thành. Trung đoàn Không quân vận tải 919 sau khi nhận nhiệm vụ đã nghiên cứu lập phương án tiêu diệt trạm radar Pathí. Đúng 11 giờ 43 phút ngày 12-1-1968, biên đội T-12 do Tiểu đoàn trưởng Phan Như Cẩn chỉ huy được lệnh xuất kích. Bốn chiếc AN-2 nối đuôi nhau bay thấp, luồn lách qua các ngọn núi, tiến thẳng về Pathí. Căn cứ địch đã hiển hiện trước vòng ngắm. Bất ngờ, cả biên đội thay nhau vào còng kích. Những quả rốckét, những quả đạn cối vùn vụt lao xuống, rồi ít giây sau, những đụn khói màu xám hồng nở bung, sau đó khói đen bốc nhanh, lửa trùm lên những dàn ăngten, các công trình căn cứ Pathí. Trận đánh đã thực hiện đúng như kế hoạch đề ra. Toàn bộ hệ thống radar, đài chỉ huy, phương tiên kỹ thuật, nhà kho, nhà ở và hai máy bay lên thẳng bị phá hủy. Biên đội được lệnh rút về căn cứ. Trên đường về, do phải bay thấp, luồn lách trong địa hình rừng núi hiểm trở, lại không có phương tiện dẫn đường, hai máy bay bị tai nạn, hai phi công và bốn nhân viên của hai tổ bay hy sinh, trong đó có tiểu đoàn trưởng Phan Như Cẩn.


Các anh đã vĩnh viễn không trở về, nhưng chiến công đầu tiên trên mặt trận KHÔNG ĐỐI ĐẤT của các anh mãi mãi là mốc son chói lọi trong lịch sử chiến đấu của Không quân nhân dân Việt Nam. Liệt sĩ Phan Như Cẩn - một phi đội trưởng chỉ huy tài giỏi, một phi công tài năng và quả cảm, có nhiều kinh nghiệm sử dụng máy bay AN-2 trong chiến đấu và phục vụ các nhiệm vụ kinh tế, sau đó đã được Quốc hội, Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #26 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:32:19 pm »

Từ giữa năm 1968, Hàng không dân dụng Việt Nam - Không quân vận tải 919 đã thực hiện nhiều chuyên bay chuyên cơ đưa phái đoàn ta đi đàm phán tại Hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Pari.


Trong bối cảnh không quân Mỹ, với ưu thế đặc biệt về kỹ thuật hầu như kiểm soát mọi hoạt động trên bầu trời miền Bắc và sẵn sàng công kích từ bất cứ phía nào, thời gian nào, mỗi chuyến bay dân dụng của Trung đoàn 919 thực sự là một lần lao vào cuộc chiến đấu với bao gian lao, và cả sự hy sinh có thể bất ngờ ập đến do bị địch bắn, hoặc do kỹ thuật máy móc, do thời tiết khắc nghiệt... Những cán bộ, nhân viên hàng không dân dụng thực hiện nhiệm vụ ở các sân bay, phục vụ những chuyến bay dân dụng quốc tế và trong nước thực sự là những chiến sĩ vừa sản xuất vừa chiến đấu. Bất cứ chuyến bay dân dạng nào cũng được tổ chức chỉ huy và bảo đảm như một trận chiến đấu. Lãnh đạo khồng quân - hàng không dân dụng đã đề ra những chủ trương, biện pháp sát hợp với tình hình và vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân trong việc thực hiện các chuyến bay, với phương châm tranh thủ mọi thời cơ, nắm vững quy luật hoạt động của máy bay địch để quyết định giờ cất, hạ cánh. Trên đường bay, các tổ lái đã lợi dụng thời tiết, địa hình để phòng tránh máy bay địch, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay.


Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên toàn chiến trường miền Nam. Trên mặt trận Trị Thiên - Huế, nhu cầu chi viện vật chất, nhất là vũ khí, đạn dược bảo đảm cho cuộc phòng thủ thành phố Huế sau khi ta chiếm được ngày một lớn và cấp bách. Bộ Quốc phòng quyết định đưa Không quân vận tải vào chiến đấu, lực lượng và phương tiện sẽ là máy bay IL-14. Được cùng với quân dân miền Nam tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là niềm phấn khởi, tự hào cùa cán bộ, chiến sĩ toàn Trung đoàn.


Đây là nhiệm vụ mới, đầy khó khăn, phức tạp. Chiến đấu trong điều kiện xa căn cứ, các công tác bảo đảm kỹ thuật, chỉ huy, dẫn đường đều phức tạp hơn. Các tổ lái chưa quen địa hình, thiếu kinh nghiệm đối phó với không quân và hỏa lực phòng không mặt đất của địch. Yêu cầu chiến thuật trong chiến dịch đó là máy bay sẽ cất cánh ban đêm từ sân bay Gia Lâm (đường bay dài gần 1000km), bay thấp để che mắt radar địch, tạo thế bất ngờ. Để khắc phục tình trạng máy bay IL-14 của ta không có thiết bị radar dẫn đường, không có các máy móc phát hiện mục tiêu trong điều kiện thời tiết phức tạp ban đêm, đường bay dài, Trung đoàn phó Phan Huyên cùng 60 cán bộ, chiến sĩ nhận nhiệm vụ vào Quảng Bình lập sở chỉ huy tiền phương Không quân phối thuộc với Bộ Chỉ huy mặt trận. Sau đó, hai tổ tham mưu liên lạc trang bị gọn nhẹ do Lê Quỳ và Hồ Bạch Đào chỉ huy được lệnh đi sâu vào phía trong áp sát mặt trận, để đặt đài liên lạc có nhiệm vụ liên lạc và thông báo mục tiêu cho máy bay.


Chiều tối ngày 7-2 (tức mồng 7 tết), 6 tổ bay IL-14 nối đuôi nhau xuất kích từ sân bay Gia Lâm. Bốn chiếc IL-14 cải tiến, được gọi là loại T-14, mang cối và bom, có nhiệm vụ tấn công địch ở cứ điểm Mang Cá, còn hai tổ bay sau mang đạn dược, thuốc men thả dù chi viện cho bộ đội. Đường bay chỉ định là phải men theo dãy Trường Sơn: Gia Lâm - Sê Pôn (Lào) - Phương Tích - Huế và trở về Gia Lâm. Thời tiết xấu, mưa phùn, mây mù, đêm tối mịt mùng hầu như bằng mắt thường không nhìn thấy gì. Chỉ còn căn cứ vào những tham số được tính toán trước mà điều khiển, giữ vững tốc độ, độ cao, hướng bay quy định rồi theo thời gian bay tính ra các điểm kiểm tra và mục tiêu. Vào tới khu vực chiến sự, phi đội không bắt được liên lạc với Sở chỉ huy. Các đống lửa và hai đài chỉ thị mục tiêu được phái đi trước cũng không thấy. Bốn tổ bay có nhiệm vụ oanh tạc không nhìn thấy mục tiêu phải bay về. Hai tổ bay của Phạm Thanh Ba và Nguyễn Văn Bang phải xin phép hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Gia Lâm với đầy đủ cơ số vũ khí. Tổ bay của Hoàng Liên bay chệch ra biển, bị tàu địch phát hiện, bắn trúng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Sao Vàng. Tổ bay của Phạm Kế, và các đồng chí Mẫn, Châu, Tế, Minh đã hy sinh.


Trong số các tổ bay làm nhiệm vụ thả dù trở về hạ cánh an toàn chỉ có tổ bay 514 của Hoàng Ngọc Trung là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Với tay lái chính xác, lại được hoa tiêu Nguyễn Văn Kính có kinh nghiệm dẫn đường hỗ trợ, Hoàng Ngọc Trung đã tiền nhập đúng địa điểm quy định, thả 15 dù với 1,4 tấn hàng xuống khu vực hoạt động của bộ đội ta.


Mấy đêm tiếp theo, thời tiết vẫn rất xấu (nhiều mây thấp, mưa phùn), các biện pháp bảo đảm, dẫn đường, chỉ thị mục tiêu chưa được khắc phục, nhưng trước yêu cầu cấp bách của mặt trận, các tổ bay IL-14 của Trung đoàn 919 vẫn xin tiếp tục làm nhiệm vụ. Nhưng các tổ bay vẫn không vượt qua được điều kiện thời tiết và hỏa lực phòng không của địch để hoàn thành nhiệm vụ. Hai tổ bay do Nguyễn Văn Bang và Phạm Thanh Ba lái chính hy sinh, một tổ bay do Hoàng Liên lái chính phải hạ cánh bắt buộc. Trung đoàn Không quân vận tải - hàng không dân dụng 919 đã tham gia chiến dịch Mậu Thân năm 1968 với một khí phách rất anh hùng, với khẩu hiệu "Tất cả vì miền Nam ruột thịt", mặc dù bay chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn: thời tiết quá xấu, hỏa lực phòng không của địch mạnh, máy bay cánh quạt tốc độ chậm, không có máy bay tiêm kích yểm hộ..., có một số tổ bay đã bay đi và vĩnh viễn không trở về, nhưng không một ai nao núng. Tên tuổi của những phi công như Nguyễn Văn Bang, Phạm Thanh Ba, Phan Như Cẩn, Võ Minh Chung, Phạm Kế..., những lái trưởng quả cảm, mưu trí trong chiến đấu và công tác, vẫn được lưu giữ mãi mãi trong những trang sử hào hùng của ngành không quân vận tải - hàng không dân dụng Việt Nam.


Qua chiến dịch sử dụng không quản vận tải - hàng không dân dụng để chi viện chiến trường Trị Thiên - Huế cho thấy: Việc sử dụng máy bay vận tải làm nhiệm vụ chi viện chiến trường Trị Thiên - Huế trong thời điểm đó là chủ trương đúng đắn, sáng tạo và táo bạo. Cấp trên đã đánh giá trình độ các tổ bay củng như khả năng phương tiện của Trung đoàn 919 hoàn toàn có khả năng thực hiện được, với điều kiện khâu tổ chức chỉ huy bố trí phương tiện dẫn đường dọc tuyến bay cũng như dự báo chính xác tình hình khí tượng tại chỗ. Việc tổn thất lực lượng liên tiếp, mà không tổ chức rút kinh nghiêm kịp thời để tổ chức trận đánh tốt hơn là nguyên nhân chính. Đây là bài học thiết thực đối với không quân, nhất là không quân vận tải và hàng không dân dụng trong khi làm nhiệm vụ chi viện chiến trường xa và đánh phá những mục tiêu mặt đất, mặt nước trong vùng địch.


Mặc dù thắng lợi không đạt được như mong muốn1 (Do thời tiết quá xấu, thiếu phương tiện dẫn đường, nên có một số tổ bay ném bom xuống mục tiêu không chính xác, hoặc đã mang bom vào đến chiến trường, nhưng không xác định được mục tiêu, phải mang bom quay trở về sân bay), nhưng bằng hành động dũng cảm chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên, cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn 919, nhất là các tổ lái đã thể hiện ý chí quyết tâm cao và tình cảm luôn luôn hướng về miền Nam ruột thịt: Khi tiền tuyến cần, khó khăn mấy cũng cất cánh.


Trong chiến công đánh địch của các chiến sĩ lái máy bay của Trung đoàn Không quân vận tải 919 trong giai đoạn 1965 - 1969, có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, nhân viên kỹ thuật C17. Chính các anh đã thực hiện các sáng kiến cải tiến kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu của nhiệm vụ bay, trong đó nổi bật lên là những sáng kiến làm giá phóng cối, giá treo bom trên các máy bay AN-2, IL-14. Với những thành tích ấy, cán bộ chiến sĩ C17 đã được nhận nhiều phần thưởng thi đua của cấp trên.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #27 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:33:05 pm »

Trong suốt thời gian chiến tranh phá hoại, ở sân bay Gia Lâm cũng như sân bay Kép (sân bay dự bị theo Hiệp định vận chuyển hàng không giữa ta và Trung Quốc) công việc chỉ huy hạ, cất cánh các máy bay của hàng không dân dụng Việt Nam cũng như của các máy bay quốc tế đến Hà Nội (chủ yếu là máy bay Trung Quốc); việc đón và tiễn các khách đi máy bay hàng không dân dụng vẫn được các chiến sĩ sân bay và nhân viên của Cục hàng không dân dụng duy trì tốt, mặc dù các công việc này hầu như diễn ra vào ban đêm và không theo một lịch trình nào. Đặc biệt là đầu tháng 2-1965 đã tổ chức tốt việc đón Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Liên Xô do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Côxaghin dẫn dầu. Do ít người nên mỗi nhân viên hàng không Việt Nam luôn phải cáng đáng nhiều việc. Từ giữa năm 1966, địch đánh trực tiếp xuống Hà Nội, bắn cháy kho xăng Đức Giang. Chúng ngang nhiên thả bom bi xuống sân bay quốc tế Gia Lâm. Các cán bộ, nhân viên hàng không dân dụng Việt Nam vẫn bám trụ, sát cánh cùng các lực lượng bảo vệ sân bay vững vàng trong tư thế chiến đấu. Thực hiện phương châm tích cực phòng tránh ở các sân bay, có biện pháp đối phó hiệu quả nhất khi địch đánh vào sân bay, hạn chế tổn thẩt ở mức thấp nhất, cán bộ, công nhân viên hàng không dân dụng đã tích cực tham gia vào công việc xây dựng hầm hố kiên cố cho Sở chỉ huy, phi công, thợ máy trực ban chiến đấu, đắp ụ đất che chắn máy bay, xe, máy... Để bảo đảm an toàn cho hành khách đi máy bay ở sân bay Gia Lâm, nhất là nguyên thủ quốc gia các nước, khách chuyên cơ, ở khu vực nhà chờ của sân bay đã xây hầm phòng không kiên cố dành riêng cho khách đặc biệt và nhiều hầm trú ẩn.


Do địch đánh phá ác liệt, từ tháng 10-1967, sân bay Gia Lâm phải triệt để sơ tán, tổ chức trực ban ngoài sân bay. Việc bảo dưỡng định kỳ máy bay đều phải thực hiện theo kiểu dã ngoại, nhất là đối với các máy bay trực thăng Mi-4 và Mi-6. Bằng các xe công trình, cán bộ, chiến sĩ C17 đã cơ động, bám sát, kịp thời phục vụ các máy bay ở nơi sơ tán. Do vậy, mặc dù trong thời chiến, các nội dung bảo dưỡng định kỳ chủ yếu vẫn được thực hiện đầy đủ.


Những đóng góp nổi bật của cán bộ, chiến sĩ phục vụ mặt đất sân bay Gia Lâm đã được cuốn "Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam" ghi nhận: "Sau nhiều lần mò mẫm, rút kinh nghiệm, cách bố trí lực lượng trực ban bảo đảm bay hình thành nhiều tuyến. Phục vụ trực tiếp nhiệm vụ bay là tuyến một, cách sân bay trong khoảng 6km trở lại. Tuyến hai là dự bị, cách từ 5 đến 10km. Tuyến ba là hậu phương, cách xa 10km. Trên từng tuyến bố trí số nhân viên phục vụ tối thiểu và các phương tiện cần thiết. Việc bảo đảm thông tin liên lạc được thực hiện bằng nhiều phương thức như tín hiệu, điện thoại, liên lạc chạy chân. Các kho khí tài, xăng dầu sơ tán cách sân bay từ 10km trở lên. Người trực ban, máy bay, bể chứa xăng dầu... đều có hầm, ụ che chắn. Việc cung ứng xăng dầu, dưỡng khí, khí nén... được cải tiến cho phù hợp với tình hình mới. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ các sân bay, bảo đảm cho máy bay cất cánh đánh địch còn có những tấm gương dũng cảm, tận tụy của cán bộ chỉ huy, sĩ quan dẫn đường, thợ máy, cán bộ nhân viên thông tin, dẫn đường, các bác sĩ, y tá, chị nuôi, anh nuôi... Tập thể cán bộ, nhân viên thường trực ở đài chỉ huy cất, hạ cánh - đài K5 sân bay Gia Lảm bất chấp bom đạn ác liệt vẫn hiên ngang "giữ vững ngọn cờ đài K5". Các chiến sĩ thợ máy Bùi Thanh Tiềm, Phạm Hoa Lâm, Nguyễn Trọng Cát, Vũ Quốc Đạt... luôn luôn suy nghĩ, tìm cách khắc phục khó khăn, thiếu thốn về vật chất, kỹ thuật, bảo đảm cho máy bay hoạt động tốt, an toàn, đánh thắng địch. Các chiến sĩ sân đường Nguyễn Hữu Tú, Vũ Văn Dinh, Phạm Duy Sinh... thay nhau túc trực trên sân bay, theo dõi và đánh dấu chính xác vị trí những quả bom chờ nổ, tháo gỡ và phá hủy hàng chục quả, bảo đảm an toàn cho máy bay cất cánh, hạ cánh, chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Hoành gỡ được 60 quả bom chờ nổ, 4.000 quả bom bi con. Đồng chí Hoàng Hải, cán bộ công binh không quân tháo được đầu nổ bom từ trường, góp phần cùng cán bộ kỹ thuật Binh chủng công binh nghiên cứu phương pháp chống phá loại bom nguy hiểm này. Với sự tham gia của đông đảo nhân dân, sự giúp đỡ của các đơn vị bạn và nỗ lực khắc phục khó khăn của bộ đội Không quân, sân bay Kép bị địch đánh hỏng nhẹ được khôi phục ngay trong đêm"1 (Lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.177-178)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #28 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:33:59 pm »

2. Hoạt động hàng không dân dụng kể từ khi Hội nghị bốn bên ở Pari nhóm họp

Tiếng bom đạn của giặc Mỹ tạm im ắng sau chiến thắng Mậu Thân 1968 và kẻ địch buộc phải xuống thang, chấm dứt oanh tạc miền Bắc (11-1968). Song, từ vĩ tuyến 20 trở ra, đế quốc Mỹ vẫn cho máy bay trinh sát thường xuyên trên bầu trời miền Bắc. Chúng tập trung đánh phá ác liệt vùng phía Nam Khu IV và các tuyến hành lang vận chuyên chi viện của miền Bắc cho các chiến trường miền Nam và chiến trường Lào, nhằm làm điều kiện để đàm phán với Việt Nam ở Hội nghị Pari. Vì thế, thắng lợi của chúng ta mới chỉ là bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt.


Để đáp ứng tình hình mới, ngành hàng không dân dụng Việt Nam ra sức củng cố về tổ chức và lực lượng của mình. Do yêu cầu của chiến trường miền Nam, đồng chí Trung tá Nguyễn Văn Giáo, Cục phó Cục hàng không dân dụng được điều đi làm Sư đoàn trưởng sư đoàn Phòng không 365. Ngày 20-10-1969, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 18 CP/QP bổ nhiệm đồng chí Đỗ Xuân Nghi cấp bậc Trung tá, Trưởng phòng bảo vệ Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân giứ chức Cục phó Cục hàng không dân dụng Việt Nam.


Trung đoàn Không quân vận tải 919, Trung đoàn trưởng Khúc Đình Bính được điều đi nhận công tác khác, Trung đoàn phó Phạm Đình Cường được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng. Đồng chí Nguyễn Văn Ba và đồng chí Hoàng Ngọc Trung được bổ nhiệm làm trung đoàn phó cùng với đồng chí Nguyễn Phúc Ninh. Chính ủy Hoàng Bái được điều đi làm Phó chủ nhiệm chính trị Binh chủng Không quân. Đồng chí Phó chính ủy Ngô Đắc Thưởng được bổ nhiệm làm Chính ủy.


Hoạt động của hàng không dân dụng thời kỳ này chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, chuyển từ hoạt động quân sự là chính sang hoạt động hàng không dân dụng, bảo đảm vừa hoạt động dân dụng vừa sẵn sàng chiến đấu. Hệ thống sân bay trên miền Bắc dùng chung cho cả quân sự và dân dụng. Được nhân dân các địa phương, các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội tham gia đóng góp hàng vạn ngày công, san lấp hàng trăm hố bom, sửa chữa đường lăn, sân đỗ, ụ bảo vệ máy bay... nên chỉ sau một thời gian ngắn, hệ thống sân bay đã được khôi phục. Mạng thông tin liên lạc, đài chỉ huy, dẫn đường... ở các sân bay được củng cố. Đội ngũ cán bộ hàng không dân dụng, điều phái ở các sân bay được kiện toàn sẵn sàng làm nhiệm vụ quân sự và dân dụng.


Trung đoàn Không quân vận tải 919 bước vào năm 1969 có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, phải nhanh chóng khắc phục. Trong cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 68, Trung đoàn đã tham gia chiến đấu chi viện hỏa lực và tiếp tế cho mặt trận Trị Thiên - Huế có hiệu quả, song phần lớn tổ bay và máy bay đi làm nhiệm vụ đã bị thiệt hại. Lực lượng còn lại gồm 61 tổ bay (có 8 tổ IL-14, 13 tổ Li-2, 14 tổ Mi-4, 7 tổ Mi-6, 2 tổ IL-18, 3 tổ AN-24). Trung đoàn có nhiệm vụ trong thời gian trước mắt là: "Vừa sẵn sàng chiến đấu cao, vừa tranh thủ thời gian để dốc sức tập luyện, nâng cao chất lượng toàn diện của bộ đội, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ làm khâu chính, đẩy mạnh huấn luyện để bổ sung cho lực lượng Trung đoàn theo phương châm ít mà giỏi; chuẩn bị tốt mọi mặt để sẵn sàng đánh địch ở mặt đất, mặt nước, vận tải chi viện kịp thời cho các chiến trường, làm tốt nhiệm vụ chuyên cơ và các nhiệm vụ khác". Để thống nhất chỉ huy và bảo đảm toàn diện các mặt xây dựng và chiến đấu, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Binh chủng quyết định sáp nhập đơn vi sân bay Gia Lâm trực thuộc Trung đoàn 919.


Cuối năm 1969, máy bay IL-18 đã được hàng không dân dụng - không quân vận tải chính thức đưa vào làm nhiệm vụ bay chuyên cơ. Chuyến chuyên cơ đặc biệt dâu tiên do Võ Quang Bốn đảm nhiệm bằng máy bay IL-18 đưa Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xuphanuvông, Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc sang Trung Quốc, đã được thực hiện thật hoàn hảo.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #29 vào lúc: 11 Tháng Bảy, 2019, 09:34:58 pm »

Trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc, với ưu thế về máy bay và một đội ngũ phi công có kinh nghiệm, hàng không dân dụng và không quân vận tải đã có nhiều đóng góp, đặc biệt là trong việc phục vụ khắc phục thiên tai lú lụt. Những trận lụt xảy ra trong tháng 8-1971 vô cùng nghiêm trọng, nước lũ đổ xuống đồng bằng Bắc Bộ làm cho hầu như khắp nơi đều bị nước phủ trắng. Thủ đô Hà Nội cũng bị nước lũ đe dọa. Chiếc máy bay IL-14 số VN482 của hàng không dân dụng đã đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng đi quan sát khắp lượt, từ Phú Thọ xuống Hà Bắc, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh. Sau chuyến đi ấy, Chủ tịch đã ra chỉ thị khẩn cấp thi hành các biện pháp cứu dân. Hàng không dân dụng và Trung đoàn 919 được lệnh huy động các loại máy bay IL-14, Li-2, AN-2, Mi-4, Mi-6 làm nhiệm vụ cứu dân và cứu đê. Mỗi loại máy bay được phân công phụ trách một vùng, ở địa bàn ven sông Hồng thì cơ động đưa dân sơ tán khỏi vùng bị ngập lụt. Ở khu vực bắc sông Đuống thì bay thật thấp thả lương thực, thực phẩm (chủ yếu là bánh mì, lương khô), thuốc men, quần áo, phao cấp cứu. Hễ phát hiện chỗ nào có dân co cụm lại trên nóc nhà, trên ngọn cây hay ở một điểm cao nào nhô lên trên mênh mông nước trắng là bay tới thả hàng để giúp dân chống chọi với nước lũ. Đê Gia Lương là một trong những con đê xung yếu thuộc tỉnh Hà Bắc. Những con nước lớn đầu nguồn tháng 8, nhất là cơn bão cuối tháng 8 đầu tháng 9-1971 đã làm sụt lở nhiều đoạn. Đê Nhất Trai, Gia Lương bị vỡ một quãng dài. Thác nước từ đây đổ xuống đã cuốn trôi nhiều nhà cửa, hoa màu của nhân dân, gây úng lụt cho một vùng rộng lớn. Các lực lượng cứu đê và nhân dân trong vùng đã tích cực huy động mọi phương tiện, nhân lực, vật lực, nhưng không tài nào chặn được dòng nước hung dữ. Hội đồng Chính phủ đã thành lập một ban hàn khẩu đê Nhất Trai - Gia Lương do đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo. Ban hàn khẩu đê đã giao cho hàng không và không quân vận tải phối hợp với ngành đường biển chịu trách nhiệm chính, là lực lượng chủ công trong chiến dịch này. Nhận nhiệm vụ, Trung đoàn 919 đã sử dụng máy bay trực thăng Mi-6 cẩu những tấm panen, những chiếc rọ đá nặng hàng chục tấn quẳng xuống quãng đê vỡ. Hai lực lượng chủ công đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, nhanh chóng ngăn được lưu tốc dòng chảy. Công trường làm việc suốt ngày đêm. Sau một tuần lễ, đoạn đê vỡ đã được hàn lại.


Ngoài ra, các tổ bay của hàng không và không quân đã hoạt động liên tục 14 ngày đêm (từ 20-8 đến 3-9), thực hiện 570 chuyến bay, kịp thời đưa tới những vùng bị lụt nặng hơn 500 tấn hàng (gồm 283 tấn lương thực, 211 tấn hàng hộ đê, 27 tấn vải..., cơ động 2.693 lượt người và 5 ôtô khỏi những điểm bị lũ lụt phá hoại nặng.


Trong những ngày giúp dân chống lũ lụt, sân bay Bạch Mai trở thành "căn cứ" tập kết hàng để các máy bay đến nhận. Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị, Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần xuống trực tiếp kiểm tra, đôn đốc việc vận chuyển ở đây. Sau chiến công này, Trung đoàn 919 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai, nhiều đồng chí được Bằng khen.


Năm 1971, đế quốc Mỹ mở cuộc hành quân lớn mang tên "Lam Sơn 719" nhằm tập trung đánh phá khu vực Đường 9 - Nam Lào. Với kẻ địch, đây là một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, hòng "bóp nghẹt từ cuống họng", phá vỡ "trung tâm hệ thống hậu cần chiến lược" từ miền Bắc chi viện cho các chiến trường Đông Dương, phá hủy kho tàng, đường sá và tiêu diệt lực lượng vũ trang hòng làm cho các lực lượng cách mạng suy yếu, không còn đủ sức tập trung đánh lớn vào mùa khô (1971 - 1972). Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy Trung ương nhất thiết phải đánh thắng trận này dù phải động viên nhiều sức người, sức của và phải chịu nhiều hy sinh, vì đây là một trong những trận có ý nghĩa quyết định đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.


Quán triệt quyết tâm của Bộ Chính trị, bộ đội đã sẵn sàng xuất trận. Lực lượng và phương tiện tham gia chiến dịch rất lớn. Để phục vụ chiến dịch, hàng không dân dụng và không quân vận tải ngoài các chuyến chuyên cơ đưa các đồng chí lãnh đạo của Bộ Quốc phòng vào chỉ huy chiến dịch, đã sử dụng trực thăng Mi-6 tham gia chiến dịch này. Những chiếc "cần cẩu bay" bụng há ra chuyển cả một chiếc xe xích kéo cỗ pháo khổng lồ 122 ly vào mặt trận Nam Khu IV, để phòng thủ khu vực và nghi binh chiến lược nhử địch kéo quân lên Đường 9 - Nam Lào. Kết quả là 3 khẩu pháo 122 ly cùng 395 hòm đạn đã được chuyển lên các điểm cao ở nam sông Gianh (Quảng Bình). Sau 43 ngày đêm chiến đấu kiên cường và dũng cảm (từ 8-2 đến 23-3-1971), quân và dân ta cùng với quân và dân Lào anh em đã giành thắng lợi hoàn toàn, đập tan cuộc hành quân của địch. Âm mưu cô lập cách mạng miền Nam của Níchxơn và bè lũ tay sai đã hoàn toàn bị thất bại.


Để giao lưu hàng không thường lệ giữa Việt Nam và Liên Xô, ngày 20-6-1969 tại Hà Nội, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Liên Xô đã   ký Hiệp định vận chuyển hàng không1 (Thay mặt Chính phủ Việt Nam đàm phán và ký kết Hiệp định là đồng chí Nguyễn Văn Tiên, Cục trưởng Cục hàng không dân dụng Việt Nam. Trưởng đoàn). Theo đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ủy nhiệm cho Cục hàng không dân dụng Việt Nam kinh doanh các đường bay Việt Nam - Liên Xô. Cục hàng không dân dụng Việt Nam chỉ định Xí nghiệp hàng không Việt Nam thực hiện kinh doanh đường bay Hà Nội - Mátxcơva (và ngược lại). Phía Liên Xô là Hãng hàng không Aeroflot. Hàng không Việt Nam chưa có điều kiện thực hiện các chuyến bay dân dụng đến Liên Xô vì vậy Hãng hàng không Liên Xô Aeroflot đơn phương khai thác các đường bay quy định đến Việt Nam. Đây cũng là bước phát triển mới của hàng không dân dụng Việt Nam.


Ngày 16-1-1970, chuyến bay đầu tiên của Hãng hàng không Aeroflot đá hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Đường bay Mátxcơva - Hà Nội và ngược lại, chính thức hoạt động.

Để tăng cường quan hệ về mọi mặt nhằm thắt chặt tình đoàn kết anh em giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, ngày 15-10-1969, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Tường Lân và đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước thỏa thuận đồng ý cho máy bay dân dụng của hai bên được quyền bay và vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hóa, bưu điện thường lệ giữa hai nước. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ định Cục hàng không dân dụng Việt Nam phụ trách việc kinh doanh trên đường bay quy định. Hiệp định có giá trị 5 năm. Đường bay giữa Việt Nam và Lào quy định:

a) Hà Nội - Sầm Nưa - Xiêng Khoảng (và ngược lại).

b) Đồng Hới - Sê Pôn - Sanavan - Atôpơ (và ngược lại).

Cục hàng không dân dụng Việt Nam làm tổng đại lý nghiệp vụ cho hàng không Lào.


Trải qua quá trình mười lăm năm quan hệ với hàng không Trung Quốc, nhận thấy có một số điểm trong Hiệp định không phù hợp với hoàn cảnh mới1 (Từ trước đến nay, hàng không dân dụng Việt Nam chỉ thực hiện đường bay Hà Nội - Nam Ninh, trong khi hàng không Trung Quốc được thực hiện đường bay Bắc Kinh - Hà Nội), trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, bình đẳng hợp tác hai bên cùng có lợi, để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách, hàng hóa, bưu kiện giữa hai nước, Hiệp định vận chuyển Hàng không dân dụng giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được ký kết vào ngày 30-5-1971 tại Bắc Kinh2 (Đoàn Việt Nam do đồng chí Ngô Thuyền, Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh làm trưởng đoàn, đồng chí Đỗ Xuân Nghi, Cục phó Cục hàng không dân dụng Việt Nam làm Phó đoàn. Đoàn Trung Quốc do đồng chí Quảng Nhiệm Nông, Tổng cục trưởng Tổng cục hàng không dân dụng Trung Quốc làm Trưởng đoàn). Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ định Cục hàng không dân dụng Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chỉ định Tổng cục hàng không dân dụng Trung Quốc là cơ quan vận chuyển hàng không dân dụng phụ trách việc kinh doanh trên đường bay quy định của mỗi bên. Hàng không dân dụng Việt Nam kinh doanh đường bay Hà Nội - Nam Ninh - Bắc Kinh và ngược lại. Hàng không dân dụng Trung Quốc kinh doanh đường bay Bắc Kinh - Nam Ninh - Hà Nội và ngược lại. Có thể nói, đây là một bước trưởng thành của hàng không dân dụng Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM