Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:05:27 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức miền Đông  (Đọc 16462 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:06:18 pm »

Ngày 5 tháng 12 năm 1965, phát hiện hai tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 bộ binh Mỹ ở khu vực Thị Tỉnh - Nhà Mát đến Bàu Da Dốt thuộc xã Long Nguyên, huyện Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một. Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chúng tôi ở cách đó 5 km. Tôi nhận được lệnh tiến công quân Mỹ.

Tôi cho Đại đội 1 nhanh chóng cắt rừng, vượt lên trên đội hình đang hành quân của quân Mỹ, chặn chúng lại. Đồng thời lệnh cho Đại đội 2 (chủ công) đuổi theo đánh vào phía sau. Quân Mỹ có hỏa lực không quân và pháo binh chi viện, chống trả quyết liệt. Chúng ném cả bom bi, bom xăng để sát thương bộ đội ta, quyết tạo ra sự ngăn cách với ta bằng hỏa lực. Vận dụng kinh nghiệm đánh Mỹ trong trận Bàu Bàng chúng tôi kiên quyết bám sát, đánh gần, chia cắt địch thành từng cụm nhỏ để tiêu diệt. Tôi còn nhớ Trung đội trưởng Đức, vóc người nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn và mưu trí đã quật ngã một tên Mỹ cao lớn. Trận đánh kéo dài từ 10 giờ đến 16 giờ. Tiểu đoàn 4 chúng tôi đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ, thu 40 khẩu súng.

Kể từ trận đầu đánh Mỹ ở Đất Cuốc, trong thời gian gần một tháng đầu mùa khô 1965-1966, chúng tôi đã liên tục và chủ động đánh 12 trận vừa và nhỏ, phổ biến đánh quy mô tiểu đoàn và tiểu đoàn tăng cường. “Trung bình một tiểu đoàn của ta diệt một tiểu đoàn của Mỹ; hai chiến sĩ ta diệt một tên Mỹ”.

Đầu năm 1966, đế quốc Mỹ huy động toàn bộ lực lượng quân Mỹ, ngụy và chư hầu mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất với quyết tâm “tìm diệt” bộ đội chủ lực Quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt cộng” giành lại quyền chủ động chiến trường. Trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1968, chúng mở liên tiếp 405 cuộc hành quân càn quét, trong đó có nhiều cuộc hành quân lớn, đánh ra năm hướng, trên hai khu vực chính là miền Đông Nam Bộ và miền Trung Trung Bộ.

Ở miên Đông Nam Bộ, máy bay chiến lược B-52, máy bay chiến thuật, “pháo bầy” đánh liên tục và ác liệt các căn cứ Dương Minh Châu, Bời Lời, Long Nguyên, Củ Chi, Chiến khu Đ, Xuyên Mộc, Hát Dịch. Quân Mỹ mở nhiều cuộc hành quân lớn đánh phá các căn cứ, “tìm diệt” Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5 chủ lực Miền.

Ngày 15 tháng 2 năm 1966, hai tiểu đoàn bộ binh thuộc lữ đoàn 1, sư đoàn 1 bộ binh “anh cả đỏ” và 2 chi đoàn thiết giáp mở cuộc hành quân “Hòn đá lăn” đánh phá Chiến khu Đ, quân Mỹ đóng chốt ở Sở cao su Nhà Đỏ trong khu tam giác Lai Khê, Phước Vĩnh, Tân Uyên nhằm giữa đường 13 và tỉnh lộ 16. Ban ngày, chúng nống ra càn quét các khu vực Cốn Xanh, Bình Mỹ… Ban đêm rút về đóng dã ngoại bên dòng suối Bông Trang. Hành động của địch diễn ra thành quy luật như vậy, trong hơn một tuần từ 15 đến 21 tháng 2.

Theo dõi, nắm được quy luật hoạt động của địch, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Sư đoàn 9 quyết định tập trung lực lượng toàn sư đoàn, vận động tập kích cụm quân Mỹ đóng dã ngoại ở phía tây Sở cao su Nhà Đỏ. Trung đoàn 1 đột phá hướng chủ yếu, từ đông bắc đánh xuống. Trung đoàn 3 dột phá hướng thứ yếu, từ tây nam đánh lên. Trung đoàn 2 làm lực lượng dự bị của sư đoàn.

1 giờ 20 phút đêm 23 rạng ngày 24 tháng 2 năm 1966, các loại hỏa lực của sư đoàn bắn đồng loạt, nhiều viên trúng sở chỉ huy địch. Bảy phút sau, các mũi bắt đầu xung phong. Bị đánh mạnh và bất ngờ, quân Mỹ bỏ tuyến ngoài, chạy vào tuyến trong, dựa vào cơ giới và hỏa lực chống trả. Các tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 1, Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 3 phải tổ chức lại đội hình, đưa lực lượng dự bị vào tiếp tục đột phá, chia cắt địch thành từng cụm nhỏ để tiêu diệt. Chiến sĩ Trần Thành Hiệp dùng lưỡi lê diệt một số tên. Quân Mỹ rối loạn, chỉ huy lúng túng trước lối đánh gần, không phân tuyến và rất dũng mãnh của đối phương. Sau hơn 3 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt gần hết cụm quân địch (khoảng 1.200 tên Mỹ chết và bị thương, trong đó có sở chỉ huy nhẹ của lữ đoàn 1), phá hỏng 48 xe quân sự (phần lớn là xe tăng, xe bọc thép). Số lính sống sót còn khoảng trên 100 tên và 10 xe cơ giới dồn lại thành hai cụm, dựa vào địa hình để chống trả.

Nhận thấy tiếp tục đột phá sẽ không có lợi vì trời gần sáng, Bộ chỉ huy Sư đoàn lệnh cho các đơn vị thu dọn chiến trường, giải quyết thương binh tử sĩ và rút về vị trí tập kết bên suối Bông Trang. Một trong năm mũi “tìm diệt” của đế quốc Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất đã bị bẻ gãy.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Năm, 2019, 04:20:47 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:07:30 pm »

Đầu tháng 3 năm 1966, ở khu vực bắc sông Bé, Trung đoàn 1 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn Mỹ và 1 tiểu đoàn quân Ôxtrâylia, đánh bại cuộc hành quân “Thành phố bạc” của địch. Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chúng tôi được giao nhiệm vụ ở Bàu Bàng đánh trận vận động tập kích 1 tiểu đoàn Mỹ.

Nhận được lệnh, tôi tổ chức cho tiểu đoàn xuất kích. Khi tiếp cận được quân Mỹ, tôi lệnh cho cối 60 ly cấp tập vào đội hình địch rồi đồng loạt xung phong. Trận đánh diễn ra hơn 40 phút, Tiểu đoàn 4 chúng tôi đã loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn Mỹ.

Đánh giá thắng lợi trong mùa khô 1965 – 1966, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: Đây là thắng lợi có tầm quan trọng lớn nhất về chiến lược, chiến thuật và chỉ đạo chiến tranh. Ta đã đánh thắng hiệp đầu trong cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Ta đã thắng cả về quân sự, chính trị, chủ yếu là thắng về quân sự, qua chiến đấu chúng ta đã hiểu rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của quân viễn chinh Mỹ, bước đầu rút ra những kinh nghiệm quý báu, nhận rõ những quy luật của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thêm quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Sau cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất mùa khô năm 1965 – 1966 với lực lượng 200.000 quân viễn chinh mà không đạt được mục tiêu, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng thêm quân, đẩy mạnh leo thang đánh phá miền Bắc. Mùa hè năm 1966, đội quân Mỹ xâm lược miền Nam lên tới 300.000 tên, 3.200 máy bay các loại, 1.899 khẩu pháo, 1.836 xe quân sự (chủ yếu là xe tăng, xe bọc thép). Kể cả quân Mỹ, ngụy và chư hầu, lực lượng địch có 224 tiểu đoàn chiến đấu. Quân Mỹ tiếp tục giữ vai trò lực lượng cơ động, ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Nhưng trước mắt, do quân ngụy quá yếu, không đủ sức phòng ngự, một bộ phận quân Mỹ buộc phải phân tán, giữ cứ điểm, mở đường và bảo vệ các con đường giao thông huyết mạch, tổ chức các tuyến phòng ngự gồm nhiều điểm chốt có thể chi viện cho nhau khi bị tiến công. Có những khu vực như Bình Long, Minh Hòa, Lộc Ninh, quân Mỹ đóng chốt cùng quân ngụy. Do thời tiết đã chuyển sang mùa khô, chúng không tấn công ồ ạt mà dùng lối hành quân cóc nhảy, đánh nhanh, rút nhanh mỗi khi phát hiện lực lượng ta. Có sẵn lực lương dự bị mạnh trong tay, chúng thường tập trung nhiều gấp 8 đến 10 lần lực lượng ta trong cuộc hành quân càn quét. Khi bị ta tiến công, chúng phát huy tối đa hỏa lực phi pháo để ngăn chặn. Mặt khác chúng tăng cường hoạt động của biệt kích, thám báo, đánh phá hủy diệt bằng máy bay chiến lược B-52, chất độc hóa học… làm cho hậu phương ta không ổn định.

Trong mùa khô 1965-1966, Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 đã đánh thắng Mỹ góp phần vào sự chỉ đạo, đúc kết phương châm, phương thức đánh Mỹ; đã vận dụng sáng tạo các hình thức tác chiến nhất là vận động tập kích đã trở thành sở trường chiến đấu của Trung đoàn; Trung đoàn còn xây dựng được tác phong cơ động, tổ chức chiến đấu nhanh, đánh gấp, hiệp đồng theo tiếng súng.

Nhưng do chiến đấu liên tục, trung bình sáu đến bảy ngày đánh một trận, thời gian củng cố và huấn luyện của Trung đoàn rất ít, chủ yếu là huấn luyện theo nhiệm vụ trước mắt, không thực hiện được các chương trình cơ bản. Thời gian huấn luyện thường xen kẽ một ngày hoặc vài ngày giữa hai trận đánh, quân số các đơn vị không đủ biên chế. Thành phần bổ sung từ nhiều nguồn: cán bộ, chiến sĩ hành quân từ miền Bắc vào, bộ đội địa phương, du kích xã lên… trình độ không đồng đều, lại chưa tổ chức được trạm an dưỡng và cơ sở sản xuất nên việc bảo đảm sức khỏe bộ đội, nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh gặp nhiều khó khăn.

Về tác chiến, tuy các đơn vị có nhiều tiến bộ và đều đánh thắng địch, nhưng do quân Mỹ là đối tượng tác chiến mới, mạnh hơn hẳn quân ngụy nên nhiều trận đánh không gọn, không bắt được tù binh, không thu được vũ khí. Trong các cuộc hành quân, quân Mỹ thường phát huy tối đa hỏa lực bom, pháo và sức đột kích của cơ giới trên chính diện, đồng thời tổ chức mũi vu hồi dùng máy bay lên thẳng độ quân bất ngờ xuống phía sau đội hình của ta để giành thế chủ động. Nếu trận đánh kéo dài, nhờ có lực lượng dự bị mạnh và phương tiện cơ động hiện đại, chúng nhanh chóng tăng viện tạo ra sự thay đổi đột biến về so sánh lực lượng. Trường hợp bị thua trận, chúng dùng phi pháo hủy diệt chiến trường nhằm sát thương lực lượng ta, không cho ta thu vũ khí. Có đơn vị trong chiến đấu bị thương vong ít, nhưng khi trận đánh đã kết thúc lại bị thương vong nhiều vì bom, pháo của địch.

Trong khi đó, trình độ vận dụng kỹ thuật và sử dụng hỏa lực của các đơn vị của ta chưa tốt. Trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng của cán bộ chưa được chặt chẽ. Công tác chuẩn bị chiến đấu và tổ chức thu dọn chiến trường còn đơn giản. Chúng ta chưa có kinh nghiệm về chuẩn bị vào thực hành đánh lớn. Do quân Mỹ cơ động nhanh, thường xuyên thay đổi vị trí trú quân, nên các bước của một trận đánh thường không triển khai được. Có trận trinh sát đi trước, bộ đội hành quân tiếp sau, nắm được tình hình, cán bộ lên phương án tại chỗ và giao nhiệm vụ cho các đơn đánh luôn. Ngay trong thời gian ở trong căn cứ, các đơn vị cũng thường xuyên phải di chuyển để tránh bị thương vong vì bom, pháo của địch. Sinh hoạt gian khổ, nhiệm vụ chiến đấu căng thẳng, nhiều tổn thất, hy sinh đã làm cho một số cán bộ chiến sĩ có biểu hiện ngại chiến đấu lâu dài, giảm niềm tin vào thắng lợi.

Tháng 5 năm 1966, tôi được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Trung đoàn 2.
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Năm, 2019, 04:21:29 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:09:37 pm »

*

Trước hành động tăng quân, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam – Bắc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(1).

Vâng theo lời kêu gọi thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước của Bác, chúng tôi đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị, nêu cao hơn nữa tinh thần dám đánh và quyết đánh thắng quân Mỹ xâm lược, làm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong bất kỳ thình huống nào cũng không mơ hồ, do dự về mục tiêu chiếu đấu, xây dựng niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Để tăng cường lực lượng đánh Mỹ, trong năm 1966, hậu phương lớn miền Bắc tiếp tục đưa vào chiến trường nhiều đơn vị, nhiều quân bổ sung và vũ khí, trang bị mới. Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền, các cấp ủy đảng và nhân dân Đông Nam Bộ trực tiếp chỉ đạo và giúp đỡ các đơn vị vũ trang trong đó có đơn vị chúng tôi giải quyết các khó khăn về quân số, bảo đảm hậu cần, nâng cao sức chiến đấu.

Về trang bị, ngoài súng bộ binh (súng trường CKC, tiểu liên AK, trung liên RPĐ), từ giữa năm 1966, chúng tôi được trang bị thêm nhiều súng chống tăng B40 (mỗi đại đội 4 khẩu) và một đội súng phun lửa, hai tiểu đoàn pháo mang vác (4 khẩu cối 120 ly, 12 khẩu súng máy cao xạ 12,7 ly…). Mỗi tiểu đoàn bộ binh biên chế 350 đến 400 cán bộ, chiến sĩ, mỗi trung đoàn có từ 1.800 đến 2.000 cán bộ chiến sĩ.

Về huấn luyện, chúng tôi tranh thủ thời gian xen kẽ giữa hai đợt chiến đấu. Với Trung đoàn 2, tôi chỉ đạo các đơn vị tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học chiến thuật, kỹ thuật. Cán bộ từ đại đội trở lên có ít nhất hai giáo án huấn luyện. Một giáo án soạn theo chương trình cơ bản. Một giáo án huấn luyện bổ sung trong thời gian tạm dừng, sau khi đã bố trí ăn, ở và bộ đội đã làm xong công sự.

Khoa mục tiểu đội, trung đội đánh công kiên, chiến sĩ được huấn luyện động tác đánh bộc phá liên tục để mở cửa, chiếm đầu cầu và thọc sâu, đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu. Khoa mục trung đội, đại đội đánh tập kích, các chiến sĩ được huấn luyện động tác tiếp cận địch, đột phá xung phong vào trận địa địch, biết lợi dụng địa hình, địa vật ở rừng cao su, rừng thưa, biết sử dụng nhiều loại hỏa khí, thực hiện bao vây, vu hồi…

Khoa mục tổ, tiểu đội đánh cơ giới, chiến sĩ được học đặc điểm, tính năng kỹ thuật đánh xe tăng M.41, xe bọc thép M113 của địch, tập động tác tiếp cận, diệt xe tăng bằng súng B40, thủ pháo, động tác hiệp đồng giữa hỏa lực và xung lực, thực hiện chia cắt cơ giới địch thành nhiều tốp nhỏ, chia cắt bộ binh với cơ giới… về kỹ thuật, cán bộ, chiến sĩ đều ôn luyện kỹ thuật bắn súng, đặc biệt là ban đêm, bắn gần, các kỹ thuật đào công sự, ném lựu đạn, đâm lê, đánh bộc phá… Cán bộ đại đội, tiểu đoàn chúng tôi được bồi dưỡng nguyên tắc chiến thuật tập kích, phục kích, đánh cơ giới và đánh công kiên do trung đoàn tổ chức.

Sau mỗi trận đánh, cơ quan tham mưu, trung đoàn và các đơn vị đều rút kinh nghiệm, kiểm điểm công tác tổ chức và chỉ huy chiến đấu của các cấp, phê phán sai sót, học tập những động tác chỉ huy tốt. Mỗi cán bộ chỉ huy đều chuẩn bị sẵn nhiều phương án như chủ động tiến công địch theo một kế hoạch đã được chuẩn bị, cách đối phó trong tình huống địch dùng máy bay B-52 hoặc dùng bộ binh đánh vào căn cứ, vào nơi đóng quân; các cách đánh vận động tập kích địch đóng quân dã ngoại, vận động phục kích đoàn xe cơ giới địch trên đường giao thông…


(1) Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 2, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 430.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:11:11 pm »

*

Tháng 5 năm 1966, thực hiện kế hoạch tác chiến của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, chúng tôi mở đợt hoạt động trong mùa mưa ở khu vực Bình Long nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, cùng với lực lượng vũ trang địa phương phát triển chiến tranh du kích, mở rộng vùng giải phóng. Nhưng trong quá trình chuẩn bị, địch phát hiện được ý định của ta. Chúng tăng quân lên khu vực ta dự kiến mở đợt hoạt động, đóng thành từng cụm lớn và tổ chức phòng ngự để ngăn chặn. Đảng ủy, Ban chỉ huy Trung đoàn đã kịp thời thay đổi phương châm hoạt động, hết sức linh hoạt trong sử dụng lực lượng và cách đánh như dùng lực lượng nhỏ đánh châm ngòi, nếu địch ra sẽ đánh lớn, phục kích đánh giao thông, tập kích khi địch đóng quân dã ngoại, pháo kích tiêu hao địch, phát triển chiến tranh du kích.

Theo phương án chiến đấu mới, Trung đoàn 2 chuyển sang phục kích đánh quân Mỹ trên đường số 13. Khu vực được chọn làm trận địa đón đánh địch là đoạn đường dài hơn 3 kilômét từ ngã ba Cây Đa đến cầu Cần Đâm. Đoạn đường này có hai cầu nhỏ, một qua dòng suối Tàu Ô và một qua suối Cần Đâm. Cả hai cầu đều bị hư hại, chi đi được từng xe một và xe phải giảm tốc độ khi qua cầu. Trên đoạn đường này còn một số công sự do bộ đội ta làm trong những trận phục kích đánh địch những năm trước. Hai bên đường rừng cây mọc dày, thuận tiện cho việc che giấu lực lượng và vận động cho bộ đội.

Ngày 25 tháng 5, Trung đoàn 2 hành quân đến vị trí tập kết cách đường hơn bốn kilômét. Cán bộ trung đoàn chúng tôi và các tiểu đoàn trưởng đều ra mặt đường nghiên cứu thực địa, sau đó bố trí lực lượng, vị trí phục kích và phân công, hiệp đồng giữa các đơn vị. Để giữ bí mật, bảo đảm thắng lợi cho trận đánh, chúng tôi tổ chức tuyến xuất phát xung phong cách đường từ 200 đến 500 mét.

21 ngày liền cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 2 kiên trì ém quân chờ quân Mỹ. Mỗi ngày ăn ba vắt cơm, có bữa thức ăm chỉ là một dúm muối, nhưng không một ai nao núng. Hàng ngày, các đơn vị vẫn ôn luyện kỹ thuật, chiến thuật, củng cố công sự và diễn tập xuất kích.

Trưa ngày 8 tháng 6 năm 1966, một đoàn xe cơ giới thuộc sư đoàn bộ binh Mỹ hành quân theo đường số 13 từ hướng Chơn Thành lên. Khi chiếc xe tăng M41 đi đầu đến cầu Tàu Ô, sau đó 17 xe tăng, xe bọc thép lọt vào trận địa phục kích, Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 diệt xe tăng M41 đi đầu chặn đoàn xe địch. Đại đội 2 và Đại đội 3 Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 nhanh chóng xuất kích. Nhưng do các đại đội nổ súng và xung phong không đồng loạt, một số xe địch đã kịp quay lại, cụm thành hình vòng để đối phó. May bay địch ném bom và bắn vào tuyến xuất phát của ta làm một số cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh. Trận đánh kéo dài, diễn biến phức tạp. Trung đoàn trưởng Trần Xoa phải đưa lực lượng dự bị Tiểu đoàn 6 vào trận, chặn xe địch đang từ phía sau dồn lên, bảo đảm cho Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 lúc này đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ tổ chức thu dọn chiến trường.

18 giờ cùng ngày, Trung đoàn 2 rút khỏi trận địa, trên đoạn đường từ Cần Đâm đến Tàu Ô có 40 xác xe địch (có 12 xe tăng M41, 19 xe bọc thép M113), trên 300 lính Mỹ, 200 lính ngụy bị thương và chết tại trận, 8 máy bay các loại của địch bị bắn rơi. Bộ đội ta thu nhiều súng đạn và đồ dùng quân sự. Trận đánh đã tô thắm thêm truyền thống diệt cơ giới của Trung đoàn 2.

Do hoạt động mạnh của ta trên đường 13, đặc biệt là sau khi ta phá sập cầu Cần Lê, địch buộc phải đưa 1 tiểu đoàn ngụy lên sửa chữa, bảo vệ cầu và càn quét thăm dò lực lượng ta bảo vệ các đoàn xe vận tải lên Lộc Ninh.

Mặc dù liên tiếp bị phục kích và bị tổn thất khá nặng nề, quân Mỹ vẫn không bỏ được đường 13, vì đây là con đường tiếp tế chính cho Bình Long, Lộc Ninh. Chúng còn phải đưa thêm lực lượng lên củng cố khu tam giác Hớn Quản – Chơn Thành – Minh Hòa nhằm bảo vệ tuyến phòng thủ Bắc Sài Gòn. Nhưng để tránh bị ta phục kích, địch tăng cường tuần tra, đưa tin đánh lạc hướng, dùng bom, pháo dọn đường… đồng thời chúng tìm ra những con đường khác và thường xuyên thay đổi quy luật hành quân. Ngoài đường 13, đoạn từ Hớn Quản đi Chơn Thành, địch còn sử dụng con đường Đá Đỏ nối liền Hớn Quản với Minh Hòa. Đây là đường độc đạo, nằm giữa đường 13 và sông Sài Gòn nên việc che giấu lực lượng và vận động phục kích của ta gặp khó khăn. Nhưng nếu giữ được bí mật, tổ chức công sự tốt và xuất kích đúng lúc, ta có thể dồn địch vào thế bất lợi để tiêu diệt.

Sau khi được Bộ chỉ huy Sư đoàn phổ biến tình hình, quy luật hoạt động của địch và giao nhiệm vụ chiến đấu; Đảng ủy và chỉ huy Trung đoàn 2 đã cử tôi và trinh sát đi chuẩn bị chiến trường. Qua nghiên cứu địa hình và phân tích tình hình địch, tôi nêu ý kiến với chỉ huy Trung đoàn.

Dùng lực lượng nhỏ phục kích đoạn Cần Đâm – Tàu Ô, ta vẫn có thể tranh thủ được yếu tố bí mật bất ngờ, đánh địch trên đường 13. Nhưng cần tạo thế tập trung lực lượng vận động phục kích địch trên con đường Đá Đỏ, đoạn Xa Cát – Minh Hòa để tiêu diệt lớn quân địch.

Ý kiến của tôi được tập thể chỉ huy Trung đoàn nhất trí.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:12:28 pm »

Ngày 28 tháng 6, Trung đoàn 2 chia lực lượng đi hai hướng. Hướng thứ yếu, một tiểu đoàn tăng cường phục kích đoạn Cần Đâm – Tàu Ô trên đường 13. Hướng chủ yếu sử dụng ba tiểu đoàn bộ binh (có một tiểu đoàn của Trung đoàn 16 do sư đoàn tăng cường) và toàn bộ hỏa lực của trung đoàn, phục kích trên chính diện 2 kilômét đoạn Xa Cát – Minh Hòa. Nhưng cho đến ngày 7 tháng 7 vẫn không có một đoàn xe nào của địch đi qua khu vực ta phục kích. Chúng tôi động viên các đơn vị giữ bí mật lực lượng, kiên trì ém quân, chờ đợi.

Ngày 8 tháng 7 năm 1966, nhiều máy bay trinh sát và máy bay lên thẳng vũ trang của địch bay lên khu vực Xa Cát – Minh Hòa. Một tiểu đoàn Mỹ hành quân ra Sở cao su Xa Cát.

Sáng ngày 9 tháng 7, các trận địa pháo binh địch ở Hớn Quản, Chơn Thành bắn phá phía bắc và nam cầu Xa Cát. Tiếp đó là máy bay phản lực, máy bay chiến lược B-52 ném bom hủy diệt các vạt rừng hai bên đường.

Từ 9 giờ đến 10 giờ, không quân và pháo binh địch bắn phá nhiều đợt nữa, yểm hộ cho đoàn xe cơ giới vượt cầu Xa Cát. Xe địch đậy nắp kín vừa chạy vừa bắn mạnh. Máy bay phản lực và trực thăng vũ trang tiếp tục ném bom bi, bom phá, bắn rốc két, bắn đạn 20 ly xuống hai bên đường.

Bộ đội ta kiên trì, bí mật ém quân đợi địch. 10 giờ 12 phút đoàn xe địch dẫn xác tới. Đại đội 8 Tiểu đoàn 5 làm nhiệm vụ chặn đầu, nổ súng diệt 1 xe M113. Các mũi xung kích lao lên mặt đường chia cắt không cho xe địch cụm lại. Hướng chính diện, Đại đội 6 dùng hỏa lực diệt 4 xe và cho bộ đội xung phong. Tiểu đoàn 4 làm nhiệm vụ khóa đuôi, vận động chiến đấu dưới tầm hỏa lực của địch. Nhiều khẩu đội cối, ĐKZ 75 đưa súng ra sát mép đường, bắn chính xác vào từng xe địch. Các khẩu đội súng máy cao xạ 12,7 ly bắn mạnh buộc máy bay địch phải vọt lên cao.

Với kinh nghiệm từ trận Cần Đâm và với sở trường của đơn vị có truyền thống diệt cơ giới, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 2 chúng tôi kiên quyết chia cắt không cho quân địch co cụm, phát huy hỏa lực B40, ĐKZ diệt từng chiếc và từng cụm xe.

Trung đội trưởng Nguyễn Hữu Chỉnh bị đạn địch dập gãy hai chân. Anh giao nhiệm vụ chỉ huy cho trung đội phó, cố sức dùng khuỷu tay lết tới khẩu B40 của một chiến sĩ đã hy sinh bắn tiếp hai quả đạn, diệt 2 xe tăng M41. Do vết thương quá nặng anh đã hy sinh trong trận này.

Chiến sĩ Lê Hòa Tiêu nhờ đồng đội chặt đứt hẳn cánh tay bị dập nát để có thể tiếp tục chiến đấu. Anh được đồng đội khâm phục, tặng danh hiệu “La Văn Cầu của miền Nam”.

Sau gần 2 giờ chiến đấu, bộ đội ta diệt 35 xe (có 30 xe M113, 5 xe tăng M41 và M48), bắn rơi 8 máy bay các loại.

Ngày 4 tháng 11 năm 1966, lữ đoàn 196 Mỹ tiếp tục đổ thêm quân xuống trảng trống phía tây bắc Bàu Gòn. Sau khi dùng máy bay, pháo binh bắn phá dọn đường, chúng bắt đầu tổ chức xung phong. Mỗi tiểu đoàn Mỹ triển khai hai mũi đột phá (mỗi mũi một đại đội). Một đại đội khác làm lực lượng dự bị. Vừa hành quân đến trong đêm, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 đã tranh thủ cải tạo các công sự có sẵn và xây dựng thêm một số công sự mới, hình thành khu vực trận địa hình tròn rộng khoảng một kilômét vuông. Chờ quân Mỹ vào đến tầm bắn có hiệu quả nhất, bộ đội ta mới nổ súng, đánh lui chín đợt xung phong của địch.

Đêm xuống, quân Mỹ rút ra ngoài trảng, cụm lại chờ tiếp viện. Bộ đội ta cũng tranh thủ củng cố công sự, sơ bộ rút kinh nghiệm trận đánh trong ngày, chuẩn bị cho trận đánh lớn hơn chắc chắn sẽ diễn ra trong ngày hôm sau.

Ngày 5 tháng 11, thêm một tiểu đoàn thuộc lữ đoàn 2, sư đoàn bộ binh cơ giới Mỹ 25 “tia chớp nhiệt đới” đổ quân xuống Trảng Dài, đông bắc trận địa của Tiểu đoàn 9, hình thành một mũi tiến công mới. Lữ đoàn 196 tổ chức hai mũi, một từ Bàu Gòn đánh lên và một mũi tiến theo lộ Bà Hảo – suối Ông Hùng. Trận đánh ác liệt, kéo dài gần suốt ngày 5 tháng 11. Tiểu đoàn 9 giữ vững trận địa. Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196, một lữ đoàn được Mỹ tổ chức, trang bị và huấn luyện theo yêu cầu tác chiến ở vùng rừng núi châu Á bị tổn thất nặng ngay trong trận ra quân đầu tiên. Quân Mỹ chết và bị thương 600 tên. Trung đoàn 2 có 21 cán bộ, chiến ĩ hy sinh, 46 đồng chí bị thương.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Năm, 2019, 03:22:05 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:13:51 pm »

Chiều ngày 5 tháng 11, quân Mỹ phải rút lực lượng còn lại về hậu cứ để củng cố. Bộ tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam buộc phải đình chỉ một số cuộc hành quân trên các hướng khác, đưa toàn bộ sư đoàn 1 bộ binh, sư đoàn bộ binh cơ giới 25, lữ đoàn 173 cơ động, trung đoàn 11 thiết giáp lên đối phó với ta ở khu vực Tây Ninh. Quân Mỹ ra quân hùng hổ. Bộ binh cơ giới tiến theo trục lộ 4 lên Kà Tum, Sóc Mo. Máy bay lên thẳng đổ quân chiếm các bàn đạp có lợi. Ban đêm chúng cụm lại ở các trảng, trong đó có một số cụm lớn ở Đồng Pan, Tà Dạt, Sóc Con Trăng…

Các đơn vị chúng tôi tiếp tục bám đánh địch trên đường liên tỉnh 4. Một bộ phận đánh vào sau lưng địch, phối hợp với quân và dân Tây Ninh. Trung đoàn 1 tổ chức nhiều tổ phục kích diệt cơ giới, phát huy cách đánh bằng lực lượng nhỏ, bất ngờ, diệt 8 xe M113. Ngày 19 tháng 11, trung đoàn đánh địch càn quét ở khu vực Khe Du, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên Mỹ. Nhưng một số đơn vị không đánh được vì cơ động chậm. lại bị hỏa lực địch ngăn chặn, không bám được được, một phần khác do cán bộ đơn vị không coi trọng đúng mức cách đánh nhỏ với lực lượng thích hợp, không linh hoạt trong xử trí tình huống.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Tây Ninh, đặc biệt là quân dân các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu đẩy mạnh hoạt động diệt ác ôn, phá “ấp chiến lược”, đánh giao thong trên các đường số 22, đường số 1… làm cho quân Mỹ thêm lúng túng trong cách đối phó.

Quân dân Củ Chi, Long An, Bến Tre, Mỹ Tho… cũng hoạt động mạnh. Đặc biệt, trong trận chống càn ở khu vực Dầu Tiếng (ngày 20 tháng 11), lực lượng vũ trang địa phương đã diệt và làm bị thương gần 100 tên Mỹ, bắn rơi 5 máy bay lên thẳng, trong đó có tên chỉ huy phó cuộc càn.

Ngày 18 tháng 11, quân Mỹ buộc phải có lực lượng lại, điều chỉnh kế hoạch hành quân. Phát hiện kịp thời âm mưu của địch, Bộ Tư lệnh Miền lệnh cho chúng tôi bám đánh địch trên các đường chúng rút quân, chủ yếu là trên đường liên tỉnh 4. Đêm 21 tháng 11, Trung đoàn 1 pháo kích cụm quân Mỹ đóng dã ngoại ở Tà Dạt, làm thương vong hơn 100 tên. Đêm 22 tháng 11, Trung đoàn 16 pháo kích trận địa pháo binh địch ở Suối Đa, phá hủy 2 khẩu pháo 105.

Ngày 25 tháng 11, Trung đoàn 2 chúng tôi tập kích cụm quân Mỹ ở Dầu Tiếng, làm bị thương vong hơn 300 tên, phá hủy 5 máy bay lên thẳng, 2 khẩu pháo 105, phá hủy 12.000 lít xăng.

Cuộc hành quân Áttơnborơ, mở đầu cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam chấm dứt. Trong hơn 20 ngày chiến đấu liên tục, với số quân chưa được bổ sung đầy đủ, tương quan lực lượng chênh lệch, nhất là binh khí kỹ thuật và hỏa lực, Sư đoàn 9 được tăng cường Trung đoàn 16 đã đánh 32 trận (có 8 trận cấp tiểu đoàn, 1 trận cấp đại đội, 23 trận nhỏ khác), loại khỏi vòng chiến đấu 3.400 tên địch (có gần 3.000 tên Mỹ), bắn rơi và phá hủy 55 máy bay, bắn cháy 23 xe bọc thép, phá hủy 7 khẩu pháo. Cùng với quân và dân Tây Ninh, Sư đoàn 9 đã mở đầu Đông – Xuân 1966 – 1967 bằng một thắng lợi giòn giã.

Tháng 11 năm 1966, tôi được cấp trên bổ nhiệm làm Trung đoàn phó Trung đoàn 2 Sư đoàn 9.

Ngày 8 tháng 1 năm 1967, sau một thời gian chuẩn bị, quân Mỹ mở tiếp cuộc hành quân Xêđa Phôn, càn quét vùng “tam giác sắt” Củ Chi – Bến Cát – Bến Súc. Địch huy động trên 3 vạn quân, gồm 3 lữ đoàn Mỹ, 3 chiến đoàn ngụy, nhằm củng cố và nới rộng vành đai an ninh phía bắc Sài Gòn, đẩy chủ lực ta ra xa, tìm diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của thành phố Sài Gòn – Gia Định, chuẩn bị bàn đạp để tiếp tục đánh phá căn cứ Dương Minh Châu. Quân và dân Củ Chi và vùng “tam giác sắt”, có sự phối hợp chiến đấu của Trung đoàn 2 chúng tôi đã dựa vào hệ thống địa đạo và xã ấp chiến đấu, diệt và làm bị thương 300 tên Mỹ - ngụy, đánh bại hai cuộc hành quân lớn của địch.

Củ Chi, Bến Cát, Bến Súc vẫn là “vùng tam giác sắt” ở cửa ngõ phía bắc Sài Gòn, nơi phong trào chiến tranh du kích phát triển cao và là địa bàn hoạt động của Trung đoàn 2 chúng tôi, thường xuyên uy hiếp trung tâm đầu não chỉ huy cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đầu tháng 2 năm 1967, Bộ chỉ huy quân Mỹ quyết định tập trung hơn nữa binh lực, hỏa lực, mở cuộc hành quân Gianxơn Xity đánh thẳng vào căn cứ Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến của ta là Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, Sư đoàn 9 chủ lực của Quân giải phóng và Đài phát thanh Giải phóng. Chúng ngăn đường biên giới, tiệt phá kho tàng dự trữ hậu cần của ta nhằm giành lấy một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định cho cuộc phản công mùa khô lần thứ hai để tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện có lợi cho chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:15:22 pm »

Tham gia cuộc hành quân này, Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn đã huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ gồm sư đoàn 1, sư đoàn 25, sư đoàn 4, sư đoàn 9, lữ đoàn 196 và lữ dù 173. Quân ngụy có 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến. Ngoài ra, quân Mỹ còn sử dụng 12 đại đội biệt kích Mỹ. Về cơ giới, tổng số xe tăng và xe bọc thép quân Mỹ tung vào cuộc càn khoảng 1.200 chiếc gồm M113, M114, M41, M40. Pháo binh có 256 khẩu từ 105 ly đến 203 ly và pháo tự hành. Không quân gồm 162 máy bay chiến đấu, 300 máy bay trực thăng, 45 máy bay vận tải và 22 máy bay trinh sát.

Về phía ta, khu căn cứ Tây Ninh được gọi là căn cứ Khu B (địch gọi là Chiến khu C) thuộc phần đất phía bắc huyện Dương Minh Châu của tỉnh Tây Ninh (sau được tách ra thành lập huyện Tân Biên) nằm giữa hai sông Vàm Cỏ ở phía tây và sông Sài Gòn ở phía đông. Phía bắc và tây bắc giáp biên giới Campuchia, phía nam giáp liên tỉnh lộ 13. Diện tích toàn khu căn cứ khoảng 1.500km2. Dân số bị địch gom về vùng chúng kiểm soát, đến khi quân Mỹ vào chỉ còn khoảng 800 người theo cách mạng ở rải rác dọc theo biên giới và dọc sông Vàm Cỏ, trên các khu vực Xóm Giữa, Lò Gò, Tà Nốt, có một số ít ở Kà Tum, Sóc Mới làm nghề nương rẫy và tham gia công tác vận tải tiếp tế cho bộ đội. Vùng trung tâm căn cứ không có dân, chỉ có cán bộ, nhân viên các cơ quan, nhà trường, công xưởng, bệnh viện, kho tàng thuộc Bộ Tư lệnh Miền và các ngành dân – chính – đảng trực thuộc Trung ương Cục miền Nam.

Địa hình khu căn cứ là vùng tiếp giáp đồng bằng với rừng núi, thuộc loại rừng bằng, gồm có một số khu vực rừng già xen kẽ rừng chồi, rừng tre và trảng trống. Rừng già ở dọc theo biên giới có nhiều cây gỗ to và quý, nhiều chỗ còn che khuất mặt đường, nhưng ở phía nam căn cứ, dọc theo lộ 22, lộ 4, lộ Đá Đỏ, rừng bị chất độc hóa học làm trụi lá, chỉ còn trơ các thân cây chết đứng. Ở đây có rừng tre và rừng le mọc dày đặc khắp nơi, có khả năng tái sinh mạnh, che kín căn cứ dưới tầng lá thấp, đồng thời là chướng ngại thiên nhiên chống xe tăng, xe cơ giới địch. Các sông suối trong khu căn cứ mùa mưa nước nhiều rất cản trở cho việc đi lại và hoạt động của bộ đội. Mùa khô, sông suối nước cạn khô, đi lại thuận tiện, không cản trở nhiều cho hành quân cơ giới.

Hệ thống đường bộ bao quanh chia cắt căn cứ bằng nhiều lộ đá, lộ kiểm lâm, lộ khai thác gỗ, xe cộ đi lại dễ dàng, thuận lợi cho việc cơ động, chuyển quân. Từ bắc xuống nam có đường 22, đường 4 rải đá, từ đông sang tây có lộ Đá Đỏ nối liền Hớn Quản với Kà Tum, từ đó cắt qua đường 22 và liên tỉnh lộ 13 có các lộ: Kiểm Lâm, Kà Tum, Xa Mát, Bà Chiêm, Vô Tùng, Bổ Tức, Chà Dơ, Đồng Pan, Cần Đăng, Thiện Ngôn, Lò Gò, Xom Giữa; mùa khô xe chạy tốt.

Căn cứ của Trung ương Cục, nhà làm nửa nổi nửa chìm, có hầm chữ A chắc chắn. Cơ quan, kho tàng ở dọc theo suối và các khu rừng già, rừng le, theo từng cơ quan, đơn vị, có hầm hố, công sự giao thông hào và đường cắt bí mật, nối tiếp nhau chằng chịt, được che kín dưới rừng cây và tầng lá ngụy trang, địch khó phát hiện.

Nhìn chung địa hình khu căn cứ bắc Tây Ninh rừng bằng, cây cối tuy bị chất độc hóa học phát quang nhưng vẫn còn che kín được nhiều khu vực mặt đất, sông suối cạn, đường sá nhiều, nhưng dễ bị bao vây chia cắt. Khu căn cứ Trung ương Cục nhờ được xây dựng từ lâu và được cải tạo tốt nên cũng thuận lợi cho việc tổ chức bám trụ phòng thủ tại chỗ, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch.

Từ tháng 6 năm 1966, biết được âm mưu trong cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của Mỹ là đánh phá quy mô trên diện rộng vào căn cứ của ta, Bộ Tư lệnh Miền đã có chủ trương chỉ đạo việc củng cố lại việc phòng thủ căn cứ theo phương châm bám trụ chiến đấu tại chỗ, xây dựng mạng lưới chiến tranh nhân dân trong vùng căn cứ ít dân và không dân, phối hợp với hoạt động tác chiến của một bộ phận chủ lực Quân giải phóng kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân của địch.

Để chuẩn bị cho cuộc hành quân then chốt Gianxơn Xity, quân Mỹ mở hàng loạt các hành động thăm dò, nghi binh, dọn bãi. Đặc biệt, ngày 2 tháng 11 năm 1968, khi ta hoàn thành xong công tác chuẩn bị chiến dịch, các đơn vị vào đến vị trí tập kết thì lữ đoàn 196 Mỹ đổ quân xuống Bàu Gòn. Địch tăng cường thêm lực lượng cho cuộc hành quân Áttơnborơ (14-9 đến 25-11-1966) với 30 nghìn quân mở đầu cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ trên chiến trường miền Nam. Trong hơn 20 ngày chiến đấu liên tục, Sư đoàn 9 chúng tôi đã phối hợp với du kích cơ quan đánh hơn 30 trận (có 8 trận cấp tiểu đoàn) loại khỏi vòng chiến đấu 3.400 tên địch (có gần 3.000 tên Mỹ), bắn rơi và phá hủy 55 máy bay, bắn cháy 23 xe bọc thép, phá hủy 7 khẩu pháo. Riêng Tiểu đoàn 170 bảo vệ diệt 5 xe M113 và 40 tên Mỹ. Cơ quan B5 diệt 8 xe M113 và 55 tên Mỹ, du kích hậu cần dùng mìn ĐH10 diệt 120 tên Mỹ, bắn rơi 5 máy bay trực thăng, bảo vệ được kho tàng…

Ngày 8 tháng 1 năm 1967, sau thất bại của cuộc hành quân Áttơnborơ, quân Mỹ không cam chịu thất bại, chúng lại mở tiếp cuộc hành quân Xêđa phôn cũng với số quân 30 nghìn, càn quét vùng “Tam giác sắt” Củ Chi – Bến Cát – Bến Súc nhằm củng cố và nới rộng vành đai an ninh phía bắc Sài Gòn, đẩy chủ lực ta ra xa, tìm diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của thành phố Sài Gòn – Gia Định, chuẩn bị bàn đạp để tiếp tục đánh phá căn cứ Dương Minh Châu. Quân dân Củ chi và vùng “Tam giác sắt”, có sự phối hợp chiến đấu của Trung đoàn 2 Sư đoàn 9, đã dựa vào hệ thống địa đạo và xã, ấp chiến đấu, diệt và làm bị thương gần 300 tên Mỹ. Củ Chi, Bến Cát và Bến Súc vẫn là vùng “Tam giác sắt” ở cửa ngõ phía bắc Sài Gòn, nơi có phong trào chiến tranh du kích phát triển cao, thường xuyên uy hiếp trung tâm đầu não chỉ huy cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:16:47 pm »

Cuối tháng 2 năm 1967, Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn quyết định tập trung lực lượng 45 nghìn quân Mỹ, gồm 31 tiểu đoàn bộ binh và dù, 1 trung đoàn và 8 tiểu đoàn xe tăng – thiết giáp khoảng 500 chiếc do trung tướng Simân, chỉ huy cuộc hành quân Gianxơn Xity đánh thẳng vào căn cứ Dương Minh Châu. Oétmolen – Tư lệnh quân đội Mỹ ở Sài Gòn công khai thông báo trước mục tiêu: Tiêu diệt cơ quan đầu não Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, bắt Đài phát thanh Giải phóng câm họng, phá nát căn cứ Bắc Tây Ninh, diệt Sư đoàn 9 chủ lực Việt cộng, giành thắng lợi quyết định cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam.

Với lực lượng huy động như vậy, Mỹ đã thể hiện một trong những cố gắng cao nhất trong chiến tranh Việt Nam, cố gắng cao nhất trong cuộc phản công mùa khô thứ hai.

Sư đoàn 9 của ta vừa đánh bại cuộc càn Áttơnborơ của địch, được bổ sung quân số và trang bị các loại súng mới AK, RPĐ, B40… được tăng cường thêm Trung đoàn 16 bộ binh và các đơn vị pháo binh, cao xạ, công binh, thông tin trực thuộc Miền. Trung đoàn 1 chúng tôi đứng chân ở tây đường 22; Trung đoàn 2 đứng chân ở Chà Dơ; Trung đoàn 16 đứng chân ở Suối Dây; Trung đoàn 3 đứng chân ở Phước Sang (đông đường 13). Cơ quan Hậu cần Miền triển khai xong các đoàn hậu cần khu vực.

Ta còn triển khai các cửa khẩu tiếp nhận hàng viện trợ của Trung ương quá cảnh qua Campuchia đưa hàng thẳng về căn cứ.

Toàn bộ căn cứ đã hình thành thế trận chiến tranh nhân dân trong khu vực không có dân và triển khai xong kế hoạch phòng thù, bám trụ chiến đấu tại chỗ. Qua thắng lợi bẻ gãy cuộc hành quân Áttơnborơ của Mỹ, quân và dan ta càng vững lòng tin tưởng vào khả năng đánh bại các kế hoạch hành quân quy mô lớn của địch. Quân và dân miền Đông Nam Bộ có kinh nghiệm, nắm vững được quy luật hoạt động của địch, càng đánh càng mạnh. Vùng căn cứ của ta được chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng thế trận chờ địch. Ta có đầy đủ điều kiện khách quan để thắng địch. Bộ Tư lệnh Miền cho rằng các cuộc hành quân liên tiếp đầu mùa khô 1966-1967 đều có tính chất thăm dò, nghi binh, trinh sát chuẩn bị cho hành quân quy mô lớn đánh vào khu căn cứ chính của ta ở bắc Tây Ninh. Ta cũng nắm được ý đồ của Mỹ tập trung đánh lớn nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền, một bộ phận chủ lực của Đài phát thanh của ta trong căn cứ mà địch cho là mục tiêu chủ yếu trong cuộc phản công chiến lược mùa khô làn thứ hai của chúng.

Để thống nhất chỉ huy các lực lượng, tạo nên một thế trận mới của chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân ở một địa bàn thưa dân, Bộ Tư lệnh Miền quyết định phân chia căn cứ thành 11 “huyện”, mỗi “huyện” gồm một số cơ quan. Trong mỗi “huyện” lại chia thành nhiều “xã”. Thủ trưởng cơ quan giữ chức “huyện đội trưởng”, “xã đội trưởng”. Nhân viên các cơ quan (bác sĩ, y tá, văn công, chiến sĩ nuôi quân, nhân viên đánh máy…) tập hợp thành các đội du kích, được trang bị vũ khí, kể cả súng chống tăng B.40. Mỗi “huyện” thành lập một số phân đội bảo vệ, tổ chức hoạt động như bộ đội địa phương. Mỗi cơ quan, đơn vị đều dự trữ ba tháng lương thực, đạn dược. Một số kho gạo, kho đạn dược, phân tán thành những kho nhỏ và di chuyển đến vị trí an toàn hơn. Hệ thống hầm hào, công sự và thông tin chỉ huy trên các hướng được củng cố.

Kế hoạch tác chiến được Bộ Tư lệnh Miền xác định: Tư tưởng chỉ đạo phải quán triệt: “Chuẩn bị sẵn sàng để bám trụ vững chắc, thực hành phản công kiên quyết và tấn công mạnh mẽ, liên tục, kết hợp chặt chẽ ba thứ quân đánh nhỏ, đánh vừa và tạo điều kiện đánh lớn bảo đảm đánh dài ngày, mạnh bạo nhưng chắc thắng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ được cơ quan và kho tàng trong vùng căn cứ”. Về phương châm tác chiến, Bộ Tư lệnh Miền nêu rõ; “Du kích cơ quan, bộ đội địa phương và bộ đội bảo vệ căn cứ bám trụ đánh địch tại chỗ, giữ chắc các ấp xã chiến đấu, nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu hao tiêu diệt địch rộng rãi, vừa chiến đấu vừa bảo đảm công tác phục vụ cho chiến đấu, bảo vệ an toàn cho cơ quan căn cứ kho tàng, duy trì được sinh hoạt bình thường trong căn cứ đánh lâu dài với địch. Bộ đội chủ lực tập trung và phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp hỗ trợ cho du kích cơ quan, thực hiện đánh vừa, tạo điều kiện và nắm thời cơ đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch bằng phục kích và tập kích, bẻ gãy các mũi hành quân của địch.

Ta xác định hướng tác chiến chủ yếu của chiến dịch nhằm vào các khu vực trên đường 4 từ Bàu Cỏ đến Kà Tum; trên lộ Kiểm Lâm từ Chà Dơ đến Bổ Tức; trên lộ Đá Đỏ từ Sóc Con Trăng đến Suối Ngô. Ta xác định các khu vực chọn sẵn để đánh trận then chốt phản công là Bàu Cỏ, Đồng Pan, Kà Tum, Chà Dơ, Đồng Rùm, Bố Tức, Sóc Con Trăng, Bà Chiêm, Suối Ngô. Còn khu vực phòng thủ chủ yếu trong căn cứ là khu vực cơ quan Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Năm, 2019, 08:24:18 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:18:20 pm »

*

Đêm 21 tháng 2 năm 1967, máy bay chiến lược B-52 oanh tạc 19 lần, mỗi lần từ 3 đến 9 chiếc, ném bom rải thảm khu vực căn cứ Dương Minh Châu. Xen kẽ giữa các đợt hoạt động của B-52 trong đêm 21 và trong cả ngày 22 tháng 2 là 234 lần xuất kích của máy bay cường kích chiến thuật.

5 giờ sáng ngày 22, quân Mỹ bắt đầu xuất phát tiến công. Bộ binh cơ giới tiến theo liên tỉnh lọ 4, đóng chốt ở Bàu Cỏ, Đồng Pan, Sóc Ky. Một số mũi vòng qua hướng bắc, tây bắc, lên tới Kà Tum. Từ 5 giờ đến 14 giờ cùng ngày, máy bay lên thẳng cơ động 7 tiểu đoàn bộ binh, cả xe tăng, pháo lớn từ vị trí tập kết lên khu vực càn quét (cự ly khoảng 40 kilômét).

Với phương tiện hiện đại, ngay trong ngày ra quân, quân Mỹ đã triển khai được 8 lữ đoàn bộ binh và hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, pháo, cối… bao vây và án ngữ toàn bộ khu vực căn cứ của ta trên các mũi đổ bộ bất ngờ bằng máy bay lên thẳng và thọc sâu bằng xe tăng, xe bọc thép, vu hồi vào phía sau và đánh xuyên qua từng khu vực. Địch gọi chiến thuật này là “bủa lưới phóng lao” nhằm chụp bắt cơ quan lãnh đạo, hợp vây tiêu diệt các đơn vị chủ lực ta.

Sau khi đổ quân, chúng đóng thành từng cụm, thông thường mỗi cụm một tiểu đoàn, cụm lớn là một lữ đoàn bộ binh, tiểu đoàn pháo binh và cơ giới. Các cụm này nối liền với nhau, có thể chi viện, yểm trợ cho nhau. Mỗi cụm là một vị trí bàn đạp và tập kết lực lượng để thọc sâu, đánh phá căn cứ của ta. Khi hành quân bằng cơ giới, xe tăng, xe bọc thép địch không đi trên đường mà cắt rừng đi cách đường khoảng 20 đến 30 mét. Nhiều khi xe địch chạy ngoằn ngoèo hình rắn lượn và thường thay đổi tốc độ, lợi dụng tiếng máy bay át tiếng động cơ… để tạo thế bất ngờ, phát huy sức mạnh đột kích và tránh hỏa lực chống tăng của ta.

Nhưng trái với sự tính toán trong kế hoạch, quân Mỹ không “vồ trúng” cơ quan lãnh đạo, không diệt được một đơn vị chủ lực nào của ta, lại bị các đội du kích cơ quan đánh trả ở khắp nơi. Ngay trong ngày đầu của cuộc hành quân, chúng bị thương vong 191 tên, 16 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 16 máy bay các loại bị bắn rơi.

Trên đường liên tỉnh 4, có 11 xe địch bị các tổ diệt cơ giới của ta phục kích bắn cháy. Đây là bất ngờ lớn đối với Oasinhtơn và các tướng tá Mỹ chỉ huy cuộc hành quân. Bởi vì theo sự tính toán lý thuyết của chúng, với hỏa lực không quân, pháo binh dọn đường như vậy, thì đến cả thú rừng cũng không thể tồn tại ở khu vực hành quân. Sau ngày đầu ra quân ào ạt, từ ngày thứ hai, tốc độ hành quân của địch bắt đầu chậm lại. Chúng vừa đi, vừa thăm dò, tìm cách đối phó, có lúc phải dừng lại để giải quyết hậu quả. Nhiều trường hợp mới chỉ nghe tiếng súng của ta, lính Mỹ đã vội chạy tìm nơi ẩn nấp, gọi phi pháo đánh phá để phân tuyến, sát thương lực lượng ta rồi mới tiếp tục hành quân.

Hoạt động của các đội du kích cơ quan trong những ngày đầu đã tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, đánh đòn phủ đầu vào tinh thần chiến đấu của quân Mỹ, tạo điều kiện cho các trung đoàn chủ lực đánh vào hai bên sườn và phía sau đội hình hành quân của địch.

Ngày 26 tháng 2, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 2 vận động tập kích cụm quân Mỹ ở Trảng A Lấn, làm thương vong 150 tên. Ngày 28 tháng 2, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 16 tập kích cụm cơ giới Mỹ ở gần cầu suối Ông Hùng, phá hủy 31 xe, diệt và làm bị thương gần 200 tên. Các phân đội pháo của sư đoàn và các trung đoàn liên tục pháo kích sở chỉ huy hành quân địch ở Dầu Tiếng, căn cứ hậu cần chiến dịch của quân Mỹ ở Suối Đá, cụm quân Mỹ ở Tà Xia…

Hãng tin Pháp AFP ngày 26 tháng 2 đưa tin với lời bình luận: “Bộ chỉ huy Mỹ đã thừa nhận cuộc mạo hiểm lớn này là thất bại”. Tướng Simân chỉ huy cuộc hành quân thú nhận: “Quân Mỹ đã không đến được “Lầu năm góc” của Việt cộng”, “chúng ta đến đây mà không giết được ai và không tìm thấy gì cả thì thật là chưng hửng…”.

Hành quân và chiến đấu trong điều kiện thời tiết nóng nực, phải bỏ nhiều công sức đào công sự để tránh bị ta pháo kích, ban ngày bị ta chặn đánh, ban đêm bị du kích cơ quan quấy rối không ngủ được nên sức khỏe và tinh thần chiến đấu của lính Mỹ giảm sút rõ rệt. Số quân ốm đau lên tới 16 phần trăm. Từ ngày 1 đến ngày 13 tháng 3, địch đầu phải co lực lượng về chốt giữ trục đường 22, tìm cách đánh mới.

Theo dõi diễn biến mấy ngày đầu, Bộ Tư lệnh Miền nhận thấy, quân Mỹ đã tập trung lớn lực lượng, ra quân ào ạt, hợp đồng binh hỏa lực chặt chẽ. Nhưng khi tiến vào khu căn cứ rộng hàng nghìn kilômét vuông mà không nắm được mục tiêu đánh chiếm cụ thể lại bị ta đánh mạnh và rộng khắp ngay từ đầu, chúng bắt đầu có biểu hiện dao động. Do đó, cần tập trung chủ lực đánh những đòn tiêu diệt lớn, đánh mạnh vào tin thần quân Mỹ, làm thất bại hoàn toàn cuộc hành quân càn quét của chúng.

Theo tinh thần chỉ dạo đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 2 vận động tập kích, tiêu diệt cụm quân Mỹ ở Đồng Pan. Nhưng trong khi đi nghiên cứu tình hình, anh Trần Xoa, Trung đoàn trưởng hy sinh. Công tác chuẩn bị cho trận đánh triển khai chậm và có nhiều khó khăn.

Tối ngày 10 tháng 3 năm 1967, Tư lệnh sư đoàn Hoàng Cầm điện cho tôi:

- Anh Trần Xoa hy sinh, tôi giao cho anh làm Trung đoàn trưởng chỉ huy diệt bằng được cụm quân Mỹ ở Đồng Pan.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:19:20 pm »

Nhận được lệnh sư đoàn, tôi tranh thủ hội ý với anh Nguyễn Tấn Dành – Chính ủy:

- Nhiệm vụ trên giao phải tìm mọi cách tiêu diệt cụm quân Mỹ ở Đồng Pan. Tuy lực lượng của trung đoàn không tập trung, ta không thể diệt gọn cụm lữ đoàn hỗn hợp bộ binh, pháo binh, xe tăng của Mỹ. Nhưng chỉ cần một Tiểu đoàn 4 với hỏa lực của Trung đoàn là ta quyết tập kích cụm quân Mỹ.

Anh Tấn Dành suy nghĩ một lát rồi nói:

- Phải động viên cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn phát huy tinh thần chiến đấu quả cảm, kiên quyết thọc sâu, đánh gần thì nhất định ta sẽ tiêu diệt được quân Mỹ.

- Tôi nhất trí với ý kiến của anh. Tôi sẽ đi trực tiếp với Tiểu đoàn 4, anh ở lại nắm chắc tình hình. Ta quyết thắng trận này.

Nói rồi, tôi cùng một trợ lý tác chiến trung đoàn và một tổ trinh sát đi xuống Tiểu đoàn 4.

Gặp cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 4, ai nấy hăm hở chờ lệnh nổ súng, tôi thấy yêu mến họ biết bao. Tôi nói với Tiểu đoàn trưởng:

- Anh cho bộ đội kiểm tra vũ khí, trang bị lần cuối, tôi ra lệnh cho hỏa lực cối 82, ĐKZ 75, 12,7 của Trung đoàn bắn cấp tập, khi hỏa lực ngừng thì cho bộ đội xung phong.

Tiểu đoàn trưởng điện kiểm tra các đại đội, mười phút sau anh báo cáo:

- Báo cáo Trung đoàn trưởng, tất cả đã sẵn sàng.

Tôi ra lệnh nổ súng. Các loại hỏa lực của ta trút đạn chính xác xuống cụm quân Mỹ. Khi pháo binh vừa ngừng, bộ binh xung phong. Các chiến sĩ B40, B41 của Tiểu đoàn 4 lợi dụng đèn dù, pháo sáng của địch nhằm từng chiếc xe tăng, xe bọc thép của quân Mỹ nhả đạn.

Cuộc chiến đấu kéo dài gần 1 tiếng đồng hồ, Tiểu đoàn 4 đã diệt, làm bị thương gần 500 tên Mỹ, phá hủy 12 khẩu pháo, 150 xe quân sự (có 50 xe tăng, xe bọc thép).

Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất của chiến dịch. Sau trận này tôi được tặng Huân chương Chiến công hạng nhì.

Ngày 13 tháng 3 năm 1967, bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam cách chức tướng Simân – chỉ huy cuộc hành quân và dùng máy bay lên thẳng bốc quân, rút khỏi Kà Tum, Bổ Tức và một số cụm ở tây bắc tỉnh Tây Ninh.

Trên khu vực chiến dịch chỉ còn lữ đoàn 196 bộ binh nhẹ chốt tại Đồng Pan, Bàu Cỏ trên trục đường 4. Đợt một cuộc hành quân Gianxơn Xity của địch kết thúc.

Sư đoàn 9 cùng cán bộ, nhân viên các cơ quan trong khu vực căn cứ Dương Minh Châu và quân dân tỉnh Tây Ninh đã chiến đấu rất anh dũng, bảo vệ được lực lượng, cơ quan, kho tàng; loại khỏi vòng chiến đấu gần 6.000 tên Mỹ, bắn rơi và phá hủy 90 máy bay, phá hủy 497 xe quân sự (có 352 xe tăng, xe bọc thép), 33 khẩu pháo và nhiều phương tiện chiến tranh khác, làm thất bại các mục tiêu hành quân của địch.

Phân tích âm mưu và hành động của địch sau đợt một, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền nhận thấy: Địch đã bị thua đau, không thực hiện được ý định, nhưng chúng còn lực lượng và tham vọng. Những ngày mới, có thể chúng sẽ tiếp tục càn khu vực đông sông Tha La đến tây sông Sài Gòn, từ bắc liên tỉnh lộ 13 đến biên giới (tỉnh Tây Ninh). Lực lượng hành quân như đợt một, riêng xe tăng có thể ít hơn và chúng sẽ phải thay đổi cách đánh.

Về phía ta, trong đợt một, du kích các cơ quan đánh tốt. Bộ đội chủ lực đánh được một số trận nhưng do chưa quán triệt đầy đủ quyết tâm và phương châm chỉ đạo tác chiến nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tiêu diệt địch.

Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định động viên cao nhất sức mạnh tổng hợp các lực lượng, điều chỉnh lại thế bố trí, chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm chống càn đợt một. Nếu địch tiếp tục hành quân đợt hai sẽ tập trung lực lượng chủ lực đánh cho được một, hai trận tiêu diệt tương đối lớn, diệt cụm tiểu đoàn hoặc chiến đoàn địch; đồng thời nhanh chóng tăng cường trang bị nhất là mìn ĐH10 và súng chống tăng B40, bổ sung phương án chống càn cho du kích cơ quan, chỉ đạo lực lượng này bám đánh, tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, phối hợp với toàn chiến trường đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti và cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ.

Chúng tôi đã kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm, kiểm điểm sâu sắc ưu điểm, khuyết điểm trong đợt một. Đảng ủy, Ban chỉ huy Trung đoàn nhận thấy trung đoàn chưa thực hiện được quyết tâm đánh lớn, bỏ lỡ nhiều thời cơ tiêu diệt sinh lực địch là do tư tưởng ngại xe tăng, ngại hỏa lực phi pháo, muốn phân tán đánh nhỏ. Biểu hiện tư tưởng này xuất phát từ chỗ đánh giá địch quá cao, cho là chúng đã tập trung ưu thế tuyệt đối về không quân, pháo binh, cơ giới trên khu vực chiến dịch. Còn ta chỉ cơ động bằng đôi chân, hỏa lực phòng không yếu. Nếu tập trung binh lực đánh lớn sẽ dễ bị binh khí kỹ thuật địch sát thương.

Đảng ủy Trung đoàn 2 ra nghị quyết lãnh dạo tư tưởng chỉ đạo các đơn vị đấu tranh với những biểu hiệu bi quan, đánh giá địch cao, thống nhất nhận thức xây dựng trung đoàn để đánh tập trung đội hình trung đoàn. Chỉ có như vậy mới phát huy được vai trò quả đấm chủ lực trên chiến trường. Trong khi Trung đoàn còn có nhiều hạn chế về vũ khí trang bị, về phương tiện cơ động và thông tin liên lạc, muốn đánh lớn phải chủ động hiệp đồng, hiệp đồng theo tiếng súng, xây dựng lòng tin lẫn nhau giữa trên và dưới, giữa các đơn vị trong Trung đoàn, tin tưởng đơn vị đến tăng cường phối hợp.

Đảng ủy, Ban chỉ huy Trung đoàn 2 chỉ đạo các đơn vị khẩn trương chuẩn bị, quyết tâm đánh phủ đầu ngay khi quân Mỹ tiếp tục cuộc hành quân, đặc biệt sẽ tập rung lực lượng đánh một số trận tiêu diệt lớn. Nếu địch không càn sẽ nghiên cứu, đánh tiêu diệt một căn cứ xuất phát hành quân của chúng. Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Trung đoàn 2 và Trung đoàn 16 phản công địch trên hướng chính, Trung đoàn 1 chuyển về tây bắc Kà Tum làm lực lượng dự bị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM