Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 07:08:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức miền Đông  (Đọc 16622 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:22:22 pm »

*

Ngày 18 tháng 3 năm 1967, Mỹ tiếp tục đợt hai cuộc hành quân Gianxơn Xity. Chúng chia lực lượng thành hai cánh, càn quét khu vực đông bắc tỉnh Tây Ninh. Từ Dầu Tiếng (hướng tây nam) lữ đoàn 3 sư đoàn bộ binh 4, một tiểu đoàn của lữ đoàn 173 đổ quân bằng máy bay lên thẳng và tiến quân bằng cơ giới theo lộ Kiểm Lâm lên Đồng Rùm. Lữ đoàn 1 sư đoàn bộ binh cơ giới 25 tiến theo lộ ủi Bà Chiêm lên Đồng Kèn. Từ Hớn Quản, lữ đoàn 2 sư đoàn bộ binh 1, một bộ phận của trung đoàn thiết giáp 11 cơ động bằng máy bay lên thẳng và cơ giới tiến theo lộ Đá Đỏ, đóng chốt ở Bàu Trâm, Bàu Cối, nối liền với cụm quân ở Sóc Con Trăng bằng một cụm cơ giới và pháo binh ở phía nam ngã ba Bà Chiêm.

Rút kinh nghiệm đợt một, quân Mỹ tập trung từng cụm lớn có cả bộ binh, xe tăng, pháo binh, từ đó đánh tỏa ra xung quanh, vừa thăm dò, vừa phá, vừa thọc sâu vào căn cứ của ta, vừa chú trọng giữ vị trí bàn đạp. Chúng tỏ ra dè dặt, thận trọng hơn.

Nhưng cũng như đợt một, quân Mỹ đã bị chặn đánh trên tất cả các hướng ngay trong ngày đầu hành quân. Du kích cơ quan hậu cần Miền diệt 8 xe bọc thép trên đoạn đường từ Suối Đá lên Lộc Ninh. Ở Đồng Rùm, Mỹ đổ quân trúng bãi mìn ta đã bố trí sẵn. Tám máy bay lên thẳng nổ tung, nhiều lính Mỹ chết và bị thương. Trên đường 13, Trung đoàn 3 vận động từ xa, tập kích cụm quân Mỹ (lữ đoàn 1 sư đoàn vệ binh 9) khi chúng đang triển khai đội hình hành quân ở khu vực Bàu Bàng, làm thương vong gần 400 tên, phá hủy 92 xe quân sự (có 65 xe tăng, xe bọc thép) và 9 khẩu pháo.

Ngày 19 tháng 3 năm 1967, lữ đoàn 3 sư đoàn 4 và một tiểu đoàn của lữ đoàn 173 không vận đổ xuống Đồng Rùm. Đây là một trảng lớn, dài hơn 1.000 mét, rộng khoảng 800 mét. Xung quanh có nhiều trảng trống khác như Tri Giếc, Trảng Sài, Sóc Xoài, Chà Dơ, Trảng Tranh… Bìa trảng là những vạt rừng thưa, cây thân gỗ mọc xen với le, phần lớn lá cây đã trụi hết vì chất độc hóa học Mỹ. Phía tây trảng là Suối Dây và sông Tha La, phía nam là đường liên tỉnh 13, phía đông là lộ kiểm lâm Chà Dơ – Bổ Tức, phía bắc có lộ kiểm lâm từ trảng Sóc Xoài đến bờ sông Tha La. Đóng quân ở Đồng Rùm, quân Mỹ có thể tỏa ra, càn quét khu vực giữa liên tỉnh lộ 4 và lộ ủi Bà Chiêm. Sau khi đổ quân chiếm lĩnh toàn bộ khu vực trảng trong hai ngày 19 và 20 tháng 3, quân Mỹ ra sức củng cố công sự, hình thành hai tuyến phòng thủ. Tuyến ngoài có xe tăng, xe bọc thép đóng xen kẽ với bộ binh. Tuyến trong bố trí các cụm cơ giới, mỗi cụm có 3 hoặc 5 xe tăng, mỗi xe là một lô cốt di động, ngoài ra còn có 6 lô cốt bằng bê tông do máy bay cần cẩu chuyển tới, đứng giữa là sở chỉ huy, thông tin, trận địa pháo cối.

Khi Mỹ đổ quân, Trung đoàn 2 chúng tôi đang ở Chà Dơ, cách Đồng Rùm 5 kilômét về phía đông nam. Trung đoàn 16 đứng cách Đồng Rùm 7 kilômét về phía bắc. Sau đợt tác chiến thứ nhất, cả hai trung đoàn đã được củng cố về tổ chức, bổ sung quân số, trang bị. Mỗi tiểu đoàn có 350 cán bộ chiến sĩ. Ngoài súng bộ binh, được trang bị 4 khẩu cối 82, 3 khẩu ĐKZ 75, 3 khẩu súng máy cao xạ 12,7. Mỗi tiểu đội bộ binh có 1 khẩu trung liên và 1 súng chống tăng B40. Quyết tâm chiến đấu của các đơn vị rất cao, cán bộ, chiến sĩ đều sẵn sàng chờ lệnh chiến đấu, lập công.

Ngày 20 tháng 3, sau khi nghe trinh sát bao cáo kết quả điều tra cụm quân Mỹ ở Đồng Rùm, Đảng ủy Trung đoàn hạ quyết tâm nổ súng, đánh gấp ngay trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 3.

Đánh gấp, thời gian chuẩn bị ngắn sẽ có nhiều khó khăn về triển khai mạng thông tin chỉ huy, về bố trí pháo kiềm chế trận địa pháo địch, trận đánh có thể kéo dài sang ngày hôm sau, phải đối phó với không quân và quân tăng viện của địch, có thể xuất hiện nhiều tình huống mới vì bộ đội chưa nắm được cụ thể cách bố trí lực lượng và công sự của địch. Nhưng đánh gấp, Trung đoàn có thể phát huy cao độ yếu tố bất ngờ, khoét sâu được chỗ yếu của địch, tranh thủ lúc địch mới đổ quân, tổ chức hiệp đồng chưa chặt chẽ và chưa kịp củng cố công sự để tiêu diệt chúng. Trung đoàn 2 chúng tôi đột phá hướng chủ yếu, từ phía bắc đánh xuống.

Đêm 20 rạng ngày 21 tháng 3 năm 1967, chúng tôi đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa, tổ chức hiệp đồng giữa các hướng. Các đơn vị đều giữ bí mật tốt.

5 giờ 39 phút sáng 21 tháng 3, tôi ra lệnh bắt đầu nổ súng. Sau các loạt bắn cấp tập của cối, ĐKZ, tôi lệnh cho Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 6 đột phá qua tiền duyên, đánh nhanh, xung phong đồng loạt, diệt nhiều hỏa điểm và xe cơ giới địch, đánh bật các đợt phản xung phong của chúng.

Đại đội 2, Tiểu đoàn 4 nhanh chóng thọc sâu, đánh trúng sở chỉ huy địch. Phía bắc, hai tiểu đoàn 7 và 9 Trung đoàn 16 nhanh chóng vận động về hướng có tiếng súng, phối hợp chiến đấu với Trung đoàn 2 chúng tôi.

Sau ba giờ chiến đấu, bộ đội ta cơ bản diệt được sở chỉ huy địch (nói cơ bản vì tên lữ đoàn trưởng lữ đoàn 3 sư đoàn 4 chạy thoát bằng máy bay lên thẳng), diệt gần hết cụm quân Mỹ ở phía nam, đánh thiệt hại nặng cụm quân Mỹ ở phía bắc trảng. Lúc này trời đã sáng rõ. Từ các trận địa pháo ở Lộc Ninh, Bàu Cỏ pháo địch bắn mạnh vào các khu vực đã bị mất để sát thương lực lượng ta. Nhiều tốp máy bay phản lực, máy bay lên thẳng vũ trang rà thấp trên các vạt rừng xung quanh trảng, ném bom phá, bom bi để sát thương và ngăn không cho ta phát triển. Một đại đội xe tăng địch từ phía tây trảng tiến ra, hợp với lực lượng còn lại của cụm quân phía bắc phản kích quyết liệt trên các hướng Trung đoàn 16. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 9 đã anh dũng đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Nhưng nhiều đơn vị của ta cũng bị tổn thất nặng. Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 chỉ còn 9 cán bộ, chiến sĩ nên không đủ sức tiến công.

8 giờ sáng ngày 21 tháng 3, tôi lệnh cho các đơn vị thu dọn chiến trường, giải quyết thương binh tử sĩ và rút khỏi trận địa.

Trận này, quân Mỹ chết và bị thương 1.270 tên. Ba tiểu đoàn, gồm 1 tiểu đoàn bộ binh (lữ đoàn dù 1733, sư đoàn 4), 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn cơ giới bị tiêu diệt, 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn dù 173 Mỹ bị đánh thiệt hại nặng, 87 xe tăng M41, xe bọc thép M113 bị phá hủy, 12 máy bay các loại bị bắn rơi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2019, 02:23:55 pm »

Trong cuộc phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity của quân Mỹ, đây là trận đánh tiêu diệt lớn nhất của ta, một trận có ý nghĩa quyết định làm thất bại hoàn toàn cuộc hành quân lớn của địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của quân và dân Miền đập tan cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của trận đánh là kết quả của quá trình xây dựng, không ngừng nâng cao quyết tâm đánh Mỹ, tìm tòi, sáng tạo cách đánh quân Mỹ có trang bị hiện đại của cán bộ, chiến sĩ ta. Đặc biệt trong trận đánh này, chúng tôi đã có bước tưởng thành mới về vận động tập kích với thời gian chuẩn bị ngắn (7 giờ), về tinh thần chủ động hiệp đồng trong chiến đấu, về trình độ bắn súng, nhất là súng máy cao xạ, về sử dụng các phân đội nhỏ (tiểu đội, trung đội) thọc sâu, chia cắt làm tê liệt ngay từ đầu sở chỉ huy địch. Cán bộ, chiến sĩ chúng tôi đã tích lũy thêm kinh nghiệm với về chuẩn bị và tổ chức đánh cụm quân Mỹ đóng quân dã ngoại, về hành quân chiếm lĩnh trận địa, phát huy hỏa lực và thực hành xung phong đánh chiếm tiền duyên, tổ chức rút lui sau khi trận đánh kết thúc.

Sau khi bị thiệt hại nặng ở Đồng Rùm, cánh quân Mỹ trên hướng này bắt đầu co lực lượng lại. Lính Mỹ hoang mang, chỉ huy lúng túng. Hãng tin Mỹ AP ngày 27 tháng 3 bình luận: “Lính Mỹ đánh vào Chiến khu C Dương Minh Châu như người ta đấm vào một quả bóng”.

Ngày 1 tháng 4, quân Mỹ rút cụm Đồng Rùm và toàn bộ cámh quân trên hướng này về hậu cứ.

Ở hướng Sóc Con Trăng, Bàu Tràm, các mũi hành quân của quân Mỹ cũng liên tiếp bị tập kích phục kích. Một tiểu đoàn Mỹ đóng chốt ở Sóc Trâm bị du kích cơ quan bao vây, kiềm chế. Đây là thời cơ tốt để ta có thể tập trung chủ lực đánh tiêu diệt. Nhưng khi Trung đoàn 1 và Trung đoàn 16 cơ động lực lượng tới thì địch dùng máy bay lên thẳng bốc hết tiểu đoàn này, đồng thời đổ hai tiểu đoàn khác xuống Bàu Ba Vũng (tây bắc cầu Suối Ngô). Bộ chỉ huy chiến dịch lập tức thay đổi kế hoạch, sử dụng một tiểu đoàn kiềm chế và khẩn tương trinh sát nắm địch.Ngày 31 tháng 3, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 16 vận động tập kích cụm quân Mỹ ở nam trảng, đánh thiệt hại nặng hai đại đội địch, đanh lui ba đợt phản kích của chúng; đồng thời kiềm chế cụm quân Mỹ ở phía bắc, pháo kích cụm quân địch ở Sóc Con Trăng.

Đầu tháng 4 năm 1967, quân Mỹ bắt đầu rút lực lượng ra khỏi khu vực càn quét. Các trung đoàn chủ lực và các đội du kích cơ quan khẩn trương cơ động bám đánh địch ở các khu vực Cần Lê, Bình Phú, Hớn Quản… Nhưng do địch tổ chức rút quân có kế hoạch, tích cực nghi binh đánh lạc hướng ta để rút từng cụm, từng điểm bằng máy bay lên thẳng nên chúng tôi chỉ đánh được một số trận nhỏ.

Ngày 13 tháng 4, cụm quân Mỹ cuối cùng rút khỏi Sóc Con Trăng.

Cuộc hành quân Gianxơn Xity bắt đầu từ ngày 22 tháng 2 và kết thúc ngày 13 tháng 4 năm 1967 với thất bại hoàn toàn của quân Mỹ. Trên khu vực càn quét, địch chỉ đóng thêm được hai chốt ở Đồng Pan và Cần Lê. Các mục tiêu chính của cuộc hành quân như diệt cơ quan đầu não kháng chiến, diệt các sư đoàn chủ lực Miền, triệt phá căn cứ, kho tàng của ta, giành một thắng lợi quan trọng làm chuyển biến cục diện chiến tranh đều không thực hiện được. Quân Mỹ bị tổn thất rất nặng. Một phần tư binh lực (trên 1.400 tên) mà địch huy động vào cuộc càn bị thương vong; một nửa số pháo cối từ 105 ly trở lên (112 khẩu), một phần ba xe tăng, xe bọc thép (775 xe) bị phá hủy, 160 máy bay (có 144 máy bay lên thẳng) bị bắn rơi và phá hủy. Đây là một đòn đau, một bất ngờ lớn đối với cuộc hành quân đầy tham vọng và được tuyên truyền rùm beng lúc đầu. Hành động phản chiến, nghiện ma túy, không chấp hành lệnh chỉ huy lan truyền như một bệnh dịch trong lính viễn chinh Mỹ ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Nhiều thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch. Các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam, đòi rút quân về nước của nhân dân Mỹ ngày càng lan rộng đến tập thềm nhà Quốc hội Mỹ.

Trên chiến trường, gọng kìm “tiêu diệt” với cuộc hành quân lớn nhất là Gianxơn Xity đã bị bẻ gãy. Gọng kìm “bình định” bị đánh khắp nơi. Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ trong cuộc “chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam đã bị quân và dân ta đánh bại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:20:43 pm »

CHƯƠNG BA
ĐÁNH ĐỊCH TRONG THÀNH PHỐ SÀI GÒN TẾT MẬU THÂN 1968

Phân tích tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt là từ sau khi quân và dân ta đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của đế quốc Mỹ ở miền Nam và đánh bại các bước leo thang chiến tranh phá hoại của chúng trên miền Bắc, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận thấy một cục diện mới và những yếu tố của thời cơ chiến lược đang đến.

Tháng 6 năm 1967, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích – tổng khởi nghĩa. Phương hướng và mục tiêu cụ thể là tập trung lực lượng quân sự, lực lượng chính trị tiến công đồng loạt, bất ngờ vào nơi địch sơ hở nhất lúc này là các thành thị, hướng trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Sử dụng những quả đấm chủ lực mạnh, đánh quỵ từng binh đoàn chủ lực của ngụy, thu hút, kiểm chế lực lượng cơ động của Mỹ ở các chiến trường rừng núi Trị - Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Phối hợp ba mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận) trên cả ba vùng chiến lược, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng quân sự của Mỹ - ngụy, làm đảo lộn thế chiến lược của chính, đánh đổ ngụy quyền, làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Để thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo lực lượng vũ trang trên các chiến trường cả nước khẩn trương tiến hành các mặt công tác chuẩn bị, đặc biệt là “nâng cao trình độ đánh tiêu diệt lớn của bộ đội chủ lực”(1). Yêu cầu và mục tiêu cụ thể của đánh tiêu diệt lúc này là diệt lữ đoàn Mỹ ở ngoài công sự là chính, tranh thủ đánh địch trong công sự khi có điều kiện và chắc thắng; diệt sư đoàn ngụy ở ngoài công sự, trong vận động. Thực hiện “1 diệt, 4 cắt” (diệt chỉ huy, phá thông tin ngay từ đầu, cắt bộ binh với không quân, bộ binh với pháo binh, bộ binh với cơ giới, bộ binh với bộ binh). Quân ủy Trung ương chỉ rõ: “Trong mọi trường hợp phải có biện pháp làm giảm thương vong đến mức thấp nhất, nhưng phải dám đánh những trận tiêu diệt lớn. Những trận then chốt có tính làm thay đổi cục diện chiến tranh thì dù thương vong cao cũng đánh”(2).

Theo tinh thần đó, đảng ủy, chỉ huy các đơn vị đã tập trung chỉ đạo đơn vị mình củng cố tổ chức, tranh thủ mọi thời gian để huấn luyện bộ đội nhằm nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng, vận động tập kích quân địch trong công sự vững chắc, tập hành quân, trú quân và tác chiến ở vùng đồng bằng, vùng ven thành phố; đồng thời tìm nhiều biện pháp cụ thể để giải quyết khó khăn lớn nhất lúc này là bảo đảm hậu cần.

Trong mùa khô 1966 – 1967, nhiều căn cứ hậu cần của Miền, hậu cứ của sư đoàn và các trung đoàn bị địch đánh phá nhiều lần và rất ác liệt. Một số kho gạo, kho đạn phải phân tán hoặc di chuyển để đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch. Mùa mưa đến làm cho việc vận tải vật chất và bảo đảm hậu cần càng trở nên khó khăn. Bữa ăn hàng ngày của chiến sĩ ở các đơn vị đã phải độn thêm nhiều măng tre, rau rừng và củ rừng. Số quân ốm đau tăng lên, nhiều nhất là bệnh sốt rét.

Do tình hình cần thiết lúc đó, và thực hiện chỉ thị của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, sư đoàn đã điều động Trung đoàn 1 sang làm nhiệm vụ vận tải trong một thời gian trên địa bàn Phước Long, Sông Bé. Đây là khu vực địch thường xuyên ném bom, bắn pháo, dùng máy bay lên thẳng thả biệt kích, thám báo và mở các cuộc hành quân càn quét để tìm dấu vết, đánh phá các kho tàng của ta, ngăn chặn các tuyến vận tải giữa Chiến khu Đ và Chiến khu Dương Minh Châu, giữa các căn cứ miền núi với vùng trung tuyến. Do đó, trong nhiều chuyến vận tải và bảo vệ các đoàn vận tải, các chiến sĩ Trung đoàn 1 đã phải chiến đấu với thám báo và quân địch càn quét. Có chiến sĩ hy sinh, nhiều chuyến hàng phải đổi bằng máu. Trong hơn ba tháng (từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1967), Trung đoàn 1 đã thực hiện nhiều chuyến vận tải và bảo vệ an toàn các đoàn vận tải hàng về đến căn cứ. Từ tháng 10 năm 1967, trung đoàn chuyển sang vùng Long Nguyên, Thanh Tuyền, chuẩn bị bàn đạp tiến công mới trên hướng bắc Sài Gòn theo kế hoạch của Bộ Tư lệnh Miền và các đơn vị.

Tháng 1 năm 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 14 ra nghị quyết nhằm chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Trung ương Đảng đã dự kiến chiều hướng phát triển của tình hình, đề ra nhiệm vụ của các lực lượng, xác định vị trí của từng chiến trường. trong tình hình địch còn trên một triệu quân ở chiến trường và có tiềm lực chiến tranh lớn, “cuộc tổng công kích – tổng khởi nghĩa của quân và dân ta sẽ là một quá trình tiến công chiến lược rất ác liệt và phức tạp”(3). Đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực trên các chiến trường có lợi và đòn tiến công của các đơn vị xung kích kết hợp với nổi dậy của nhân dân ở các đô thị và vùng ven là hai đòn chính. Miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn – Gia Định là hướng quan trọng nhất.

Để thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, Trung ương Cục và Quân ủy Miền đã tổ chức lại chiến trường miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn - Gia Định, thành lập “khu trọng điểm” gồm sáu phân khu. Lực lượng vũ trang của mỗi phân khu có từ hai đến bốn tiểu đoàn bộ binh làm nhiệm vụ các tiểu đoàn mũi nhọn hướng vào nội thành Sài Gòn, cùng các đội công tác, biệt động đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong thành phố. Các sư đoàn chủ lực trong đó có Sư đoàn 9 tiến công các căn cứ địch ở vòng ngoài, kiềm chế và ngăn chặn các sư đoàn Mỹ và ngụy, không cho chúng đưa lực lượng về Sài Gòn, bảo đảm phía sau cho lực lượng vũ trang các phân khu. Mục tiêu tấn công của Trung đoàn 1 là trung tâm huấn luyện Quang Trung. Trung đoàn 2 đánh địch phản kích và ngăn chặn sư đoàn 25 ngụy ở Đồng Dù. Trung đoàn 3 tiến công khu kho Long Bình và chi khu quân sự Thủ Đức. Các đơn vị đều được củng cố tổ chức, bổ sung quân số, trang bị.


(1) Điện số 98, ngày 9 tháng 9 năm 1967 của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh gửi Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.
(2) Điện số 98, ngày 9 tháng 9 năm 1967 của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh gửi Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền.
(3) Nghị quyết hội nghị lần thứ 14 Trung ương Đảng (1-1968).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:21:19 pm »

Theo quyết định điều động của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, anh Hoàng Cầm, Sư đoàn trưởng và anh Lê Văn Tưởng, Chính ủy sư đoàn chuyển về công tác ở cơ quan Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền. Anh Tạ Minh Khâm được bổ nhiệm làm sư đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Tòng được bổ nhiệm làm chính ủy sư đoàn.

Tháng 1 năm 1968, từ các căn cứ, bộ đội ta bắt đầu hành quân về đồng bằng. Khí thế xuống đường, niềm tin “dứt điểm” lên rất cao. Hàng nghìn thư quyết tâm của các đơn vị và cá nhân gửi lên Đảng ủy, chỉ huy sư đoàn, trung đoàn nguyện chiến đấu, hy sinh làm tròn nhiệm vụ trong thời cơ lịch sử. Có những cán bộ, chiến sĩ bị quáng gà do nhiều năm ở trong rừng, ăn uống kham khổ, thiếu sinh tố, nhưng vẫn một mực xin được đi chiến đấu cùng đơn vị. Trên đường hành quân xa hàng trăm cây số, chủ yếu là đi đêm, chúng tôi đã vượt qua nhiều kênh rạch, nhiều cánh đồng trống trải, có đoạn phải đi gần các đồn bốt địch. Nhân dân vùng giải phóng, vùng tạm bị chiếm rất phấn khởi khi thấy bộ đội chủ lực ta tiến về đồng bằng, thành phố để đánh địch. Nhiều người mang bánh tét, trái cây, nước hoa quả, thuốc lá, thuốc chữa bệnh… ra ủng hộ bộ đội. Có người xin với chỉ huy đơn vị cho con em mình được bộ đội giải phóng.

Ngày 31 tháng 12 năm 1967, trên giao cho Trung đoàn 2 chúng tôi tổ chức một bộ phận lực lượng của Trung đoàn vận động tập kích đại đội quân Mỹ ở ngã ba Bà Chiêm. Chúng tôi giao cho Tiểu đoàn 5 dùng một đại đội tăng cường tập kích quân Mỹ. Sau 30 phút chiến đấu Tiểu đoàn 5 làm chủ trận địa, mở đường đưa một đơn vị vượt qua tuyến phòng thủ của địch.

Lệnh tiến công và nổi dậy đồng loạt phát ra rất nhanh và hoàn toàn giữ được bí mật. Thời gian được tính từng phút. Không gian như nín thở chờ đợi sự chuyển mình của lịch sử. Trên đường hành quân, qua làn sóng của Đài phát thành Giải phóng, cán bộ, chiến sĩ chúng tôi vô cùng xúc động được nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ. Cả miền Nam đang anh dũng xốc tới trong lời thơ hào hùng của Bác.

            Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
            Thắng trận tin vui khắp nước nhà
            Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
            Tiến lên!
            Toàn thắng ắt về ta.


Chưa có lần ra quân nào giục giã lòng người ra trận như cuộc Tổng tiến công vá nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Không một ai phân vân do dự trước sự hy sinh có thể xảy ra đối với bản thân mình trong cuộc chiến lịch sử này. Tôi còn nhớ, anh em thương binh, bệnh binh đang điều trị cũng nằng nặc xin được về đơn vị đi chiến đấu. Các chiến sĩ làm nhiệm vụ trông coi hậu cứ cũng náo nức xin ra trận. Đơn vị nào cũng xuất kích với quân số cao nhất.

Đêm giao thừa Tết Mậu Thân, cả chiến trường thao thức, chờ đợi giờ nổ súng. Từ khắp nơi, tín hiệu nổ súng xuyên màn đêm tới tấp báo tin về Bộ Tư lệnh Miền.

Đúng đêm giao thừa và đêm mùng 1 Tết Mậu Thân (ngày 30 và ngày 31 tháng 1 năm 1968), ta tiến công đồng loạt toàn miền Nam gồm 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn. Ta đánh vào hầu hết cơ quan đầu não của địch bao gồm 4 bộ tư lệnh quân khu, quân đoàn, 8 bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay, nhiều tổng kho lớn của địch. Do có sự nhầm lẫn trong công tác tham mưu khi truyền lệnh “Ngày N” và “giờ G”, giờ G là 0 giờ giao thừa, không ai nhầm lẫn nhưng “ngày N” hiệp đồng với nhau là đêm 30 Tết. Do lịch (âm lịch) ở miền Nam chậm hơn lịch phát hành ở miền Bắc 1 ngày, mặc dù trong điện có mở đóng ngoặc “tức là dương lịch”, nhưng ở chiến trường miền Nam mọi người chỉ nghĩ là đêm 30 Tết, không chú ý đến ngày dương lịch, nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn không được bất ngờ như nơi khác.

Ở Huế, quân và dân ta đã nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu quan trọng, sau 48 giờ đã làm chủ hoàn toàn thành phố và giữ vững ở đó suốt 26 ngày đêm.

Ở Quảng Trị, Đường số 9, sau khi tiêu diệt chi khu Hướng Hóa, bộ binh và xe tăng ta tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây và tiếp đó vây hãm Khe Sanh – Tà Cơn suốt 77 ngày đêm, buộc quân Mỹ phải rút khỏi Khe Sanh.

Ở Tây Nguyên, 0 giờ 45 phút, ta nổ súng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột; 0 giờ 55 phút, ta tiến công thị xã Plei Ku; 1 giờ 45 phút, ta tiến công thị xã Kon Tum. Trên hướng Buôn Ma Thuột, từ phút đầu, ta đánh chiếm đài phát thanh, sư đoàn bộ sư đoàn 23, tòa hành chính, ty cảnh sát, sân bay Buôn Ma Thuột. Hướng thị xã Plei Ku, ta đánh vào trung tâm thị xã, diệt bọn cảnh sát, bảo an, phá ba nhà lao, giải phóng 2.000 người bị địch bắt. Các đội đặc công tiến công sân bay Arêa và sân bay Cù Hanh, phá hủy 45 máy bay. Hướng thị xã Kon Tu, ta đánh chiếm khu hành chính, tiểu khu Kon Tum, một phần biệt khu 24, sân bay, phá 26 máy bay, nhiều kho tàng đạn dược…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:21:37 pm »

Ở Sài Gòn – Gia Định, bộ đội đặc công, biệt động đánh những trận gây chấn động lớn, như đánh Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu ngụy, biệt khu Thủ đô, Đài phát thanh Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất… cũng các tiểu mũi nhọn của các phân khu nổ súng đánh địch quyết liệt ở vùng ven. Một số đơn vị vượt qua tuyến ngăn chặn của địch, tiến vào nội thành, phối hợp chiến đấu với bộ đội đặc công và biệt động.

Các sư đoàn chủ lực Miền tiến công một số căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy, thực hiện kiềm chế và ngăn chặn, không cho địch đưa lực lượng về Sài Gòn. Do thời gian rất gấp, đường hành quân xa và gặp nhiều trở ngại vì địch ngăn chặn, nhiều đơn vị vừa hành quân vừa đánh địch nên phần lớn không đến kịp thời gian theo kế hoạch.

Trung đoàn 2 chúng tôi có nhiệm vụ đánh địch ở vùng ven thành phố, cắt một số đoạn trên đường số 1, ngăn chặn sư đoàn 25 ngụy ở Đồng Dù, không cho chúng kéo về Sài Gòn. Mỗi tiểu đoàn tổ chức trận địa ở một khu vực.

Tại xã Tân Phú Trung, huyện Hóc Môn nằm ven đường số 1 là khu vực ngăn chặn địch của Tiểu đoàn 4. Dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân, lợi dụng các vườn cây che khuất để giấy quân và cơ động lực lượng, tranh thủ củng cố công sự để tránh bị sát thương và đánh địch. Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 4 đã đánh lui các đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa dưới hỏa lực bom pháo ác liệt của chúng. Có ngày, từ sáng đến chiều tối, địch huy động 170 xe tăng, xe bọc thép, nhiều tiểu đoàn dù và bộ binh phản kích liên tục hàng chục lần. Bom, pháo địch phá nát các vườn cây trái, phá hủy nhiều nhà dân, làm thương vong hàng chục dân thường và nhiều cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4. Nhưng trong suốt 14 ngày đêm, địch không giải tỏa được đoạn đường số 1 qua xã Tân Phú Trung. Tiểu đoàn 4 giữ vững trận địa cho tới khi có lệnh lui quân của trên.

Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 tiêu diệt và bức hàng một số đồn bảo an, dân vệ ở vùng ven căn cứ Đồng Dù. Vũ khí thu được trong các đồn của địch, bộ đội ta trang bị cho du kích địa phương.

Bị ta uy hiếp mạnh, quân địch trong căn cứ Đồng Dù gọi máy bay đến ném bom và liên tục bắn pháo vào các khu vực nghi ngờ có bộ đội ta. Có ngày trận địa Tiểu đoàn 5 bị trúng bom địch, 70 cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh. Chúng tôi chỉ đạo cho Ban chỉ huy Tiểu đoàn một mặt dựa vào sự giúp đỡ của cấp ủy Đảng và nhân dân địa phương để mai táng tử sĩ, đưa thương binh về tuyến sau, một mặt lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi hy sinh, ác liệt, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ trên địa bàn được phân công.

Mấy ngày sau trận oanh tạc của máy bay địch, các chiến sĩ trinh sát trung đoàn phát hiện quân địch đang tập trung lớn lực lượng bộ binh, nhiều xe tăng, xe bọc thép, chuẩn bị đánh vào khu vực đóng quân của Tiểu đoàn 5. Nhân dân địa phương buộc phải sơ tán để tránh cuộc càn lớn của địch. Tình hình hết sức căng thẳng vì tiểu đoàn vừa bị thương vong lớn, lúc này nếu di chuyển đến địa điểm khác thì có thể bảo toàn được lực lượng còn lại, còn trụ lại đánh địch sẽ bị thương vong tiếp, tình hình diễn biến phức tạp khó có thể lường hết. Tôi suy nghĩ rất lung rồi điện cho Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thuần: Dù như thế nào cũng không được bỏ vị trí.

Đây là vùng địch tạm chiếm. Trụ lại đánh địch, trận đánh sẽ rất ác liệt vì địch có ưu thế tuyệt đối về quân số, hỏa lực phi pháo và cơ giới. Nhưng đánh thắng địch sẽ có ảnh hưởng chính trị tốt đối với nhân dân trong vùng địch tạm chiếm, nâng cao uy tín của bộ đội cách mạng.

Tiểu đoàn 5 đã nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh của tôi trụ lại đánh địch vì tất cả đều đã được quán triệt quyết tâm chiến lược trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Ban chỉ huy Tiểu đoàn một mặt phân công cán bộ đi xuống từng tiểu đội quán triệt quyết tâm chiến đấu đến toàn thể cán bộ, chiến sĩ, tạo nên sự nhất trí cao với chủ trương của trên, mặt khác khẩn trương tổ chức lại lực lượng, tiến hành công tác chuẩn bị, động viên bộ đội đào đắp thêm công sự sẵn sàng chiến đấu.

Ngày hôm sau, trận đánh diễn ra ác liệt, căng thẳng từ sáng sớm cho đến khi mặt trời lặn. Sau mỗi đợt phản kích bị đánh bật ra, quân địch lại gọi máy bay tới ném bom, gọi pháo bắn vào trận địa của các chiến sĩ Tiểu đoàn 5 nhiều nhà dân bị cháy, cây cối bị gãy gập, công sự bị phá hủy nhưng không một mũi tiến công nào của địch vào được trong ấp. Cho đến lúc trời đã nhập nhoạng tối, quân địch vẫn tập trung lực lượng bộ binh và cơ giới tiếp tục đánh vào ấp. Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thuần phán đoán có thể đây là đợt phản kích cuối cùng của chúng trong ngày, nên anh quyết định cho một số xe bọc thép địch lọt vào trong ấp, sau đó tập trung hỏa lực đánh bật mũi bộ binh ở phía sau ra xa, tạo thời cơ cho các tổ diệt cơ giới.

Đúng như dự đoán của anh, ba chiếc xe M113 lọt vào trong ấp, anh ra lệnh dùng hỏa lực đánh mạnh vào bộ binh Mỹ buộc chúng phải lùi xa. Bộ đội ta dùng B40 bắn cháy 2 xe M113, còn một chiếc tụi lính hốt hoảng phải nhảy ra khỏi xe chạy thoát thân. Tiểu đoàn 5 bắt sống chiếc xe này.

Đêm hôm đó, đồng bào trở về ấp. Nhìn cảnh cây vườn nhà bị bom đạn tàn phá tan hoang, nhiều má, nhiều chị đã khóc vì nghĩ rằng quân giải phóng đã bị địch giết hại hết. Đến khi thấy bộ đội ta vẫn còn ở trong ấp, lại bắt được xe bọc thép Mỹ, đồng bào rất phấn khởi. Ai cũng khen bộ đội giải phóng dũng cảm, gan dạ, tài giỏi. Người lo cơm, người mang theo trái cây đến thăm hỏi, cùng bộ đội chăm sóc thương binh… Tình quân dân thêm mặn mà, gắn bó hơn trong chiến đấu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:22:53 pm »

*

Đánh địch ở đồng bằng và vùng ven thành phố là một giai đoạn mới trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của Trung đoàn 2. Mỗi hướng hoạt động, mỗi trận đánh đều phải đáp ứng yêu cầu rất cao về thời gian và tính đồng loạt của chỉ đạo chiến lược. Khi chúng tôi tiến về đánh địch ở vùng ven, hoạt động tiến công và nổi dậy ở nội thành đã lắng xuống. Các lực lượng đánh địch trong nội thành Sài Gòn (các đội đặc công, biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu) đã bị tổn thất. Các mục tiêu quan trọng đều đánh trúng nhưng không giữ được. Phong trào nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng không diễn ra như kế hoạch dự kiến. Quân địch sau phút hốt hoảng, bối rối lúc đầu đã kịp thời hồi tỉnh lại, chúng gấp rút điều động nhiều sư đoàn, lữ đoàn Mỹ - ngụy kể cả lực lượng dự bị chiến lược về Sài Gòn mở cuộc “hành quân quyết thắng” nhằm đẩy lực lượng ta ra khỏi nội thành và vùng ven.

Từ ngày thành lập, Trung đoàn 2 hoạt động và tác chiến chủ yếu ở địa bàn rừng núi. Cách đánh đã trở thành sở trường của trung đoàn là vận động tập kích và vận động phục kích, phát huy yếu tố bí mật, bát ngờ, thọc sâu, chia cắt và đánh gần để tiêu diệt địch. Đây là lần đầu tiên Trung đoàn tiến về đánh địch ở đồng bằng. Do thời gian ngắn, công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công rất cập rập. Nhiệm vụ và mục tiêu mới được phổ biến trong kế hoạch, trên bản đồ, chưa được điều tra nghiên cứu. Tương quan lực lượng trong các trận chiến đấu rất chênh lệch; địch phát huy tối đa sức mạnh của không quân, pháo binh, cơ giới ở địa hình đồng bằng. Trong phần lớn các trận chiến đấu, ta chỉ giành được chủ động trong những phút đầu, sau đó phải chuyển sang đánh đêm, đánh địch phản kích với hình thức tác chiến phòng ngự.

Nhận định về đợt một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trên chiến trường trong những ngày Mậu Thân 1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khẳng định: Ta đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàn phán với ta để giải quyết chiến tranh bằng thương lượng.

Ngày 9 tháng 2 năm 1968, trong một báo cáo gửi về Mỹ, tướng Oétmolen – Tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam thừa nhận: Nói theo quan điểm thực tế thì đối phương đã đánh cho chính phủ Nam Việt Nam (ngụy quyền) một cú đấm nặng nề. Họ đưa chiến tranh vào các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại…, nền kinh tế bị phá hoại, các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa vì các trại đã bị thương vong rất nhiều.

Về phía ta, do để ra mục tiêu chiến lược quá cao nên đã không thực hiện được. Tổng khởi nghĩa không nổ ra. Đòn tiến công quân sự chưa đủ mạnh, chưa đánh được những trận tiêu diệt các đơn vị lớn quân địch có ý nghĩa rung chuyển. Các chiến trường, các đơn vị đều có cố gắng nhưng vì thời gian chuẩn bị ngắn, lại phải giữ tuyệt đối bí mật nên việc chuẩn bị vật chất và công tác bảo đảm chưa đầy đủ, tổ chức chỉ huy chưa chặt chẽ, hợp lý. Khí thế xuất trận rất cao, nhưng do chuẩn bị tư tưởng một chiều, chỉ thấy khả năng “dứt điểm” nên khi lực lượng bị tổn thất, buộc phải rút ra đã xuất hiện những biểu hiện hữu khuynh, bi quan…

Hội nghị Trung ương cục (tháng 4 năm 1968) chủ trương: “Mở đợt tiến công thứ hai nhằm liên tục tiến công địch và phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ra sức tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, duy trì và đẩy mạnh các hoạt động trên địa bàn đô thị, làm chủ các đường giao thông trên địa bàn đô thị, làm chủ các đường giao thông chiến lược, giải phóng và làm chủ toàn bộ nông thôn đồng bằng và miền núi, tăng cường xây dựng hậu phương lớn mạnh về mọi mặt, nhanh chóng xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng vũ trang và chính trị, giành thắng lợi liên tiếp và vững chắc, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tinh thần hết sức khẩn trương, đồng thời sẵn sàng ứng phó một cách chủ động nếu chiến tranh kéo dài và mở rộng”.

Để thực hiện chủ trương trên, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định sử dụng một bộ phận chủ lực (hai trung đoàn của Sư đoàn 9) cùng các tiểu đoàn mũi nhọn tiến vào các khu vực đông dân trong nội thành Sài Gòn, phát động quần chúng nổi dậy phá rã bộ máy kìm kẹp của địch từ quận trở xuống, xây dựng chính quyền cách mạng trong thành phố. Trung tuần tháng 4 năm 1968, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ, thông qua quyết tâm của từng đơn vị chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm đợt một.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:23:20 pm »

Đối với một cuộc tập kích chiến lược, một trận đánh tập kích, yếu tố bí mật, bất ngờ có ý nghĩa quyết định thành công hay thất bại. Khó khăn lớn nhất đối với các trung đoàn chủ lực và các lực lượng trên chiến trường khi bước vào đợt hai là không còn yếu tố bí mật, bất ngờ kể cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Kế hoạch tiến công cụ thể của đợt này lại bị lộ. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền vẫn giữ vững quyết tâm, chỉ đạo các đơn vị kiên quyết tiến công, đánh nhanh, thọc sâu vào sào huyệt địch, đạt cho được mục tiêu của cuộc tiến công chiến lược.

Theo kế hoạch, các trung đoàn của Sư đoàn 9 chuyển về hướng tây, tây nam Sài Gòn lấy vùng nông thôn Long An, Gia Định làm vị trí bàn đạp tiến vào thành phố. Đây là vùng đồng bằng trống trải, dày đặc đồn bốt địch. Để tiến tới mục tiêu, các đơn vị đã phải lội qua nhiều đồng lầy, kênh rạch, vượt qua nhiều đồn bốt và tuyến ngăn chặn của địch. Quyết tâm của các đơn vị rất cao, nhưng sức chiến đấu đã giảm sút sau đợt một, tiếp đó lại bị tiêu hao qua ba tháng bám trụ ở vùng ven. Địch đã tăng cường lực lượng về Sài Gòn (50 tiểu đoàn) tổ chức ba tuyến phòng thủ tương đối chặt chẽ. Ở nội thành, bọn cảnh sát, mật vụ ráo riết truy tìm đánh phá cơ sở của ta. Tuyến sát ven đô có 10 tiểu đoàn án ngữ trên năm hướng ta đánh vào nội thành trong đợt một. Ở tuyến ngoài (các quận ngoại thành) các sư đoàn chủ lực Mỹ - ngụy liên tục càn quét, đánh phá các bàn đạp tiến công của ta. Trong đợt tiến công này ta không còn thế phối hợp bên trong và bên ngoài thành phố do lực lượng đặc công biệt động bị thương vong lớn trong đợt một, các cơ sở quần chúng đều đã bị lộ. Ta cũng không còn thế tiến công đồng loạt trên toàn chiến trường vì chỉ có mặt trận Sài Gòn nổ súng.

Đó là những khó khăn rất lớn của chúng tôi khi bước vào đợt hai thực hiện quyết tâm chiến lược của trên. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1968, cùng lực lượng vũ trang các phân khu. Trung đoàn 2 chúng tôi nổ súng đánh vào Sài Gòn – Gia Định. Đợt này diễn ra qua hai bước. Bước một từ ngày 5 tháng 5 ta đánh mạnh đều khắp trên các hướng tây, tây nam, tây bắc và đông, đến ngày 21 tháng 5 rút ra đánh địch ở vùng ven. Bước thứ hai từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 18 tháng 6, ta tiến công trên các hướng bắc, đông bắc và tây Sài Gòn.

Theo nhiệm vụ, Trung đoàn 2 chúng tôi vừa có tiểu đoàn thọc sâu vào nội đô, vừa có đơn vị đánh chiếm chốt chặn ở ngã tư bà Điểm, Hóc Môn. Tôi bàn với anh Tám Dành – Chính ủy:

- Ta dùng Tiểu đoàn 4 thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm ngã tư Bảy Hiền rồi phát triển theo đường Lê Văn Duyệt đánh vào Biệt khu Thủ đô. Dùng Tiểu đoàn 5 đánh chiếm và chốt chặn ngã tư Bà Điểm ở Hóc Môn. Tiểu đoàn 6 triển khai đội hình phòng ngự ở bưng Bình Thủy, bảo vệ Sở chỉ huy Trung đoàn ở Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Anh Tám Dành nói:

- Về sử dụng lực lượng tôi nhất trí ý kiến của anh Năm. Đánh vào Sài Gòn lúc này các yếu tố bất ngờ đã hết. lực lượng của địch vừa đông lại trang bị mạnh, bộ đội ta chỉ có hỏa lực mang vác nên phải phát huy yếu tố tinh thần, quyết đánh anh ạ.

- Thời gian không còn nhiều ta cho triển khai ngay mới kịp, phải động viên bộ đội phát huy truyền thống Đoàn Đồng Xoài quyết đánh vào sào huyệt quân ngụy.

Tiểu đoàn 4 do anh Quách Thanh Quang Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đã chiến đấu vô cùng quả cảm. Chỉ bằng súng bộ binh cán bộ chiến sĩ ta đã đánh lùi hàng chục đợt phản kích của tiểu đoàn 7 dù ngụy có xe tăng và máy bay trực thăng vũ trang yểm trợ. Khi Tiểu đoàn phát triển đến khu vực nghĩa địa đô thành, phần lớn đã hy sinh và bị thương, còn hơn chục người trụ lại gần ngã tư Bảy Hiền. Anh em thấy một tên sĩ quan địch cao to, hò hét lính xông lên. Đặng Văn Tuyết – xạ thủ trung liên nhằm vào nó xiết cò. Tên sĩ quan ngụy xã vật, chết ngay. Các chiến sĩ ta còn diệt gần 100 tên địch ở khu vực này.

Mười phút sau anh em thấy một chiếc trực thăng HU1A phành phạch bay lên dùng loa kêu gọi:

- Hỡi các binh sĩ Việt Nam cộng hòa, hãy tiêu diệt hết Cộng sản trả thù cho đại tá Lưu Kim Cương.

Chiếc trực thăng vũ trang bay theo hô tống chiếc trực thăng phát loa bị chiến sĩ ta dùng trung liên bắn rơi tại chỗ.

Cuộc chiến đấu ở ngã tư Bảy Hiền kéo dài đến chiều tối thì im tiếng súng. Nhân dân ở ngã tư Bảy Hiền đêm đó ra khu vực diễn ra cuộc chiến oanh liệt tìm được 11 thi thể của cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 4 đã bí mật an táng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:24:28 pm »

Sau ngày giải phóng chúng tôi tìm đến hỏi người dân thì được biết về 11 ngôi mộ. Nghe bà con kể lại chính xác các anh đã diệt đại tá cảnh sát Lưu Kim Cương. Cho đến nay chúng tôi mới tìm được tên ba người là Đặng Văn Tuyết, Nguyễn Văn Hai, chiến sĩ quê Thái Bình và Nguyễn Văn Khai, chiến sĩ quê Hải Phòng.

Ban liên lạc cựu chiến binh Sư đoàn 9 đang xây dựng bia ghi danh 11 người con của Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 anh hùng tại khu vực ngã tư Bảy Hiền.

Ngày 7 tháng 5, Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh chuyển ra phía tây Bà Quẹo, trụ lại đánh địch thêm một số ngày nữa, sau đó rút về gần bưng Vĩnh Lộc, Đức Hòa – Long An. Các đơn vị đều bị tổn thất lớn. Riêng Tiểu đoàn 4 trước khi tiến vào thành phố quân số tiểu đoàn là 500 người, khi rút ra chỉ còn 43 người. 457 cán bộ, chiến sĩ đã bị thương và hy sinh anh dũng.

Ngày 8 tháng 5 năm 1968, tôi được trinh sát sư đoàn cho biết:

- Trung đoàn 11 tăng thiết giáp Mỹ từ căn cứ Long Bình theo tỉnh lộ 8 qua lộ 9 vừa đến đóng chốt tại Bàu Trâm xã Mỹ Hạnh.

Nhận được báo cáo, tôi gọi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Trịnh Hồng Ngọc (anh Ngọc đợt 1 là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 mới được điều về) cùng trinh sát trung đoàn là anh Tám Dân – Huyện đội trưởng Đức Hòa giả trang thường dân trà trộn đến gần chốt Mỹ quan sát. Lúc này, một tình huống bất ngờ xảy ra, trực thăng Mỹ đáp xuống kiểm tra giấy tờ. Chúng tôi nhanh chân thoát được. Riêng anh Tám Dân chậm chân bị Mỹ bắn chết.

Tôi giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Trịnh Hồng Ngọc ngay ở thực địa:

- Tiểu đoàn 6 chỉ còn 84 tay súng nhưng không phải vì ít mà ta không dám đánh. Ta dùng Đại đội 12 đảm nhiệm mũi chủ yếu từ hướng bắc đánh xuống. Đại đội 111 làm nhiệm vụ dự bị. Riêng đại đội của huyện Đức Hòa làm mũi giương công, thu hút hỏa lực địch. Tất cả các đơn vị phải có mặt ở vị trí chiếm lĩnh trước 22 giờ.

Khi tôi ra lệnh nổ súng, Đại đội 12 nhanh chóng đưa lực lượng lên mở rào, nhưng quân Mỹ phát hiện được bắn chặn quyết liệt nên phải tạm dừng lại, củng cố đội hình, chờ thòi cơ. Lợi dụng lúc địch tập trung hỏa lực bắn vào Đại đội 12, Tiểu đội trưởng Lê Sơn Hà thuộc Đại đội 13 bí mật tiếp cận dùng B40 bắn cháy chiếc xe tăng nằm cạnh bờ đê, tạo khí thế cho đơn vị đồng loạt xông lên đánh vào bên trong. Đại đội 12 chớp thời cơ nổ súng, phối hợp cùng Đại đội 13 nhanh chóng phát triển vào tung thâm.

Cán bộ chiến sĩ ta chiến đấu rất ngoan cường, lần lượt bắn cháy từng chiếc xe tăng địch. Đạn trong chiếc xe tăng nổ sáng rực một góc trời soi rõ từng chiếc xe tăng Mỹ để bộ đội ta tiêu diệt. Pháo Mỹ từ các nơi bắn về đã trúng đội hình quân Mỹ gây thương vong nặng nề cho chúng.

Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến gần sáng ta mới làm chủ trận địa. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn thu quân, rời khỏi trận địa.

Kết quả, chỉ 84 tay súng, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 6 đã bắn cháy 96 xe quân sự, chủ yếu là xe tăng M41, xe bọc thép M113, phá hủy 12 khẩu pháo bắn rơi 7 máy bay lên thẳng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên Mỹ.

Hai ngày sau Tiểu đoàn 6 lại đánh một trận xuất sắc phá hủy 54 xe quân sự. Phần nửa là xe tăng, xe bọc thép.

Cùng với các hướng tiến công khác trên toàn chiến trường (Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh, Tây Nguyên, Khu 5, đồng bằng Nam Bộ), cuộc tiến công đợt 2 trên mặt trận Sài Gòn của các trung đoàn thuộc Sư đoàn 9 và lực lượng vũ trang các phân khu là một đòn mới đánh vào ý chí xâm lược đã bị lung lay của đế quốc Mỹ.

Mặc dù ta chậm chuyển hướng và cách đánh sau đợt một, đợt tiến công thứ hai diễn ra khi địch đã tăng cường lực lượng và tổ chức ngăn chặn trên tất cả các hướng. Bộ đội ta không còn phát huy được yếu tố bí mật, bất ngờ như đợt một. ta không thực hiện được các mục tiêu đánh chiếm Biệt khu Thủ đô ngụy, các đơn vị bị tổn thất lớn. Nhưng tất cả cán bộ, chiến sĩ chúng tôi đã chiến đấu cực kỳ anh dũng. Hàng nghìn người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trên đường phố Sài Gòn, để lại “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”(1). Trong lòng dân tộc và mỗi người dân Sài Gòn, hình ảnh các chiến sĩ quân giải phóng những ngày Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân (năm 1968) còn sống mãi.


(1) Ý thơ của Lê Anh Xuân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:25:47 pm »

Sau đợt tiến công thứ hai, lực lượng còn lại của các đơn vị rút về vùng ven phía tây nam Sài Gòn. Lúc này địch đã làm chủ được nội thành, tiếp tục càn quét khốc liệt ở vùng ven để tìm diệt và đẩy bộ đội chủ lực của ta ra xa. Chúng đóng quân thành từng cụm, bịt các đường bộ, đường sông và khống chế từng khu vực. Từ các cụm này, hàng ngày lính địch bung ra, có xe tăng, xe bọc thép dẫn đầu càn quét, sục sạo. Nếu gặp lực lượng ta, bị ta phản kích, chúng lùi ra, gọi máy bay và các trận địa pháo đánh phá hủy diệt rồi lại tiếp tục càn quét. Do địa hình đồng bằng trống trải và để tránh bị thương vong vì bom pháo của địch, các đơn vị phải đóng quân phân tán. Ban ngày, từng tổ, từng chiến sĩ ém mình dưới các lùm cây ngoài bưng, ngoài đồng. Ban đêm vượt đồng, bưng lên đất gò để học tập, sinh hoạt. Mặc dù Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền đã bổ sung cho Trung đoàn 2 chúng tôi một số chiến sĩ mới vừa từ miền Bắc hành quân vào, nhưng do bị tổn thất lớn trong hai đợt chiến đấu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn vài chục tay súng kể cả những cán bộ, chiến sĩ bị thương nhẹ có thể tiếp tục chiến đấu được.

Mùa mưa đến gây không ít khó khăn cho các đơn vị. Trên từng khu vực đóng quân, các đơn vị vừa phải củng cố lực lượng và cùng các lực lượng vũ trang địa phương chống càn, vừa tích cực nghiên cứu quy luật hoạt động của địch để tìm ra cách đánh mới.

Trong tình hình quân số có thể chiến đấu của từng đơn vị không nhiều, lại buộc phải đóng quân phân tán trên địa hình trống trải; quân địch đông, phát huy sức mạnh của phi pháo và cơ giới, chúng tôi đã lợi dụng đêm tối để bí mật tiếp cận cụm quân địch, chủ động đánh trước bằng cách vận động tập kích, buộc địch phải di chuyển hủy bỏ hoặc thay đổi kế hoạch càn quét ngày hôm sau. Trước trận đánh của Đại đội 12, tôi hỏi các cán bộ chiến sĩ:

- Tay súng ít, có đánh được không?

Đại đội trưởng Trần Văn Phách đã quả quyết:

- Đánh được.

Trận tập kích của Đại đội 12 thành công. Cụm xe địch buộc phải di chuyển. Cũng bằng cách đó, Tiểu đoàn 5 do Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thuần chỉ huy chỉ 25 tay súng, chủ yếu là súng chống tăng đã tập kích cụm xe quân Mỹ phá hủy 31 xe tăng, xe bọc thép, 3 khẩu pháo, diệt và làm bị thương 120 tên Mỹ.

Những trận đánh trên đây thể hiện quyết tâm chiến đấu rất cao của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2, trong tình huống nào cũng chủ động tiến công, sáng tạo cách đánh thích hợp để thắng địch. Quyết tâm chiến đấu và tinh thần sáng tạo đó đã trở thành bản lĩnh của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2 – Đoàn Đồng Xoài.

Sau hai đợt tiến công trong mùa xuân và mùa hè năm 1968, do lực lượng bị tổn thất, thế tiến công của ta yếu dần. Các đơn vị chủ lực Miền phải rút về các vùng căn cứ rừng núi để củng cố. Ở vùng ven Sài Gòn chỉ còn một số đơn vị vũ trang địa phương tiếp tục bám trụ giữ bàn đạp. Nhiều cơ sở chính trị, binh vận ở nội thành và vùng ven bị phá vỡ. Vùng giải phóng bị thu hẹp. Mỹ - ngụy đưa thêm nhiều lực lương về Sài Gòn tổ chức lại tuyến phòng thủ.

Tuyến ngoài có khoảng 25 tiểu đoàn Mỹ và ngụy, đóng thành các cụm bộ binh kết hợp với cơ giới và những cụm hỏa lực hỗn hợp yểm trợ hành quân. Các cụm này nối liền với các căn cứ biệt kích án ngữ vùng rừng núi và vùng giải phóng của ta như Thiện Ngôn, Kà Tum, Xa Mát, Lộc Ninh, Bù Đốp… Các lực lượng đứng ở tuyến này có nhiệm vụ phát hiện và đánh phá ngăn chặn chủ lực ta ngay từ lúc ta chuẩn bị đánh vào thành phố.

Tuyến giữa từ Trảng Bàng, Củ Chi đến Bến Cát, Tân Uyên, Phú Giáo… có 57 tiểu đoàn bố trí dày đặc, không để ta lọt qua.

Tuyến trong gồm nội thành và vùng ven có 54 tiểu đoàn Mỹ và tổng trù bị ngụy, trực tiếp bảo vệ các mục tiêu rong thành phố và càn quét vùng ven.

Trong khi đó, ta vẫn cho rằng tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt không phải là một đợt hoạt động mà là một thời kỳ, một quá trình chiến đấu gay go, quyết liệt, kết hợp công kích với khởi nghĩa. Tình hình đã thay đổi, nhưng ta vẫn chủ quan, đánh giá địch thấp, không thấy hết âm mưu và thủ đoạn mới của địch trong chiến lược “quét và giữ”; đánh giá ta sau đợt tiến công Tết Mậu Thân đã có thế trận vững vàng ở vùng núi, nông thôn, mở ra mặt trận mới ở đô thị. Mặc dù đã có chuyển biến ở mức độ nhất định trong lãnh đạo tư tưởng, “sẵn sàng chuẩn bị để đối phó với tình huống chiến tranh kéo dài và mở rộng”(1), nhưng trong chỉ thị về đợt hoạt động mùa thu (tức đợt tiến công thứ 3) ngày 30 tháng 6 năm 1968, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền vẫn yêu cầu các cấp “nắm vững thời cơ, tổ chức đợt tiến công lớn vào tháng 8 nhằm giành thắng lợi to lớn trong đông xuân, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”(2).


(1), (2) Điện số 21/CTNT ngày 30 tháng 6 năm 1968. Bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2019, 03:26:37 pm »

Tháng 8 năm 1968, Bộ Chính trị họp, nhận định thắng lợi bước đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, quyết định “đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định, làm cho địch thất bại ở chiến trường, thất bại ở các thành phố lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”.

Cuối tháng 6 năm 1968, phần lớn các đơn vị của chủ lực ta đã rút lên vùng Mỏ Vẹt, sát biên giới với Campuchia. Theo tinh thần chỉ đạo của trên, các trung đoàn tập trung vào việc củng cố các đơn vị. Sư đoàn 9 cử một bộ phận lực lượng do Sư đoàn trưởng Tạ Minh Khâm và cùng một số cán bộ cơ quan chỉ huy tiến xuống vùng An Ninh, Lộc Giang chuẩn bị địa bàn và kế hoạch tiến công Sài Gòn đợt ba. Bộ phận này hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó khăn, căng thẳng. Ban ngày phải nằm hầm bí mật hoặc giấu mình dưới các lùm cây ngoài bưng, ngoài đồng. Ban đêm luồn càn vào vùng địch để móc nối cơ sở, nắm tình hình địch.

Hơn 200 cán bộ, chiến sĩ trinh sát, quân báo đã anh dũng hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ. Đây là tổn thất rất lớn của sư đoàn vì họ đều là những cán bộ, chiến sĩ ưu tú.

Trong chiến đấu, đặc biệt là ở thời điểm khí thế tổng tiến công đang lên cao như năm 1968, quyết tâm chiến đấu đã thấm sâu đến từng cán bộ, chiến sĩ sư đoàn. “Sống anh dũng, chết vinh quang” không còn là khẩu hiệu động viên mà đã trở thành ý thức và hành động tự giác, ai cũng sẵn sàng chấp nhận. Nhưng tình hình thực tế sau hai đợt tiến công đòi hỏi những người lãnh đạo chỉ huy phải tỉnh táo, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm. Căn cứ vào tình hình chung, tình hình địch và khả năng của các đơn vị chúng tôi đề nghị cấp trên không đánh tiếp vào Sài Gòn mà chuyển hướng hoạt động.

Vấn đề này cũng đang được các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ Trung ương đến các chiến trường thảo luận, cân nhắc. Tháng 7 năm 1968, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định chuyển hướng hoạt động của lực lượng chủ lực, không đánh tiếp vào Sài Gòn mà mở chiến dịch tiến công địch trên hướng tây bắc và bắc Sài Gòn (địa bàn hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long), đánh vào tuyến ngoài của địch, làm lỏng thế phòng thủ chung của chúng, kéo lực lượng địch ở tuyến giữa và tuyến trong ra, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang các phân khu hoạt động. Phương châm chỉ đạo tác chiến là đánh quân viện và quân địch thoát ly công sự là chính, kết hợp với tập kích, cơ động nhanh, kết hợp đánh vừa và đánh nhỏ.

Hướng chủ yếu (tỉnh Tây Ninh) sử dụng Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Trung đoàn 174, hai trung đoàn pháo, hai đoàn đặc công của Miền và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh.

Hướng thứ yếu (tỉnh Bình Long) sử dụng Sư đoàn 7 và lực lượng vũ trang địa phương. Ở Sài Gòn và vùng ven, lực lượng vũ trang các phân khu tiếp tục hoạt động để phối hợp.

Để bảo đảm cho Sư đoàn hoạt động trên hướng bắc Tây Ninh, Đoàn hậu cần 83 của Miền tổ chức hai cánh A và B, trong đó có một số tuyến vận tải bộ đưa gạo, đạn đến vị trí tập kết của bộ đội. Bộ Tư lệnh Miền thành lập sở chỉ huy tiền phương trực tiếp chỉ đạo các đơn vị trên hướng chính.

Địa bàn mở chiến dịch (hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long) nằm trong tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Ở Tây Ninh, sư đoàn bộ binh cơ giới 25 Mỹ tổ chức lực lượng thành hai thê đội. Thê đội một có hai lữ đoàn, đứng ở xung quanh thị xã (lữ đoàn 1) và khu vực Dầu Tiếng, Bến Củi (lữ đoàn 3). Thê đội hai đứng ở Củ Chi (lữ đoàn 2) Tuyến phòng thủ của địch dựa vào hai trục chính là đường 13 và đường 22, mỗi tuyến có nhiều căn cứ hỗn hợp bộ binh, pháo binh, cơ giới, có khả năng độc lập mở các cuộc hành quân càn quét trong khu vực và yểm trợ cho các căn cứ khác. Đây là một hình thức tổ chức lực lượng và biện pháp chiến thuật mới của địch.

Mở màn chiến dịch, đêm 17 tháng 8 năm 1968, Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 tiến công cụm quân Mỹ ở Trà Phí cách thị xã Tây Ninh 5 kilômét về phía bắc. Các mũi tiến công của trung đoàn giữ được bí mật khi chiếm lĩnh trận địa, lợi dụng lúc pháo bắn để tiếp cận, đột phá hướng chủ yếu chính xác (từ đông nam đánh lên), phát huy tốt các loại hỏa khí diệt tăng, diệt lô cốt và sử dụng phân đột thọc sâu đánh trúng sở chỉ huy, trận địa pháo địch. Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Quân Mỹ chết và bị thương hơn 400 tên, 33 xe tăng, xe bọc thép, 6 khẩu pháo 105, 2 khẩu cối 106,7 của chúng bị phá hủy.

Cùng ngày, một tiểu đoàn của Trung đoàn 1 tập kích cụm quân Mỹ ở bắc Trảng Lớn, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên. Trận đánh không dứt điểm hoàn toàn do ta nắm địch không chắc, không hình thành được thế bao vây ngay từ đầu. Trong khi đó, các Trung đoàn 33, 88 bộ binh, đoàn đặc công Miền và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Tây Ninh đánh tiêu diệt một số trận vận động phục kích trên các đường giao thông và đột nhập thị xã. Chiến dịch mở đầu khá tốt, nhưng ngoài trận Trà Phí, các trận khác đều không dứt điểm, không đủ sức thối động để buộc địch phải tăng viện. Ta không có điều kiện đánh địch ngoài công sự như kế hoạch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM