Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:03:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức miền Đông  (Đọc 16452 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:25:08 pm »

Các trận phủ đầu trên đây đã đánh mạnh vào tinh thần quân địch, bẻ gãy một gọng kìm, phá thế bao vây chiến dịch của chúng. Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Sư đoàn chúng tôi động viên các đơn vị phát huy chiến thắng trận đầu, kiên quyết trụ bám địa bàn, đánh bại các cuộc tiến công tiếp theo của địch. Trung đoàn 2 triển khai lực lượng ở phía tây, trung đoàn 3 ở phía đông Sở cao su Chúp. Được sự đồng ý của Bộ Tư lệnh Miền, chúng tôi điều động Trung đoàn 1 về tác chiến trên hướng chủ yếu. Tôi được Bộ Tư lệnh cử đi đốc chiến. Với tinh thần rất khẩn trương, ngày 8 tháng 2, Trung đoàn 1 đã hành quân về đến Bình Cheng. Cùng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 đẩy lui nhiều đợt tiến công vào Sở cao su Chúp của chiến đoàn 333 ngụy.

Ngày 12 tháng 3, địch buộc phải điều chỉnh kế hoạch. Chúng chia lực lượng thành hai cánh đánh lên Tà Pao, phum Ca Đồn và theo đường số 2 lên Đầm Be, ngã tư Nước Đà. Trên cả hai cánh quân, địch tiến quân dè dặt, dựa vào hỏa lực phi pháo, kể cả B-52 yểm trợ hành quân. Bam đên chúng cụm lại giữa đồng trống để hạn chế ta tập kích.

Từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 2, hai Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 liên tục vận động phục kích chiến đoàn 333 ngụy đóng ở Tà Pao, nhưng địch đi giữa đồng trống, ta khó tiếp cận nên không đánh được. Các Trung đoàn 12, và Trung đoàn 209 Sư đoàn 7 ở khu vực Phum Kô, Beng Sê, đường số 2 cũng chỉ đánh được một số trận nhỏ.

Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền họp ngày 17 tháng 2 đánh giá một số thắng lợi bước đầu của Sư đoàn 9 đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh, làm chậm và phá kế hoạch vây Sở cao su Chúp, đẩy chủ lực ta ra xa đường 7 của địch.

Đêm 17 tháng 2, Trung đoàn 3 vận động tập kích, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 31 biệt động quan ở Rokapo. Trận đánh không dứt điểm hoàn toàn nhưng đã buộc chiến đoàn 333 bỏ ý định tiến lên Chí Thiêng, co lực lượng về đường 7. Sư đoàn tổ chức trận địa phục kích ở Chúp nhưng do chỉ huy không tốt nên không đánh được. Cùng đêm, Trung đoàn 1 vận động tập kích tiểu đoàn 2 (chiến đoàn 43 ngụy) ở tây chợ Chúp. Quân địch thiệt hại khá nặng nhưng trung đoàn cũng bị thương vong cao.

Từ ngày 22 tháng 2, do bị ta đánh mạnh trên hướng đồng 7 địch chuyển toàn bộ lực lượng sang đường 2 với ý định tiên lên Sở Loong (Công Pông Chàm) hỗ trợ quân ngụy Lonnon ở khu vực đông và tây sông Mê Kông, phối hợp với cánh quân ở hướng Snun, gây ảnh hưởng chính trị.

Bộ tư lệnh Miền quyết định tập trung hai Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 1) tiếp tục đánh địch trên hướng đường 7 và Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 đánh vào sườn phía sau đội hình địch ở khu vực Oatthơmây – Cầu Cháy, điểm quyết chiến một là tây nam Đầm Be.

Trong những ngày cuối tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1971, Sư đoàn 9 liên tiếp đánh bốn trận vận động phục kích với lực lượng hai Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 và nhiều trận nhỏ khác, gây thiệt hại nặng cho các tiểu đoàn 31, 36 biệt động quân, tiểu đoàn 1 và 3 (chiến đoàn 50) ngụy Sài Gòn. Tướng ngụy Đỗ Cao Trí bị chết do pháo phòng không ta bắn trúng chiếc máy bay chở hắn. Lực lượng còn lại của chiến đoàn 333 và lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp bị Trung đoàn 14 Sư đoàn 7 và Trung đoàn 174 chặn đánh trên đường rút chạy về Đầm Be.

Đêm 2 tháng 3, Sư đoàn 9 di chuyển lên tây bắc Đầm Be với ý định tập kích tiêu diệt quân địch ở Đầm Be nhưng không kịp. Sư đoàn 7 và Trung đoàn 174 cũng không kịp ngăn chặn vì địch chạy giữa đồng trống, lại được hỏa lực phi pháo, kể cả B-52 yểm trợ. Ta chỉ diệt được bộ phận của lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp và chiến đoàn 5 ngụy.

Ngày 4 tháng 3, địch rút khỏi Chúp và khu vực đường 7.

Đợt 1 chiến dịch tiến công trên chiến trường đông bắc Campuchia kết thúc. Cùng với các đơn vị trong khối chủ lực Miền, Sư đoàn 9 đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại chúng trên hướng tác chiến chủ yếu của chiến dịch, tạo cơ sở vững chắc cho những thắng lợi tiếp sau trong mùa khô 1970 – 1971.

Diễn biến đợt một cho thấy, địch đã tập trung lực lượng cỡ chiến đoàn và nhiều chiến đoàn trên một hướng hành quân. Ta cũng đã tập trung hai Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 và nhiều đơn vị binh chủng vào một khu vực tác chiến. Nhưng theo tôi, ta không có một bộ chỉ huy thống nhất và hiệp đồng giữa các lực lượng nên các đơn vị đứng ở chỗ nào gặp địch đánh chỗ đó, thiếu sự phối hợp theo ý định và chỉ huy chung.

Kết quả là không có trận diệt gọn tiểu đoàn bộ binh và chi đoàn thiết giáp địch, không ngăn chặn được địch khi chúng rút chạy.

Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền đã kịp thời rút kinh nghiệm và khi bước vào đợt chiến đấu thứ hai quyết định thành lập cơ quan chỉ huy tiền phương của Bộ chỉ huy Miền do anh Trần Văn Trà, tư lệnh và các anh Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Trần Độ, Trần Văn Phác chỉ huy Sư đoàn 9, Sư đoàn 7 và Trung đoàn 28 pháo binh, Tiểu đoàn 12 súng máy cao xạ và nhiều đơn vị binh chủng, phục vụ khác.

Như vậy, do yêu cầu của chiến trường và nhiệm vụ chiến đấu, vào đầu năm 1971, một cơ quan chỉ huy và một lực lượng chiến đấu cấp quân đoàn đã được thành lập ở chiến trường Nam Bộ trở thành lực lượng nòng cốt của khối chủ lực Miền, tiền thân của Quân đoàn 4 – Binh đoàn Cửu Long và đã phát huy vai trò tổ chức, chỉ huy và chiến đấu như một đơn vị cấp quân đoàn ở chiến trường B2 cho đến khi Quân đoàn 4 được thành lập.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:26:01 pm »

*

Bước vào đợt chiến đấu thứ hai, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền nhận định: địch đã bị thất bại một bước trong đợt một. Sĩ quan binh lính địch thêm hoang mang vì thất bại lớn của cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ở Đường 9 – Nam Lào, nhưng chúng chưa từ bỏ kế hoạch tiếp tục cuộc hành quân. Sắp tới, địch có thể đánh ra Chúp, chiếm lại địa bàn có vị trí chiến lược này, phối hợp với quân ngụy Lonnon nối lại đường số 7. Nhưng do lực lượng đã bị tổn thất, chúng ít có khả năng thọc sâu, đánh lớn. Đây là thời cơ để ta tập trung lực lượng đánh tiêu diệt tiểu đoàn quân địch. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh tiền phương của Miền quyết định chọn đường 7 là hướng chính, tập trung Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9, Trung đoàn 174 bộ binh, Trung đoàn 28 pháo binh, thực hiện vận động bao vây và tiến công lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp ngụy Sài Gòn, đánh bại chiến thuật sử dụng cơ giới tập trung trên địa hình đồng trống của chúng.

Ngày 16 tháng 3 năm 1971, lữ đoàn 3 và chiến đoàn 48 ngụy chia lực lượng thành hai mũi đánh vào Sở cao su Chúp. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 đã kịp thời điều động Trung đoàn 2 từ Tà Pao về (trong đêm 16 tháng 3) để ngăn chặn lữ đoàn 3, tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu của sư đoàn triển khai thế bao vây và vận động tiến công chiến đoàn 48 ngụy trong Sở cao su Chúp. Trung đoàn 3 đột phá hướng chủ yếu phía bắc, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 đánh địch ở hướng nam và tây nam. Trận đánh diễn ra từ 7 giờ đến 11 giờ 30 phút ngày 17 tháng 3. Chiến đoàn 48 ngụy bị diệt một tiểu đoàn, hai tiểu đoàn khác bị đánh thiệt hại nặng phải quay về khu vực Krếch để củng cố.

Từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 3, Sư đoàn 9 chuyển sang bao vây và phản công lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp và chiến đoàn 5 ngụy ở nam đường 7, cùng các đơn vị bạn đánh trận quyết chiến chiến dịch ở khu vực Tô Tịa – Mông Rêu, đẩy lùi binh đoàn chủ yếu của địch trong chiến dịch về Pônôrây, buộc địch phả kết thúc đợt tiến công trên hướng đường 7.

Phát huy thắng lợi, trong những ngày đầu tháng 4 năm 1971, ta không chờ địch nống ra mà thực hiện vây ép để bức rút và diệt quân địch tăng viện ở khu vực Pra Thiếc, Khana, Pônôrây… đẩy lùi địch thêm một bước nữa về đến Cănđonchrum. Ý định chiếm lại đường 7 của địch bị đập tan. Lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp và 3 chiến đoàn (5, 48 và 9) bị đánh thiệt hại nặng.

Từ cuối tháng 4 năm 1971, quân ngụy Sài Gòn và ngụy Lonnon phải tổ chức co cụm để tránh bị tiêu diệt. Ỷ vào lực lượng còn đông, chúng tiếp tục bám giữ một số vị trí đầu cầu trên đường 7, đường 13 và bờ sông Tônlêtút nhằm quấy phá hậu phương, kìm giữ chủ lực ta, hỗ trợ kế hoạch bình định ở miền Nam và ở Campuchia.

Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở đợt ba chiến dịch nhằm đẩy địch về hình thái trước mùa khô, tiếp tục thu hút, kiềm chế một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của quân đoàn 3 ngụy Sài Gòn, tạo điều kiện cho quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đánh phá bình định, hỗ trợ quân và dân nước bạn củng cố và mở rộng vùng giải phóng.

Hướng chủ yếu ta tập trung Sư đoàn 5, Sư đoàn 7 (thiếu Trung đoàn 209), Trung đoàn 28 pháo binh, Tiểu đoàn 12 súng máy cao xạ vây ép, tiêu diệt chiến đoàn 8 ngụy Sài Gòn ở Snun, cụm quân ngụy Lonnon ở bờ sông Tônlêtút, đồng thời sử dụng Trung đoàn 1 Sư đoàn 9, Trung đoàn 209 Sư đoàn 7 nghi binh, kiềm chế địch trên đường 7, không cho chúng đưa quân lên Suông, Chúp. Hướng phối hợp, Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 1) được tăng cường Tiểu đoàn 8 pháo binh diệt 3 tiểu đoàn, đánh thiệt hại 8 tiểu đoàn quân ngụy Lonnon ở khu vực Bàu Điều, đẩy lùi âm mưu lấn chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng, giúp bạn phát triển cơ sở chính trị, vũ trang, tạo thế bố trí lực lượng của ta trên tuyến sông Mê Kông.

Ngày 24 tháng 6 năm 1971, chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1-17” của Mỹ và ngụy Sài Gòn trên chiến trường đông bắc Campuchia kết thúc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:27:00 pm »

Qua 15 tháng chiến đấu ta đã diệt một bộ phận rất quan trọng sinh lực tinh nhuệ và lực lượng thiết giáp nòng cốt của quân đoàn 3 ngụy Sài Gòn, diệt một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của quân ngụy Lonnon, loại khỏi vòng chiến đấu 20.000 tên (có 6.000 quân ngụy Lonnon), diệt 1 chiến đoàn bộ binh, 1 trung đoàn thiết giáp, đánh thiệt hại 5 chiến đoàn khác, phá hủy 1.500 xe quân sự (có 369 xe tăng, xe bọc thép), 106 khẩu pháo, bắn rơi 200 máy bay, đánh bại hoàn toàn âm mưu đánh phá hậu phương, cơ quan kho tàng, chia cắt hành lang của ta và âm mưu lấn chiếm đường số 7, hỗ trợ quân ngụy Lonnon, thực hiện kế hoạch bình định của địch. Ta đã đánh bại, làm cho Mỹ - ngụy mất tin tưởng ở một số thủ đoạn và phương thức tác chiến dựa vào không quân Mỹ, vào sức mạnh cơ giới, pháo binh để tấn công thọc sâu và phòng ngự từ xa, ngoài biên giới của Mỹ và ngụy Sài Gòn trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Thắng lợi của chiến dịch đã phối hợp nhịp nhàng với chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đánh phá bình định ở chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia. Cùng với chiến thắng Đường 9 – Nam Lào và những thắng lợi ở các chiến trường khác, thắng lợi của chiến địch đã mở ra một triển vọng mới và khả năng thực tế của ta về thắng lợi quân sự, đánh bại hoàn toàn đội quân ngụy “xương sống” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Là một trong những lực lượng tác chiến chủ yếu, đảm nhận hướng chính của chiến dịch trong một số đợt, Sư đoàn 9 đã đánh 806 trận (có 12 trận cấp sư đoàn, 38 trận cấp trung đoàn) diệt 4 tiểu đoàn bộ binh, 3 chi đoàn thiết giáp của quân ngụy Sài Gòn, 7 tiểu đoàn quân ngụy Lonnon, phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ được cơ quan kho tàng, căn cứ hậu phương trên khu vực được phân công. Sư đoàn đã trực tiếp giải phóng nhiều vùng rộng lớn, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang của bạn, giúp đỡ các tiểu đoàn 11, 12, 13, 14 bộ đội tập trung của bạn trưởng thành trong chiến đấu. Các đơn vị và cơ quan sư đoàn được rèn luyện, trưởng thành lên một bước mới về nghệ thuật tổ chức, chỉ huy và thực hành chiến dịch, về khả năng cơ động, đánh liên tục, đánh ban ngày và vận dụng các cách đánh trong chiến dịch phản công ở địa hình đồng bằng.

Tháng 7 năm 1971, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền mở hội nghị tổng kết chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71” của địch ở chiến trường đông bắc Campuchia. Hội nghị đã thống nhất đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của quân ngụy Sài Gòn, đối tượng tác chiến chủ yếu của ta từ khi Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chỉ rõ quy luật và thủ đoạn hành động của chúng; đồng thời đã nêu lên nhiều kinh nghiệm phong phú về chỉ đạo và thực hành chiến dịch, chiến thuật của bộ đội chủ lực.

Từ sau mùa khô 1970-1971, một cục diện mới đã xuất hiện trên chiến trường ba nước Đông Dương.

Qua hai cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ở Đường 9 – Nam Lào và “Toàn thắng 1-71” ở đông bắc Campuchia, công thức quân chủ lực cơ động ngụy Sài Gòn, cộng hỏa lực yểm trợ của Mỹ và dưới sự chỉ huy của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã bị đánh bại. Quân ngụy Sài Gòn dù được Mỹ tăng cường trang bị, nâng cao sức cơ động và yểm trợ tối đa về hỏa lực đã không đảm dương được vai trò lực lượng cơ động trên các chiến trường ba nước Đông Dương như Mỹ mong muốn. Nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến và ỷ vào tiềm lực mạnh, Mỹ tiếp tục quá trình hiện đại hóa quân ngụy Sài Gòn, phát triển mạnh số lượng và nâng cao khả năng tác chiến của quân ngụy Lào và ngụy Lonnon, sử dụng quân ngụy Sài Gòn ngăn chặn phía trước, ngụy Lào và ngụy Lonon đánh vào sườn và phía sau của ta nhằm tiếp tục thực hiện chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong thời gian hơn một năm, chúng đưa quân ngụy Lonnon lên 170.000 tên, tổ chức thành 350 tiểu đoàn chiến đấu (63 lữ đoàn). Ngoài các hoạt động phối hợp với quân ngụy Sài Gòn trong mùa khô 1970-1971 và những tháng mùa mưa 1971, quân ngụy Lonnon dưới sự chỉ huy của sĩ quan cố vấn Mỹ, được không quân Mỹ yểm trợ mở nhiều cuộc hành quân trên các hướng tây nam, tây bắc và đông bắc Phnôm Pênh.

Ngày 20 tháng 8 năm 1971, chúng huy động 30 tiểu đoàn, nhiều xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, tàu chiến… mở cuộc hành quân Chenla 2 ở đông nam Campuchia. Mục tiêu chính của cuộc hành quân làm giành quyền kiểm soát đường số 6, chủ yếu là đoạn đường dài 50 kilômét từ Tăngcốc đến thị xã Công Pông Thom; chiếm vùng đồng bằng rộng lớn đông dân, giàu lúa gạo thuộc hai tỉnh Công Pông Chàm, Công Pông Thom để vơ vét lương thực, bắt linh, gây khó khăn cho lực lượng cách mạng Campuchia; đồng thời nhằm chia cắt hành lang của ta từ đông sang tây, đánh phá hậu phương và phá kế hoạch chuẩn bị của ta cho mùa khô 1971 – 1972. Mỹ trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân này, sử dụng không quân,, kể cả máy bay chiến lược B-52 yểm trợ hỏa lực cho quân ngụy Lonnon, quyết giành thắng lợi cho cuộc hành quân mà chúng coi là điển hình của chương trình “Khơme hóa chiến tranh”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:27:53 pm »

Từ ngày 20 tháng 8 đến này 26 tháng 10, lực lượng tại chỗ của ta và quân dân nước bạn đã liên tục chặn đánh, tiêu hao một số sinh lực địch, làm chậm kế hoạch hành quân của chúng.

Ngày 1 tháng 10 năm 1971, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch phản công ở khu vực đường số 6, đánh bại cuộc hành quân Chenla 2 của địch. Lực lượng tham gia chiến dịch có Sư đoàn 9, 2 trung đoàn 205 và 207 bộ binh và một số đơn vị binh chủng.

Tháng 10 ở Campuchia đang là cuối mùa mưa. Nước sông Mê Kông và các kênh rạch còn lớn. Hai bên đường số 6 là các cánh đồng ngập nước. Địa hình trống trải thuận tiện cho quan sát nhưng có nhiều trở ngại cho việc cơ động lực lượng, giấu quân, triển khai chiến đấu. Nhân dân Khơme ở thành từng cụm. Trong các phu, sóc, nằm ven đường số 6 đều có quân ngụy Lonnon đóng chốt. Có nơi lực lượng địch đông tới một tiểu đoàn. Ở các thị trấn, các đầu mỗi giao thông quan trọng địch đóng sở chỉ huy lữ đoàn từ 3 đến 5 tiểu đoàn bộ binh, có trận địa pháo từ 2 đến 4 khẩu, có xe thiết giáp lội nước… Ngoài quân chính quy, ngụy quyền Lonnon còn tổ chức lực lượng phòng vệ dân sự có trang bị súng. Ở một số phum, lực lượng này đông tới trên 100 tên.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Sư đoàn chúng tôi đã hành quân rất khẩn trương. Dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, sư đoàn đã cho trinh sát đi trước nắm tình hình, tổ chức tốt việc vượt sông Mê Kông và bí mật vượt qua các cánh đồng trống trải, qua hệ thống bố phòng dày đặc của địch, đưa đội hình lớn về tập kết ở khu vực tác chiến chiến dịch đúng thời gian quy định.

Ngày 27 tháng 10, Sư đoàn 9 triển khai lực lượng vây ép và đồng loạt nổ súng tiến công các cứ điểm nằm trong hệ thống phòng thủ của hai lữ đoàn 46 và 61 từ bắc Tan Kul đến Rùm Luông, và đông Rùm Luông đến Krianđét.

Tôi được Bộ Tư lệnh Sư đoàn cử đi chỉ huy cánh quân này. Trung đoàn 2, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Di Thiện Tích và Chính ủy Lê giao đã tiêu diệt tiểu đoàn 377 quân ngụy Lonnon, chia cắt đội hình hành quân Chenla 2 của địch ở phía bắc, đoạn Ba Rài – Rùm Luông và vây ép lữ đoàn 46 địch. Trung đoàn 3 dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Phạm Kim tiến công cứ điểm Anđôngpô, chia cắt đội hình hành quân Chenla 2 của địch ở phía nam, đoạn Kreul – Rùm Luông. Trung đoàn dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Quách Mười và Chính ủy Trần Văn Thiệt vây ép lữ đoàn 61 ở Kỉanđét.

Bị ta đánh mạnh, đồng loạt và bất ngờ, đội hình hành quân của địch bị chia cắt thành ba khúc, giao thông vận chuyển từ phía sau lên bị đình trệ, việc chỉ huy hành quân của địch bắt đầu rối loạn. Mỹ phải sử dụng không quân (60 đến 70 lần chiếc xuất kích trong một ngày) ném bom ngăn chặn và đôn đốc Bộ Tổng tham mưu quân ngụy Lonnon đưa lực lượng lên giải tỏa. Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 1 chốt chặn phía nam Rùm Luông, Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chốt chặn ở phía bắc là vùng đồng trống. Nhưng cả hai đơn vị đã kiên cường bám trụ dưới hỏa lực bom pháo ác liệt, đánh lui hàng chục đợt phản kích của các lữ đoàn 48, 25 và 20 thuộc lực lượng dự bị cơ động của quân ngụy Lonnon lên tăng viện. Bị đánh mạnh và bất ngờ, ngày 12 tháng 11, lữ đoàn 46 ở Rùm Luông và Triel tháo chạy. Bộ đội ta nhanh chóng chuyển sang truy kích, diệt hầu hết quân địch, bắt trên 1.000 tên, thu toàn bộ xe, pháo, súng dạn. Rùm Luông và Triel được giải phóng. Đoạn đường số 6 già từ Phada đến Tankok do ta làm chủ.

Những ngày cuối tháng 11 năm 1971, địch tăng thêm lực lượng lên khu vực chiến dịch, đưa tổng số quân tới 74 tiểu đoàn và được không quân Mỹ, kể cả B-52 yểm trợ, nhưng vẫn không chiếm lại được Rùm Luông và các điểm đã mất. Trong khi đó ở các chiến trường khác, đặc biệt là ở xung quanh Phnôm Pênh, lực lượng ta và bạn hoạt động mạnh, buộc địch phải rút một số đơn vị về bảo vệ Phnôm Pênh. Địch phải bỏ một số chốt lẻ từ San Tuc đến Ba Rai và hướng bắc Công Pông Chàm, tổ chức co cụm để đối phó với ta và để có thêm lực lượng giải tỏa đường số 6.

Bộ Tư lệnh Sư đoàn chúng tôi chủ trương củng cố các địa bàn đã chiếm được, tiến công các cụm cứ điểm của binh đoàn 1 xung kích quân ngụy Lonnon, bao vây, cô lập Công Pông Thmar.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:30:27 pm »

Ngày 29 tháng 11, một bộ phận lực lượng vượt suối Chinít, vây ép Công Pông Thmar từ hướng bắc. Các Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1, Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 3 triển khai lực lượng bao vây hướng đông, đông nam và tây nam. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, địch phải rút các cứ điểm ngoại vi Công Pông Thmar và Ba Rài.

Trưa ngày 30 tháng 11 ta nắm được tin Lonnon ra lệnh rút toàn bộ lực lượng hành quân Chenla 2. Chúng tôi nhanh chóng điều Trung đoàn 2 tăng cường vây ép phía đông Ba Rài. Trung đoàn 1 hành quân cấp tốc trong đêm 30 tháng 11, đến 7 giờ sáng ngày 1 tháng 12 bắt đầu nổ súng và đến 11 giờ trưa đã chiếm được Thnot Chum, diệt hai tiểu đoàn của lữ đoàn 46.

Sáng ngày 1 tháng 12, chúng tôi sử dụng khẩu pháo 105 thu được của địch ở Rùm Luông bắn 30 quả vào Ba Rài. Từ các vị trí bàn đạp, Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 đồng loạt nổ súng đánh chiếm các vị trí tiền tiêu và thọc sâu diệt sở chỉ huy cuộc hành quân Chen-la 2 và sở chỉ huy binh đoàn 1 xung kích địch.

Phần lớn quân địch ở Ba Rài bị tiêu diệt, tan rã, vũ khí phương tiện không kịp phá hủy theo lệnh của Lonnon. Bộ phận tháo chạy về phía tây mang theo một số xe, pháo bị Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 đánh cắt ngang đội hình. Sĩ quan binh lính địch bỏ cả xe, pháo mà chạy. 13 giờ ngày 1 tháng 12, ta giải phóng Ba Rài.

Ở Công Pông Thmar, ta thắt chặt vòng vây, chặn các ngả đường rút chạy của binh đoàn 1 xung kích. 17 giờ ngày 1 tháng 12, địch cho một tiểu đoàn tiến ra theo đường số 6 nhằm nghi binh, đánh lạc hướng ta; đồng thời sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân đánh mạnh vào khu vực bắc cầu Công Pông Thmar đến Prasost để mở đường máu tháo chạy. Trung đoàn 3 nhanh chóng thọc sâu, chiếm sở chỉ huy địch, giải phóng hoàn toàn Công Pông Thmar lúc 20 giờ cùng ngày. Do địch phá sập cầu, ta phải tổ chức vượt sông, tốc độ truy kích chậm nên một bộ phận quân địch đã chạy thoát. Ta diệt và bắt hơn 1.000 tên.

Từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 12 bộ đội ta tiếp tục truy kích, quét sạch các chốt địch trên đường số 6 từ Tăng Krasăng đến San Tuk. Binh đoàn 1 xung kích của quân ngụy Lonnon bị đánh tơi tả, chỉ còn một số tàn quân chạy về được Công Pông Thom, trong đó có tên Nusevuth, Chỉ huy phó binh đoàn bị thương nặng.

“Chenla 2”, một cuộc hành quân điển hình của công thức quân đội Lonnon cộng hỏa lực không quân Mỹ trong chương trình “Khơme hóa chiến tranh”, một thí nghiệm sử dụng quân Lonnon làm lực lượng cơ động đánh vào phía sau ta hoàn toàn bị thất bại. Quân ngụy Lonnon, trong đó có một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ Mỹ đặt nhiều hy vọng đã bị một đòn tiêu diệt nặng. Theo số liệu thống kê chưa thật đầy đủ, trong hơn 1 tháng chiến đấu, Sư đoàn 9 cùng các đơn vị tham gia chiến đấu đã loại khỏi chiến đấu 12.295 tên địch, tức hơn một nửa lực lượng địch huy động vào cuộc hành quân, ta bắt sống 1.994 tên (có hơn 1.000 dân vệ), diệt 2 lữ đoàn, 10 tiểu đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe tăng, xe bọc thép, đánh thiệt hại 7 lữ đoàn khác. Ta thu 60 xe các loại, 4.750 khẩu súng, pháo (có 5 khẩu pháo 105), 150 tấn đạn, bắn rơi 11 máy bay, bán chìm 13 tàu, ca nô, phá hủy 36 xe quân sự.

Thủ đoạn chiến thuật dùng binh đoàn, lữ đoàn phòng ngự thành cụm cứ điểm, tiến công với đội hình dày đặc bị đập tan. Âm mưu chiếm đường 6 để bảo vệ Phnôm Pênh, dùng đường 6 để làm bàn đạp tiến công lấn chiếm đông bắc Campuchia, chiếm vùng đồng bằng đông dân, nhiều của và âm mưu câu kết giữa ngụy quân, ngụy quyền miền Nam, Campuchia, Lào nhằm đánh phá hành lang chiến lược của ta bị đánh bại. Nội bộ ngụy quyền Lonnon thêm mâu thuẫn, chính trị rối ren, kinh tế khủng hoảng. Sau một thời gian tăng nhanh về số lượng và đầu đơn vị, quân ngụy Lonnon bắt đầu quá trình đi xuống về tổ chức và tinh thần chiến đấu. Ở nhiều nơi, nhất là ở Công Pông Thom, Công Pông Chàm… quân địch xin rút hoặc xin tăng viện vì sợ bị ta tiến công tiêu diệt.

Thắng lợi của chiến dịch đã đề cao uy tín của bạn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Campuchia phát triển, làm cho “quan hệ giũa ta và bạn càng khăng khít hơn, hiểu thông cảm nhau hơn”(1). Cùng với các thắng lợi trên chiến trường miền Nam và chiến trường Lào, chiến dịch đường 6 thắng lợi đã tạo ra một thế tiến công chiến lược mới có lợi cho ta, bất lợi cho địch, đẩy địch vào thế phòng ngự, bị động.


(1) Kết luận hội nghị cán bộ tổng kết chiến dịch đường 6 ngày 16 tháng 1 năm 1972 của đồng chí Hoàng Văn Thái (Mười Khang) – Tư lệnh Miền.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2019, 03:32:32 pm »

Ngày 16 tháng 11 năm 1972, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền mở hội nghị tổng kết chiến dịch đường 6. Kết luận hội nghị, đồng chí Hoàng Văn Thái, Tư lệnh Miền khen Sư đoàn 9 và các đơn vị tham gia chiến dịch đã “hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc”. Đồng chí nói: “Bác Hồ đã dạy chúng ta: càng thắng lợi, càng phải kiểm điểm nghiêm khắc, càng thấy khuyết điểm cho sâu sắc thì mới tiến bộ được. Chúng ta phải làm cho được tinh thần trên của Bác dạy, không được thỏa mãn. Phải kiểm điểm các khuyết điểm nghiêm khắc, đưa trình độ bộ đội ngày càng cao hơn. Chiến dịch vừa qua, nếu ta làm tốt hơn thì có thể rút ngắn thời gian hơn, giảm thương vong nhiều hơn(1), thắng lợi còn cao hơn.

Vừa chiến đấu, vừa xây dựng và thực hiện chức năng đội quân công tác, đội quân sản xuất, trong năm 1971 sư đoàn đã mở được hai lớp tập huấn, nâng cao trình độ chính trị, quân sự cho 243 cán bộ trung cấp, mỗi lớp học 23 ngày và hai lớp cho 151 cán bộ sơ cấp, mỗi lớp học 14 ngày. Các trung đoàn cũng mở được nhiều lớp tập huấn cán bộ từ tiểu đội trưởng đến tiểu đoàn trưởng. Các lớp huấn luyện tập trung được tổ chức sau chiến dịch mùa khô, chiến dịch đường số 6 và xen kẽ giữa hai đợt chiến đấu, giữa hai trận đánh. Cộng lại trong một năm, mỗi cán bộ chiến sĩ có ba tháng huấn luyện, trong đó khoảng 50 ngày học chiến thuật, 30 ngày học kỹ thuật và 10 ngày học các khoa mục chung.

Nội dung huấn luyện gắn với nhiệm vụ chiến đấu từng giai đoạn và dựa vào các tài liệu đã được tổng kết kịp thời sau các chiến dịch, các trận đánh. Sáu tháng đầu năm 1971, nội dung chủ yếu về huấn luyện quân sự của bộ đội là các hình thức chiến thuật vận động tập kích, vận động phục kích. Sáu tháng cuối năm 1971, các đơn vị chuyển sang huấn luyện chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt chặn và vây lấn. Ngoài chương trình chung, sư đoàn còn mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng tác phong chỉ huy, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần.

Để bổ sung số tiêu hao trong chiến đấu và đào tạo cán bộ theo yêu cầu xây dựng quân đội, trong năm 1971, sư đoàn đã cử 254 cán bộ đi học ở các trường thuộc Bộ Tư lệnh Miền, trong đó có 36 cán bộ học trường trung cao, 174 cán bộ học trường sơ cấp (gồm công binh, pháo binh, trinh sát, đặc công) và 71 cán bộ học các ngành hậu cần (có 48 cán bộ y sĩ, bác sĩ). Trường huấn luyện cán bộ trung đội của sư đoàn mở được tám khóa, gồm sáu khóa pháo binh, một khóa đặc công, 482 cán bộ gồm 430 cán bộ bộ binh, 18 cán bộ pháo binh, 34 cán bộ đặc công đã ra trường trong năm 1971, được bổ sung về các đơn vị và cơ quan sư đoàn, trung đoàn.

Hoạt động trên chiến trường nước bạn, thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả do Đảng và nhân dân giao phó, Đảng ủy Sư đoàn và các cấp đặc biệt chú trọng giáo dục nhiệm vụ, xây dựng các đơn vị dân vận giỏi, thường xuyên kết hợp tác chiến với vận động binh lính địch… Khi vây lấn, bám địch, các đơn vị tổ chức viết truyền đơn, khẩu hiệu, thư tay, nhờ các quần chúng tốt đưa vào đồn, vận động sĩ quan, binh lính địch bỏ súng về với nhân dân. Khi đánh thắng địch ta băng bó cho những tên lính bị thương, giáo dục và thả tại trận. Khi bắt được bọn dân vệ, cảnh sát… ta giáo dục rồi giao cho bạn. Những việc làm đó đã gây ảnh hưởng tốt trong sĩ quan và binh lính địch.

Để thực hiện tốt công tác dân vận, các đơn vị đều có đội tuyên truyền, các đội viên được học tiếng Khơme, học phong tục, tập quán của nhân dân bạn… Cùng cán bộ địa phương của bạn, trong năm 1971, các đơn vị của sư đoàn đã tham gia vận động quần chúng ở 13 quận, 47 xã, 298 phum, sóc. Cũng như khi hoạt động ở chiến trường trong nước, cán bộ chiến sĩ sư đoàn tận tình giúp dân đào hầm chống phi pháo, thu hoạch lúa, khám chữa bệnh, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ… góp phần củng cố vùng giải phóng của bạn, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước. Đặc biệt, theo yêu cầu của bạn, mỗi trung đoàn đã tổ chức, trang bị, huấn luyện luyện một tiểu đoàn bộ đội tập trung của bạn, đòng thời tổ chức huấn luyện nhiều đội vũ trang, nửa vũ trang ở các phum, sóc, trực tiếp góp phần phát triển lực lượng vũ trang cách mạng của bạn.

Đây là lần thứ hai, quân đội ta thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên đất nước Campuchia anh em. Nối tiếp truyền thống cao đẹp của bộ đội tình nguyện Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Sư đoàn 9 và các đơn vị bộ đội chủ lực của bộ đội tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, góp phần tăng cường liên minh chiến đấu, mỗi quan hệ đặc biệt giữa cách mạng ba nước Đông Dương.


(1) Trong chiến dịch đường số 6, ta hy sinh 290, bị thương 1.145 (chủ yếu là Sư đoàn 9), mất và hỏng 141 khẩu súng các loại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2019, 09:47:22 am »

CHƯƠNG NĂM
THAM GIA CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972

Đối với đế quốc Mỹ, sau một quá trình cố gắng cao độ trong nỗ lực xây dựng và tăng cường về quân số, về trang bị vũ khí cho quân đội Sài Gòn mạnh lên, đủ sức thay thế quân Mỹ, đủ sức đảm nhận vai trò nòng cốt cho “Việt Nam hóa”, “Khơme hóa” và “Lào hóa” chiến tranh của chính quyền Níchxơn, thì thất bại ở Đường 9 – Nam Lào chứng tỏ quân ngụy Sài Gòn cho dù có tới 43 sư đoàn, 8 trung đoàn và 37 tiểu đoàn độc lập cũng không đủ khả năng mở những cuộc hành quân vừa và lớn. Hơn nữa sau thất bại này, quân ngụy Sài Gòn buộc phải chuyển dần vào thế phòng ngự theo từng khu vực và theo tuyến như tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia, tuyến đường 9, tuyến Trị - Thiên, khu vực Đà Nẵng, khu vực Tây Nguyên, khu vực xung quanh Sài Gòn – Gia Định.

Trong khi quân chủ lực ngụy Sài Gòn, Campuchia và Lào bị đánh mạnh, tinh thần của chúng sa sút nghiêm trọng, thì Mỹ vẫn buộc phải tiếp tục rút quân chiến đấu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Các sư đoàn thiện chiến Mỹ lần lượt kết thúc sự có mặt trên chiến trường Việt Nam, đầu tiên là sư đoàn bộ binh 9 và tiếp đó là sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”, sư đoàn kỵ binh không vận số 1, sư đoàn bộ binh 4, sư đoàn thủy quân lục chiến 3, sư đoàn bộ binh 23 và 25, sư đoàn dù 101, sư đoàn bộ binh cơ giới 5, sư đoàn không quân 83… Đến trước ngày 1 tháng 5 năm 1972, quân Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam chỉ còn 60 nghìn tên. Quân các nước chư hầu cũng đang trong quá trình tương tự từ 60 nghìn tên năm 1968, đến năm 1972 chỉ còn 38 nghìn tên. Quân Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ rút đi, bỏ trống những vùng đất đai rộng lớn ở miền Nam, quân đội Sài Gòn phải điều quân chắp vá và thay thế những nơi quân Mỹ rút. Chúng phải dàn mỏng lực lượng trong thế bố trí chiến lược mỏng yếu, lộn xộn.

Về phía ta, năm 1971, ở chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang Quân giải phóng có 7 sư đoàn, 19 trung đoàn chủ lực cơ động, 95 tiểu đoàn, 350 đại đội, 185 trung đội bộ đội địa phương, huyện và hàng chục vạn du kích, tự vệ chiến đấu ở khắp các thôn, xã, thị trấn, thành phố. Toàn bộ lực lượng này đứng chân trên những địa bàn chiến lược trọng yếu, hình thành thế bố trí xen kẽ với địch… Chỉ trong năm 1970-1971, miền Bắc đưa nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật như xe tăng, pháo binh, cao xạ, công binh, đặc biệt là xe tăng T54, pháo 130 ly và 122 ly nòng dài, Đ74, hỏa tiễn, súng phòng không A72, súng chống tăng B72 điều khiển bằng vô tuyến điện và hữu tuyến điện vào chiến trường.

So sánh lực lượng quân sự ở miền Nam và Đông Dương, quân ta mạnh hơn hẳn quân địch về mọi mặt, lại nắm quyền chủ động chiến trường và ở thế bố trí chiến lược có lợi, luôn luôn vây hãm quân địch vào thế chống đỡ.

Một thời cơ mới để đưa cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi quyết định đã xuất hiện. Lường được khả năng diễn biến của tình hình, ngay từ tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cần kíp cho quân và dân ta là: Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và cả trên chiến trường Đông Dương. Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài.

Ngay trong tháng 6 năm 1971, Quân ủy Trung ương họp nghiên cứu tình hình miền Nam, Campuchia và Lào, bàn kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị. Quân ủy Trung ương xác định quyết tâm chiến lược năm 1972: “Tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chinh trị trên cả ba vùng, trên khắp các chiến trường Đông Dương, miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, giành thắng lợi cao nhất”.

Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5 năm 1971 và Hội nghị Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1971, đánh giá sát diễn biến tình hình thực tế trên chiến trường và âm mưu của địch, nhận thấy thời cơ chiến lược đang xuất hiện, đề ra chủ trương nhằm tận dụng và kết thúc thời cơ, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công năm 1972.

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tháng 10 năm 1971, Trung ương Cục họp Hội nghị xác định quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Bộ tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch tiến công mang mật danh “chiến dịch Nguyễn Huệ” trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Mục đích chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, giải phóng một khu vực có ý nghĩa chiến lược, khôi phục và mở rộng địa bàn đứng chân của bộ đội chủ lực Miền, hỗ trợ phong trào đánh phá bình định ở nông thôn đồng bằng và phối hợp chiến trường Quảng Trị và Bắc Tây Nguyên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2019, 09:48:22 am »

Bộ tư lệnh chiến dịch gồm Trung tướng Trần Văn Trà – Tư lệnh, Thiếu tướng Trần Độ - Chính ủy, Đại tá Trần Văn Phác – Phó Chính ủy, Đại tá Lê Ngọc Hiền – Tham mưu trưởng, Đại tá Bùi Phùng – Chủ nhiệm Hậu cần.

Đồng thời thành lập một sư đoàn mới mang phiên hiệu C30B. Tôi được điều từ Sư đoàn 9 về làm Tư lệnh Sư đoàn. Anh Thân Ngọc Sang – Chính ủy. Các anh Chín Tùng, Tạ Quang Tỷ - Phó tư lệnh. Anh Bảy Triết – Tham mưu trưởng, anh Năm Đới – Chủ nhiệm chính trị, anh Chánh – Chủ nhiệm hậu cần.



Bộ Tư lệnh Sư đoàn B30C. Chụp ảnh kỷ niệm sau chiến dịch Nguyễn Huệ.
Trong ảnh từ phải qua trái thứ hai Trương Văn Đàng

Sư đoàn C30B có các Trung đoàn 24, Trung đoàn 271 mới từ miền Bắc vào, Trung đoàn Gia Định; các đơn vị binh chủng: Một tiểu đoàn pháo (2 khẩu 105 ly, 2 khẩu cối 120 ly, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo tự hành, 1 đại đội xe tăng M41 (chiến lợi phẩm), cùng các tiểu đoàn thông tin, công binh, đại đội trinh sát và ba cơ quan tham mưu, chính trị hậu cần.

Theo kế hoạch chiến dịch, trên hướng chủ yếu có hai khu vực tác chiến then chốt mở đầu chiến dịch từ ngã ba đường 13 lên bắc Lộc Ninh, trong đó có cụm cứ điểm Lộc Ninh do Sư đoàn 5 được tăng cường Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 đảm nhiệm. Sư đoàn 7 có nhiệm vụ luồn sâu bao vây, chốt chặn chiến dịch dọc theo đường 13 từ cầu Cần Lê xuống bắc Chơn Thành, diệt quân viện và quân tháo chạy. Khu quyết chiến trung tâm của chiến dịch từ ngã ba đường số 7 xuống bắc Chơn Thành, trong đó có thị xã An Lộc. Lực lượng chủ yếu của Sư đoàn 9 làm lực lượng dự bị chiến dịch sẵn sàng tiến công khu vực này khi có lệnh. Hướng thứ hai là đường 22 do sư đoàn C30B đảm nhiệm đánh địch ở Sa Mát, Thiện Ngôn đường 22 tỉnh Tây Ninh.

Sau khi công bố quyết định thành lập, tôi phổ biến nhiệm vụ của sư đoàn trong hè thu 1972 do Bộ Tư lệnh Miền giao. Tôi nói:

- Vào mùa khô năm 1972, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch tiến công mang tên “Nguyễn Huệ” nhằm tiêu diệt một bộ quận quan trọng chủ lực ngụy, đánh chiếm một số địa bàn chiến lược tạo thế bao vây uy hiếp Sài Gòn từ hướng tây bắc. Hướng chủ yếu của chiến dịch là Lộc Ninh, quốc lộ 13 do Miền đảm nhiệm. Hướng thứ yếu là Xa Mát, Thiện Ngôn, quốc lộ 22 do Sư đoàn ta đảm nhiệm.

Căn cứ vào nhiệm vụ và ý định của cấp trên, Bộ Tư lệnh Sư đoàn quyết định phương án tiến công như sau: Trận mở đầu tiêu diệt căn cứ Xa Mát là trận then chốt có ý nghĩa quyết định phát triển tiến công ở hướng quốc lộ 22 nên sư đoàn phải bằng mọi cách dứt điểm nhanh căn cứ này. Trước đây đơn vị bạn đã đánh nhưng không dứt điểm. Trận then chốt thứ hai: Tiêu diệt chiến đoàn 49, kéo chiến đoàn 46 lên đánh buộc sư đoàn 25 phải can viện, diệt sư đoàn 25. Trung đoàn 24 đảm nhiệm vai trò chủ công, bước đầu hoàn thành 2 mục tiêu then chốt trên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2019, 09:49:30 am »

Trung đoàn 271 bao vây tiến công căn cứ tiểu đoàn hỗn hợp pháo bộ binh ở Tà Xia, tiêu diệt vá đánh chiếm căn cứ này, phối hợp với Trung đoàn 24 đánh địch tăng viện, rút chạy từ căn cứ Thiện Ngôn.

Trung đoàn 24 đảm nhiệm hướng chủ yếu của sư đoàn trên quốc lộ 22. Trung đoàn 271 đảm nhiệm hướng thứ yếu của sư đoàn.

Các đơn vị trực thuộc do đạn dược, pháo cối, xe có hạn nên sư đoàn trực tiếp sử dụng chi viện là chủ yếu. Trung đoàn 24 được phối thuộc 1 khẩu cối 120 ly.



Thượng tướng Trần Văn Trà tham dự hội nghị Sư đoàn 320B trước chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.
Trong ảnh từ trái qua phải thứ ba người mặc áo sáng màu Trương Văn Đàng

Sau khi phổ biến nhiệm vụ tôi hỏi:

- Có đơn vị nào ý kiến gì không?

Anh Trần Đối, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 giơ tay nói:

- Nhiệm vụ diệt căn cứ Xa Mát sư đoàn giao cho tôi kiên quyết thực hiện nhưng đây là một căn cứ cỡ tiểu đoàn có công sự vững chắc. Vì vậy, để bảo đảm chắc thắng tôi đề nghị phải tổ chức trinh sát nắm địch, trước khi xây dựng phương án. Tôi và các tiểu đoàn trưởng sẽ đi trinh sát Xa Mát càng sớm càng tốt.

- Tôi nhất trí với ý kiến của anh Đối. Trung đoàn 24 cần tổ chức đến cấp đại đội đi trinh sát, tôi sẽ tăng cường cho Trung đoàn anh Bảy Triết – Tham mưu trưởng và một tổ trinh sát đi bám địch. Còn ai có ý kiến gì không?

Không có ai lên tiếng.

Tôi nói:

- Nếu các đồng chí không co ý kiến gì hãy khẩn trương bắt tay vào công tác chuẩn bị.

Ngày 22 tháng 3 năm 1972, các đơn vị báo cáo quyết tâm ban đầu để sư đoàn góp ý. Ngày 28 tháng 3 bao cáo quyết tâm lần cuối cùng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2019, 09:50:12 am »

Tôi trực tiếp đến Trung đoàn 24 dự cuộc họp Thường vụ và Ban Chỉ huy Trung đoàn 24 nghiên cứu tìm hiểu nhiệm vụ sư đoàn giao.

Trước khi Thường vụ và Ban Chỉ huy trung đoàn thảo luận, tôi sơ bộ nói về địch và địa hình:

- Quốc lộ 22 nối với quốc lộ số 7 Campuchia là con đường huyết mạch từ Sài Gòn đi Phnôm Pênh và các tỉnh của Campuchia, địa hình bằng phẳng, phía đông lộ 22 là rừng không liên hoàn, có nương rẫy xen kẽ. Quân ngụy Sài Gòn đã bố trí một lực lượng mạnh hình thành tuyến phòng thủ Bắc Tây Ninh trên trục quốc lộ 22 từ Xa Mát đến Thiện Ngôn, Tà Xia, Cần Đăng, Trại Bí về Tây Ninh gồm chiến đoàn 49, chiến đoàn 46 và sư đoàn 25.

Xa Mát là căn cứ tiểu đoàn do 1 tiểu đoàn biên phòng chốt giữ, căn cứ này khá kiên cố do công binh Mỹ xây dựng nằm sát tây lộ 22 cách biên giới Campuchia 500 mét về phía tây bắc.

Quân số tiểu đoàn này khoảng 300 tên (4 đại đội) trang bị mạnh cối 106,7 ly, 81 ly, ĐKZ 57, 12,7 ly, đại liên, các loại súng M16, M79, M72…, ngoài ra được 14 đến 16 khẩu pháo 105, 155 ly và không quân chi viện.

Về quân viện có thể có chiến đoàn 49, 46 cả bộ binh và xe tăng thiết giáp chỉ cách Xa Mát 8 kilômét về phía nam.

Với khả năng phòng thủ trên, địch cho rằng căn cứ Xa Mát là bất khả xâm phạm vì căn cứ này chưa bao giờ bị đánh bại.

Tôi nói thêm về căn cứ Thiện Ngôn, do chiến đoàn 49 chốt giữ nằm ở đông sát quốc lộ 22 trên đường đi Tà Xia ra biên giới cách Xa Mát trong tầm pháo 105 ly, 155 ly. Đây là một căn cứ cấu trúc theo hình sao, cũng vào loại kiên cố bậc nhất của địch. Lực lượng địch bố trí 1 chiến đoàn gồm 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo 105 ly, 155 ly, cối 106,7 ly, 1 chi đoàn xe bọc thép M113, 1 tiểu đoàn hỗ hợp gồm lực lượng công binh, thám sát, chỉ huy pháo binh, thông tin, vận tải, phục vụ, quân số từ 1.300 đến 1.700 tên.

Căn cứ Thiện Ngôn được các trận địa pháo 155 ly, 105 ly ở Tà Xia và Trại Bí chi viện từ 16 đến 20 khẩu, ngoài ra còn có không quân yểm trợ. Bộ binh có chiến đoàn 46 và sư đoàn 25 sẵn sàng ứng cứu từ phía nam lên, lại nằm giữa hệ thống phòng thủ liên hoàn, phía đông có chiến đoàn 50 từ núi Bà Đen đến Kà tum, phía bắc đồn Xa Mát, phía tây căn cứ Tà Xia, phía nam Trại Bí chiến đoàn 46 và sư đoàn bộ binh 25. Với một căn cứ vừa lớn vừa kiên cố lại có hỏa lực mạnh, quân đông, địch tin rằng Việt cộng không có khả năng đụng tới, nên có phần chủ quan.

Về địa hình, hai bên trục lộ 22 địch san ủi phát quang từ 300 đến 500 mét địa hình tương đối bằng thuận lợi cho bộ binh cơ giới vận động. Phía đông lộ 22 là rừng hỗn hợp, tre, gỗ, mây có nhiều bãi trống, nương rẫy xen kẽ rất nhiều đường ngang dọc của xe bò, xe ô tô chở gỗ, địch đã dựa vào các hướng này để hàng ngày cho các đại đội biệt kích ra lùng sục, phục kích suốt từ đông Xa Nát về đến Cần Đăng, phía nam thì càng trống trải hơn. Ta muốn đánh địch trên trục lộ 22 phải giấu quân xa hàng kilômét ở đông đường mới bảo đảm bí mật an toàn, tránh bị địch lùng sục phát hiện, vì lộ là bị B-52 đánh liền.

Nhìn chung địch phòng thủ rất vững chắc, quân đông, hỏa lực mạnh, công sự vật cản kiên cố lại chiếm được địa hình có lợi ngăn chặn ta từ xa.

Nếu ta dùng lực lượng lớn đánh hiệp đồng binh chủng thì địch dễ bị cô lập hoang mang và ngược lại.

Sau khi tôi phát biểu, Thường vụ Đảng ủy và chỉ huy trung đoàn đều thấy được thuận lợi, khó khăn của nhiệm vụ và đều hạ quyết tâm kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ.

Do tính chất quyết định then chốt mở đầu nên anh Bảy Triết – Tham mưu trưởng và anh Trần Đối – Trung đoàn trưởng cùng bò vào hàng rào với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 chủ công nghiên cứu kết luận cụ thể hướng chủ yếu, thứ yếu, biện pháp mở cửa.

Qua nghiên cứu căn cứ Xa Mát, tôi cho rằng với lớp rào, nếu ta dùng mìn ĐH10 hoặc bộc phá liên tục cũng khó giải quyết nhanh gọn sẽ mất thời cơ xung phong.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM